Đề cương tổng hợp môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin | Đại học Kinh tế Quốc dân
Tài liệu tham khảo tổng hợp môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin bao gồm nội dung tất cả các chương của Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|36232506
ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1 : Chỉ ra sự liên hệ giữa kinh tế chính trị Mác - Lênin trong hệ thống các
khoa học kinh tế?.............................................................................................................3
Câu 2 : Phân tích sự hình thành và phát triển của KTCT Mác - Lênin?...................3
Câu 3 : Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin? Chức năng của
kinh tế chính trị Mác - Lênin với tư cách là một môn khoa học?...............................4
Câu 4 : Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin trong quá
trình lao động và quản trị quốc gia?..............................................................................6
Câu 5: Hàng hóa là gì? Sản xuất hàng hóa là gì? Phân tích những điều kiện ra đời
của sản xuất hàng hóa và ưu thế của sản xuất hóa so với kinh tế tự nhiên..................7
Câu 6: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa, tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng..........................................8
Câu7. Phân tích nội dung và tác dụng của qui luật giá trị trong nền kinh tế hàng
hóa...................................................................................................................................13 1
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 2
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Câu 1 : Chỉ ra sự liên hệ giữa kinh tế chính trị Mác - Lênin trong hệ thống các khoa học kinh tế?
Kinh tế chính trị và các khoa học kinh tế khác có quan hệ khá là chặt chẽ với
nhau. Ngoài kinh tế chính trị ra, rất nhiều khoa học kinh tế khác đều nghiên cứu
các quy luật về sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải xã hội, nhưng
lại có sự khác nhau về mục tiêu, phạm vi nghiên cứu và pp tiếp cận.
Kinh tế chính trị nghiên cứu toàn diện và tổng hợp quan hệ sản xuất trong sự tác
động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nghiên cứu quá
trình sản xuất của cải vật chất nhưng không phải sản xuất của những đơn vị, cá
nhân riêng biệt mà là nền sx có tính chất xã hội, có tính chất lịch sử.
Kinh tế chính trị đi sâu vào các mối liên hệ bản chất bên trong của các hiện tượng
và quá trình kinh tế, vạch ra các quy luật chung của sự vận động của một phương
thức sản xuất nhất định.
Còn các môn khoa học kinh tế khác chỉ nghiên cứu trong phạm vi của từng
ngành, từng lĩnh vực kinh tế cụ thể, nó dựa trên những nguyên lý, quy luật mà
kinh tế chính trị nêu ra để phân tích những quy luật vận động riêng của từng
ngành, từng lĩnh vực cụ thể.
Kinh tế chính trị có ưu thế về phát hiện các nguyên lý cơ bản, các quy luật kinh tế
chung, còn các môn kinh tế khác lại có ưu thế về phân tích các hiện tượng kinh tế
cụ thể của từng ngành, những hiện tượng kinh tế diễn ra trong cuộc sống hàng ngày.
Kinh tế chính trị là cơ sở cho các khoa học kinh tế khác nhau còn các khoa học
kinh tế cụ thể bổ sung, cụ thể hóa, làm giàu thêm những nguyên lý và quy luật
chung của kinh tế chính trị.
Câu 2 : Phân tích sự hình thành và phát triển của KTCT Mác - Lênin?
- Thuật ngữ Kinh tế chính trị (political economy) xuất hiện vào đầu thế kỷ
thứ XVII do tác giả Moncretien một nhà kinh tế học của trường phái Chủ nghĩa
trọng thương đưa ra năm 1615.- Kinh tế chính trị học tư sản bắt đầu từ Chủ nghĩa
trọng thương là hệ thống lý luận kinh tế chính trị đầu tiên nghiên cứu về nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng trọng thương chủ nghĩa thể hiện tập trung thông
qua các chính sách kinh tế của nhà nước của giai cấp tư sản trong thời kỳ hình
thành ban đầu. Chủ nghĩa trọng thương coi trọng vai trò của hoạt đông thương mại.
Các đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa trọng thương bao gồm: Starfod (Anh);
Thomasmon (Anh); Antoine Montchretien (Pháp).
- Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của chủ nghĩa trọng
thương trở nên lỗi thời. Vì theo đà phát triển của CNTB, cách thức chủ yếu để tang
them của cải vật chất không chỉ đơn thuần là tích lũy tiền mà tài tái sản xuất mở
rộng tư bản. Chủ nghĩa trong thương nhường chỗ cho Chủ nghĩa trọng nông. Đối
tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng nông là lĩnh vực sản xuất nhưng chỉ giới hạn
trong sản xuất nông nghiệp. 3
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Kinh tế chính trị cổ điển Anh là hệ thống lý luận kinh tế của các nhà kinh tế
tư sản trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị
trường như hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền công, lợi nhuận… để rút ra những
quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Đại biểu tiêu biểu của kinh tế chính
trị tư sản cổ điển Anh gồm: W.Petty; A. Smith; D. Recardo. Đối tượng nghiên cứu
của KTCT cổ điển là là bản chất và nguồn gốc của của cải và sự giàu có của các quốc gia.
-Vào giữa thế kỷ 19, cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên (1825) và những cuộc khủng
hoảng kinh tế tiếp theo đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của KTCT tư sản cổ điển.
Trước bối cảnh đó, trong số nhiều trào lưu tư tưởng kinh tế chính trị học đã nổi lên 2
trào lưu cơ bản sau: Một là các nhà kinh tế học tiếp tục học thuyết tư sản, đổi mới
phát triển nó dưới tên gọi “kinh tế học” và hai là Kinh tế chính trị học Mác Lênin
Câu 3 : Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin? Chức năng của
kinh tế chính trị Mác - Lênin với tư cách là một môn khoa học?
1.. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội giữa
người với người trong sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên
hệ chặt chẽ với sự phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng.
- Kinh tế chính trị Mác-Leenin nghiên cứu QHSX trong mối liên hệ với LLSX. Bới vì
giữa LLSX và QHSX có mối liên hệ biện chứng với nhau. Để từ đó biết được LLSX
phát triển sẽ làm biến đổi QHSX như thế nào cũng như QHSX biến đổi như thế nào cho phù hợp với LLSX
- KTCT Mác-Lênin nghiên cứu QHSX trong mối lhệ với kiến trúc thượng tầng.
- KTCT Mác-Leenin nghiên cứu QHSX bắt đầu từ những hiện tượng kinh tế cụ thể,
phân tích để vạch ra các phạm trù kinh tế, các quy luật kinh tế, chi phối các hiện tượng và quá trình đó.
Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ bản chất, khách quan, lặp đi lặp lại của
các hiện tượng và quá trình kinh tế
+ Quy luật kinh tế mang tính khách quan:
(Con người không thể tự tạo ra quy luật kinh tế, cũng như không thể tự ý xóa bỏ quy luật kinh tế)
+ Quy luật kinh tế mang tính lịch sử
(Quy luật kinh tế không tồn tại vình viễn mà tồn tại trong một thời kỳ lịch sử nhất định,
ví dụ quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ chỉ tồn tại trong kinh tế hang hóa)
2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin 4
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Phương pháp luận duy vật biện chứng. Đây là phương pháp yêu cầu việc nghiên cứu
các khía cạnh thuộc đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị phải đặt trong mối liên
hệ tác động qua lại lẫn nhau và phát triển không ngừng. Đây là pp luận đặc biệt quan
trọng được áp dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị để giúp cho các kết quả nghiên
cứu rút ra tránh rơi vào tình trạng chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật kinh tế.
- Phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, đây là phương pháp được sử dụng trong nhiều
ngành khoa học xã hội cũng như trong kinh tế chính trị Mác - Lênin. Phương pháp logíc
kết hợp với lịch sử cho phép khám phá bản chất, các xu hướng và quy luật kinh tế gắn
với tiến trình hình thành, phát triển của chúng, cho phép rút ra những kết quả nghiên
cứu mang tính lôgíc từ trong tiến trình lịch sử của các quan hệ giữa con người với con
người trong quá trình sx và trao đổi.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Do kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu
các quan hệ xã hội giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi
của một nền sản xuất nhất định. Đây là các quan hệ trừu tượng. Vì vậy, khác với các
môn khoa học khác, ở đó, để tìm ra bản chất, tính quy luật và quy luật của đối tượng
nghiên cứu, người ta có thể sử dụng các biện pháp thực nghiệm; đối với kinh tế chính trị
Mác - Lênin, việc thực nghiệm là không thể. Vì vậy, phương pháp nghiên cứu đặc thù
của kinh tế chính trị Mác - Lênin là phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Lẽ dĩ nhiên,
trừu tượng hóa khoa học cũng được sử dụng nhiều ở các môn khoa học khác. Tuy nhiên,
với kinh tế chính trị Mác - Lênin, đây là phương pháp phổ biến.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là một trong những phương pháp nghiên cứu
khoa học xã hội, trong đó có kinh tế chính trị Mác - Lênin, mà khi sử dụng phương pháp
này đòi hỏi sự gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong các hiện tượng quá trình
nghiên cứu, để từ đó tách ra được những hiện tượng bền vững, mang tính điển hình, ổn
định của đối tượng nghiên cứu. Từ đó mà nắm được bản chất, xây dựng được các phạm
trù và khám phá được tính quy luật và quy luật chi phối sự vận động của đối tượng nghiên cứu.
.3. Chức năng của KTCT Mác _Lênin
- Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức khoa học về sự vận động của
các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi; về sự liên hệ tác động biện
chứng giữa các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi với lực lượng
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng trong những nấc thang phát triển khác nhau của nền sản xuất xh.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin khám phá những quy luật chi phối sự phát triển của sản
xuất và trao đổi. Những tri thức như vậy sẽ giúp khám phá và nhận thức một cách đúng
đắn lịch sử phát triển của sản xuất và phát triển của nhân loại nói chung, về nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Những tri thức của
kinh tế chính trị với tư cách là tri thức lý luận nền tảng sẽ giúp nhận thức sâu sắc về bản
chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế diễn ra trên bề mặt nền kinh tế xã hội; phân 5
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
tích làm rõ những nguyên nhân sâu xa của sự giàu có của các quốc gia trong sự liên hệ
với thế giới; khái quát những triển vọng và xu hướng phát triển kinh tế xã hội trong
những giai đoạn lịch sử và những bối cảnh phát triển mới.
Với ý nghĩa như vậy, những tri thức của kinh tế chính trị Mác - Lênin sẽ tạo lập cơ sở
khoa học, nền tảng lý luận, phương hướng cho sự hình thành các chính sách kinh tế,
định hướng chiến lược cho sự phát triển kinh tế nói riêng và thúc đẩy văn minh xã hội
nói chung. Trong trường hợp Việt Nam, nếu các chính sách kinh tế được hoạch định mà
không dựa trên cơ sở tri thức lý luận của kinh tế chính trị Mác Lênin sẽ khó có thể mang
lại hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội lâu dài.
- Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần tạo lập nền tảng tư tưởng cộng sản cho những
người lao động tiến bộ và yêu chuộng tự do, yêu chuộng hòa bình, củng cố niềm tin cho
những ai phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho
những ai có mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con
người, xóa bỏ dần những áp bức, bất công giữa con người với con người.
- Chức năng thực tiễn
+ Sau khi nhận thức được các quy luật sẽ giúp cho người lao động cũng như những nhà
hoạch định chính sách biết vận dụng các quy luật kinh tế ấy vào trong thực tiễn hoạt
động lao động cũng như quản trị quốc gia của mình.
+ Quá trình vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan thông qua điều chỉnh hành
vi cá nhân hoặc các chính sách kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát
triển theo hướng tiến bộ.
+ Kinh tế chính trị Mác - Lênin, theo nghĩa đó mang trong nó chức năng cải tạo thực
tiễn, thúc đẩy văn minh của xã hội. Thông qua giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích
trong quá trình phát triển mà luôn tạo động lực để thúc đẩy từng các nhân và toàn xã hội
không ngừng sáng tạo, từ đó cải thiện không ngừng đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội.
- Chức năng phương pháp luận
Kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận là nền tảng lý luận
khoa học cho việc tiếp cận các KHKT chuyên ngành.
Câu 4 : Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin trong quá
trình lao động và quản trị quốc gia?
Kinh tế chính trị có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội. Học tập môn kinh tế chính
trị giúp cho người học hiểu được bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, nắm
được các quy luật kinh tế chi phối sự vận động và phát triển kinh tế; phát triển lý luận
kinh tế và vận dụng lý luận đó vào thực tế, hành động theo quy luật, tránh bệnh chủ
quan, giáo điều, duy ý chí. 6
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Kinh tế chính trị cung cấp các luận cứ khoa học làm cơ sở cho sự hình thành đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội và các chính sách, biện pháp kinh tế cụ thể phù hợp
với yêu cầu của các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của đất nước ở từng thời kỳ nhất định.
Học tập kinh tế chính trị, nắm được các phạm trù và quy luật kinh tế, là cơ sở cho người
học hình thành tư duy kinh tế, không những cần thiết cho các nhà quản lý vĩ mô mà còn
rất cần cho quản lý sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp của mọi tầng lớp dân cư, ở
tất cả các thành phần kinh tế.
Nắm vững kiến thức kinh tế chính trị, người học có khả năng hiểu được một cách sâu
sắc các đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và các chính sách kinh tế
cụ thể của Đảng và Nhà nước ta, tạo niềm tin có cơ sở khoa học vào đường lối, chiến lược, chính sách đó.
Học tập kinh tế chính trị, hiểu được sự thay đổi của các phương thức sản xuất, các hình
thái kinh tế – xã hội là tất yếu khách quan, là quy luật của lịch sử, giúp người học có
niềm tin sâu sắc vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân
dân ta đã lựa chọn là phù hợp với quy luật khách quan, đi tới mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên đất nước.
Câu 5: Hàng hóa là gì? Sản xuất hàng hóa là gì? Phân tích những điều kiện ra đời
của sản xuất hàng hóa và ưu thế của sản xuất hóa so với kinh tế tự nhiên.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người và dùng để trao đổi với nhau.
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây:
a) Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành,
nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hoá lao động, do đó dẫn đến
chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Do phân công lao động
xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định.
Song, cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả
mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội chỉ mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ. C.
Mác đã chứng minh rằng, trong công xã thị tộc ấn Độ thời cổ, đã có sự phân công lao
động khá chi tiết, nhưng sản phẩm lao động chưa trở thành hàng hoá. Bởi vì tư liệu sản
xuất là của chung nên sản phẩm và từng nhóm sản xuất chuyên môn hoá cũng là của
chung; công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. C. Mác
viết: "Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào
nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá"1. Vậy muốn sản xuất hàng hoá ra
đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai nữa. 7
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
b) Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thuỷ
là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là
người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm
ttrong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu
dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải
thông qua sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một
trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá.
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội", xoá bỏ nền kinh tế tự
nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Sản xuất hàng hoá khác với kinh tế tự cấp tự túc, do sự phát triển của phân công
lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày
càng mở rộng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển
của sản xuất hàng hoá đã xoá bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.
Sản xuất hàng hoá có đặc trưng và ưu thế như sau:
- Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu của bản thân
người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu cầu của người khác, của
thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động
trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để
tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và
thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ hàng hoá
tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế
ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Câu 6: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa, tính 2 mặt của lao động sản xuất
hàng hóa, lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng. 1.
1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá 8
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người
và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất hàng hoá có
bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính: a) Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất...
Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm do thuộc
tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng
phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những
giá trị sử dụng mới. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội
dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là
giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người
khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là
vật mang giá trị trao đổi. b) Giá trị hàng hoá:
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về
lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác
nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào đó.
Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa
chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là giá trị sử dụng, tuy
nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi.
Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá. Nếu gạt giá trị sử dụng của
sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ
trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, những
người sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng
hoá làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo
một tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1 m vải =
10 kg thóc); nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau.
Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao đổi.
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất
chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất
ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
c) Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong
đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu 9
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản
xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của quan hệ
trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng
hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá
trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là
thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá.
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra
giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ
quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với
người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của
mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như
vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực
hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.
2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động sản xuất
hàng hoá có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định
tính hai mặt của bản thân hàng hoá. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt
của lao động sản xuất hàng hoá. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. a) Lao động cụ thể
Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn
nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng,
phương tiện riêng và kết quả riêng. Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích
là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các
thao tác về bào, khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái
khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng
nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp
thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ
thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình
độ phát triển của phân công lao động xã hội. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn,
là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. Cần chú ý
rằng, hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi.
b) Lao động trừu tượng
Lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi là sự hao phí sức lực nói chung của
con người, không kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu
tượng. Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao
động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt tất cả những sự khác nhau ấy sang
một bên thì chúng chỉ còn có một cái chung, đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt và
sức thần kinh của con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất
của con người. Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về mặt 10
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
sinh lý. Nhưng không phải sự hao phí sức lao động nào về mặt sinh lý cũng là lao động
trừu tượng. Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hoá, do mục đích của
sản xuất là để trao đổi. Vì vậy, xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn
rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng chất, tức
lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng
trong trao đổi. Nếu không có sản xuất hàng hoá, không có trao đổi thì cũng không cần
phải quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một
phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hoá.
ở đây không phải có hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản
xuất hàng hoá, nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn
về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự,
giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái
ngược: khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của
nó giảm xuống hay không thay đổi.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư nhân và tính
chất xã hội của người sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất như thế
nào, sản xuất cái gì là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động
của họ vì vậy có tính chất tư nhân và lao động cụ thể của họ sẽ biểu hiện của lao động tư
nhân. Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hoá, nếu xét về mặt hao phí sức
lực nói chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội
thống nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, nên lao động trừu tượng là
biểu hiện của lao động xã hội.
Trong nền sản xuất hàng hoá, giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu
thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá "giản đơn". Mâu thuẫn này biểu hiện:
- Sản phẩm do người sản xuất nhỏ tạo ra có thể không phù hợp với nhu cầu của xã hội.
- Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí
lao động mà xã hội chấp nhận.
- Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng "sản
xuất thừa" là mầm mống của mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
3. Lượng giá trị hàng hoá. Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá
a) Thời gian lao động xã hội cần thiết
Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá. Vậy lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó
quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày
lao động... Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng do thời gian lao động quyết định.
Trong thực tế, một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, 11
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau,
nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá của họ khác nhau. Thời gian lao
động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng hoá của từng người sản xuất. Nhưng
lượng giá trị xã hội của hàng hoá không phải được tính bằng thời gian lao động cá biệt
mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời
gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là
với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động
trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thông thường, thời gian lao động xã hội
cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận
loại hàng hoá nào đó trên thị trường.
b) Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hoá
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá
cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào năng suất lao động
và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.
- Lượng giá trị hàng hoá thay đổi do tác động của năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết
để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian cần
thiết để sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít.
Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị
của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với
năng suất lao động. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta
phải tăng năng suất lao động. Đến lượt năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân
tố: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất,
các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với
lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, căng thẳng của lao
động. Khi cường độ lao động tăng, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn
vị thời gian tăng và lượng sản phẩm được tạo ra tăng tương ứng còn lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm không đổi. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
- Lượng giá trị hàng hóa, phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là: lao động giản
đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người
bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn
được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ 12
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
bình đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người
ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị
của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
Câu7. Phân tích nội dung và tác dụng của qui luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa.
2. 1. Nội dung của quy luật giá trị
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí
lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi
hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã
hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản
xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí
mà xã hội chấp nhận được.
Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có
nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá
trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá
trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ
thuộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các
nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống
xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh
trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động
của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
2. Tác dụng của quy luật giá trị
a) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của
giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào
đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi
cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động
được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá
cầu,giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình
ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào
ngành có giá cả hàng hoá cao.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự
biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp
đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động
về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá. 13
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
b) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực
lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế
độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản
xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí
lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được
lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội
cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ
nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao
động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức
quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt
càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực
lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
c) Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có
điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao
phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên
nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Ngược
lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong
kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa
chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt
khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Câu 8. Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa sức lao động. Hành hóa sức lao động có
đặc điểm gì khác với hàng hóa thông thường? 1.
Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
+ Giá trị hàng hoá sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng
lực con người sống, muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng
một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy; hay
nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị những tư liệu
sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động.
Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông
thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài
những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn
hoá... Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, 14
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó và mức độ thoả mãn những nhu
cầu đó phần lớn phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước.
Tuy giá trị hàng hoá sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối
với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh
hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định
được lượng giá trị hàng hoá sức lao động.
Giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản
xuất sức lao động, duy trì đời sống công nhân;
Hai là, phí tổn đào tạo công nhân;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái công nhân.
Để biết được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần
nghiên cứu hai loại nhân tố tác động đối lập nhau đến sự biến đổi của giá trị sức lao
động. Một mặt, sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về học
tập và trình độ lành nghề, đã làm tăng giá trị sức lao động; mặt khác, sự tăng năng suất
lao động xã hội cũng làm giảm giá trị sức lao động.
Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, sự khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, sự phức
tạp của lao động và mức độ sử dụng năng lực trí óc của họ tăng lên. Tất cả những điều
đó không thể không ảnh hưởng đến giá trị sức lao động, không thể không dẫn đến sự
khác biệt của giá trị sức lao động theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng
chúng bị che lấp đằng sau đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là
quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó; đồng thời là quá trình tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá
trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao
động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của
công thức chung của tư bản.
Câu 9. Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư và các kết luận rút ra từ sự
nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị gia tăng. 1.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị,
hơn nữa, cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất
giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vì giá
trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư.
Vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra
giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C. Mác viết: "Với tư cách là sự 15
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một
quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá
trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá"1.
Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu
dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc điểm:
một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, giống như những yếu tố
citkhác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất; hai là, sản
phẩm được làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không thuộc về công nhân.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của
một nhà tư bản làm ví dụ. Nó là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng
và quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản xuất giá thị thặng dư.
Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10 $. Để biến
số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là
2 $; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày lao động là 12 giờ; trong một giờ
lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá
trình sản xuất, sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì
nhà tư bản phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg sợi) mà nhà tư bản thu
được cũng là 15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp
lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa sản xuất
ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao động mà
nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản là
hai đại lượng khác nhau, mà nhà tư bản đã tính đến trước khi mua sức lao động. Nhà tư
bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày (12 giờ). Việc sử dụng sức lao động
trong ngày đó là thuộc quyền của nhà tư bản.
Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả thuận thì: Chi phí sản xuất
Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)
- Tiền mua bông (20 kg): 20$
- Giá trị của bông được chuyển
- Tiền hao mòn máy móc: 4$ - Tiền mua sức lao vào sợi: 20$ động trong một ngày:
- Giá trị của máy móc được 3$ chuyển vào sợi: Tổng cộng 27$ 4$
- Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra
trong 12 giờ lao động: 6$ Tổng cộng: 30$ 16
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của sản
phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30$. Vậy 27 $
ứng trước đã chuyển hoá thành 30$, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó tiền tệ
ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản.
Từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra những kết luận sau đây:
Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kg sợi), chúng ta thấy có
cithai phần: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được
bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là 24 $). Giá trị do
lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới
(trong ví dụ là 6 $). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức
lao động cộng với giá trị thặng dư.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra
giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức
lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.
Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần: phần
ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao
động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết và lao động trong khoảng thời gian đó
là lao động cần thiết. Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư,
và lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
Ba là, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết: việc chuyển hoá của tiền
thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ
có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá
sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuất, tức là
ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của
nhà tư bản mới chuyển thành tư bản.
Việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào đã vạch ra rõ ràng
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Nhưng trong điều kiện hiện nay, do sự phát triển
của công ty cổ phần, mà trong đó một bộ phận nhỏ công nhân cũng có cổ phiếu và trở
thành cổ đông, đã xuất hiện quan niệm cho rằng không còn bóc lột giá trị thặng dư, chủ
nghĩa tư bản ngày nay đã thay đổi bản chất. Dựa vào đó một số học giả tư sản đưa ra
thuyết "Chủ nghĩa tư bản nhân dân". Song, trên thực tế, công nhân chỉ có một số cổ
phiếu không đáng kể, do đó họ chỉ là người sở hữu danh nghĩa không có vai trò chi phối
doanh nghiệp, phần lớn lợi tức cổ phần vẫn nằm trong tay các nhà tư bản, thu nhập của
công nhân chủ yếu vẫn là tiền lương.
Câu10. Trình bày 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Vì sao nói giá trị
thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư 17
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà
cittư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái
quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
a) Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn
thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài
ngày lao động của công nhân.
Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện
thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư
gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có
những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của
người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để
phục hồi sức khoẻ. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp
công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất
yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao
động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể
chất và tinh thần của người lao động.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không
cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.
b) Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động
và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi
sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã
tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển
sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong
điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao
động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động
tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu
phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị
những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực
hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu 18
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các
ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất
và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác
giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng
cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết
hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để
giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ
lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên,
nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt
nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của
hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, xuất
hiện và mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện
tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà
tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá
sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh
chóng. C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng
dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ
sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt,
còn một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể
hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.
Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn
bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số các nhà tư
bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ
giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn
thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hoá. 19
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Câu 11. Tư bản là gì ? Phân tích căn cứ và ý nghĩa phân chia thành tư bản bất
biến và tư bản khả biến, tư bản cố định và tư bản lao động
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu thông tư bản là sự lớn lên
của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự
lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Đây là một định nghĩa rất chung về tư bản, nó bao trùm cả tư bản cổ xưa lẫn tư bản
hiện đại. Nhưng sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định nghĩa
chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm
thuê. Như vậy bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai
cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra .
Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá
trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó
chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp C.Mác
xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. C.Mác là người đầu tiên
chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự phân chia đó dựa vào vai trò
khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, do đó nó
vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê
mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Tư bản cố định và tư bản lưu động
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt
giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự
khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của
các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, những máy
móc, thiết bị được sản xuất ra có giá cả thấp hơn và có hiệu suất lớn hơn, làm cho những
máy móc, thiết bị cũ giảm giá trị ngay khi giá trị sử dụng của nó vẫn còn nguyên vẹn
hoặc mới suy giảm một phần.
Bởi vậy, việc thu hồi nhanh giá trị tư bản cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong
cạnh tranh trên thương trường. Trong điều kiện đó, buộc các nhà tư bản phải tìm mọi
cách để khấu hao nhanh tư bản cố định. Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định thường được tính
rất cao ngay từ những năm đầu chế tạo sản phẩm, lợi dụng giá sản phẩm cao của đầu
chu kỳ sản phẩm, sau đó giảm dần tỷ lệ khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩm ở
cuối chu kỳ của nó. Quy mô sản lượng ban đầu càng lớn càng có lợi cho việc thu hồi giá
trị tư bản cố định. Những yêu cầu đó không phải lúc nào cũng được thực hiện dễ dàng.
Bởi vậy, các nhà tư bản, một mặt, tìm cách phát triển hệ thống tự động hoá linh
hoạt, cùng với những máy móc thiết bị tương ứng để có thể tạo ra nhiều dạng sản phẩm
hoặc những sản phẩm, chuyên môn hoá theo các đơn đặt hàng khác nhau; mặt khác,
phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ để dễ dàng đổi mới tư bản cố định trong 20
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và cạnh tranh gay gắt. Đồng thời,
các nhà tư bản vẫn tiếp tục sử dụng những biện pháp cổ điển như tăng cường độ lao
động, tổ chức lao động theo ca kíp, tiết kiệm chi phí bảo quản và chi phí cải thiện điều
kiện lao động của người công nhân. Bằng cách đó nhằm thu hồi nhanh giá trị tài sản cố
định đã sử dụng và góp phần rút ngắn khoảng cách lạc hậu về các thế hệ kỹ thuật và công nghệ.
Câu 12. Tích lũy tư bản là gì? Trình bày thực chất của tích lũy tư bản và nhân
tố làm tăng tích lũy tư bản.
Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại
thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá
giá trị thặng dư. Nói một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô
ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá
trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản
Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản, mà
hình thái tái sản xuất điển hình của nó là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng tư
bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản
lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.
Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại
thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá
giá trị thặng dư. Nói một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô
ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá
trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ: năm
thứ nhất quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không bị nhà tư bản tiêu
dùng tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m dùng để tích luỹ và 10 m dành cho
tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Phần 10 m dùng để tích luỹ được phân thành 8c + 2v,
khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu m vẫn như cũ). Như
vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến đều tăng lên, giá trị
thặng dư cũng tăng lên tương ứng.
Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra
những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là
một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m)
cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá
khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân.
Hai là, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến
thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự trao đổi
giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới 21
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của
công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó
không vi phạm quy luật giá trị.
Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của
chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư, quy luật này chỉ rõ mục đích sản xuất của
nhà tư bản là giá trị và sự tăng thêm giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản
không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng
cường bóc lột công nhân làm thuê.
Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của
mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ.
Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ
thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu
dùng của nhà tư bản, nhưng nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của
tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó những nhân tố ảnh
hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng chính là nhân tố quyết định quy mô của tích
luỹ tư bản. Những nhân tố đó là:
a) Trình độ bóc lột sức lao động
Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền
công. Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa
công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao
động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động
thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản.
Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường
độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng
tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản
để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có
thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên
giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị.
b) Trình độ năng suất lao động xã hội
Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản: một là, với khối
lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng
của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị
thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản
xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước.
Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư
được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị thặng dư 22
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm
những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô
của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sống sử dụng được nhiều lao
động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, được sử
dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, do đó cũng làm tăng quy mô của tích luỹ tư bản.
c) Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào
quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển
dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy
móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của
máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công
chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch
giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công của
máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng
nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy
và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản.
d) Quy mô của tư bản ứng trước
Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng
tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản
khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều
kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.
Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút ra
nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao
động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị
và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
Câu 13. Phân tích bản chất của tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản
Khi việc thực hiện chức năng chuyển hoá H' - T' của tư bản, do sự phân công lao
động xã hội, được chuyển thành một hoạt động chuyên môn hoá cho một nhóm tư bản
nào đó, thì tư bản kinh doanh hàng hoá (tư bản thương nghiệp hiện đại) xuất hiện.
Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công
nghiệp tách rời ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp.
Hàng hoá sau khi ở tay nhà tư bản công nghiệp được chuyển sang tay nhà tư bản
thương nghiệp có nghĩa là nhà tư bản công nghiệp đã bán xong hàng hoá. Đứng về mặt
xã hội mà xét thì nhà tư bản công nghiệp phải bán một lần nữa thì mới xong (vì hàng
hoá còn phải lưu thông đến tay người tiêu dùng). Nhưng khâu này giờ đây do nhà tư bản
thương nghiệp đảm nhiệm. Do đó, tư bản thương nghiệp chỉ là một khâu trong quá trình 23
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
tái sản xuất, không có khâu này thì quá trình sản xuất không thể tiến hành bình thường được.
Công thức vận động của tư bản thương nghiệp cũng khác với công thức vận động
lưu thông hàng hoá giản đơn. Trong công thức vận động của lưu thông hàng hoá giản
đơn H - T - H, tiền ở đây chỉ giữ chức năng phương tiện lưu thông. Còn trong công thức
vận động của tư bản thương nghiệp thì tiền vận động với mục đích tạo ra tiền lớn hơn
hay chuyển từ T thành T'.
Tư bản thương nghiệp thực hiện chức năng chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tiền
tệ mà tư bản công nghiệp trước đây đảm nhiệm. Quá trình này không diễn ra trong sản
xuất mà diễn ra trong lĩnh vực lưu thông, chức năng này tách rời các chức năng khác
của tư bản công nghiệp.
Tư bản thương nghiệp độc lập làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, nhà tư bản phải
ứng trước tư bản nhằm mục đích thu về với lượng tiền lớn hơn trước, thông qua việc
mua bán. Với mục đích đó, tư bản của họ không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất,
mà chỉ hoạt động trong phạm vi lĩnh vực lưu thông.
Lợi nhuận thương nghiệp
Đối với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản thì, lợi nhuận thương nghiệp
được coi là do mua rẻ, bán đắt mà có. C. Mác nói: lợi nhuận thương nghiệp không
những là kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo, mà đại bộ phận lợi nhuận thương nghiệp
chính là do những việc ăn cắp và lừa đảo mà ra cả.
Đối với tư bản thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, nếu gạt bỏ các chức năng khác liên
quan với nó như: bảo quản, đóng gói, chuyên chở (tức là chức năng tiếp tục quá trình
sản xuất trong lĩnh vực lưu thông), mà chỉ hạn chế ở các chức năng chủ yếu là mua và
bán, thì nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Trái lại, nó chỉ làm nhiệm vụ
thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Nếu nhìn bề ngoài thì hình như lợi nhuận thương
nghiệp là do mua rẻ, bán đắt, do lưu thông tạo ra, nhưng về thực chất thì lợi nhuận
thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà
nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp.
Câu 14. Phân tích nguyên nhân ra đời, bản chất Chủ nghĩa Tư bản độc quyền
nhà nước, và những biểu hiện chủ yếu.
Vì là bài phân tích, nên hơi dài một chút, các bạn đọc để hiểu và nắm những ý
chính thôi. Chúng ta bắt đầu nhé.
a. Nguyên nhân hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm
50 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực thể rõ
ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau đây: 24
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Một là: tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng
cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản
xuất và phân phối, một sự kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự
phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách
quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản
xuất xã hội hoá ngày càng cao càng mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi một hình thức mới của quan hệ sản xuất để lực
lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa
tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành
mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì
đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng
như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản... Nhà nước
tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc
quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư
sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để
xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát
triển phúc lợi xã hội...
Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các
liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi
ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các
quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó không thể thiếu vai trò của nhà nước.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xã
hội hiện thực và tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cũng đòi
hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
b) Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống
nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư
bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt
chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà
nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước
trong một cơ chế thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
V.I. Lênin chỉ ra rằng: "Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những
quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chính trị... đó là biểu hiện
rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy"1. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những
xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản 25
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng một nhà tư bản thông
thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân
đội, cảnh sát, nhà tù... Ph. Ăngghen cũng cho rằng nhà nước đó vẫn là nhà nước của các
nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng
sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hội chứ không phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống
trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối
với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và
theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà
nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở
việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Ngày nay vai trò của nhà nước tư sản đã có sự biến
đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò
tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện
pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối,
lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm
cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
2. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
b) Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước
c) Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản .
Câu 15 (4 điểm): Hàng hoá là gì? Làm rõ các thuộc tính của hàng hoá. Từ đó kể tên
những hàng hoá đặc biệt mà em biết và lý giải vì sao nó là hàng hoá đặc biệt?
1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
a. Khái niệm: Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nhất định
nào đó của con người thông qua trao đổi và mua bán.
b. Hai thuộc tính của hàng hoá
- Giá trị sử dụng: là công dụng của hàng hoá nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của
con người, thông qua trao đổi bằng mua và bán.
+ Giá trị sử dụng là thuộc tính của hàng hoá, là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã
hội thông qua trao đổi và mua bán.
- Giá trị của hàng hoá:
+ Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá.
Sản phẩm nào mà lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Hai thuộc tính của hàngốt mối quan hệ ràng buộc với nhau vừa thống nhất vừa mâu
thuẫn nhau: Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình 26
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị. Gía trị phản ánh quan hệ giữa người sản xuất
hàng hoá, là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hóa. Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá.
- Thống nhất: Đó là hàng hoá phải có hai thuộc tính, nếu thiếu một trong hai thuộc tính không phải là hàng hoá.
- Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính thể hiện:
+ Với tư cách là giá trị sử dụng các hàng hoá không đồng nhất về chất.
+ Với tư cách là giá trị các hàng hoá đồng nhất về chất đều là lao động đó được vật hoá.
+ Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là hai quá trình khác nhau về thời gian
và không gian, đó nếu giá trị hàng hoá không được thực hiện sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
2. Những hàng hóa đă ̣c biê ̣t.
* Sức lao đô ̣ng là một loại hàng hóa đă ̣c biê ̣t:
Vì trong quá trình lao đô ̣ng, sức lao đô ̣ng tạo ra mô ̣t lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó, phần dư ra so với giá trị sức lao đô ̣ng là giá trị thăng dư.
* Tiền tê ̣: Là hàng háo đă ̣c biê ̣t được tách ra từ trong thế giớ hàng háo làm vâ ̣t ngang giá
chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiê ̣n lao đô ̣ng xã họi và biểu hiê ̣n quan
hê ̣ giưa những người sản xuất hàng háo.
Câu 16(4 điểm): Làm rõ nội dung và tác động của quy luật giá trị. Việt Nam đã vận
dụng quy luật này như thế nào trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Nội dung quy luật giá trị
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi phải dựa trên cơ sở hao phí sức lao động xã hội cần thiết. - Trong sản xuất:
Mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của
hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí cá biệt của từng người sản xuất hàng
hoá mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, người sản xuất muốn bán được
hàng hoá phải điều chỉnh làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp
với mức chi phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận được; khối lượng sản phẩm mà
những người sản xuất tạo ra phải phù hợp nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. - Trong trao đổi:
Lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Hơn nữa, vì giá trị là cơ sở của giá
cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Ngoài ra trên thị trường, giá cả còn phụ
thụộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền nên giá cả thường
tách riêng giá trị, lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Thông qua sự vận động của
giá cả trên thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng của nó.
2. Tác động của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
+ Điều tiết sản xuất tức là điều hoà phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế, thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường
dưới tác động của quy luật giá trị. 27
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Điều tiết lưu thông: thông qua sự lên xuống của giá cả, phân phối nguồn hàng hoá từ
nơi giá cả thấp đến nơi có giá cả cao.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao động, lực lượng
sản xuất phát triển nhanh.
+ Trong nền kinh tế hàng hóa, người sản xuất muốn giành lợi thế trong cạnh tranh và
tránh nguy cơ phá sản họ phải hạ thấp mức hao phí sức lao động xã hội cá biệt của mình
sao cho bằng hao phí sức lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn luôn tìm
cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, tăng năng xuất lao động.
+ Kết quả, lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả: Những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết, nhờ đó giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, rủi ro
trong kinh doanh, nên bị thua lỗ nên mới dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
* Tác động của quy luật giá trị một mặt đào thải các yếu kém, kích thích các
nhân tố tích cực phát triển. Mặt khác lại phân hoá người sản xuất thành giàu –
nghèo, tạo những điều kiện xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do
vậy, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần
có biện pháp hạn chế mặt tiêu cực, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Câu 17(4 điểm): Hàng hoá sức lao động là gì? Khi nào sức lao động trở thành hàng
hoá? Làm rõ hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động. Hàng hoá sức lao động * Sức lao động
- Khái niệm sức lao động: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được
người đó đem ra sử dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
* Điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá:
+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi
phối sức lao động ấy và chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định.
+ Thứ hai, người lao động không còn tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao
động và cũng không có của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
=> Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện núi trờn tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa.
Sức lao động biến thành hàng hoỏ là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.
* Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Giống như hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị của hàng hoá sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị của sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ
tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định, để duy
trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ. 28
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả
yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng
thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước.
+ Giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau hợp thành:
Một là giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản
xuất sức lao động, duy trì nòi giống công nhân
Hai là, phí tổn đào tạo công nhân
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái công nhân.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng
sức lao động, tức là quá trình tiêu dùng sức lao động của người công nhân. Quá trình đó
là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó; đồng thời là quá trình tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư
mà nhà tư bản chiếm đoạt. Đó chính là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hoá
sức lao động. Đặc điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của chủ nghĩa tư bản.
Câu 18 (4 điểm): Lấy ví dụ về một quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Từ đó cho
biết giá trị thặng dư là gì? Tư bản bất biến là gì? Tư bản khả biến là gì?
1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thă ̣ng dư
- Qua trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao đô ̣ng và tư liê ̣u sản xuất ra giá trị
thă ̣ng dư có hai đă ̣ điểm:
+ Mô ̣t là, công nhân làm viê ̣c dưới sự kiểm soát của nhà TB
+Hai là, sản phẩm làm ra thuô ̣c tính sở hữu nhà tư bản. Ví dụ:
- Gỉa sử, đẻ chế tạo ra 10 kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền 10$ để mua 10kg bông,
2$ cho hao mòn máy móc và 3$ mua sức lao đô ̣ng của công nhân điều khiển máy móc
trong mô ̣t ngày ( 12 giờ ); cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí
theo thời gian lao đô ̣ng xã hô ̣i cần thiết
- Gỉa sử kéo 10 kg bông thành sợi mất 6 giờ và mỗi giờ công nhân tạo ra mô ̣t giá trị 0,5 $: 0,5$ x 6 = 3$
Vâ ̣y giá trị của 1 kg sợi là:
Gía trị 10kg bông chuyển vào: 10$
Gía trị của máy móc chuyển vào: 2$
Gía trị do công nhân tạo ra: 3$ Tổng cô ̣ng : 15$
Nếu quá trình lao đô ̣ng chỉ dựng ở đó (công nhân làm viê ̣c 6 giờ) thì không có giá trị
thă ̣ng dư. Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao đô ̣ng trong 12 giờ chứ không phải trong 6
giờ. Viê ̣c sử dụng sức lao đô ̣ng trong ngày đó là thuô ̣c quyền của nhà tư bản
Nếu nhà tư bản bắt công nhân làm viê ̣c 12 giờ Gía trị của sản phẩm mới:
trong ngày như đã thỏa thuâ ̣n thì: Chi phí sản - Gía trị của bông được chuyển vào xuất: sợi : 20$
- Tiền mua bông 20 kg là: 20$
- Gía trị máy móc được chuyển vào - Hao mòn máy móc là: 4$ sợi: 4$ 29
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Tiền mua SLĐ trong 1 ngày: 3$
- Gía trị do lao đô ̣ng của công nhân
tạo ra trong 12h lao đô ̣ng: 6 $ Cô ̣ng: 27 $ Cô ̣ng: 30$
Gía trị thă ̣ng dư: 30$ - 27$ = 3$
Như vâ ̣y, 27$ ứng trước của nhà tư bản đã chuyển thành 30$ đem lại mô ̣t giá trị
thăng dự 3 $. Do đó tiền tê ̣ ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành TB * Kết luâ ̣n:
- Mô ̣t là, giá trị thăng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoái giá trị lao đô ̣ng do công
nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
- Hai là, ngày lao đô ̣ng của công nhân chia thành hia phần: Thời gian lao đô ̣ng
cần thiết; thời gian lao đô ̣ng thă ̣ng dư.
- Ba là, giá trị của hàng hóa gồm hai phần: giá trị TLSX, giá trị lao đô ̣ng trừu
tượng của CN tạo ra trong quá trình lao đô ̣ng, gọi là giá mới lớn hơn giá trị của bản thân
nó. Đây chính là chì khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của CNTB.
2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến a. Khái niệm tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công
của công nhân làm thuê.
b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản bất biến (ký hiệu là c)
Bộ phận tư bản biểu hiện thành giá trị tư liệu sản xuất mà giá trị của nó được
bảo tồn và chuyển hoá nguyên vào sản phẩm, tức là giá trị của nó không có sự thay đổi
về lượng trong quá trình sản xuất, được gọi là tư bản bất biến.
- Tư bản khả biến (ký hiệu là v)
Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động mà giá trị của nó có sự tăng thêm về
lượng trong quá trình sản xuất, được gọi là tư bản khả biến. - ý nghĩa:
Việc phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá đã
giúp C.Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến chỉ rõ tư bản
bất biến chỉ là điều kiện cần, còn nguồn gốc thực sự tạo ra giá trị thặng dư là tư bản khả biến.
Câu 19 (6 điểm): Phân biệt giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và
giá trị thặng dư siêu ngạch. Tại sao sản xuất giá trị thặng dư được coi là quy luật
kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản? 30
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
1.Phân biệt giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch
a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
- Là phương pháp SX giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời
gian lao động cần thiết không thay đổi.
- Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu
không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
- Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một
cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần, đồng thời
vấp phải sức đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của công nhân nên với độ dài ngày lao động
không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bằng việc tăng cường độ lao
động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động.
=> KL: kéo dài thời gian lao động cũng như tăng cường độ lao động là để sản xuất ra
giá trị thặng dư tuyệt đối.
b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
- Là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ
dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư.
- SX m tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách rút ngắn thời gian
lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của
ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
- Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì phải hạ thấp gía trị sức lao động, bằng
cách giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người CN. Do đó phải tăng
năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, các ngành SX
TLSX để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
C. Sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch
- Là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp
khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi số đông
các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư
siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi doanh
nghiệp áp dụng công nghệ mới sớm hơn các doanh nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt
của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời trong từng doanh nghiệp, nhưng
trong phạm vi xã hội nó thường xuyên tồn tại. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là
khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng.
* So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối
- Điểm giống nhau: Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ
sở chung là chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. - Điểm khác nhau: 31
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 GTTD tương đối GTTD siêu ngạch - Do tăng NSLĐ XH
- Do tăng năng suất lao động cá biệt. - Toàn bộ các nhà TB thu - Từng nhà Tb thu - Biểu MQH giữa CN với
- Biểu hiện MQH giữa CN với nhà TB và giữa các nhà TB nhà TB với nhau
2. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
- Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư ngày càng nhiều.
- Phương tiện và thủ đoạn để có nhiều giá trị thặng dư là tăng cường các phương tiện
kỹ thuật và quản lý (thể hiện ở hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư )
- Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng tồn tại một quy luật kinh tế phản ánh MQH
bản chất nhất của phương thức sản xuất theo Các Mác, chế tạo ra trị thặng dư đó là quy
luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN
- Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do CN làm thuê tạo ra
và bị nhà TB chiếm không, phản ánh MQH kinh tế bản chất nhất của CNTB – quan hệ
bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của CN tạo ra là
nguồn gốc làm giàu của các nhà TB.
- Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của
mỗi nhà TB cũng như toàn bộ XH TB. Nhà TB cố gắng SX ra hàng hóa với chất lượng
tốt cũng là để thu được nhiều giá trị thặng dư.
- SX giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền SX hàng hóa TBCN
mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường
bóc lột CN làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài thời gian lao động,
tăng năng suất lao động và mở rộng SX.
=> Như vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của
CNTB là cơ sở của sự tồn tại và phát triển TBCN. Nội dung của nó là SX ra
giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột CN lao động làm thuê.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của
CNTB . Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời
nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa
đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Câu 20 (6 điểm): So sánh để chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa gtrị thặng dư và
LN. Phân biệt giữa lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân hàng
và địa tô TBCN. Tại sao nói đó là các hình thái biến tướng của giá trị thặng dư?
1. So sánh giá trị thặng dư và lợi nhuận
a. Khái niệm giá trị thặng dư: Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị
sức lao động do CN tạo ra bị nhà TB chiếm không (ký hiệu là m)
b. Khái niệm lợi nhuận: Lợi nhuận là số tiền lời mà nhà tư bản thu được do có sự chênh
lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí tư bản. (ký hiệu là p)
(Hay lợi nhuận chính là giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được
quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước)
c. So sánh giá trị thặng dư và lợi nhuận 32
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Về mặt lượng: lợi nhuận và giá trị thặng dư thường không bằng nhau,lợi nhuận có thể
cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thặng dư tuỳ thuộc vào giá cả hàng hoá do quan hệ cung -
cầu quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng
tổng số giá trị thặng dư
+ Về mặt chất: Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua
chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai
lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho
người ta tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra mà là do
toàn bộ Tb ứng trước sinh ra.
2. Phân biệt giữa lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân hàng và địa tô TBCN
a. TB thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
- Trong CNTB, TB thương nghiệp là một bộ phận của TB công nghiệp được tách rời ra
để phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của TB công nghiệp.
- Việc tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai vấn đề khác nhau.
Lĩnh vực lưu thông cũng như hoạt động của các nhà TB thương nghiệp tuy không tạo ra
giá trị thặng dư nhưng di vị trí, tầm quan trọng của lưu thông đối với sự phát triển của
SX và tái SX nên các nhà TB vẫn được tham gia vào việc phân chia giá trị thặng dư
cùng với các nhà TBCN, và phần giá trị mà các nhà TB thương nghiệp được chia chính
là lợi nhuận thương nghiệp.
=> Vì vậy, thực chất thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được
sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản
thương nghiệp để tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cho mình.
b. TB cho vay và lợi tức cho vay
- TB cho vay là TB tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ sở hữu nó cho người khác sử
dụng trong một thời gian nhằm nhận được số tiền lời nhất định. Số tiền đó được gọi là lợi tức.
-Do có TB tiền tệ để nhàn rỗi nên nhà TB cho vay đã chuyển tiền của mình cho nhà TB
đi vay sử dụng. tiền nhàn rỗi khi vào tay nhà TB đi vay sẽ trở thành TB lưu động. Trong
quá trình vận động nhà TB sẽ thu được lợi nhận bình quân nhưng nhà TB đi vay không
được hưởng toàn bộ số lợi nhuận bình quân đó mà phải trích ra một phần trả cho nhà
TB cho vay dưới hình thức lợi tức
- Như vậy, lợi tức chính là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả
cho nhà tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một
thời gian nhất định. Lợi tức ký hiệu là z
- Nguồn gốc của lợi tức cũng là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất.
c. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng
- Ngân hàng trong CNTB là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi
vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ : nhận gửi và cho vay. Về nguyên tắc
lợi tức cho vay phải cao hơn lợi tức nhận gửi. 33
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Sự chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi phí về
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh tư bản tiền
tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
- Nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
d. QHSX TBCN trong nông nghiệp và địa tô TBCN.
- Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bản kinh doanh
trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh
trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ. Vì vậy, ngoài lợi nhuận bình
quân ra nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thu thêm được một phần lợi nhuận siêu
ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản kinh doanh
nông nghiệp dùng để trả cho người sở hữu ruộng dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa.
- Như vậy,địa tô tư bản chủ nghĩa là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình
quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà các nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ.
- Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa là là một phần giá trị thặng dư do công nhân
nông nghiệp sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
KL: lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân hàng và địa tô
TBCN đều là các hình thái biến tướng của giá trị thặng dư do công sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.
Câu 21 (6 điểm): Phân tích nội dung và những điều kiện khách quan quy định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Hiện nay giai cấp công nhân có còn thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình nữa hay không? Tại sao? 1. Khái niệm GCCN.
Trong phạm vi PTSX TBCN GCCN có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
- Một là, GCCN là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
những công cụ SX có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình độ XHH cao.
- Hai là, trong hệ thống QHSX của XH TBCN người CN không có TLSX , họ buộc phải
bán sức lao động cho nhà TB để kiếm sống.
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Giai cấp CN là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát
triển của LLSX tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức SX tương lai; do vậy
về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mênh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động, đấu
tranh xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – XH XHCN và CSCN.
- Việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN cần phải trải qua hai bước
+ Bước thứ nhất: “GCVS chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến TLSX trước hết
thành sở hữu nhà nước”. 34
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Bước thứ hai, “...GCVS cũng tự thủ tiêu với tư cách là GCVS, chính vì thế mà nó
cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt GC và mọi đối khắng GC”; nó lãnh đạo nhân dân lao
động thông qua chính đảng của nó, tiến hành tổ chức xây dựng XH mới – XHCN.
=> Hai bước này có quan hệ chặt chẽ với nhau, GC CN không thực hiện được bước thứ
nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai, nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất
để GC CN hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN nhất định phải tập hợp được
các tầng lớp nhân dân lao động xung quan nó, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xóa
bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng.
Đó là quá trinh lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN.
* Địa vị kinh tế - xã hội của GCCN trong XH TBCN.
LLSX ở bất cứ XH nào cũng là yếu tố quan trọng nhất. Trong CNTB và CNXH với nền
SX đại công nghiệp phát triển thì “LLSX hàng đầu của nhân loại là CN và người lao động”
+ Trong nền SX đại công nghiệp, GC CN vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sản phẩm
căn bản nhất của nền SX đó
+ Với nền SX TBCN “...GCCN hiện đại chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc
làm, và chỉ có thể kiếm được việc làm nếu lao động của họ làm tăng thêm TB”. Từ điều
kiện như vậy đã buộc GCCN phải không ngừng học tập vươn lên sao cho đáp ứng được
yêu cầu của nền sản xuất ngày càng hiện đại => đội ngũ CN được trí thức hóa ngày càng gia tăng.
+ Trong chế độ TBCN GCCN hoàn toàn không có hoặc rất ít TLSX. Họ là GC có lợi ích
cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của GC TS. GCTS muốn duy trì chế độ tư hữu tư
nhân TBCN về TLSX, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với GCCN và QCND lao động.
Ngược lại, GCCN lại muốn xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân TBCN về TLSX, giành lấy
chính quyền và sử dụng chính quyền đó để tổ chức xây dựng XH mới không còn áp bức bóc lột
+ GCCN lao động trong nền SX đại công nghiệp, có quy mô SX ngày càng lớn, sự phụ
thuộc lẫn nhau trong quá trình sản xuát ngày càng nhiều, họ lại thường xuyên sống ở
những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung =>ĐK sông và làm việc tập
trung như vậy đã tạo ra cho GC CN khả năng đoàn kết nội bộ GC => tạo ra sức mạnh để làm cách mạng.
+ GCCN có những lợi ích có bản thống nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng ND=>
tạo ra khả năng liên minh, đoàn kết với các GC tầng lớp khác.
*Những đặc điểm chính trị - xã hội của GCCN
Do địa vị kinh tế - xã hội quy định đã tạo cho GCCN có những đặc điểm chính trị - xã
hội mà những GC khác không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:
- GC CN là GC tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
- GCCN là GC có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
+ GCCN có bản chất quốc tế
3. Hiện nay giai cấp công nhân vẫn còn thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình bởi vì: 35
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Mặc dù hiện nay GCCN đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề nhưng xét
toàn cảnh sự phát triển XH thì GCCN vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
- Hiện nay đời sống của một bộ phận không nhỏ CN đã được cải thiện, thậm chí có mức
sống “trung lưu hóa”, song điều đó không có nghĩa là GCCN ở những nước đó không bị
bóc lột hoặc bóc lột không đáng kể.
- Dù cố tìm mọi cách thích nghi và mọi biện pháp xoa dịu nhưng GCTS không
thể nào khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của CNTB => Thực tế cuộc đấu
tranh của GCCN ở các nước TBCN vẫn đang diễn ra với những nội dung đa
dạng và hình thức phong phú
Câu 22 (6 điểm): Thế nào là cách mạng XHCN, nguyên nhân của cách mạng
XHCN ? Phân tích quan niệm của chủ nghĩa mác – lênin về mục tiêu, nội dung của cách mạng XHCN.
1. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Theo nghĩa hẹp: CM XHCN là một cuộc cách mạng chính trị được kết thúc bằng
việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập
nên nhà nước vô sản – nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
- Theo nghĩa rộng: CM XHCN là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng,.....để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
2 . Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Nguyên nhân sâu xa: là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi
thời = >phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến
hơn = > thay thế PTSX cũ bằng PTSV mới
- Nguyên nhân trực tiếp: là do dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân đã
đứng lên đấu tranh chống lại các nhà tư sản và giai cấp tư sản.
CM XHCN muốn nổ ra, giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của
mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lật đổ chính quyền nhà nước của
giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ.
3. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa: là giải phóng con người, giải phóng xã
hội cho nên có thể nói CNXH mang tính nhân văn sâu sắc.
+ Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của CM XHCN là giành lấy chính về tay giai cấp công
nhân và nhân dân lao động
+ Mục tiêu giai đoạn thứ hai của CM XHCN là “xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột
người....nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân”. Khi mà “ xoá bỏ tình trạng người
bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ”.
4. Nội dung của cách mạng XHCN *Về chính tri: 36
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Trước hết là đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay
GCCN, nhân dân lao động, đưa những người lao động từ địa vị làm thuê lên địa vị làm chủ xã hội
- Bước tiếp theo là cần phải tạo điều kiện để làm sâu thêm nền dân chủ XHCN, mà thực
chất của quá trình đó là thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào
quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Đẻ nâng cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân
dân tham gia vào công việc của nhà nước XHCN phải thường xuyên nâng cao kiến thức
về mọi mặt cho nhân dân, đặc biệt là văn hóa chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật để
nhân dân tham gia quản lý NN, XH. * Về kinh tế
Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng XHCN là
phải phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
- CM XHCN trên lĩnh vực kinh tế trước hết phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao
động đối với TLSX chủ yếu, thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX bằng
chế độ sở hữu XHCN về TLSX chủ yếu với những hình thức thích hợp; thực hiện những
biện pháp cần thiết để gắn người lao động với TLSX.
- Cùng với việc cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới XHCN, NN XHCN phải tìm
mọi cách để phát triển LLSX, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó
cải thiện từng bước đời sống nhân dân.
- CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, do vậy năng suất lao động, hiệu
quả công tác là thước đo đánh giá hiệu quả của mỗi người đóng góp cho XH.
* Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa
- Dưới CNXH GCCN cùng quần chúng nhân dân lao động trở thành những người làm
chủ TLSX chủ yếu trong XH , do vậy họ cũng là người sáng tạo ra các gía trị tinh
thần.Trong điều kiện XH mới – XH XHCN GCCN cùng với nhân dân lao động là chủ
thể sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội.
- Trên cơ sở kế thừa một cách có chọn lọc và nâng cao giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại. CM XHCN trên lĩnh vực văn
hóa tư tưởng thực hiện giải phóng người lao động về mặt tinh thần thông qua từng bước
xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao động => hình thành những con người mới XHCN.
KL: CMXHCN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, có quan hệ gắn kết với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Câu 23 (6 điểm): Phân tích quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính tất yếu,
nội dung và nguyên tắc của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng XHCN. Sự vận dụng của Đảng
và Nhà nước ta trong việc xây dựng khối liên minh giữa công nhân với nông dân và
tầng lớp trí thức ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu của liên minh
- Liên minh để thực hiện mục tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công
nhân liên minh với họ là điều tất yếu. Qua khối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất 37
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng
CNXH, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai
trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị- xã hội, là yếu tố tiên quyết.
- Liên minh công - nông là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và
nhu cầu tự giải phóng của nông dân
2. Nội dung và nguyên tắc của liên minh a. Nội dung
* Liên minh về chính trị:
- Nhiệm vụ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành lấy chính quyền về
tay GCCN và NDLĐ. Trong quá trình xây dựng CNXH là GCCN và NDLĐ cùng nhau
tham gia vào chính quyền nhà nước, bảo vệ XHCN và mọi thành quả của CM
- Liên minh về chính trị không phải là dung hòa lập trường chính trị của các giai cấp
tầng lớp mà cần phải trên lập trường chính trị của GCCN.
- Liên minh về chính trị GCCN và NDLĐ tạo cơ sở vững chắc cho NN XHCN, làm
nòng cốt cho mặt trận, thực hiện liên minh rộng rãi với các tầng lớp lao động khác.
*Liên minh về kinh tế: Đây là nội dung quan trọng nhất của liên minh.
- Thực hiện liên minh giữa GCCN với GCND trong quá trình xây dựng CNXH là phải
kết hợp đúng đắn lợi ích giữa 2 GC, Hoạt động KT vừa đảm bảo lợi ích của NN, của xã
hội, đồng thời phải thường xuyên quan tâm tới nông dân, phát triển công nghiêp và nông nghiệp nông thôn.
- Chú ý quan tâm tới việc xây dựng khối liên minh giữa GCCN với tầng lớp trí thức, nếu
không chú ý đến điều này thì không thể xây dựng một nền CN hiện đại được và cũng
không thể đứng vững được trong cuộc đấu tranh chống CNTB.
* Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh cũng là một nội dung quan trọng, điều này bởi vì:
- CNXH được xây dựng trên một nền SX công nghiệp hiện đại, vì vậy CN, DN và
những người lao động khác phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ văn hóa.
- CNXH với mong muỗn xây dựng một xã hội nhân văn, nhân đạo, con người sống với
nhau có tình có nghĩa, điều này chỉ có thể thực hiện được trên có sở một nền văn hóa của nhân dân.
- CNXH tạo điều kiện cho nhân dân tham gia quản lý kinh tế, xã hội và quản lý nhà
nước, vì vậy nhân dân phải có trình độ văn hóa, phải hiểu biết pháp luật.
b. Nguyên tắc cơ bản của liên minh.
- Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng (phân tích)
- Phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện (phân tích)
- Kết hợp đúng đắn các lợi ích (phân tích) =>KL:
3. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta
- Ngay từ ĐH II (1951) trong văn kiện ĐLĐ VN đã nêu: “chính quyền của nước
VNDCCH là chính quyền dân chủ của nhân dân...lấy liên minh CN, ND và lao động trí
thức làm nền tảng và do GCCN lãnh đạo”.
- Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH và trong chỉ đạo thực
tiễn Đảng ta đặc biệt coi trọng mối liên minh này và coi đó là nền tảng của NN của dân, do dân, vì dân. 38
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- ĐH IX của Đảng tiếp tục khẳng định tính tất yếu của khối liên minh, liên minh là cơ sở
cho khối đại đoàn kêt toàn dân tộc và nó là động lực để phát triển đất nước.
=> KL; Quan điểm, đường lối của liên minh là sự vận dụng đúng đắn và sáng
tạo quan điểm của CN Mác – lênin về liên minh...
Câu 24(6 điểm): Tại sao phải quá độ từ CNTB lên CNXH? Làm rõ quan niệm của
chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc trưng cơ bản của XH XHCN. Đảng và Nhà
nước ta đã vận dụng và phát triển những đặc trưng này như thế nào trong sự
nghiệp đổi mới xây dựng CNXH hiện nay.
1.Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH:
- Sự thay thế xã hội CNTB bằng xã hội XHCN là một tất yếu khách quan
trong tiến trình lịch sử xã hội loài người theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
- Sự thay thế của các chế độ xã hội trước đây chỉ là thay thế xã hội bóc lột
này bằng xã hội bóc lột khác cao hơn còn về bản chất vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
- Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để nhất
trong lịch sử vì mục tiêu trực tiếp là xóa bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu chế độ người bóc lột
người để thiết lập chế độ mới do nhân dân lao động làm chủ.
- Cách mạng XHCN nổ ra thành công là bắt đầu vào thời kỳ quá độ, thời kỳ
quá độ này có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chon CNXH, xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần cho XHCN.
“ Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Thời
kỳ này được bắt đầu sau khi giai cấp công nhân thiết lập được chính quyền nhà nước và
trực tiếp bắt tay vào sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và được kết thúc
sau khi xây dựng xong về cơ bản những cơ sở về kinh tế, văn hóa – tư tưởng để CNXH
bắt đầu quá trình tự phát triển”
* Hai loại hình quá độ lên CNXH: - Quá độ trực tiếp... - Quá độ gián tiếp...
2. Đặc trưng cơ bản của XH XHCN trong CN Mác – Lênin
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền sản xuất công nghiệp hiện đại (phân tích)
- Xã hội XHCN đã xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về TLSX chủ yếu (phân tích)
- Xã hội XHCN tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới (phân tích)
- Xã hội XHCN thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động- nguyên tắc phân phối cơ bản nhất (phân tích)
- Nhà nước XHCN mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc, thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. (phân tích)
- Xã hội XHCN là chế độ đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện
công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo ra những điều kiện cơ bản để con người pháp
triển toàn diện (phân tích) 39
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
3. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển những đặc trưng cơ bản của XH
XHCN trong chủ nghĩa Mác – Lênin
- Ngay từ đầu Đảng ta đã xác định: Hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, đưa
cả nước quá độ lên CNXH và luôn giương cao ngọn cờ “độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH”. Trong các kỳ đại hội của Đảng đều ít nhiều đề cập đến đặc trưng của CNXH.
Tuy nhiên đến đại hội VII với cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 Đảng ta đã Nhận
thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và đưa ra 6 đặc trưng bản chất của CNXH. Các đại hội
VIII, IX, X tiếp tục khẳng định và phát triển những đặc trưng đó.
- 6 Đặc trưng của CNXH theo Đại hội Đảng lần thứ VII:
+ CNXH do nhân dân lao động làm chủ
+ Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, có cuộc sông ấm no,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện các nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
- 8 Đặc trưng của CNXH theo Đại hội Đảng lần thứ X (cụ thể hơn, phù hợp hơn)
Nhận xét: Đảng và Nhà nước ta đã dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội để đưa ra các đặc
trưng về CNXH. Những đặc trưng đó vùa có sự kế thừa lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin vừa có sự phát triển sáng tạo cho phù hợp hơn với tình hình thực tiễn đất nước.
Câu 25 (6 điểm): Tại sao nói thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là tất yếu. Phân
tích đặc điểm, thực chất và nội dung của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH:
- Sự thay thế xã hội CNTB bằng xã hội XHCN là một tất yếu khách quan
trong tiến trình lịch sử xã hội loài người theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
- Sự thay thế của các chế độ xã hội trước đây chỉ là thay thế xã hội bóc lột
này bằng xã hội bóc lột khác cao hơn còn về bản chất vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
- Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để nhất
trong lịch sử vì mục tiêu trực tiếp là xóa bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu chế độ người bóc lột
người để thiết lập chế độ mới do nhân dân lao động làm chủ.
- Cách mạng XHCN nổ ra thành công là bắt đầu vào thời kỳ quá độ, thời kỳ
quá độ này có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chon CNXH, xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần cho XHCN.
“ Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Thời
kỳ này được bắt đầu sau khi giai cấp công nhân thiết lập được chính quyền nhà nước và
trực tiếp bắt tay vào sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và được kết thúc 40
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
sau khi xây dựng xong về cơ bản những cơ sở về kinh tế, văn hóa – tư tưởng để CNXH
bắt đầu quá trình tự phát triển”
* Hai loại hình quá độ lên CNXH: - Quá độ trực tiếp - Quá độ gián tiếp
2. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
a. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là sự tồn tại những yếu
tố của XH cũ bên cạnh MQH vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống KT – XH
- Trên lĩnh vực kinh tế:
+ Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong
một hệ thống KT quốc dân thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá
trình xây dựng CNXH không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần
của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của PTSX TBCN.
+ Các thành phần kinh tế này tồn tại trong MQH vừa thống nhất vừa mâu thuẫn và đấu
tranh với nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế đó chỉ có thể được giải quyết
trong tiến trình xây dựng CNXH.
+Nền KT đa dạng, đan xen hỗn hợp tương ứng với nó lừ những hình thức phân phối
khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là
hình thức phân phối chủ đạo.
- Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH đa dang, phức tạp nên kết cấu giai cấp
xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng và phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: GCCN,
GCND, tầng lớp TT, những người SX nhỏ, tầng lớp TS. Các GC, tầng lớp này vừa hợp
tác vừa đấu tranh với nhau. Trong một GC, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, có ý thức khác nhau.
- Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa;
+ Trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa khác
nhau. Bên cạnh tư tưởng XHCN còn tồn tại TT TS, TTS, tâm lý tiểu nông...
+ Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại các yếu tố văn hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
b. Thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
- Là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh GC giữa GCTS đã bị đánh bại không còn là GC
thống trị và những thế lực chống phá CNXH với GCCN và quần chúng nhân dân lao động
- Cuộc đấu tranh GC diễn ra trong điều kiện mơi là GCCN đã nắm được chính quyền
nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống XH.
- Cuộc đấu tranh GC với những nội dung vè hình thức mới diễn ra trong lĩnh vực chính
trị, kinh tế, tư tưởng – văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
3. Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH
* Trong lĩnh vực kinh tế
- Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các LLSX hiện có của XH. 41
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của
nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt hơn đời sống nhân dân lao động.
- Việc bố trí, sắp xếp lại LLSX của XH nhất định không thể nóng vội chủ quan mà phải
tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật QHSX
phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
- Đối với những nước chưa trải qua quá trình CNH TBCN, tất yếu phải tiến hành CNH
XHCN nhằm tạo ra được CSVC – KT cho CNXh => CNH, HĐH nền KT theo định
hướng XHCN là nhiệm vụ trong tâm của thời kỳ quá độ, tuy nhiên nội dung cụ thể và
hình thức, bước đi ở từng nước có thể khác nhau.
* Trong lĩnh vực chính trị
- Tiến hành cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH
- Xây dựng và củng cố nhà nước và nền dân chủ XHCN ngày càng vững mạnh bảo đảm
quyền làm chủ thực sự của nhân dân lao động.
- Xây dựng các tổ chức chính trị xã hội hoạt động ngày càng hiệu quả.
- Xây dựng Đảng cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh.
* Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
- Thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng cách mạng và khoa học của GCCN trong toàn xã hội.
- Khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng CNXH
- Xây dựng nền văn hóa mới XHCN
- Tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa thế giới
* Trong lĩnh vực xã hội
- Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại
- Từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân
cư, thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội...
=> KL: thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu, đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm
riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội đặc thù, CNXH chỉ
có thể có được khi hoàn thành các nội dung đó.
Câu 26 (6 điểm): Cho biết quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin dân chủ và nền
dân chủ. Phân tích những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Từ đó làm rõ
tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ XHCN.
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và nền dân chủ.
a. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ.
Từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu ra
những quan niệm cơ bản về dân chủ như sau:
- Thứ nhất, dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là
quyền lực của nhân dân ( hay dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân)
- Thứ hai, dân chủ với tư cách là phạm trù chính trị gắn liền với một kiểu nhà nước
và một giai cấp cầm quyền.Trong các xã hội có giai cấp đối kháng việc thực hiện dân
chủ cho những tập đoàn người này đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người
khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. 42
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát
triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức bóc
lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng.
b. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nền dân chủ.
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính chất
của nhà nước; là trạng thái xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có
giai cấp. Nền dân chủ do GC thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng pháp luật. Nền dân
chủ luôn luôn gắn liền với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản chất GC của GC thống trị.
Câu 27 (6 điểm): Khái niệm dân tộc được hiểu như thế nào? Làm rõ những nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Liên hệ thực tế địa phương 1.Khái niệm dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa hẹp : Dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về văn hoá;
xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ
lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc - tộc người.
- Nghĩa rộng: Dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn
hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Theo nghĩa này dân tộc là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc gia - dân tộc.
2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ xã hội cũng
như quan hệ quốc tế. Không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc khác.
- Trong một quốc gia nhiều dân tộc sự bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội...giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thể hiện sinh động trong thực tế.
- Trên phạm vi quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh, gắn liền với cuộc
đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc và là mục tiêu phấn đấu của
các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng. Nó là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.
b.Các dân tộc được quyền tự quyết 43
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Thực chất là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh của
dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc) khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo
con đường tiến bộ xã hội.
+ Quyền dân tộc tự quyết trước hết là tự quyết về chính trị:
Quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập (quyền phân lập).
Quyền các dân tộc tự nguyện liên hợp lại thành một liên bang trên cơ sở bình đẳng
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (quyền liên hiệp).
+ Xem xét và giải quyết quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân.
Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc của
các dân tộc bị áp bức.
Kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và bọn
phản động quốc tế lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội
bộ của các nước cũng như giúp đỡ các thế lực phản động, thế lực dân tộc chủ nghĩa đàn
áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, của CNTB.
- Quyền dân tộc tự quyết là một quyền cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xoá bỏ sự
hiềm khích, thù hằn giữa các dân tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các dân
tộc; phát huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại.
c. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung cơ bản nhất trong cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm
bảo cho phong trào giải phóng dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quýêt, quyền bình
đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.
- Đoàn kết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy nội dung liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của ĐCS là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.
3. Liên hệ thực tế địa phương
* Thực trạng vấn đề dân tộc
- Biểu hiện hai xu hướng ...(chỉ ra mặt tích cực, hạn chế)
- Thực trạng việc giải quyết vấn đề DT (chỉ ra những gì đã làm tốt, những gì còn hạn chế) 44
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
* Đề xuất giải pháp để giải quyết những hạn chế...
Câu 28 (6 điểm): Làm rõ hai xu hướng phát triển của dân tộc. Cho biết những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.
Liên hệ thực tế địa phương
1. Hai xu hướng phát triển của dân tộc:
- Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản
V.I. Lênin đã phát hiện 2 xu hướng khách quan:
+ Xu hướng thức tỉnh ý thức dân tộc hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này thể hiện nổi bật trong giai đoạn đầu của CNTB đưa đến sự ra đời
của các dân tộc. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xu hướng này biểu hiện thành
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức.
+ Xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc (Liên hiệp giữa các dân tộc).
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu
kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn cách
giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia, quốc tế giữa các dân tộc làm cho các dân tộc xích lại gần nhau.
- Xét trong phạm vi các quốc gia XHCN có nhiều dân tộc:
+ Xu hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và
phồn vinh của bản thân dân tộc mình
+ Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng
quốc gia xích lại gần nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống.
ở các quốc gia XHCN, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả
các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân
tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.
- Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Bởi vì:
+ Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xoá bỏ ách đô
hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao
gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc, quyền bình
đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời
đại – mục tiêu độc lập dân tộc.
Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh
chống CNĐQ và chính sách của chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức. Xu hướng
này cũng biểu hiện trong cuộc đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự
kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, đang bị coi là đối tượng của chính sách đồng hoá
cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
- Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần nhau để trở
lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình thành trong
lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh được hình thành trên
những cơ sở lợi ích chung nhất định. 45
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ xã hội cũng
như quan hệ quốc tế. Không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc khác.
- Trong một quốc gia nhiều dân tộc sự bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội...giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thể hiện sinh động trong thực tế.
- Trên phạm vi quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh, gắn liền với cuộc
đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc và là mục tiêu phấn đấu của
các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng. Nó là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.
b. Các dân tộc được quyền tự quyết
- Thực chất là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh của
dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc) khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo
con đường tiến bộ xã hội.
+ Quyền dân tộc tự quyết trước hết là tự quyết về chính trị:
Quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập (quyền phân lập).
Quyền các dân tộc tự nguyện liên hợp lại thành một liên bang trên cơ sở bình đẳng
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (quyền liên hiệp).
+ Xem xét và giải quyết quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân.
Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc của
các dân tộc bị áp bức.
Kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và bọn
phản động quốc tế lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội
bộ của các nước cũng như giúp đỡ các thế lực phản động, thế lực dân tộc chủ nghĩa đàn
áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, của CNTB.
- Quyền dân tộc tự quyết là một quyền cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xoá bỏ sự
hiềm khích, thù hằn giữa các dân tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các dân
tộc; phát huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại.
c. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung cơ bản nhất trong cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm
bảo cho phong trào giải phóng dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quýêt, quyền bình 46
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.
- Đoàn kết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy nội dung liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của ĐCS là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.
3. Liên hệ thực tế địa phương
* Thực trạng vấn đề dân tộc
- Biểu hiện hai xu hướng ...(chỉ ra mặt tích cực, hạn chế)
- Thực trạng việc giải quyết vấn đề DT (chỉ ra những gì đã làm tốt, những gì còn hạn chế)
* Đề xuất giải pháp để giải quyết những hạn chế...
Câu 29 (6 điểm): Tôn giáo là gì? Làm rõ nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong
tiến trình xây dựng CNXH và trong XH XHCN. Cho biết những nguyên tắc cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Liên hệ thực tế địa phương.
1. Khái niệm tôn giáo:
- Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực
khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội
đều trở thành thần bí.
- Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch
sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản
ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
- ở một mức độ nhất định tôn giáo có vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức xã hội như:
đoàn kết, hướng thiện, quan tâm đến con người….Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh
thần của quần chúng lao động.
- Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập với
hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng.
- Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường
hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là
ở thế giới bên kia. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã
hội văn minh, hành phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
2. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH:
a.Nguyên nhân tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng CNXH và trong chế độ XHCN
trình độ dân trí chưa thật cao, nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học
chưa giải thích được. Do đó trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con 47
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi
tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong CNXH, nhất là trong TKQĐ còn nhiều thành phần kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội,
sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...=> những yếu tố may rủi ngẫu
nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho họ dễ trở nên thụ động với tư
tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào
trong tiềm thức, tâm lý của nhiều người dân qua nhiều thế hệ cho nên nó không thể xóa bỏ ngay được
- Nguyên nhân chính trị - xã hội:
+ Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn phù hợp với CNXH, với đường lối
chính sách của Nhà nước XHCN. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hoá của tôn giáo, đáp
ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,đó là sự tự biến đổi của tôn giáo
để thích nghi theo xu hướng đồng hành với dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo.
+ Ngoài ra các thế lực phản động trong và ngoài nước chưa từ bỏ âm mưu lợi dụng tôn
giáo để chống CNXH nên chúng ra sức duy trì và dung dưỡng tôn giáo.Những cuộc
chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc tôn giáo, khủng bố ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến
tranh, bệnh tật, đói nghèo cùng với những đe doạ khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân văn hoá: Tôn giáo có những giá trị văn hoá nhất định, do đó sinh hoạt
tôn giáo đáp ứng một phần nhu cầu đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân. Mặt
khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư
nên nó tồn tại như là một hiện tượng xã hội khách quan.
b. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội
- Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của Nhà nước XHCN là tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
- Đoàn kết giữa những người theo hoặc không theo tôn giáo, đoàn kết giữa
những người theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
- Cần phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo :
+ Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo
+ Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh
cách mạng, xây dựng CNXH của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo.
Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ
thường xuyên, phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động
của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân,
giải quyết vấn đề này vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược đúng.
- Phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo 48
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
ở những thời điểm lịch sử khác nhau vai trò, tác động của từng tôn giáo là khác
nhau, quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ không giống nhau. Vì vậy, cần có
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử với tôn giáo và những vấn đề
có liên quan đến tôn giáo.
3. Liên hệ thực tế địa phương
* Thực trạng vấn đề tôn giáo
- Đánh giá thực trang, chỉ ra mặt tích cực, hạn chế. Nguyên nhân của thực trạng
- Đề xuất giải pháp để giải quyết những hạn chế...
Câu 30 (6 điểm): Tại sao nói “Chủ nghĩa xã hội là tương lai của xã hội loài người”.
Lấy dẫn chứng chứng minh.
1. Liên Xô và các nước xã hôi chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo
chung của chủ nghĩa xã hội
- Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình của chủ nghĩa xã
hội trong quá trình đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nó không đông nghĩa với sự cáo
chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội mà loài người đang vươn tới.
- Tương lai của xã hội loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của
sự phát triển lịch sử.Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi, loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ đi lên CNXH được mở ra từ sau CM T10 Nga.
- Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu
cầu mới phải giải quyết
2. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, đổi mới và ngày càng đạt
được những thành tựu to lớn.
- Trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới một cách toàn diện, nhờ đó
chế độ xã hội chủ nghĩa ở những nước này không chỉ đứng vững mà còn tiếp tục được
đổi mới và phát triển. Trong đó, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đã tiến hành công
cuộc cải cách, đổi mới tương đối thành công nhất.
- Mặc dù TQ và VN có nhiều điểm khác biệt nhưng công cuộc cải cách mở cửa của 2
nươc có điểm tương đồng như sau:
+ Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoach tập trung chuyển sang kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam)
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ thống luật
pháp ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, đặc biệt là phù hợp với
những cam kết quốc tế.
+ Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ da dạng
+ Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế, Liên hợp quốc, các tổ chức khu vực
+ Bảo đảm sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công việc và sự phát
triển đất nước trên tất cả các mặt
- Lấy dẫn chứng về sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước XHCN
+ VN 20 năm đổi mới (1986 – 2006) 49
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ TQ 30 năm cải cách mơ cửa (1978 – 2007)...
=> Thế và lực của các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng tăng lên. Bất chấp sự chống
phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, các nước xã hội chủ nghĩa đã dành
được nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lích sử.
Những đóng góp, uy tín và vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Trung Quốc
được quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Các nước xã hội chủ nghĩa tích cực hoạt động
tại các diễn đàn đa phương lớn
3. Đã xuất hiện những nhân tố mới của xu hướng đi lên XHCN ở một số quốc gia
trong thế giới đại dương.
- Ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, đặc biệt là Mỹ la tinh, từ những năm 1990 một số
nước đã tuyên bố đi lên CNXH.
Vênêxuêla, Êcuađo, Nicaragoa...(lấy dẫn chứng và phân tích)
=> Sự xuất hiện của CNXH Mỹ latinh thế kỷ XXI đã và đang thể hiện sự tác động sâu
xa và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ latinh,
thể hiện bước tiến mới của CNXH trên thế giới. Đó là một minh chứng lịch sử cho sức
sống và khả năng phát triển của CNXH.
KL: Từ diễn biến của tình hình thế giới từ cách mạng T10 Nga đến nay, từ
những bài học thành công và thất bại và sự thức tỉnh của các dân tộc, nhất
định sẽ có bước phát triển mới; theo quy luật của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến tới CNXH, CNXH nhất định sẽ là tương lai của cả loài người.
Câu 31:. Phân biệt giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị
thặng dư siêu ngạch. Tại sao sản xuất giá trị thặng dư được coi là quy luật kinh tế
tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản?
1.Phân biệt giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch
a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
- Là phương pháp SX giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời
gian lao động cần thiết không thay đổi.
- Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu
không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
- Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một
cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần, đồng thời
vấp phải sức đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của công nhân nên với độ dài ngày lao động
không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bằng việc tăng cường độ lao
động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động.
=> KL: kéo dài thời gian lao động cũng như tăng cường độ lao động là để sản xuất ra
giá trị thặng dư tuyệt đối.
b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối 50
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ
dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư.
- SX m tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách rút ngắn thời gian
lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của
ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
- Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì phải hạ thấp gía trị sức lao động, bằng
cách giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người CN. Do đó phải tăng
năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, các ngành SX
TLSX để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
C. Sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch
- Là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp
khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi số đông
các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư
siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi doanh
nghiệp áp dụng công nghệ mới sớm hơn các doanh nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt
của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời trong từng doanh nghiệp, nhưng
trong phạm vi xã hội nó thường xuyên tồn tại. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là
khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng.
* So sánh giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối
- Điểm giống nhau: Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ
sở chung là chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. - Điểm khác nhau: GTTD tương đối GTTD siêu ngạch - Do tăng NSLĐ XH
- Do tăng năng suất lao động cá biệt. - Toàn bộ các nhà TB thu - Từng nhà Tb thu - Biểu MQH giữa CN với
- Biểu hiện MQH giữa CN với nhà TB và giữa các nhà TB nhà TB với nhau
2. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
- Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư ngày càng nhiều.
- Phương tiện và thủ đoạn để có nhiều giá trị thặng dư là tăng cường các phương tiện
kỹ thuật và quản lý (thể hiện ở hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư )
- Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng tồn tại một quy luật kinh tế phản ánh MQH
bản chất nhất của phương thức sản xuất theo Các Mác, chế tạo ra trị thặng dư đó là quy
luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN
- Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do CN làm thuê tạo ra
và bị nhà TB chiếm không, phản ánh MQH kinh tế bản chất nhất của CNTB – quan hệ
bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của CN tạo ra là
nguồn gốc làm giàu của các nhà TB. 51
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của
mỗi nhà TB cũng như toàn bộ XH TB. Nhà TB cố gắng SX ra hàng hóa với chất lượng
tốt cũng là để thu được nhiều giá trị thặng dư.
- SX giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền SX hàng hóa TBCN
mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường
bóc lột CN làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài thời gian lao động,
tăng năng suất lao động và mở rộng SX.
=> Như vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của
CNTB là cơ sở của sự tồn tại và phát triển TBCN. Nội dung của nó là SX ra
giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột CN lao động làm thuê.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của
CNTB . Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời
nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa
đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Câu 32:. So sánh để chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi
nhuận. Phân biệt giữa lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân
hàng và địa tô tư bản chủ nghĩa. Tại sao nói đó là các hình thái biến tướng của giá trị thặng dư?
1. So sánh giá trị thặng dư và lợi nhuận
a. Khái niệm giá trị thặng dư: Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị
sức lao động do CN tạo ra bị nhà TB chiếm không (ký hiệu là m)
b. Khái niệm lợi nhuận: Lợi nhuận là số tiền lời mà nhà tư bản thu được do có sự chênh
lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí tư bản. (ký hiệu là p)
(Hay lợi nhuận chính là giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được
quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước)
c. So sánh giá trị thặng dư và lợi nhuận
+ Về mặt lượng: lợi nhuận và giá trị thặng dư thường không bằng nhau,lợi nhuận có thể
cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thặng dư tuỳ thuộc vào giá cả hàng hoá do quan hệ cung -
cầu quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng
tổng số giá trị thặng dư
+ Về mặt chất: Thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua
chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai
lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho
người ta tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra mà là do
toàn bộ Tb ứng trước sinh ra.
2. Phân biệt giữa lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân hàng và địa tô TBCN
a. TB thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
- Trong CNTB, TB thương nghiệp là một bộ phận của TB công nghiệp được tách rời ra
để phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của TB công nghiệp. 52
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Việc tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai vấn đề khác nhau.
Lĩnh vực lưu thông cũng như hoạt động của các nhà TB thương nghiệp tuy không tạo ra
giá trị thặng dư nhưng di vị trí, tầm quan trọng của lưu thông đối với sự phát triển của
SX và tái SX nên các nhà TB vẫn được tham gia vào việc phân chia giá trị thặng dư
cùng với các nhà TBCN, và phần giá trị mà các nhà TB thương nghiệp được chia chính
là lợi nhuận thương nghiệp.
=> Vì vậy, thực chất thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được
sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản
thương nghiệp để tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cho mình.
b. TB cho vay và lợi tức cho vay
- TB cho vay là TB tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ sở hữu nó cho người khác sử
dụng trong một thời gian nhằm nhận được số tiền lời nhất định. Số tiền đó được gọi là lợi tức.
-Do có TB tiền tệ để nhàn rỗi nên nhà TB cho vay đã chuyển tiền của mình cho nhà TB
đi vay sử dụng. tiền nhàn rỗi khi vào tay nhà TB đi vay sẽ trở thành TB lưu động. Trong
quá trình vận động nhà TB sẽ thu được lợi nhận bình quân nhưng nhà TB đi vay không
được hưởng toàn bộ số lợi nhuận bình quân đó mà phải trích ra một phần trả cho nhà
TB cho vay dưới hình thức lợi tức
- Như vậy, lợi tức chính là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả
cho nhà tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một
thời gian nhất định. Lợi tức ký hiệu là z
- Nguồn gốc của lợi tức cũng là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất.
c. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng
- Ngân hàng trong CNTB là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi
vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ : nhận gửi và cho vay. Về nguyên tắc
lợi tức cho vay phải cao hơn lợi tức nhận gửi.
- Sự chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi phí về
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh tư bản tiền
tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
- Nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
d. QHSX TBCN trong nông nghiệp và địa tô TBCN.
- Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bản kinh doanh
trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh
trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ. Vì vậy, ngoài lợi nhuận bình
quân ra nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thu thêm được một phần lợi nhuận siêu
ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản kinh doanh
nông nghiệp dùng để trả cho người sở hữu ruộng dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa. 53
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Như vậy,địa tô tư bản chủ nghĩa là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình
quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà các nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ.
- Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa là là một phần giá trị thặng dư do công nhân
nông nghiệp sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
KL: lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, lợi nhuận ngân hàng và địa tô
TBCN đều là các hình thái biến tướng của giá trị thặng dư do công sáng tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.
Câu 33: Phân tích nội dung và những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân? Hiện nay giai cấp công nhân có còn thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp mình nữa hay không? Tại sao? 1. Khái niệm GCCN.
Trong phạm vi PTSX TBCN GCCN có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
- Một là, GCCN là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
những công cụ SX có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình độ XHH cao.
- Hai là, trong hệ thống QHSX của XH TBCN người CN không có TLSX , họ buộc phải
bán sức lao động cho nhà TB để kiếm sống.
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Giai cấp CN là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát
triển của LLSX tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức SX tương lai; do vậy
về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mênh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động, đấu
tranh xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – XH XHCN và CSCN.
- Việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN cần phải trải qua hai bước
+ Bước thứ nhất: “GCVS chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến TLSX trước hết
thành sở hữu nhà nước”.
+ Bước thứ hai, “...GCVS cũng tự thủ tiêu với tư cách là GCVS, chính vì thế mà nó
cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt GC và mọi đối khắng GC”; nó lãnh đạo nhân dân lao
động thông qua chính đảng của nó, tiến hành tổ chức xây dựng XH mới – XHCN.
=> Hai bước này có quan hệ chặt chẽ với nhau, GC CN không thực hiện được bước thứ
nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai, nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất
để GC CN hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN nhất định phải tập hợp được
các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xóa
bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng.
Đó là quá trinh lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN.
* Địa vị kinh tế - xã hội của GCCN trong XH TBCN.
LLSX ở bất cứ XH nào cũng là yếu tố quan trọng nhất. Trong CNTB và CNXH với nền
SX đại công nghiệp phát triển thì “LLSX hàng đầu của nhân loại là CN và người lao động” 54
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Trong nền SX đại công nghiệp, GC CN vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sản phẩm
căn bản nhất của nền SX đó
+ Với nền SX TBCN “...GCCN hiện đại chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc
làm, và chỉ có thể kiếm được việc làm nếu lao động của họ làm tăng thêm TB”. Từ điều
kiện như vậy đã buộc GCCN phải không ngừng học tập vươn lên sao cho đáp ứng được
yêu cầu của nền sản xuất ngày càng hiện đại => đội ngũ CN được trí thức hóa ngày càng gia tăng.
+ Trong chế độ TBCN GCCN hoàn toàn không có hoặc rất ít TLSX. Họ là GC có lợi ích
cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của GC TS. GCTS muốn duy trì chế độ tư hữu tư
nhân TBCN về TLSX, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với GCCN và QCND lao động.
Ngược lại, GCCN lại muốn xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân TBCN về TLSX, giành lấy
chính quyền và sử dụng chính quyền đó để tổ chức xây dựng XH mới không còn áp bức bóc lột
+ GCCN lao động trong nền SX đại công nghiệp, có quy mô SX ngày càng lớn, sự phụ
thuộc lẫn nhau trong quá trình sản xuát ngày càng nhiều, họ lại thường xuyên sống ở
những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung =>ĐK sông và làm việc tập
trung như vậy đã tạo ra cho GC CN khả năng đoàn kết nội bộ GC => tạo ra sức mạnh để làm cách mạng.
+ GCCN có những lợi ích có bản thống nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng ND=>
tạo ra khả năng liên minh, đoàn kết với các GC tầng lớp khác.
*Những đặc điểm chính trị - xã hội của GCCN
Do địa vị kinh tế - xã hội quy định đã tạo cho GCCN có những đặc điểm chính trị - xã
hội mà những GC khác không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:
- GC CN là GC tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
- GCCN là GC có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
+ GCCN có bản chất quốc tế
3. Hiện nay giai cấp công nhân vẫn còn thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình bởi vì:
- Mặc dù hiện nay GCCN đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề nhưng xét
toàn cảnh sự phát triển XH thì GCCN vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
- Hiện nay đời sống của một bộ phận không nhỏ CN đã được cải thiện, thậm chí có mức
sống “trung lưu hóa”, song điều đó không có nghĩa là GCCN ở những nước đó không bị
bóc lột hoặc bóc lột không đáng kể.
- Dù cố tìm mọi cách thích nghi và mọi biện pháp xoa dịu nhưng GCTS không
thể nào khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của CNTB => Thực tế cuộc đấu
tranh của GCCN ở các nước TBCN vẫn đang diễn ra với những nội dung đa
dạng và hình thức phong phú
Câu 34 : Phân tích quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính tất yếu và nội
dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự vận dụng của Đảng
và Nhà nước ta trong việc xây dựng khối liên minh giữa công nhân với nông dân và
tầng lớp trí thức ở Việt Nam. 55
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
1. Tính tất yếu của liên minh
- Liên minh để thực hiện mục tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công
nhân liên minh với họ là điều tất yếu. Qua khối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất
trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng
CNXH, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai
trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị- xã hội, là yếu tố tiên quyết.
- Liên minh công - nông là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và
nhu cầu tự giải phóng của nông dân
2. Nội dung và nguyên tắc của liên minh a. Nội dung
* Liên minh về chính trị:
- Nhiệm vụ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành lấy chính quyền về
tay GCCN và NDLĐ. Trong quá trình xây dựng CNXH là GCCN và NDLĐ cùng nhau
tham gia vào chính quyền nhà nước, bảo vệ XHCN và mọi thành quả của CM
- Liên minh về chính trị không phải là dung hòa lập trường chính trị của các giai cấp
tầng lớp mà cần phải trên lập trường chính trị của GCCN.
- Liên minh về chính trị GCCN và NDLĐ tạo cơ sở vững chắc cho NN XHCN, làm
nòng cốt cho mặt trận, thực hiện liên minh rộng rãi với các tầng lớp lao động khác.
*Liên minh về kinh tế: Đây là nội dung quan trọng nhất của liên minh.
- Thực hiện liên minh giữa GCCN với GCND trong quá trình xây dựng CNXH là phải
kết hợp đúng đắn lợi ích giữa 2 GC, Hoạt động KT vừa đảm bảo lợi ích của NN, của xã
hội, đồng thời phải thường xuyên quan tâm tới nông dân, phát triển công nghiêp và nông nghiệp nông thôn.
- Chú ý quan tâm tới việc xây dựng khối liên minh giữa GCCN với tầng lớp trí thức, nếu
không chú ý đến điều này thì không thể xây dựng một nền CN hiện đại được và cũng
không thể đứng vững được trong cuộc đấu tranh chống CNTB.
* Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh cũng là một nội dung quan trọng, điều này bởi vì:
- CNXH được xây dựng trên một nền SX công nghiệp hiện đại, vì vậy CN, DN và
những người lao động khác phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ văn hóa.
- CNXH với mong muỗn xây dựng một xã hội nhân văn, nhân đạo, con người sống với
nhau có tình có nghĩa, điều này chỉ có thể thực hiện được trên có sở một nền văn hóa của nhân dân.
- CNXH tạo điều kiện cho nhân dân tham gia quản lý kinh tế, xã hội và quản lý nhà
nước, vì vậy nhân dân phải có trình độ văn hóa, phải hiểu biết pháp luật.
b. Nguyên tắc cơ bản của liên minh.
- Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng (phân tích)
- Phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện (phân tích)
- Kết hợp đúng đắn các lợi ích (phân tích) =>KL:
3. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta 56
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Ngay từ ĐH II (1951) trong văn kiện ĐLĐ VN đã nêu: “chính quyền của nước
VNDCCH là chính quyền dân chủ của nhân dân...lấy liên minh CN, ND và lao động trí
thức làm nền tảng và do GCCN lãnh đạo”.
- Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH và trong chỉ đạo thực
tiễn Đảng ta đặc biệt coi trọng mối liên minh này và coi đó là nền tảng của NN của dân, do dân, vì dân.
- ĐH IX của Đảng tiếp tục khẳng định tính tất yếu của khối liên minh, liên minh là cơ sở
cho khối đại đoàn kêt toàn dân tộc và nó là động lực để phát triển đất nước.
=> KL; Quan điểm, đường lối của liên minh là sự vận dụng đúng đắn và sáng
tạo quan điểm của CN Mác – lênin về liên minh...
Câu 35 : Tại sao phải quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội? Làm rõ
quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc trưng cơ bản của xã hội xã
hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển những đặc trưng
này như thế nào trong sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH:
- Sự thay thế xã hội CNTB bằng xã hội XHCN là một tất yếu khách quan
trong tiến trình lịch sử xã hội loài người theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
- Sự thay thế của các chế độ xã hội trước đây chỉ là thay thế xã hội bóc lột
này bằng xã hội bóc lột khác cao hơn còn về bản chất vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
- Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để nhất
trong lịch sử vì mục tiêu trực tiếp là xóa bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu chế độ người bóc lột
người để thiết lập chế độ mới do nhân dân lao động làm chủ.
- Cách mạng XHCN nổ ra thành công là bắt đầu vào thời kỳ quá độ, thời kỳ
quá độ này có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chon CNXH, xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần cho XHCN.
“ Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Thời
kỳ này được bắt đầu sau khi giai cấp công nhân thiết lập được chính quyền nhà nước và
trực tiếp bắt tay vào sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và được kết thúc
sau khi xây dựng xong về cơ bản những cơ sở về kinh tế, văn hóa – tư tưởng để CNXH
bắt đầu quá trình tự phát triển”
* Hai loại hình quá độ lên CNXH: - Quá độ trực tiếp... - Quá độ gián tiếp...
2. Đặc trưng cơ bản của XH XHCN trong CN Mác – Lênin
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền sản xuất công nghiệp hiện đại (phân tích)
- Xã hội XHCN đã xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về TLSX chủ yếu (phân tích)
- Xã hội XHCN tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới (phân tích)
- Xã hội XHCN thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động- nguyên tắc phân phối cơ bản nhất (phân tích) 57
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Nhà nước XHCN mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc, thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. (phân tích)
- Xã hội XHCN là chế độ đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện
công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo ra những điều kiện cơ bản để con người pháp
triển toàn diện (phân tích)
3. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển những đặc trưng cơ bản của XH
XHCN trong chủ nghĩa Mác – Lênin
- Ngay từ đầu Đảng ta đã xác định: Hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, đưa
cả nước quá độ lên CNXH và luôn giương cao ngọn cờ “độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH”. Trong các kỳ đại hội của Đảng đều ít nhiều đề cập đến đặc trưng của CNXH.
Tuy nhiên đến đại hội VII với cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 Đảng ta đã Nhận
thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và đưa ra 6 đặc trưng bản chất của CNXH. Các đại hội
VIII, IX, X tiếp tục khẳng định và phát triển những đặc trưng đó.
- 6 Đặc trưng của CNXH theo Đại hội Đảng lần thứ VII:
+ CNXH do nhân dân lao động làm chủ
+ Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, có cuộc sông ấm no,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện các nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
- 8 Đặc trưng của CNXH theo Đại hội Đảng lần thứ X (cụ thể hơn, phù hợp hơn)
Nhận xét: Đảng và Nhà nước ta đã dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội để đưa ra các đặc
trưng về CNXH. Những đặc trưng đó vùa có sự kế thừa lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin vừa có sự phát triển sáng tạo cho phù hợp hơn với tình hình thực tiễn đất nước.
Câu 36 Cho biết quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và nền dân
chủ. Phân tích những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó
làm rõ tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và nền dân chủ.
a. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ.
Từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu ra
những quan niệm cơ bản về dân chủ như sau:
- Thứ nhất, dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là
quyền lực của nhân dân ( hay dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân)
- Thứ hai, dân chủ với tư cách là phạm trù chính trị gắn liền với một kiểu nhà nước
và một giai cấp cầm quyền.Trong các xã hội có giai cấp đối kháng việc thực hiện dân
chủ cho những tập đoàn người này đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người
khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. 58
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát
triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức bóc
lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng.
b. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nền dân chủ.
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính chất
của nhà nước; là trạng thái xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có
giai cấp. Nền dân chủ do GC thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng pháp luật. Nền dân
chủ luôn luôn gắn liền với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản chất GC của GC thống trị.
2. Nh÷ng ®Æc trng c¬ b¶n cña nÒn d©n chñ XHCN:
- Sau cách mạng tháng Mười Nga thành công, mới bắt đầu một thời đại mới, khi đó
nhân dân lao động đã giành lại chính quyền, TLSX…giành lại quyền lực thực sự của
nhân dân - tức là dân chủ thực sự và lập ra Nhà nước dân chủ XHCN, để thực hiện
quyền lực của nhân dân. Đó chính là nền dân chủ XHCN
- Nền dân chủ XHCN có những đặc trưng cơ bản như sau: * Thứ nhất
- Dân chủ XHCN bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân
- Nhà nước XHCN là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do GCCN lãnh đạo thông qua chính đảng của nó.
- Nhà nước bảo đảm thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu và lợi ích của nhân dân
=> d©n chñ XHCN mang b¶n chÊt giai cÊp c«ng nh©n, cã tÝnh nh©n d©n réng r·i vµ tÝnh d©n téc s©u s¾c.
* Thứ hai: D©n chñ XHCN dùa trªn chÕ ®é c«ng h÷u vÒ t liÖu s¶n xuÊt chñ yÕu,
phï hîp với quá trình XHH ngày càng cao cña lùc lîng s¶n xuÊt trªn c¬ së khoa häc -
c«ng nghÖ hiÖn ®¹i nh»m tho¶ m·n ngµy cµng cao nh÷ng nhu cÇu vËt chÊt vµ tinh
thÇn cña nh©n d©n lao ®éng. Đặc trưng này hình thành ngày càng đầy đủ cùng với quá
trình hình thành và hoàn thiện của nền KT XHCN.
*Thứ ba, nền dân chủ XHCN có sức động viên thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích
cực XH của ND trong sự nghiệp xd CNXH mới thể hiện: tất cả các tổ chức chính trị - xã
hội, các đoàn thể XH đều được tham gia vào công việc nhà nước. Mọi công dân đều
được đề cử, ứng cử vào cơ quan nhà nước các cấp.
* Thứ tư, nền dân chủ XHCN là nền dân chủ rộng rãi nhưng vẫn mang tính giai cấp đó
là nền dân chủ rộng rãi đối với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân
chủ và trấn áp với thiểu số giai cấp áp bức, bóc lột và phản động => Dân chủ và chuyên
chính là hai yếu tố quy định lẫn nhau và tác động lẫn nhau. Đây chính là dân chủ kiểu
mới và chuyên chính theo lối mới trong lịch sử.
Câu 37: Hàng hoá là gì? Làm rõ các thuộc tính của hàng hoá. Từ đó kể tên những
hàng hoá đặc biệt mà em biết và lý giải vì sao nó là hàng hoá đặc biệt?
1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
a. Khái niệm: Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nhất định
nào đó của con người thông qua trao đổi và mua bán.
b. Hai thuộc tính của hàng hoá 59
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Giá trị sử dụng: là công dụng của hàng hoá nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của
con người, thông qua trao đổi bằng mua và bán. Vật phẩm nào cũng có một số công
dụng nhất định do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật phát
triển, con người càng tìm thêm nhiều công dụng, thuộc tính mới của sản phẩm.
+ Giá trị sử dụng là thuộc tính của hàng hoá, là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã
hội thông qua trao đổi và mua bán.
- Giá trị của hàng hoá:
+ Giỏ trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, thể hiện tỷ lệ trao đổi giữa hàng hoá này với hàng hoá khác VD: 2m vải = 10 kg thúc
Hai hàng hoá trao đổi được với nhau thỡ bản thõn 2 hàng hoá phảiốá một cái chung
giống nhau. Nếu ta gạt bỏ giá trị sử dụng của hàng hoá đi, mọi hàng hoá đều là sản
phẩm của lao động. Chính lao động là cơ sở của trao đổi và tạo thành giá trị hàng hoá.
Vậy thực chất của trao đổi sản phẩm là trao đổi lao động.
+ Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá.
Sản phẩm nào mà lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Hai thuộc tính của hàngốt mối quan hệ ràng buộc với nhau vừa thống nhất vừa mâu
thuẫn nhau: Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình
thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị. Gía trị phản ánh quan hệ giữa người sản xuất
hàng hoá, là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hóa. Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá.
- Thống nhất: Đó là hàng hoá phải có hai thuộc tính, nếu thiếu một trong hai thuộc tính không phải là hàng hoá.
- Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính thể hiện:
+ Với tư cách là giá trị sử dụng các hàng hoá không đồng nhất về chất.
+ Với tư cách là giá trị các hàng hoá đồng nhất về chất đều là lao động đó được vật hoá.
+ Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là hai quá trình khác nhau về thời gian
và không gian, đó nếu giá trị hàng hoá không được thực hiện sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
2. Những hàng hóa đă ̣c biê ̣t.
* Sức lao đô ̣ng là một loại hàng hóa đă ̣c biê ̣t:
Vì trong quá trình lao đô ̣ng, sức lao đô ̣ng tạo ra mô ̣t lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó, phần dư ra so với giá trị sức lao đô ̣ng là giá trị thăng dư.
* Tiền tê ̣: Là hàng háo đă ̣c biê ̣t được tách ra từ trong thế giớ hàng háo làm vâ ̣t
ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiê ̣n lao đô ̣ng xã
họi và biểu hiê ̣n quan hê ̣ giưa những người sản xuất hàng háo.
Câu 38: Khái niệm dân tộc được hiểu như thế nào? Làm rõ những nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Liên hệ thực tế địa phương. 1.Khái niệm dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa: 60
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Nghĩa hẹp : Dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về văn hoá; xuất hiện
sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc
và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc - tộc người.
- Nghĩa rộng: Dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn
hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Theo nghĩa này dân tộc là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc gia - dân tộc.
2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ xã hội cũng
như quan hệ quốc tế. Không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc khác.
- Trong một quốc gia nhiều dân tộc sự bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội...giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thể hiện sinh động trong thực tế.
- Trên phạm vi quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh, gắn liền với cuộc
đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc và là mục tiêu phấn đấu của
các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng. Nó là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.
b.Các dân tộc được quyền tự quyết
- Thực chất là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh của
dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc) khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo
con đường tiến bộ xã hội.
+ Quyền dân tộc tự quyết trước hết là tự quyết về chính trị:
Quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập (quyền phân lập).
Quyền các dân tộc tự nguyện liên hợp lại thành một liên bang trên cơ sở bình đẳng
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (quyền liên hiệp).
+ Xem xét và giải quyết quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân.
Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc của
các dân tộc bị áp bức.
Kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và bọn
phản động quốc tế lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội 61
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
bộ của các nước cũng như giúp đỡ các thế lực phản động, thế lực dân tộc chủ nghĩa đàn
áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, của CNTB.
- Quyền dân tộc tự quyết là một quyền cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xoá bỏ sự
hiềm khích, thù hằn giữa các dân tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các dân
tộc; phát huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại.
c. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung cơ bản nhất trong cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm
bảo cho phong trào giải phóng dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quýêt, quyền bình
đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.
- Đoàn kết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy nội dung liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của ĐCS là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.
3. Liên hệ thực tế địa phương
* Thực trạng vấn đề dân tộc
- Biểu hiện hai xu hướng ...(chỉ ra mặt tích cực, hạn chế)
- Thực trạng việc giải quyết vấn đề DT (chỉ ra những gì đã làm tốt, những gì còn hạn chế)
* Đề xuất giải pháp để giải quyết những hạn chế...
Câu 39: Làm rõ nội dung và tác động của quy luật giá trị. Việt Nam đã vận dụng
quy luật này như thế nào trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Nội dung quy luật giá trị
Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi phải dựa trên cơ sở hao phí sức lao động xã hội cần thiết. - Trong sản xuất:
Mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của
hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí cá biệt của từng người sản xuất hàng
hoá mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, người sản xuất muốn bán được
hàng hoá phải điều chỉnh làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp 62
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
với mức chi phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận được; khối lượng sản phẩm mà
những người sản xuất tạo ra phải phù hợp nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. - Trong trao đổi:
Lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Hơn nữa, vì giá trị là cơ sở của giá
cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Ngoài ra trên thị trường, giá cả còn phụ
thụộc vào các nhân tố: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền nên giá cả thường
tách riêng giá trị, lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Thông qua sự vận động của
giá cả trên thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng của nó.
2. Tác động của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
+ Điều tiết sản xuất tức là điều hoà phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế, thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường
dưới tác động của quy luật giá trị.
+ Điều tiết lưu thông: thông qua sự lên xuống của giá cả, phân phối nguồn hàng hoá từ
nơi giá cả thấp đến nơi có giá cả cao.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao động, lực lượng
sản xuất phát triển nhanh.
+ Trong nền kinh tế hàng hóa, người sản xuất muốn giành lợi thế trong cạnh tranh và
tránh nguy cơ phá sản họ phải hạ thấp mức hao phí sức lao động xã hội cá biệt của mình
sao cho bằng hao phí sức lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn luôn tìm
cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, tăng năng xuất lao động.
+ Kết quả, lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả: Những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết, nhờ đó giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, rủi ro
trong kinh doanh, nên bị thua lỗ nên mới dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
* Tác động của quy luật giá trị một mặt đào thải các yếu kém, kích thích các
nhân tố tích cực phát triển. Mặt khác lại phân hoá người sản xuất thành giàu –
nghèo, tạo những điều kiện xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do
vậy, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần
có biện pháp hạn chế mặt tiêu cực, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
b.Tôn giáo là gì? Làm rõ nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong tiến trình xây
dựng CNXH và trong XH XHCN. Cho biết những nguyên tắc cơ bản của
1. Khái niệm tôn giáo:
- Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực
khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội
đều trở thành thần bí.
- Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch
sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản
ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. 63
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- ở một mức độ nhất định tôn giáo có vai trò tích cực trong văn hoá, đạo đức xã hội như:
đoàn kết, hướng thiện, quan tâm đến con người….Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh
thần của quần chúng lao động.
- Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập với
hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng.
- Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường
hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là
ở thế giới bên kia. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã
hội văn minh, hành phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
2. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH:
a.Nguyên nhân tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng CNXH và trong chế độ XHCN
trình độ dân trí chưa thật cao, nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học
chưa giải thích được. Do đó trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con
người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi
tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong CNXH, nhất là trong TKQĐ còn nhiều thành phần kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội,
sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...=> những yếu tố may rủi ngẫu
nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho họ dễ trở nên thụ động với tư
tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào
trong tiềm thức, tâm lý của nhiều người dân qua nhiều thế hệ cho nên nó không thể xóa bỏ ngay được
- Nguyên nhân chính trị - xã hội:
+ Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn phù hợp với CNXH, với đường lối
chính sách của Nhà nước XHCN. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hoá của tôn giáo, đáp
ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,đó là sự tự biến đổi của tôn giáo
để thích nghi theo xu hướng đồng hành với dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo.
+ Ngoài ra các thế lực phản động trong và ngoài nước chưa từ bỏ âm mưu lợi dụng tôn
giáo để chống CNXH nên chúng ra sức duy trì và dung dưỡng tôn giáo.Những cuộc
chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc tôn giáo, khủng bố ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến
tranh, bệnh tật, đói nghèo cùng với những đe doạ khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân văn hoá: Tôn giáo có những giá trị văn hoá nhất định, do đó sinh hoạt
tôn giáo đáp ứng một phần nhu cầu đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân. Mặt
khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư
nên nó tồn tại như là một hiện tượng xã hội khách quan.
b. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội 64
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của Nhà nước XHCN là tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
- Đoàn kết giữa những người theo hoặc không theo tôn giáo, đoàn kết giữa
những người theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
- Cần phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo :
+ Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo
+ Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh
cách mạng, xây dựng CNXH của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo.
Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ
thường xuyên, phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động
của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân,
giải quyết vấn đề này vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược đúng.
- Phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo
ở những thời điểm lịch sử khác nhau vai trò, tác động của từng tôn giáo là khác
nhau, quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ không giống nhau. Vì vậy, cần có
quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử với tôn giáo và những vấn đề
có liên quan đến tôn giáo.
3. Liên hệ thực tế địa phương
* Thực trạng vấn đề tôn giáo
- Đánh giá thực trang, chỉ ra mặt tích cực, hạn chế. Nguyên nhân của thực trạng
- Đề xuất giải pháp để giải quyết những hạn chế...
Câu 40 :Hàng hoá sức lao động là gì? Khi nào sức lao động trở thành hàng hoá?
Làm rõ hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động. Hàng hoá sức lao động * Sức lao động
- Khái niệm sức lao động: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được
người đó đem ra sử dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
* Điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá:
+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi
phối sức lao động ấy và chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định.
+ Thứ hai, người lao động không còn tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao
động và cũng không có của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
=> Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện núi trờn tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa.
Sức lao động biến thành hàng hoỏ là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.
* Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Giống như hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng. 65
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Giá trị của hàng hoá sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị của sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ
tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định, để duy
trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
+ Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả
yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng
thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước.
+ Giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau hợp thành:
Một là giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản
xuất sức lao động, duy trì nòi giống công nhân
Hai là, phí tổn đào tạo công nhân
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái công nhân.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình tiêu dùng sức lao động của người công nhân.
Quá trình đó là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó; đồng thời là quá
trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động. Phần lớn hơn
đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Đó chính là đặc điểm
riêng của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động. Đặc điểm này là chìa khoá
để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của chủ nghĩa tư bản.
Câu 41: Làm rõ hai xu hướng phát triển của dân tộc. Cho biết những nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Liên hệ thực tế địa phương.
1. Hai xu hướng phát triển của dân tộc:
- Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản V.I. Lênin đã phát hiện 2 xu hướng khách quan:
+ Xu hướng thức tỉnh ý thức dân tộc hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này thể hiện nổi bật trong giai đoạn đầu của CNTB đưa đến sự ra đời
của các dân tộc. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xu hướng này biểu hiện thành
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức.
+ Xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc (Liên hiệp giữa các dân tộc).
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, của giao lưu
kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn cách
giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia, quốc tế giữa các dân tộc làm cho các dân tộc xích lại gần nhau.
- Xét trong phạm vi các quốc gia XHCN có nhiều dân tộc:
+ Xu hướng thứ nhất biểu hiện sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và
phồn vinh của bản thân dân tộc mình
+ Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng
quốc gia xích lại gần nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống.
ở các quốc gia XHCN, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả 66
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân
tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh.
- Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Bởi vì:
+ Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xoá bỏ ách đô
hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao
gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc, quyền bình
đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời
đại – mục tiêu độc lập dân tộc.
Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành sức mạnh
chống CNĐQ và chính sách của chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức. Xu hướng
này cũng biểu hiện trong cuộc đấu tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự
kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, đang bị coi là đối tượng của chính sách đồng hoá
cưỡng bức ở nhiều nước tư bản.
- Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần nhau để trở
lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng đã được hình thành trong
lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh được hình thành trên
những cơ sở lợi ích chung nhất định.
2. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
a. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ xã hội cũng
như quan hệ quốc tế. Không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc khác.
- Trong một quốc gia nhiều dân tộc sự bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội...giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thể hiện sinh động trong thực tế.
- Trên phạm vi quốc tế, bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sô vanh, gắn liền với cuộc
đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc và là mục tiêu phấn đấu của
các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng. Nó là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.
b. Các dân tộc được quyền tự quyết
- Thực chất là quyền làm chủ của một dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh của
dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc) khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo
con đường tiến bộ xã hội.
+ Quyền dân tộc tự quyết trước hết là tự quyết về chính trị:
Quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập (quyền phân lập).
Quyền các dân tộc tự nguyện liên hợp lại thành một liên bang trên cơ sở bình đẳng
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (quyền liên hiệp).
+ Xem xét và giải quyết quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập trường quan
điểm của giai cấp công nhân. 67
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, phù hợp với lợi ích chính đáng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc của
các dân tộc bị áp bức.
Kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và bọn
phản động quốc tế lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để can thiệp vào công việc nội
bộ của các nước cũng như giúp đỡ các thế lực phản động, thế lực dân tộc chủ nghĩa đàn
áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, của CNTB.
- Quyền dân tộc tự quyết là một quyền cơ bản của dân tộc. Nó là cơ sở để xoá bỏ sự
hiềm khích, thù hằn giữa các dân tộc; đảm bảo sự tồn tại, phát triển độc lập cho các dân
tộc; phát huy tiềm năng của các dân tộc vào sự phát triển chung của nhân loại.
c. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung cơ bản nhất trong cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân,
phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm
bảo cho phong trào giải phóng dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định
đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quýêt, quyền bình
đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.
- Đoàn kết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy nội dung liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của ĐCS là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.
3. Liên hệ thực tế địa phương
* Thực trạng vấn đề dân tộc
- Biểu hiện hai xu hướng ...(chỉ ra mặt tích cực, hạn chế)
- Thực trạng việc giải quyết vấn đề DT (chỉ ra những gì đã làm tốt, những gì còn hạn chế)
* Đề xuất giải pháp để giải quyết những hạn chế...
Câu 42: Lấy ví dụ về một quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Từ đó cho biết giá trị
thặng dư là gì? Tư bản bất biến là gì? Tư bản khả biến là gì?
1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thă ̣ng dư
- Qua trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao đô ̣ng và tư liê ̣u sản xuất ra giá trị
thă ̣ng dư có hai đă ̣ điểm:
+ Mô ̣t là, công nhân làm viê ̣c dưới sự kiểm soát của nhà TB
+Hai là, sản phẩm làm ra thuô ̣c tính sở hữu nhà tư bản. 68
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 Ví dụ:
- Gỉa sử, đẻ chế tạo ra 10 kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền 10$ để mua 10kg bông,
2$ cho hao mòn máy móc và 3$ mua sức lao đô ̣ng của công nhân điều khiển máy móc
trong mô ̣t ngày ( 12 giờ ); cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí
theo thời gian lao đô ̣ng xã hô ̣i cần thiết
- Gỉa sử kéo 10 kg bông thành sợi mất 6 giờ và mỗi giờ công nhân tạo ra mô ̣t giá trị 0,5 $: 0,5$ x 6 = 3$
Vâ ̣y giá trị của 1 kg sợi là:
Gía trị 10kg bông chuyển vào: 10$
Gía trị của máy móc chuyển vào: 2$
Gía trị do công nhân tạo ra: 3$ Tổng cô ̣ng : 15$
Nếu quá trình lao đô ̣ng chỉ dựng ở đó (công nhân làm viê ̣c 6 giờ) thì không có giá trị
thă ̣ng dư. Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao đô ̣ng trong 12 giờ chứ không phải trong 6
giờ. Viê ̣c sử dụng sức lao đô ̣ng trong ngày đó là thuô ̣c quyền của nhà tư bản
Nếu nhà tư bản bắt công nhân làm viê ̣c 12 giờ Gía trị của sản phẩm mới:
trong ngày như đã thỏa thuâ ̣n thì: Chi phí sản - Gía trị của bông được chuyển vào xuất: sợi : 20$
- Tiền mua bông 20 kg là: 20$
- Gía trị máy móc được chuyển vào - Hao mòn máy móc là: 4$ sợi: 4$
- Tiền mua SLĐ trong 1 ngày: 3$
- Gía trị do lao đô ̣ng của công nhân
tạo ra trong 12h lao đô ̣ng: 6 $ Cô ̣ng: 27 $ Cô ̣ng: 30$
Gía trị thă ̣ng dư: 30$ - 27$ = 3$
Như vâ ̣y, 27$ ứng trước của nhà tư bản đã chuyển thành 30$ đem lại mô ̣t giá trị
thăng dự 3 $. Do đó tiền tê ̣ ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành TB * Kết luâ ̣n:
- Mô ̣t là, giá trị thăng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoái giá trị lao đô ̣ng do công
nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
- Hai là, ngày lao đô ̣ng của công nhân chia thành hia phần: Thời gian lao đô ̣ng
cần thiết; thời gian lao đô ̣ng thă ̣ng dư.
- Ba là, giá trị của hàng hóa gồm hai phần: giá trị TLSX, giá trị lao đô ̣ng trừu
tượng của CN tạo ra trong quá trình lao đô ̣ng, gọi là giá mới lớn hơn giá trị của bản thân
nó. Đây chính là chì khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của CNTB.
2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến a. Khái niệm tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công
của công nhân làm thuê. 69
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Định nghĩa nói rõ bản chất của tư bản hiện đại : tư bản là một quan hệ sản xuất xã
hội thể hiện mối quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân làm thuê. Hiểu như
vậy, tư bản là một phạm trù lịch sử.
b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản bất biến (ký hiệu là c)
Bộ phận tư bản biểu hiện thành giá trị tư liệu sản xuất mà giá trị của nó được
bảo tồn và chuyển hoá nguyên vào sản phẩm, tức là giá trị của nó không có sự thay đổi
về lượng trong quá trình sản xuất, được gọi là tư bản bất biến.
- Tư bản khả biến (ký hiệu là v)
Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động mà giá trị của nó có sự tăng thêm về
lượng trong quá trình sản xuất, được gọi là tư bản khả biến. - ý nghĩa:
Việc phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá đã giúp C.Mác
xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Việc phân chia tư
bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến chỉ rõ tư bản bất biến chỉ là điều
kiện cần, còn nguồn gốc thực sự tạo ra giá trị thặng dư là tư bản khả biến.
Câu 43:Tại sao nói “Chủ nghĩa xã hội là tương lai của xã hội loài người”. Lấy dẫn chứng chứng minh.
1. Liên Xô và các nước xã hôi chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo
chung của chủ nghĩa xã hội
- Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình của chủ nghĩa xã
hội trong quá trình đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nó không đông nghĩa với sự cáo
chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội mà loài người đang vươn tới.
- Tương lai của xã hội loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của
sự phát triển lịch sử.Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi, loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ đi lên CNXH được mở ra từ sau CM T10 Nga.
- Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu
cầu mới phải giải quyết
2. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, đổi mới và ngày càng đạt
được những thành tựu to lớn.
- Trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới một cách toàn diện, nhờ đó
chế độ xã hội chủ nghĩa ở những nước này không chỉ đứng vững mà còn tiếp tục được
đổi mới và phát triển. Trong đó, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đã tiến hành công
cuộc cải cách, đổi mới tương đối thành công nhất.
- Mặc dù TQ và VN có nhiều điểm khác biệt nhưng công cuộc cải cách mở cửa của 2
nươc có điểm tương đồng như sau:
+ Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoach tập trung chuyển sang kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam) 70
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ thống luật
pháp ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, đặc biệt là phù hợp với
những cam kết quốc tế.
+ Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ da dạng
+ Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế, Liên hợp quốc, các tổ chức khu vực
+ Bảo đảm sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công việc và sự phát
triển đất nước trên tất cả các mặt
- Lấy dẫn chứng về sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước XHCN
+ VN 20 năm đổi mới (1986 – 2006)
+ TQ 30 năm cải cách mơ cửa (1978 – 2007)...
=> Thế và lực của các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng tăng lên. Bất chấp sự chống
phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, các nước xã hội chủ nghĩa đã dành
được nhiều thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lích sử.
Những đóng góp, uy tín và vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Trung Quốc
được quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Các nước xã hội chủ nghĩa tích cực hoạt động
tại các diễn đàn đa phương lớn
3. Đã xuất hiện những nhân tố mới của xu hướng đi lên XHCN ở một số quốc gia
trong thế giới đại dương.
- Ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, đặc biệt là Mỹ la tinh, từ những năm 1990 một số
nước đã tuyên bố đi lên CNXH.
Vênêxuêla, Êcuađo, Nicaragoa...(lấy dẫn chứng và phân tích)
=> Sự xuất hiện của CNXH Mỹ latinh thế kỷ XXI đã và đang thể hiện sự tác động sâu
xa và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ latinh,
thể hiện bước tiến mới của CNXH trên thế giới. Đó là một minh chứng lịch sử cho sức
sống và khả năng phát triển của CNXH.
KL: Từ diễn biến của tình hình thế giới từ cách mạng T10 Nga đến nay, từ những
bài học thành công và thất bại và sự thức tỉnh của các dân tộc, nhất định sẽ có
bước phát triển mới; theo quy luật của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
CNXH, CNXH nhất định sẽ là tương lai của cả loài người. 71
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC
NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của KTCT Mác- Lênin
- Thuật ngữ Kinh tế chính trị (political economy) xuất hiện vào đầu thế kỷ
thứ XVII do tác giả Moncretien một nhà kinh tế học của trường phái Chủ nghĩa
trọng thương đưa ra năm 1615.
- Kinh tế chính trị học tư sản bắt đầu từ Chủ nghĩa trọng thương là hệ thống
lý luận kinh tế chính trị đầu tiên nghiên cứu về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tư
tưởng trọng thương chủ nghĩa thể hiện tập trung thông qua các chính sách kinh tế
của nhà nước của giai cấp tư sản trong thời kỳ hình thành ban đầu. Chủ nghĩa trọng
thương coi trọng vai trò của hoạt đông thương mại. Các đại biểu tiêu biểu của chủ
nghĩa trọng thương bao gồm: Starfod (Anh); Thomasmon (Anh); Antoine Montchretien (Pháp).
- Sự phát triển của CNTB đã làm cho những luận điểm của chủ nghĩa trọng
thương trở nên lỗi thời. Vì theo đà phát triển của CNTB, cách thức chủ yếu để tang
them của cải vật chất không chỉ đơn thuần là tích lũy tiền mà tài tái sản xuất mở
rộng tư bản. Chủ nghĩa trong thương nhường chỗ cho Chủ nghĩa trọng nông. Đối
tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng nông là lĩnh vực sản xuất nhưng chỉ giới hạn
trong sản xuất nông nghiệp.
- Kinh tế chính trị cổ điển Anh là hệ thống lý luận kinh tế của các nhà kinh tế
tư sản trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị
trường như hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền công, lợi nhuận… để rút ra những
quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Đại biểu tiêu biểu của kinh tế chính
trị tư sản cổ điển Anh gồm: W.Petty; A. Smith; D. Recardo. Đối tượng nghiên cứu
của KTCT cổ điển là là bản chất và nguồn gốc của của cải và sự giàu có của các quốc gia.
-Vào giữa thế kỷ 19, cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên (1825) và những
cuộc khủng hoảng kinh tế tiếp theo đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của KTCT tư
sản cổ điển. Trước bối cảnh đó, trong số nhiều trào lưu tư tưởng kinh tế chính trị
học đã nổi lên 2 trào lưu cơ bản sau: Một là các nhà kinh tế học tiếp tục học thuyết 72
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
tư sản, đổi mới phát triển nó dưới tên gọi “kinh tế học” và hai là Kinh tế chính trị
học Mác-Lênin. C.Mác (1818-1883) Ph.Awngghen (1820-1895) và VI.Leenin (1870-1924)
1.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của KTCT Mác-Lênin
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã
hội giữa người với người trong sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt
trong sự liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tương ứng.
-Kinh tế chính trị Mác-Leenin nghiên cứu QHSX trong mối liên hệ với
LLSX. Bới vì giữa LLSX và QHSX có mối liên hệ biện chứng với nhau. Để từ đó
biết được LLSX phát triển sẽ làm biến đổi QHSX như thế nào cũng như QHSX
biến đổi như thế nào cho phù hợp với LLSX
-KTCT Mác-Lênin nghiên cứu QHSX trong mối liên hệ với kiến trúc thượng tầng.
-KTCT Mác-Leenin nghiên cứu QHSX bắt đầu từ những hiện tượng kinh tế
cụ thể, phân tích để vạch ra các phạm trù kinh tế, các quy luật kinh tế, chi phối các
hiện tượng và quá trình đó.
Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ bản chất, khách quan, lặp đi
lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế.
+ Quy luật kinh tế mang tính khách quan:
(Con người không thể tự tạo ra quy luật kinh tế, cũng như không thể tự ý xóa
bỏ quy luật kinh tế)
+ Quy luật kinh tế mang tính lịch sử
(Quy luật kinh tế không tồn tại vình viễn mà tồn tại trong một thời kỳ lịch sử
nhất định, ví dụ quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ chỉ
tồn tại trong kinh tế hang hóa)
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin
- Phương pháp luận duy vật biện chứng. Đây là phương pháp yêu cầu việc
nghiên cứu các khía cạnh thuộc đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị phải đặt 73
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và phát triển không ngừng. Đây là
phương pháp luận đặc biệt quan trọng được áp dụng trong nghiên cứu kinh tế chính
trị để giúp cho các kết quả nghiên cứu rút ra tránh rơi vào tình trạng chủ quan, duy
ý chí, vi phạm quy luật kinh tế.
- Phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, đây là phương pháp được sử dụng
trong nhiều ngành khoa học xã hội cũng như trong kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Phương pháp logíc kết hợp với lịch sử cho phép khám phá bản chất, các xu hướng
và quy luật kinh tế gắn với tiến trình hình thành, phát triển của chúng, cho phép rút
ra những kết quả nghiên cứu mang tính lôgíc từ trong tiến trình lịch sử của các
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Do kinh tế chính trị Mác - Lênin
nghiên cứu các quan hệ xã hội giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất và trao đổi của một nền sản xuất nhất định. Đây là các quan hệ trừu tượng. Vì
vậy, khác với các môn khoa học khác, ở đó, để tìm ra bản chất, tính quy luật và quy
luật của đối tượng nghiên cứu, người ta có thể sử dụng các biện pháp thực nghiệm;
đối với kinh tế chính trị Mác - Lênin, việc thực nghiệm là không thể. Vì vậy,
phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin là phương pháp
trừu tượng hóa khoa học. Lẽ dĩ nhiên, trừu tượng hóa khoa học cũng được sử dụng
nhiều ở các môn khoa học khác. Tuy nhiên, với kinh tế chính trị Mác - Lênin, đây
là phương pháp phổ biến.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là một trong những phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội, trong đó có kinh tế chính trị Mác - Lênin, mà khi sử
dụng phương pháp này đòi hỏi sự gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong
các hiện tượng quá trình nghiên cứu, để từ đó tách ra được những hiện tượng bền
vững, mang tính điển hình, ổn định của đối tượng nghiên cứu. Từ đó mà nắm được
bản chất, xây dựng được các phạm trù và khám phá được tính quy luật và quy luật
chi phối sự vận động của đối tượng nghiên cứu.
1.3. Chức năng của KTCT Mác _Lênin
- Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức khoa học về sự vận
động của các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi; về sự liên hệ
tác động biện chứng giữa các quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao 74
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
đổi với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng trong những nấc
thang phát triển khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin khám phá những quy luật chi phối sự phát triển
của sản xuất và trao đổi. Những tri thức như vậy sẽ giúp khám phá và nhận thức
một cách đúng đắn lịch sử phát triển của sản xuất và phát triển của nhân loại nói
chung, về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói
riêng. Những tri thức của kinh tế chính trị với tư cách là tri thức lý luận nền tảng sẽ
giúp nhận thức sâu sắc về bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế diễn ra
trên bề mặt nền kinh tế xã hội; phân tích làm rõ những nguyên nhân sâu xa của sự
giàu có của các quốc gia trong sự liên hệ với thế giới; khái quát những triển vọng
và xu hướng phát triển kinh tế xã hội trong những giai đoạn lịch sử và những bối cảnh phát triển mới.
Với ý nghĩa như vậy, những tri thức của kinh tế chính trị Mác - Lênin sẽ tạo
lập cơ sở khoa học, nền tảng lý luận, phương hướng cho sự hình thành các chính
sách kinh tế, định hướng chiến lược cho sự phát triển kinh tế nói riêng và thúc đẩy
văn minh xã hội nói chung. Trong trường hợp Việt Nam, nếu các chính sách kinh tế
được hoạch định mà không dựa trên cơ sở tri thức lý luận của kinh tế chính trị Mác
- Lênin sẽ khó có thể mang lại hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội lâu dài.
- Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần tạo lập nền tảng tư tưởng cộng sản
cho những người lao động tiến bộ và yêu chuộng tự do, yêu chuộng hòa bình, củng
cố niềm tin cho những ai phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng thế
giới quan khoa học cho những ai có mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt
đẹp, hướng tới giải phóng con người, xóa bỏ dần những áp bức, bất công giữa con người với con người.
- Chức năng thực tiễn
+ Sau khi nhận thức được các quy luật sẽ giúp cho người lao động cũng như
những nhà hoạch định chính sách biết vận dụng các quy luật kinh tế ấy vào trong
thực tiễn hoạt động lao động cũng như quản trị quốc gia của mình. 75
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Quá trình vận dụng đúng các quy luật kinh tế khách quan thông qua điều
chỉnh hành vi cá nhân hoặc các chính sách kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế
- xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
+ Kinh tế chính trị Mác - Lênin, theo nghĩa đó mang trong nó chức năng cải
tạo thực tiễn, thúc đẩy văn minh của xã hội. Thông qua giải quyết hài hòa các quan
hệ lợi ích trong quá trình phát triển mà luôn tạo động lực để thúc đẩy từng các nhân
và toàn xã hội không ngừng sáng tạo, từ đó cải thiện không ngừng đời sống vật
chất, tinh thần của toàn xã hội.
- Chức năng phương pháp luận
Kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận là nền
tảng lý luận khoa học cho việc tiếp cận các khoa học kinh tế chuyên ngành. 76
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 CHƯƠNG 2
HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG
2.1 LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
2.1.1 Sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa, điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa Khái niệm
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó những người sản xuất ra sản
phẩm không phải để tiêu dùng cho bản thân mà để trao đổi, mua bán trên thị trường. Sản
xuất hàng hóa chỉ tồn tại và phát triển trong một số phương thức sản xuất xã hội, gắn
liền với những điều kiện lich sử nhất định.
Điều kiện ra đời và tồn tại sản xuất hang hóa
Theo Mác, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện là phân công lao
động xã hội và sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.
- Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, các
lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất
thành những ngành, nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản
xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định. Trong khi đó, nhu cầu của họ lại đòi hỏi
nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, giữa những người sản xuất cần có
sự trao đổi sản phẩm với nhau. Như vậy, phân công lao động xã hội làm xuất hiện mối
quan hệ trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất với nhau. Phân công lao động xã
hội càng phát triển thì sản xuất và trao đối sản phẩm càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Vì
vậy, phân công lao động xã hội đóng vai trò là cơ sở cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa.
- Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người
sản xuất độc lập với nhau, khác nhau về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn
tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, tức là
phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. Nói cách khác, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa
những người sản xuất đòi hỏi việc trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau phải dựa trên 77
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
nguyên tắc bình đẳng, ngang giá, hai bên đều có lợi; tức là trao đổi mang hình thái trao đổi hàng hóa.
Như vậy, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ hai điều kiện trên.
Thiếu một trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm của lao động
cũng không mang hình thái hàng hóa
Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất sản phẩm cho người khác, sản xuất để bán trên thị
trường nên việc mở rộng quy mô sản xuất không bị hạn chế bởi nhu cầu hạn hẹp của
người sản xuất. Chính nhu cầu lớn và không ngừng tăng lên là một động lực mạnh mẽ
cho sự phát triển của sản xuất hàng hóa.
- Sản xuất hàng hóa gắn liền với cạnh tranh nên buộc người sản xuất phải năng
động trong sản xuất kinh doanh; phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm bán được nhiều
hàng hóa và thu được nhiều lợi nhất; từ đó, tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Đây là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển sản xuất xã hội.
- Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động và lại thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động, phát triển chuyên môn hóa, tạo điều kiện để phát huy thế
mạnh, phát huy lợi thế so sánh của mỗi cá nhân, mỗi đơn vị sản xuất cũng như các khu vực, các vùng kinh tế.
- Sản xuất và trao đổi hàng hóa gắn với tính chất mở của các quan hệ kinh tế, các
quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho không gian giao lưu kinh tế giữa các khu vực, các
nước, các địa phương ngày càng mở rộng. Tính chất mở là đặc trưng của các quan hệ
hàng hóa tiền tệ, mở trong quan hệ giữa những người sản xuất, giữa các doanh nghiệp,
các địa phương, giữa các vùng và với nước ngoài. Từ đó, quan hệ hàng hóa tiền tệ tạo
nên sự “sống động” của nền kinh tế, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, sản xuất hàng hóa cũng còn tồn tại
nhiều mặt trái và cả những tác động tiêu cực đối với đời sống kinh tế, xã hội như phân
hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất; chạy theo lợi ích cá nhân làm tổn hại đến
các giá trị đạo đức truyền thống; sản xuất không kiểm soát được tiềm ẩn nguy cơ mất
cân đối, khủng hoảng kinh tế, phá hoại môi trường sinh thái… Những tác động tiêu cực 78
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
đó có thể hạn chế được nếu có vai trò quản lý, điều tiết từ một chủ thể chung của toàn
bộ nền kinh tế là nhà nước. 2.1.2 Hàng hóa
2.1.2.1 Hàng hóa và 2 thuộc tính của hang hóa Khái niệm
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa là phạm trù lịch sử; sản phẩm của lao động
chỉ mang hình thái hàng hóa khi được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Hàng hóa có thể sử dụng cho nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu cho sản xuất. Khi sử
dụng cho tiêu dùng cá nhân gọi là hàng tiêu dùng; khi tiêu dùng cho sản xuất gọi là tư
liệu sản xuất. Hàng hóa khi có những thuộc tính, chức năng đặc biệt thì được gọi là hàng
hóa đặc biệt. Hàng hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể hữu hình (hàng hóa thông thường)
hoặc ở dạng phi vật thể (hàng hóa dịch vụ). Bất cứ hàng hóa nào cũng bao gồm hai
thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
Hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn một
nhu cầu nào đó của con người; có thể là nhu cầu vật chất hoặc tinh thần; có thể là nhu
cầu tiêu dùng cá nhân như lương thực, thực phẩm, quần áo… hoặc tiêu dùng cho sản
xuất như nguyên, nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất...
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định và là nội dung vật chất của của cải. Vì vậy giá trị sử dụng của hàng hóa là phạm trù
cụ thể, ta có thể cảm nhận được bằng các giác quan của con người.
Giá trị sử dụng là nội dung vật chất của của cải, nhưng việc phát hiện và sử dụng
những thuộc tính đó tùy thuộc vào trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và lực
lượng sản xuất. Xã hội càng tiến bộ, khoa học kỹ thuật, phân công lao động xã hội và
lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại
càng phong phú, đa dạng, chất lượng càng cao. Ví dụ than đá hoặc dầu mỏ ban đầu chỉ
được dùng làm chất đốt; về sau nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật chúng được sử
dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, có nhiều công dụng khác nhau cũng như rất
nhiều sản phẩm được làm ra từ than đá, dầu mỏ. 79
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa.
Khi chưa tiêu dùng, giá trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị sử dụng ở trạng
thái khả năng biến thành giá trị sử dụng hiện thực, hàng hóa phải được đưa vào tiêu
dùng. Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với sản xuất.
Giá trị sử dụng là thuộc tính gắn liền với vật thể hàng hóa, nhưng không phải là
giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hóa, mà là giá trị sử dụng cho người
khác, cho người mua, tức là giá trị sử dụng xã hội. Để giá trị sử dụng của hàng hóa đi
vào tiêu dùng thì trước tiên hàng hóa phải được trao đổi, mua bán trên thị trường. Điều
này đòi hỏi người sản xuất phải quan tâm, đáp ứng đúng nhu cầu, thị hiếu của người
mua, người tiêu dùng. Có như vậy sản phẩm hàng hóa mới được người mua, người tiêu dùng chấp nhận.
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất đã hao phí đề sản xuất
ra hàng hóa hay lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Vật gì không do
lao động của con người tạo ra, không phải là sản phẩm của lao động thì không có giá trị.
Giá trị ẩn chứa bên trong giá trị sử dụng của hàng hóa nên là phạm trù trừu tượng. Giá
trị chỉ được biểu hiện ra bên ngoài thông qua trao đổi, mua bán hay được biểu hiện
thông qua giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, một tỷ lệ trao đổi giữa những giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ 1m vải = 20 kg thóc.
Về mặt vật chất, không thể so sánh giữa giá trị sử dụng của vải với giá trị sử dụng
của thóc được vì chúng khác nhau về chất. Giữa vải và thóc có thể so sánh, trao đổi
được với nhau bởi chúng có điểm chung đều là sản phẩm của lao động. Trong mối quan
hệ trao đổi đó, hao phí lao động để làm ra 1m vải bằng với hao phí lao động để sản xuất
ra 20 kg thóc. Ở đây, lao động của người sản xuất vải và lao động của người sản xuất
thóc được quy thành lao động chung, đồng nhất của con người làm cơ sở để so sánh,
trao đổi vải và thóc với nhau.
Như vậy, bản chất của giá trị là lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị hàng hóa là biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa. 80
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Giá trị là phạm trù lịch sử; chỉ khi nào có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì mới có
giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị
là nội dung, là cơ sở của trao đổi. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến một
trình độ nhất định, sẽ xuất hiện một hàng hóa đặc biệt dùng để đo giá trị của các hàng
hóa là tiền tệ. Khi tiền xuất hiện, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng
tiền nhất định, gọi là giá cả hàng hóa.
2.1.2.2 Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai
mặt. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích lao động riêng, đối
tượng lao động riêng, công cụ lao động riêng, phương pháp lao động riêng và kết quả
riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
+ Các loại lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hang
+ Tất cả lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Phân
công lao động xã hội càng phát triển thì xã hội càng nhiều ngành nghề khác nhau, do đó
có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
+ Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, là điều kiện sản xuất không thể thiếu của
bất kỳ hình thái kinh tế xã hộ nào. Khoa học kỹ thuật, phân công lao động càng phát
triển thì các hình thức lao động cụ thể càng phong phú, đa dạng.
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá không kể
đến hình thức cụ thể của nó. Đó là sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hoá
nói chung về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Lao động trừu tượng chính là lao động chung, đồng nhất của con người. Tuy
nhiên, không phải sự tiêu hao sức lao động nào cũng là lao động trừu tượng; chỉ sự tiêu
phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa mới là lao động trừu tượng. Nếu lao động
cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Vì vậy,
giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá.
Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử, chỉ có trong sản xuất và trao đổi hàng
hóa bởi vì, chỉ trong sản xuất và trao đổi hàng hóa mới cần quy các lao động khác nhau 81
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
thành lao động chung, đồng nhất làm cơ sở để so sánh, trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau.
Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất
to lớn, giúp cho lý luận giá trị - lao động của Mác có một cơ sở khoa học thực sự. Phát
hiện về tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã giải thích được những hiện
tượng phức tạp diễn ra trong thực tiễn như sự vận động trái ngược khi khối lượng của
cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của một lao động thống nhất. Lao
động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa bởi việc sản xuất
cái gì, ở đâu, bao nhiêu, bằng công cụ nào… là việc riêng của mỗi người. Ngược lại, lao
động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động
của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao
động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau giữa những
người sản xuất thông qua trao đổi. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao
động cụ thể mà phải quy về lao động chung đồng nhất là lao động trừu tượng.
Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do
những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu cầu xã hội, hoặc
khi mức tiêu hao lao động cá biệt cao hơn mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận
được. Khi đó sẽ có một số hàng hóa không bán được hoặc bán thấp hơn mức hao phí lao
động đã bỏ ra, không đủ bù đắp chi phí. Nghĩa là có một số hao phí lao động cá biệt
không được xã hội thừa nhận, hay nói khác đi, lao động tư nhân không trở thành lao động xã hội.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu
thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Chính những mâu thuẫn đó làm cho sản xuất hàng
hóa vừa vận động phát triển lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản xuất thừa”.
2.1.2.3 Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
của hàng hóa.
Thước đo lượng giá trị của hàng hóa Khái niệm 82
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa
đó quyết định. Lượng lao động đã tiêu hao đó được đo bằng thời gian lao động, nhưng
không đo bằng thời gian lao động cá biệt mà đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết
Thời gian lao động cá biệt là thời gian sản xuất ra một đơn vị hàng hóa của từng
người sản xuất cá biệt. Do điều kiện sản xuất của mỗi người sản xuất là khác nhau nên
thời gian lao động cá biệt cũng khác nhau
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra
một hàng hóa với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình trong
những điều kiện bình thường của xã hội. Hao phí lao động xã hội cần thiết chính là mức
hao phí lao động trung bình trong xã hội để sản xuất ra một sản phẩm. Trên thực tế, thời
gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa thường trùng hợp với mức
hao phí lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bội phận sản phẩm
đó trên thị trường. Vì vậy, người nào đưa ra thị trường nhiều sản phẩm nhất sẽ là người
quyết định giá mua bán của sản phẩm.
Cấu thành lượng giá trị hang hóa
Hao phí lao động để sản xuất hàng hóa gồm hao phí về lao động vật hóa dưới
dạng nhà xưởng, máy móc, công cụ lao động, nguyên nhiên vật liệu… và hao phí lao
động sống. Trong quá trình sản xuất, hao phí lao động vật hóa được chuyển sang sản
phẩm dưới dạng khấu hao về máy móc, nhà xưởng, công cụ lao động, chi phí về
nguyên, nhiên vật liệu, ký hiệu c; còn hao phí về lao động sống của người lao động tạo
ra giá trị mới, được kết tinh trong hàng hóa, ký hiệu (v + m). Như vậy, giá trị của hàng
hóa bao gồm hao phí lao động quá khứ (c) cộng với hao phí lao động sống hay giá trị
mới được tạo ra (v+m). Lượng giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng c + v + m.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định. Khi thời gian
lao động xã hội cần thiết thay đổi thì lượng giá trị hàng hóa cũng thay đổi. Có rất nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết và do đó, ảnh hưởng đến lượng
giá trị của hàng hóa như năng suất lao động, cường độ lao động, trình độ tay nghề của
người lao động, trình độ khoa học công nghệ, điều kiện, môi trường lao động… Về
nguyên tắc, có ba nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là năng suất lao động,
cường độ lao động và tính chất của lao động. 83
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Thứ nhất, năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người
lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay
số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một sản phẩm. Tăng năng suất lao động là tăng
năng lực sản xuất của người lao động. Tức là trong cùng một đơn vị thời gian, người lao
động làm nhiều sản phẩm hơn trước, hay thời gian hao phí lao động để sản xuất ra một
sản phẩm ít hơn trước.
Năng suất lao động là thước đo mức độ hiệu quả của hoạt động sản xuất trong
một thời gian nhất định. Năng suất lao động phản ánh khả năng có ích, hiệu quả có ích
của lao động là làm được bao nhiêu sản phẩm nhưng phải đảm bảo quy cách, phẩm chất,
kỹ thuật của sản phẩm.
Năng suất lao động có tác động tỷ lệ nghịch với giá trị của một hàng hóa. Khi
năng suất lao động tăng, số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian
nhiều hơn nên hao phí lao động để sản xuất ra một sản phẩm ít hơn, lao động kết tinh
trong một sản phẩm giảm xuống, do đó giá trị của một sản phẩm giảm nhưng tổng giá trị không đổi.
Năng suất lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố khoa học kỹ thuật, công cụ,
phương tiện lao động, trình độ người lao động, trình độ tổ chức quản lý sản xuất…
Muốn tăng năng suất lao động phải phát triển các yếu tố trên, đặc biệt là áp dụng khoa
học công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến công cụ, phương tiện lao động, đổi mới tổ
chức quản lý, nâng cao trình độ người lao động…
Thứ hai, cường độ lao động. Cường độ lao động là chỉ tiêu phản ánh mức độ sức
lực lao động bỏ ra trong một đơn vị thời gian. Cường độ lao động được đo bằng mức độ
hao phí lao động trong một đơn vị thời gian, hay hao phí lao động sống trong một đơn vị thời gian.
Hao phí lao động sống là hao phí về sức lực, sức cơ bắp, sức thần kinh của người
lao động trong quá trình sản xuất; thường được đo bằng số calo (đơn vị đo năng lượng)
hao phí trong một thời gian nhất định. Cường độ lao động nói lên mức độ khẩn trương,
nặng nhọc, căng thẳng của lao động. Do đó, tăng cường độ lao động là tăng mức độ hao
phí lao động trong một đơn vị thời gian. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động.
Cường độ lao động có tác động tỷ lệ thuận với tổng giá trị hàng hóa được sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian nhất định. Khi cường độ lao động tăng, hao phí lao 84
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
động cũng tăng lên, khối lượng hàng hóa cũng tăng tương ứng. Vì vậy, hao phí lao động
để làm ra một sản phẩm không đổi nhưng tổng giá trị hàng hóa tăng lên.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý,
trình độ tay nghề thành thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động…
Nếu giải quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, thuần
thục hơn, tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều sản phẩm hơn.
Thứ ba, tính chất hay mức độ phức tạp của lao động. Trong đời sống xã hội có
nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Căn cứ tính chất của lao động có thể chia các loại
lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không cần quá trình đào tạo đặc biệt cũng có thể
làm được. Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách thông thường mà bất kỳ
một người lao động bình thường nào không cần phải được đào tạo cũng có thể làm
được. Lao động phức tạp là những loại lao động phải trải qua một quá trình đào tạo theo
yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Đây là lao động phải được đào
tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.
Trong cùng một đơn vị thời gian, một lao động phức tạp sẽ phải vận dụng các kỹ
năng về thể chất và tinh thần nhiều hơn so với một lao động giản đơn nên mức độ hao
phí lao động sẽ nhiều hơn. Vì vậy trong cùng một đơn vị thời gian, một lao động phức
tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn một lao động giản đơn. Sản phẩm của lao động phức tạp
vì vậy sẽ có giá trị cao hơn sản phẩm của lao động giản đơn.
2.1.2.4 Một số loại hàng hóa đặc biệt
2.1.4.1 Hàng hóa dịch vụ
Trong các nền kinh tế hiện đại, bên cạnh những hàng hóa vật thể hữu hình còn có
những hàng hóa phi vật thể, vô hình, được trao đổi, mua bán trên thị trường. Những loại
hàng hóa này được gọi là hàng hóa dịch vụ.
Do tính chất đa dạng, phức tạp và vô hình của dịch vụ nên hiện nay vẫn chưa có
được một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tuy chưa thống nhất về khái niệm, song về
cơ bản các nghiên cứu đều cho rằng, dịch vụ là các hoạt động lao động của con người
được thực hiện trong các sản phẩm vô hình nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất và sinh
hoạt của con người. Dịch vụ được coi là hàng hóa đặc biệt do các thuộc tính sau: 85
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Dịch vụ là hàng hóa vô hình không thể cầm nắm được. Nếu như các hàng hóa
thông thường đều có tính chất cơ, lý, hóa học… nhất định; có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ
thể để người mua có thể nhìn, nghe, ngửi, nếm hay chạm vào trước khi mua, thì hàng
hóa dịch vụ lại không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những sản phẩm cụ thể, không
nhìn thấy được. Hàng hóa dịch vụ cũng không thể xác định chất lượng trực tiếp bằng
những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hóa. Người cung cấp dịch vụ (người bán) chỉ có thể
đưa ra lời hứa hẹn; ví dụ như kiểu tóc này sẽ rất hợp với bạn, hàng sẽ được chuyển đến
nơi chu đáo, bệnh nhân sẽ được khám chữa tận tình
Hàng hóa dịch vụ không thể tách rời nhà cung cấp dịch vụ. Quá trình sản xuất
(cung cấp) dịch vụ hướng vào phục vụ trực tiếp người tiêu dùng với tư cách là những
khách hàng, nên quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời.
Chất lượng dịch vụ mang tính không đồng nhất, không ổn định và khó xác định.
Dịch vụ luôn gắn chặt, không tách rời người cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, đối với cùng
một cá nhân cung ứng dịch vụ thì chất lượng dịch vụ cũng không hoàn toàn ổn định, đôi
khi cũng thay đổi theo thời gian hoặc hoàn cảnh cụ thể. Chất lượng dịch vụ phụ thuộc
chặt chẽ vào người thực hiện dịch vụ, nên cảm nhận của người tiêu dùng về nhà cung
cấp dịch vụ trở thành cảm nhận về chính dịch vụ đó. Ví dụ cảm nhận về uy tín, tên tuổi
của bác sỹ, luật sư, ca sỹ… luôn đồng nghĩa với chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp.
Dịch vụ là hàng hóa không thể tích lũy lại hay lưu trữ. Các hàng hóa thông
thường sau khi được sản xuất ra chưa đi vào tiêu dùng ngay, có thể trải qua quá trình lưu
thông, cất trữ, vận chuyển đi nơi khác theo nhu cầu thị trường. Hàng hóa dịch vụ do
không tồn tại độc lập dưới dạng hữu hình nên không thể lưu trữ được. Quá trình sản
xuất cũng đồng thời là quá trình tiêu dùng; do vậy không thể sản xuất hàng hóa dịch vụ
hàng loạt và lưu trữ trong kho sau đó mới tiêu dùng. Vì lý do này, các nhà cung cấp dịch
vụ thường nâng giá dịch vụ khi nhu cầu lên cao nhất và giảm giá mạnh vào mùa vắng khách.
Dịch vụ tạo ra lợi ích nhưng không bao gồm sở hữu. Khi sử dụng một dịch vụ,
người mua không mua theo kiểu “mua đứt bán đoạn” mà chỉ chi trả cho hình thức sử
dụng tạm thời, mang tính “thuê mướn”. Chẳng hạn khi khám chữa bệnh với một bác sĩ,
người mua không có quyền sở hữu con người bác sĩ bằng xương bằng thịt ấy. Khi nghỉ
ngơi tại một phòng khách sạn trong chuyến đi du lịch, người mua phải trả tiền nhưng 86
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
không được sở hữu căn phòng đang thuê. Ở đây, người mua chỉ chi trả để thuê mướn
chuyên gia, cơ sở vật chất nhằm sử dụng dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và tiêu dùng, dịch vụ cũng
ngày càng đa dạng, phong phú và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội hiện
đại. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực dịch vụ và những hàng hóa khác làm cho
quy mô và cơ cấu hàng hóa, dịch vụ tăng lên, nhu cầu của xã hội và dân cư được thỏa mãn ngày càng tốt hơn.
2.1.4.2 Đất đai
Đất đai theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ đất sản xuất (đất canh tác), đất xây
dựng, làm giao thông, tài nguyên khoáng sản… Đất đai là một trong những yếu tố cơ
bản của sản xuất, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế trong sản xuất nông –
lâm nghiệp. Đất đai cũng là tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc gia quý báu; là địa bàn
để phân bố dân cư và các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh và là
thành quả lao động, chiến đấu của nhiều thế hệ tạo lập nên, gắn với chủ quyền quốc gia.
Bản thân đất đai không phải là sản phẩm của lao động nên không có giá trị. Tuy
nhiên, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến giai đoạn nhất định thì đất đai
cũng được trao đổi, mua bán như các hàng hóa khác. Sở dĩ đất đai không có giá trị song
vẫn có giá cả, vẫn là đối tượng trao đổi, mua bán vì nó có khả năng đem lại thu nhập
(hoặc lợi ích) cho người sở hữu chúng. Vì vậy, đất đai được coi là một loại hàng hóa đặc
biệt. Tính đặc biệt của hàng hóa này còn thể hiện ở chỗ:
Đất đai có vị trí cố định nên là loại hàng hóa không thể di dời được. Các hàng hóa
khác, người bán, người mua có thể dễ dàng đem hàng hóa về nơi nào tùy ý; nhưng với
đất đai thì không thể di dời được, mà chủ nhân của nó phải chuyển đến nơi có đất đai.
Hàng hóa đất đai không thể đem ra thị trường để trưng bày như các loại hàng hóa
khác mà phải giới thiệu thông qua mô tả bằng mô hình, hình ảnh, bản vẽ hoặc các mô tả khác.
Giá cả đất đai phụ thuộc vào thu nhập (hoặc lợi ích) mà đất đai đưa lại. Khả năng
đưa lại lợi ích của đất đai lại phụ thuộc vào mục đích sử dụng chúng, phụ thuộc vào sự
tác động của con người đến khả năng sinh lời của đất. Khi đất đai được sử dụng vào sản
xuất nông nghiệp hoặc lâm nghiệp thường có giá cả thấp hơn so với cũng đất đai đó
được sử dụng để phát triển nhà ở hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. 87
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Đất đai là hàng hóa có số lượng hữu hạn và chất lượng (độ màu mỡ, phì nhiêu)
biến động theo thời gian, phụ thuộc vào việc sử dụng của con người. Đất đã được đầu
tư, thâm canh có giá cao hơn đất mới khai phá; đất đã được quy hoạch có giá cả cao hơn
đất chưa có quy hoạch sử dụng. Giá cả đất đai còn mang tính địa điểm và tính địa
phương rất cao. Cùng một loại đất nhưng ở những địa điểm khác nhau, địa phương khác
nhau thì giá cả cũng rất khác nhau. Đất ở trung tâm kinh tế, chính trị có giá cả cao hơn đất khu vực ngoại vi…
2.1.4.3 Cổ phiếu, trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác
Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu của một cổ đông về số tiền đã góp vào
một công ty cổ phần. Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều
phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được
cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Số tiền ghi trên cổ phiếu gọi là
mệnh giá cổ phiếu hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu.
Như vậy, cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá, đảm bảo cho người sở hữu
chúng được quyền lĩnh một phần thu nhập từ kết quả hoạt động của công ty. Thu nhập
từ cổ phiếu được gọi là lợi tức cổ phiếu (cổ tức). Lợi tức cổ phiếu không cố định mà phụ
thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Thông thường, lợi tức cổ phiếu phải cao hơn
lợi tức gửi ngân hàng; nếu không, người có tiền sẽ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lợi
tức an toàn hơn mà không mạo hiểm đầu tư vào việc mua cổ phiếu.
Trên thực tế có nhiều loại cổ phiếu khác nhau tùy theo cách phân chia. Cổ phiếu
có ghi tên cổ đông gọi là cổ phiếu ghi danh; không ghi tên gọi là cổ phiếu vô danh. Dựa
vào quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty có thể chia ra cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu đãi. Dựa vào vai trò trong hoạt động công ty có thể chia ra cổ phiếu phổ thông
và cổ phiếu sáng lập…
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người
vay tiền) phải trả cho người sở hữu trái phiếu (người cho vay) một khoản tiền cụ thể,
trong một thời gian xác định với một lợi tức quy định. Người phát hành trái phiếu có thể
là doanh nghiệp, trong trường hợp này gọi là trái phiếu doanh nghiệp; có thể là một tổ
chức chính quyền như Kho bạc nhà nước thì gọi là trái phiếu kho bạc; nếu chính phủ
phát hành gọi là trái phiếu chính phủ.
Như vậy, trái phiếu là khoản vay của một công ty. Số tiền vay ghi trên trái phiếu
là mệnh giá của trái phiếu. Người mua trái phiếu là trái chủ. Trái chủ là người cho nhà 88
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
phát hành vay để hưởng lợi tức cố định. Khác với người mua cổ phiếu là người chủ sở
hữu công ty, trái chủ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn của
người vay. Thu nhập từ trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào
kết quả sản xuất của công ty. Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi công ty phát hành
trái phiếu bị giải thể hoặc phá sản thì trước hết công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho
các chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia cho các cổ đông. Với những điều kiện trên, trái
phiếu có tính ổn định và ít rủi ro hơn cổ phiếu.
Trên thị trường, cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán có giá khác như tín
phiếu, công trái, giấy vay nợ… đều có thể được mua bán. Thị trường mua bán các loại
giấy tờ có giá này gọi là thị trường chứng khoán. Khi mua bán cổ phiếu, trái phiếu và
các loại chứng khoán có giá, người ta không dựa vào giá trị danh nghĩa ghi trên những
giấy tờ này, mà dựa vào lợi tức mà chúng đưa lại cho người sở hữu. Thông thường giá
mua bán cổ phiếu, trái phiếu được xác định bằng số tiền mà nếu đem gửi vào ngân hàng
sẽ thu được lãi suất bằng với lợi tức mà cổ phiếu, trái phiếu đưa lại.
Ví dụ, một cổ phiếu mỗi năm đem lại lợi tức là 50 USD và lãi suất gửi ngân hàng
tại thời điểm đó là 5% một năm; trên thị trường, cổ phiếu đó sẽ được bán với giá là:
Cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán có giá được gọi là tư bản giả bởi tự
bản thân chúng không có giá trị. Giá trị danh nghĩa ghi trên cổ phiếu, trái phiếu chỉ là
bản sao, là sự ghi chép lại giá trị thật của chúng đã đầu tư vào sản xuất. Tư bản thật
được đầu tư vào sản xuất dưới hình thức nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu… Sự vận động của tư bản thật gắn liền với sự vận động của sản xuất, còn các tư
bản giả tồn tại bên ngoài sản xuất, không tham gia vào quá trình sản xuất, chỉ là một tờ
giấy chứng nhận quyền sở hữu và quyền được hưởng thu nhập sau một thời gian nhất định. 2.1.3 Tiền tệ
2.1.3.1.Lịch sử ra đời và bản chất của tiền
Tiền tệ là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, là sản
phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn đến
hình thái phát triển cao nhất là hình thái tiền tệ. 89
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị
1 m vải = 10 kg thóc
+ Hàng hóa vải là hình thái giá trị tương đối ( vì bản thân nó không thể tự
nói lên giá trị của mình mà phải thông qua hàng hóa thóc)
+ Hàng hóa thóc: đóng vai trò là vật ngang giá, đo lường và biểu thị giá trị hàng hóa vải.
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị = 10kg thóc 1 m vải = 2 con gà
- Khi phân công lao động xã hôi lớn lần thứ nhất xuất hiện, tách chăn nuôi ra
khỏi trồn trọt việc trao đổi trở nên thường xuyên hơn. ột hàng hóa có thể đe so sánh
với nhiều hàng hóa khác, tức là giá trị của 1 hàng hóa được biểu hiện ở giá trị sử
dụng của nhiều hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung nhưng vẫn là trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng.
- Hình thái giá trị chung 1 cái áo = 10 đấu chè = 20 vuông vải 40 đấu cà phê =
-Vào thời kỳ suy tàn của chế độ công xã nguyên thủy, những nhước điểm của
hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng càng thể hiện rõ nét. Trong quá trình trao đổi
hàng hóa, xuất hiện một nhu cầu là những người chủ hàng hóa phải tìm được một 90
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
loại hàng hóa nào mà được nhiều người ưa thích để đổi hàng hóa của mình lấy hàng
hóa đó. Sau đó, dùng hàng hóa ấy để đổi lấy thứ hàng hóa mà mình cần. Như vậy
việc trao đổi không còn là trực tiếp nữa, mà phải qua một bước trung gian.
- Hình thái tiền
- LLSX phát triển => phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai đẩy mạnh sự
phát triển sản xất và lưu thông hàng hóa giữa các vùng => yêu cầu phải có vật ngang
giá chung thống nhất giữa các vùng
- Vật ngang giá chung được cố định ở một hàng hóa đặc biệt, khi đó xuất hiện
hình thái tiền thay thế cho hình thái giá trị chung (có nhiều hàng hóa đóng vai trò này
nhưng cuối cùng cố định ở vàng) 1 cái áo = 0,2 gam vàng 10 đấu chè = Bản chất của ti
4ề0n đấu cà phê =
Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, được tách ra trong thế giới hàng hóa để làm
vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, nó đo lường và biểu thị giá trị của hàng
hóa và biểu thị mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
2.1.3.2 Các chức năng của tiền
- Thước đo giá trị. Làm chức năng thước đo giá trị, tiền dùng để biểu hiện và đo
lường giá trị của tất cả các hàng hóa khác nhau. Lúc này, giá trị của hàng hóa được biểu
hiện bằng một số lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
- Phương tiện lưu thông. Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền được dùng
làm môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa
không phải tiến hành trực tiếp hàng lấy hàng (H – H) mà thông qua tiền làm môi giới (H
– T – H). Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có
đầy đủ giá trị, mà chỉ cần tiền ký hiệu giá trị, tức tiền giấy. Điều này ít gây tốn kém và 91
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
giúp cho trao đổi được tiến hành dễ dàng, thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển hơn nữa.
- Phương tiện cất trữ. Tiền là đại diện cho giá trị, đại diện cho của cải nên khi tiền
xuất hiện, thay vì cất trữ hàng hóa, người dân có thể cất trữ bằng tiền. Lúc này tiền được
rút ra khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới hình thái vàng, bạc và sẵn sàng tham gia lưu thông khi cần thiết.
- Phương tiện thanh toán. Làm chức năng thanh toán, tiền được dùng để chi trả
sau khi việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành, tức thanh toán việc mua bán chịu. Chức
năng phương tiện thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, tức mua
bán thông qua chế độ tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt mà chỉ dùng tiền trên sổ
sách kế toán, hoặc tiền trong tài khoản, tiền ngân hàng, tiền điện tử…
- Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới, giữa các nước
thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm công cụ mua bán,
thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ
giá trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế.
2.2 THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG
2.2.1 Khái niệm và vai trò của thị trường
2.2.1.1 Khái niệm về thị trường
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hoá giữa
các chủ thể kinh tế với nhau. Tại đó, người có nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ sẽ nhận
được thứ mà mình cần và ngược lại, người có hàng hoá, dịch vụ sẽ nhận được một số
tiền tương ứng. Như vậy, thị trường có thể là chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động, văn
phòng giao dịch hay siêu thị; cũng có thể, thị trường là chỗ ta đang ngồi gọi điện thoại
hỏi giá cả, thoả thuận đặt hàng, yêu cầu chở hàng đến một nơi nào đó. Theo nghĩa này,
thị trường là hữu hình, phù hợp giai đoạn thị trường mới hình thành. 92
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi,
mua bán hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã
hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm cung,
cầu, giá cả; quan hệ hàng, tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh
tranh; quan hệ trong nước, ngoài nước… Cùng với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu
(người mua hàng); người bán; tiền - hàng; dịch vụ mua bán… Tất các quan hệ và yếu tố
kinh tế này được vận động theo quy luật của thị trường.
Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ
thống thị trường cũng biến đổi phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh
tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp phải hiểu rõ về bản chất hệ thống thị trường và những vấn đề xung quanh nó.
2.2.1.2 Vai trò của thị trường
- Thị trường vừa là điều kiện, vừa là môi trường cho sản xuất phát triển. Thị
trường phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Sản xuất hàng
hóa càng phát triển, sản xuất ra càng nhiều hàng hóa và dịch vụ thì thị trường cũng phát
triển và mở rộng theo. Sự mở rộng thị trường đến lượt nó lại thúc đẩy trở lại sản xuất
phát triển. Vì vậy, thị trường là môi trường kinh doanh, là điều kiện không thể thiếu
được của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Thị trường là đầu ra của sản xuất, là cầu nối của sản xuất và tiêu dùng. Thị
trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải luôn nắm
bắt được các nhu cầu đó; việc định hướng mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp cũng
phải xuất phát từ những nhu cầu đó. Không có thị trường thì sản xuất và trao đổi hàng
hóa không thể tiến hành được. Vì vậy, thị trường là lực lượng hướng dẫn, định hướng
nhu cầu cho sản xuất kinh doanh.
- Thị trường là nơi quan trọng để đánh giá, kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng
đắn của chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế. Thị trường cũng kiểm nghiệm tính
khả thi và hiệu quả của các phương án hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải có sự tính toán, 93
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
cân nhắc trước khi ra quyết định. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có ưa chuộng
sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án kinh doanh
đó là có hiệu quả và ngược lại. Vì vậy, thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thị trường điều chỉnh sản xuất, gắn sản xuất với tiêu dùng, liên kết nền kinh tế
thành một thể thống nhất, gắn các quá trình kinh tế trong nước với các quá trình kinh tế
thế giới. Để sản xuất hàng hoá, xã hội phải bỏ ra các chi phí sản xuất và chi phí lưu
thông. Thông qua hệ thống giá cả thị trường, người sản xuất có thể nhận biết được sự
phân bố các nguồn lực đã hợp lý chưa. Vì vậy, thị trường là nơi kiểm nghiệm các chi phí
và thực hiện yêu cầu quy luật tiết kiệm lao động xã hội. Thị trường phá vỡ ranh giới sản
xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc để tạo thành hệ thống nhất định trong nền kinh tế quốc dân,
làm cho nền kinh tế trong nước gắn liền với nền kinh tế thế giới.
- Thị trường là khách quan, các chủ thể kinh tế không có khả năng làm thay đổi
thị trường mà ngược lại, phải tiếp cận để thích ứng với thị trường nhằm xác định thế
mạnh kinh doanh trên cơ sở đòi hỏi của thị trường. Tuân theo các quy luật thị trường,
phát huy khả năng sẵn có là phương châm hoạt động hiệu quả của người sản xuất trong cơ chế thị trường.
2.2.1.3 Các chức năng chủ yếu của thị trường
Chức năng thừa nhận: Thị trường là nơi thừa nhận công dụng, tính có ích hay giá
trị sử dụng của hàng hoá, thừa nhận chi phí lao động để sản xuất ra hang hoá. Nếu sản
phẩm của người sản xuất tiêu thụ được trên thị trường, tức là hàng hóa đã được thị
trường thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng. Khi đó, quá trình tái sản xuất mới tiếp tục
diễn ra bình thường. Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường; phải xác
định cho được thị trường cần gì, khối lượng bao nhiêu... để hàng hóa sản xuất ra có thể tiêu thụ được.
Chức năng thực hiện: Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người
mua, người bán thực hiện được các mục đích của mình. Người bán nhận tiền và chuyển 94
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
quyền sở hữu cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để có được giá
trị sử dụng của hàng hoá. Vì vậy, thị trường là nơi thực hiện các hành vi trao đổi hàng
hóa, thực hiện giá trị hàng hóa và thực hiện cân bằng cung cầu từng loại hàng hóa thông qua giá cả thị trường.
Chức năng thông tin: Thị trường là nơi phát tín hiệu, thông tin về tình hình cung,
cầu trên thị trường, thông tin về sự biến động của nền kinh tế. Căn cứ thông tin trên thị
trường, người sản xuất kinh doanh đưa ra được các quyết định, hành vi ứng xử cụ thể
của mình nhằm thu được lợi ích lớn nhất. Vì vậy, thị trường là nơi cung cấp thông tin
cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Chức năng này đòi hỏi người sản xuất phải tổ
chức tốt hệ thống thông tin của mình, có phương pháp thu thập, xử lý thông tin kịp thời
để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch phát triển thị trường phù hợp.
Chức năng điều tiết và kích thích: Do cạnh tranh, người sản xuất phải không
ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ để hạ giá thành. Người nào có sản phẩm chất
lượng cao, giá cả thấp sẽ được thị trường lựa chọn; ngược lại, người nào đưa ra thị
trường sản phẩm kém phẩm chất, giá thành cao sẽ bị đào thải. Thị trường hoạt động như
một trọng tài khách quan, dân chủ trong việc chọn lọc các yếu tố tiến bộ, có ích cho xã
hội. Với chức năng trên, thị trường thực hiện việc chọn lọc, đào thải, kích thích hoặc
hạn chế sản xuất, tiêu dùng, đảm bảo cho sản xuất phù hợp với nhu cầu xã hội.
2.2.2 Phân loại thị trường
Có nhiều cách khác nhau phân loại thị trường, tuỳ theo mục đích nghiên cứu,
hoặc theo các tiêu thức khác nhau. Có thể nêu một số cách phân loại chủ yếu sau:
Căn cứ vào đối tượng hàng hóa đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường, ta có
thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng.
Thị trường tư liệu sản xuất là thị trường mua bán các loại tư liệu sản xuất, các yếu
tố sản xuất như máy móc, nguyên nhiên vật liệu, công nghệ, vốn, lao động, thị trường
ngoại tệ, thị trường chứng khoán… 95
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Thị trường tư liệu tiêu dùng là thị trường ở đó người ta mua bán hàng tiêu dùng
hay dịch vụ cho tiêu dùng như lúa gạo, quần áo, thực phẩm, thủy sản... Tính đa dạng,
phong phú về nhu cầu của người tiêu dùng sẽ quyết định tính phong phú đa dạng của thị
trường tư liệu tiêu dùng.
Căn cứ vào vai trò của người mua, người bán trên thị trường, ta có thị trường
người bán và thị trường người mua
Thị trường người bán là thị trường mà vai trò quyết định thuộc về người bán. Giá
cả bị áp đặt, cạnh tranh bị thủ tiêu hoặc không đủ điều kiện để hoạt động; nhiều mặt
hàng, loại hàng cung ứng ra thị trường không theo yêu cầu của thị trường, vai trò của
người mua bị thủ tiêu. Thị trường người bán thường xuất hiện ở những nền kinh tế sản
xuất hàng hoá kém phát triển, hoặc ở nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
trên thị trường này người mua đóng vai trò thụ động.
Thị trường người mua là thị trường mà vai trò quyết định trong quan hệ mua bán
thuộc về người mua; người mua là yếu tố quyết định của quá trình tái sản xuất hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của người mua là trung tâm, khách hàng là "thượng
đế" và luôn quán triệt quan điểm bán cái mà thị trường cần chứ không chỉ bán cái mà
mình có. Tức là sản xuất phải nghiên cứu nhu cầu của thị trường , nhu cầu của khách
hàng để đáp ứng. Thị trường người mua là môi trường khách quan cho sự hoạt động của
các quy luật kinh tế thị trường.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, ta chia ra thị trường trong nước (thị trường dân
tộc) và thị trường thế giới.
Thị trường dân tộc là nơi diễn ra các hoạt động mua bán của những người trong
cùng một quốc gia. Các quan hệ kinh tế diễn ra trong mua bán chỉ ảnh hưởng đến các
vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội trong phạm vi nước đó.
Thị trường thế giới là nơi diễn ra hoạt động mua bán giữa các nước với nhau.
Quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế của mỗi nước. 96
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành của thị trường, ta có thị trường tự do,
thị trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường tự do là thị trường hoàn toàn do các quy luật kinh tế trên thị trường
quyết định, không có bất cứ sự can thiệp nào của nhà nước. Thị trường có điều tiết là thị
trường có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước đối với các quan hệ trao đổi, mua bán…
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người mua, nhiều người
bán; khi họ tham gia hay rút khỏi thị trường thì không ảnh hưởng đến thị trường. Thị
trường cạnh tranh không hoàn hảo (cạnh tranh mang tính độc quyền hoặc độc quyền
mang tính cạnh tranh) là thị trường có nhiều người bán, người mua cạnh tranh lẫn nhau.
Sản phẩm có sự chênh lệch nhất định; các doanh nghiệp có thể rút khỏi thị trường một
cách dễ dàng; nếu doanh nghiệp nào có uy tín trên thị trường thì sẽ có lợi.
2.2.3 Các quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường
2.2.3.1 Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có sản
xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là
quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác; các quy luật
kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi.
Về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được
tiến hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị, trong sản xuất, người sản xuất muốn bán được
hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng
hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Vì vậy họ phải luôn
luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao
động xã hội cần thiết. Trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá,
lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt. 97
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả
xung quanh giá trị dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả thị trường lên xuống
xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Thông qua sự
sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Những
người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau:
Thứ nhất, tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Trong sản xuất, thông qua sự biến động của giá cả, người sản xuất sẽ biết được
tình hình cung - cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án sản xuất. Nếu giá cả hàng
hóa bằng giá trị thì việc sản xuất là phù hợp với yêu cầu xã hội; hàng hoá này nên được
tiếp tục sản xuất. Nếu giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, sản xuất cần mở rộng để cung ứng
hàng hoá đó nhiều hơn vì nó đang khan hiếm trên thị trường; tư liệu sản xuất và sức lao
động sẽ được tự phát chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Nếu giá cả hàng
hóa thấp hơn giá trị, cung về hàng hoá này đang thừa so với nhu cầu xã hội; cần phải thu
hẹp sản xuất ngành này để chuyển sang mặt hàng khác.
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi
có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh
của giá cả thị trường, hàng hoá ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả
cao hơn, góp phần làm cho cung cầu hàng hoá giữa các vùng cân bằng, phân phối lại thu
nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh sức mua của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp mua nhiều)...
Thứ hai, tự phát thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá
trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được nhiều lợi nhuận
hơn. Ngược lại, người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi
hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh tranh và tránh không bị phá sản, người sản xuất
phải luôn tìm cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng giá trị
xã hội. Muốn vậy, phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp 98
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
quản lý, thực hiện tiết kiệm... Kết quả lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất
lao động xã hội tăng lên, chi phí sản xuất hàng hóa giảm xuống.
Trong lưu thông, để bán được nhiều hàng hóa, người sản xuất phải không ngừng
tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu bán hàng... làm cho quá trình lưu
thông được hiệu quả cao hơn, nhanh chóng, thuận tiện với chi phí thấp nhất.
Thứ ba, thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình
độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội
nên lãi nhiều. Những người này sẽ mở rộng quy mô sản xuất, trở nên giàu có, phát triển
thành ông chủ. Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp
kém, trình độ công nghệ lạc hậu... thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội. Những
người này dễ lâm vào tình trạng thua lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm thuê.
Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận,
khủng hoảng kinh tế… là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất
cùng những tiêu cực về kinh tế xã hội khác. Những tác động tiêu cực này có thể hạn chế
nếu có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước.
2.2.3.2 Quy luật cung cầu
Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu trên
thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự
thống nhất giữa chúng thì sẽ có các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng.
Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra thị trường
để bán. Cung do sản xuất quyết định song không đồng nhất với sản xuất. Chỉ những sản
phẩm hàng hóa được đưa ra thị trường mới tạo thành cung.
Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Cầu không
đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kì theo
nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán.
Chỉ những nhu cầu có khả năng thanh toán mới tạo thành cầu trong kinh tế. 99
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác
động lẫn nhau theo hướng cầu xác định cung và ngược lại cung thúc đẩy, kích thích cầu.
Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hoá vì những hàng hoá
nào tiêu thụ được thì mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng
cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, mẫu mã, chủng loại hàng hoá, hình thức,
quy cách và giá cả của nó.
Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn
hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn
giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp theo
nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau.
Quy luật cung cầu có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá; làm biến
đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường. Căn cứ quan hệ cung
- cầu, có thể dự đoán xu thế biến động của giá cả; khi giá cả thay đổi, cần đưa ra các
chính sách điều tiết giá cho phù hợp nhu cầu thị trường...
Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Ở đâu có thị trường
thì ở đó quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Nếu nhận thức
được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo
hướng có lợi cho quá trình sản xuất. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu
thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp
đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng… để tác động vào các hoạt động kinh tế,
duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý.
2.2.3.3 Quy luật lưu thông tiền tệ
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần phải đưa vào
lưu thông một khối lượng tiền tệ thích hợp. Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hoá
được xác định theo một quy luật gọi là quy luật lưu thông tiền tệ. Vậy quy luật lưu
thông tiền tệ là quy luật xác định số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định. 100
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Khi tiền chỉ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì số lượng tiền cần thiết
cho lưu thông được xác định bằng công thức tổng quát: P.Q M V
Trong đó M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất
định; P là mức giá cả; Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông; V là số vòng
lưu thông của đồng tiền.
Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả
hàng hóa được đưa ra thị trường và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ. Đây là
quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này có ý nghĩa chung cho mọi hình thái kinh tế - xã
hội có sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở nên
phổ biến thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
Trong đó P.Q là tổng giá cả hàng hóa; G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu; G2 là
tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán;
V là số vòng quay trung bình của tiền tệ. Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau:
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết
định. Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông tiền tệ có
quan hệ chặt chẽ với tiền - hàng, mua - bán, giá cả - tiền tệ.
Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là kinh tế tiền tệ, quyết
định cơ chế lưu thông tiền tệ. Bên cạnh đó, cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào
cơ chế xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý kim loại quý, cơ chế kinh doanh tiền của ngân
hàng…quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu làm giá hàng hoá vận động, xoay quanh
giá trị, thoát ly khỏi giá trị thì quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật giữ mối liên hệ cân
bằng giữa hàng và tiền.
2.2.3.4 Quy luật canh tranh 101
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế nói lên mối quan hệ cạnh tranh tất yếu
giữa những chủ thể trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể trong sản
xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc
tiêu dùng hàng hoá để thu nhiều lợi ích nhất cho mình. Kinh tế thị trường càng phát
triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn.
Thật vậy, mục đích của người sản xuất là thu được lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên,
mỗi người lại có điều kiện sản xuất khác nhau (khác nhau về trình độ, số lượng vốn,
nguồn nguyên liệu, thị trường, thời gian, không gian...). Để giành giật các điều kiện
thuận lợi cho mình, họ phải cạnh tranh. Hơn nữa, những điều kiện sản xuất lại luôn thay
đổi, biến động; do đó cạnh tranh lại không ngừng tiếp diễn. Vì vậy, cạnh tranh là một
hoạt động chủ yếu, tất yếu của mỗi chủ thể kinh tế trên thị trường nhằm bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của mình với mục đích tối đa hoá lợi ích, chống lại hoạt động của các đối thủ cạnh tranh.
Quan hệ cạnh tranh bao gồm cạnh tranh giữa người bán và người mua, người bán
với người bán, người mua với người mua; cạnh tranh trong nội bộ ngành, giữa các
ngành; cạnh tranh trong nước và quốc tế; cạnh tranh giữa các tổ chức có liên quan... Các
mối quan hệ cạnh tranh này có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp.
Các chủ thể cạnh tranh bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng, người mua,
người bán, người cung ứng các dịch vụ, cung ứng nguyên vật liệu, các tổ chức, các
trung gian.... Nội dung của cạnh tranh là chiếm các nguồn nguyên liệu, giành cácnguồn
lực sản xuất, khoa học kỹ thuật, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, giành nơi đầu tư, giành
hợp đồng, đơn đặt hàng...
Cạnh tranh là động lực thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ khoa học và sự phát triển lực
lượng sản xuất. Cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, thay đổi phương thức tổ chức quản lý
hiệu quả hơn, đổi mới sản phẩm… để đáp ứng nhu cầu thị trường và xã hội tốt hơn. Ở
đâu có độc quyền, thiếu cạnh tranh thì ở đó trì trệ bảo thủ, kém hiệu quả vì mất đi cơ
chế có tác dụng đào thải lạc hậu, bình tuyển tiến bộ.
Mặt trái của cạnh tranh là phân hoá người sản xuất; gây rối, phá hoại thị trường;
cạnh tranh bằng các thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm luật pháp để thu lợi cá nhân, gây tổn
hại lợi ích tập thể và xã hội. Điều này đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp để hạn chế,
ngăn chặn mặt trái của cạnh tranh.
2.2.4 Vai trò của các chủ thể tham gia thị trường. 102
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
2.2.4.1 Người sản xuất
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ
ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các
nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ... Họ là những người trực tiếp tạo ra
của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng. Sản xuất giữ vai trò quyết
định đối với tiêu dùng bởi sản xuất tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng. Quy mô và cơ cấu
sản phẩm do sản xuất tạo ra quyết định quy mô và cơ cấu tiêu dùng; chất lượng và tính
chất của sản phẩm quyết định chất lượng và phương thức tiêu dùng.
Trong nền kinh tế, người sản xuất là những người mua hoặc thuê các yếu tố đầu
vào sản xuất chủ yếu của các hộ gia đình để sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận.
Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội mà còn tạo ra và
phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa trong điều
kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan tâm đến việc lựa chọn sản
xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, tất cả những người sản xuất được gọi chung là các
doanh nghiệp. Doanh nghiệp và người tiêu dùng là hai tác nhân chủ yếu trên thị trường;
họ tương tác với nhau trên thị trường hình thành nên giá cả thị trường; qua đó hàng hóa
được trao đổi thỏa mãn cho cả người tiêu dùng và người sản xuất.
Trong nền kinh tế chỉ có doanh nghiệp và người tiêu dùng, các hoạt động kinh tế
chịu sự điều tiết bởi giá cả thị trường, mọi hoạt động diễn ra khách quan, không có sự
can thiệp của chính phủ gọi là cơ chế thị trường. Khi nhà nước tham gia vào kinh tế,
quản lý và điều tiết nền kinh tế thì gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
2.2.4.2 Người tiêu dung
Người tiêu dùng là tất cả các cá nhân, hộ gia đình; họ là những người mua hàng
hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Chi tiêu của người tiêu dùng
đại diện cho nhu cầu đối với các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Người tiêu dùng mua
với số lượng lớn thì người sản xuất bán được nhiều hàng, có thu nhập lớn và ngược lại.
Tiêu dùng tạo ra nhu cầu và là mục đích của sản xuất. Sức mua của người tiêu
dùng là yếu tố quyết định sự thành bại của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu
cầu của người tiêu dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng
trực tiếp tới sản xuất.
Người tiêu dùng là người quyết định hành vi mua sắm của mình. Mục tiêu
của họ là đạt được lợi ích tối đa trong tiêu dùng với nguồn thu nhập có hạn. Khi
đưa ra một quyết định mua sắm, người tiêu dùng có quyền được tự do tham khảo, 103
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
lựa chọn sản phẩm mình muốn mua sao cho phù hợp nhất với nhu cầu, mục đích,
theo giá cả mong muốn. Vì vậy, thông qua hành vi mua sắm, người tiêu dùng có
ảnh hưởng lớn đến giá cả thị trường của hàng hóa, dịch vụ.
Người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn tới quyết định việc sản xuất cái gì, số
lượng bao nhiêu trong nền kinh tế. Từ nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, người
sản xuất căn cứ vào đó để đưa ra sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng
ngày càng cao của người tiêu dùng. Cũng từ nhu cầu của người tiêu dùng, người
sản xuất sẽ có kế hoạch và chiến lược phát triển lâu dài phù hợp với tình hình thực
tế nhằm đạt lợi ích cao nhất.
Trên thị trường, người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng
sản xuất. Họ là người đặt hàng chủ yếu của các doanh nghiệp, các hãng sản xuất
trên thị trường. Với tư cách là người mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh
nghiệp, người tiêu dùng có thể đưa ra ý kiến góp ý chính xác về sản phẩm, dịch vụ
đang sử dụng. Tùy thuộc vào thị hiếu tiêu dùng và ý kiến thu thập được từ phía
người tiêu dùng, người sản xuất có thể điều chỉnh lại phương pháp sản xuất, hoàn
thiện sản phẩm của mình cho phù hợp nhu cầu của người tiêu dùng.
2.2.4.3 Thương nhân và các trung gian thương mại
Thương nhân là người trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng, lấy
việc mua bán hàng hóa là cơ sở để tồn tại và phát triển. Hoạt động của các thương
nhân được biểu hiện khái quát qua công thức vận động T – H – T.
Việc xuất hiện của các thương nhân là một tất yếu kinh tế do sự phát triển
của sản xuất hàng hóa và phân công lao động xã hội. Khi sản xuất và trao đổi hàng
hóa còn ở quy mô nhỏ bé, người sản xuất thường đảm nhận cả việc bán hàng hóa.
Lúc này, hàng hóa đi thẳng từ tay người sản xuất tới người tiêu dùng sau hành vi
bán của người sản xuất. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển, chức năng
mua bán hàng hóa được tách ra thành một chức năng riêng biệt, làm xuất hiện tầng
lớp thương nhân chuyên đảm nhận việc mua bán hàng hóa. Mặc dù chỉ là trung
gian giữa người sản xuất với người tiêu dùng, song thương nhân có vai trò rất quan trọng trên các mặt sau:
Sự xuất hiện của của các thương nhân giúp những người sản xuất chỉ chuyên
tâm vào sản xuất, không phải quan tâm đến khâu tiêu thụ sản phẩm nên rút ngắn
được thời gian lưu thông, tăng nhanh vòng quay của vốn. Đồng thời, năng lực sản
xuất không bị phân tán; các điều kiện về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý... được
tập trung vào sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất. 104
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Thương nhân là những người chuyên hoạt động trong lĩnh vực lưu thông nên
có điều kiện để nghiên cứu thị trường, nhu cầu khách hàng, tìm hiểu thị hiếu người
tiêu dùng, các yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm, dịch vụ đưa ra thị trường, đặc biệt
các thông tin liên qua đến cạnh tranh giữa những người sản xuất... Từ đó, cung cấp
thông tin cho người sản xuất, giúp họ mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất kịp thời theo
yêu cầu thị trường. Thương nhân hoạt động trên lĩnh vực lưu thông nên họ cũng
nắm vững tình hình thị trường, pháp luật, tập quán địa phương và các đối tác. Do
đó, họ có khả năng đẩy mạnh giao lưu buôn bán, hạn chế rủi ro, thúc đẩy hàng hóa
được phân phối nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Thương nhân chuyên trách hoạt động trong lưu thông nên có điều kiện để tiết
kiệm các chi phí phải bỏ ra trong lưu thông. Một thương nhân có thể phục vụ việc
bán hàng của nhiều nhà sản xuất khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau nên các chi
phí về quảng cáo, vận chuyển, xây dựng cửa hàng, sổ sách bán hàng, thuê nhân
viên... sẽ nhỏ hơn so với chi phí mà mỗi người sản xuất trực tiếp đảm nhận chức năng này.
Nhờ hoạt động của các trung gian thương mại, người sản xuất có thể thiết lập
được hệ thống phân phối hàng hóa đa dạng. Trên cơ sở đó, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Các trung gian thương mại cũng tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn cho người
tiêu dùng trong tiếp cận với các sản phẩm của người sản xuất thông qua hệ thống
phân phối có mặt ở mọi nơi.
Tóm lại, thương nhân và các trung gian thương mại tuy không trực tiếp tạo ra
sản phẩm hàng hóa và giá trị, song hoạt động của họ làm cho khối lượng hàng hóa
lưu thông trên thị trường tăng lên; giao lưu giữa các vùng, các khu vực và giữa các
nước được đẩy mạnh; từ đó góp phần thúc đẩy sản xuất và kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các trung gian thương mại cũng làm cho sản xuất và
tiêu dùng tách rời nhau, không có sự liên hệ trực tiếp với nhau trên thị trường. Điều
này tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối giữa sản xuất với tiêu dùng, có thể dẫn tới khủng hoảng sản xuất thừa.
2.2.4.4 Nhà nước
Trên thị trường, nhà nước vừa là người tiêu dùng lớn; đồng thời vừa là nhà
sản xuất và cung cấp chủ yếu các hàng hóa, dịch vụ công cộng cho cá nhân và xã
hội như dịch vụ quốc phòng, y tế, giáo dục, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
Mục tiêu hoạt động của nhà nước là lợi ích chung của toàn xã hội, của cả nền kinh
tế; song nhà nước không chỉ nhằm vào lợi ích kinh tế đơn thuần mà còn vì nhiều lợi
ích khác như chính trị, quốc phòng, an ninh, giáo dục... 105
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Nhà nước là tác nhân quan trọng, có vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Trong
đó, vai trò lớn nhất của nhà nước là điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công
cụ, chính sách của mình và thực hiện các chức năng cơ bản sau:
Chức năng hiệu quả: nhà nước sử dụng công cụ luật pháp nhằm đảm bảo cho
cơ chế thị trường vận hành tốt nhất, đảm bảo tự do kinh doanh, cạnh tranh bình
đẳng giữa các tác nhân kinh tế, khắc phục các yếu tố làm giảm hiệu quả của nền
kinh tế. Thực hiện chức năng này, nhà nước sử dụng các biện pháp, công cụ, chính
sách để can thiệp vào nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, khắc
phục các thất bại của thị trường, ngăn chặn các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Chức năng công bằng: nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách thuế, các
chương trình phúc lợi xã hội nhằm giảm bớt tình trạng phân phối bất bình đẳng
trong nền kinh tế do cơ chế thị trường gây ra; khắc phục những bất công trong xã
hội trên nhiều lĩnh vực; tạo điều kiện cho mọi thành viên được hưởng phúc lợi như
nhau và trợ cấp, giúp đỡ những người nghèo, hoàn cảnh khó khăn, gặp rủi ro bất trắc trong xã hội.
Chức năng ổn định: nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô
như chính sách tài khóa, tiền tệ, phân phối, chính sách kinh tế đối ngoại… nhằm
giảm bớt các biến động theo chiều hướng xấu trong nền kinh tế như thất nghiệp,
lạm phát, khủng hoảng, suy thoái… Nhà nước còn đóng vai trò chính trong củng cố
quốc phòng - an ninh, cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng, chống ô nhiễm môi
trường, phát triển giái dục... để duy trì sự phát triển ổn định, lành mạnh của nền kinh tế.
Chức năng định hướng: nhà nước định hướng cho sự phát triển nền kinh tế
và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho sản xuất, thị trường ổn
định, phát triển theo đúng mục tiêu đề ra. Nhà nước xây dựng các chiến lược và
quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế
đáp ứng các yêu cầu phát triển. Nhà nước cũng tạo ra hành lang pháp luật cho các
hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản cho hoạt động của thị
trường; đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của người sản xuất, các doanh
nghiệp. Khuôn khổ pháp luật do nhà nước thiết lập sẽ tác động, điều chỉnh hành vi
của các chủ thể kinh tế theo định hướng nhất định. 106
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 107
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 CHƯƠNG 3
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3.1 LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
3.1.1 Nguồn gốc của giá trị thặng dư
*Công thức chung của tư bản
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định, như ng
bản thân tiền không phải là tư bản, tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất
định đó là khi chúng được dùng để bóc lột lao động của người khác.
Tiền với tư cách là tiền thông thường vận động theo công thức H - T - H
(Đây là công thức lưu thông hàng hóa giản đơn)
Tiền với tư cách là tư bản vận động theo công thức
T - H - T' (T' = T + m) m là giá trị thặng dư
(Đây là công thức chung của tư bản)
So sánh công thức chung của Tư bản với công thức lưu thông hàng hóa giản đơn ta thấy
Giống nhau: Đều bao gồm hai giai đoạn mua và bán, đều bao gồm hai nhân tố tiền và hàng. Khác nhau: H- T - H T- H- T' Trình tự vận động bán trước, mua sau Mua trước bán sau Mục đích
Giá trị sử dụng của hàng giá trị nhưng không phải hóa
giá trị giản đơn mà là giá trị thặng dư Giới hạn có giới hạn Vô hạn
C.Mác gọi công thức T - H -T' là công thức chung của tư bản vì sự vận động của mọi tư
bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng tổng quát đó
* Hàng hóa sức lao động
Hàng hóa sức lao động không phải xuất hiện ngay khi có sản xuất hàng hóa.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa và là đối tượng trao đổi, mua bán trên thị 108
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
trường khi sản xuất hàng hóa phát triển đến trình độ nhất định làm xuất hiện những
điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa.
Điều kiện để sức lao động trở thành hang hóa
Thứ nhất, người lao động được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động
của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa; t
Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, hoặc
có nhưng không đầy đủ; họ buộc phải bán sức lao động để sống, để tồn tại.
Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng như
các hàng hóa khác. Giá trị hàng hóa sức lao động cũng được đo bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Để sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động, người lao động phải tiêu dùng một số lượng tư liệu sinh
hoạt nhất định. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động được đo bằng giá trị các tư
liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người lao động ở trạng thái bình thường.
Do sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của con người nên giá trị hàng
hóa sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Tức là số lượng tư liệu
sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải bao gồm cả tư
liệu sinh hoạt vật chất (lương thực, thực phẩm, quần áo…) và tư liệu sinh hoạt tinh
thần ( sách báo, giải trí, học tập…). Mặt khác cả về số lượng và cơ cấu các tư liệu
sinh hoạt không phải lúc nào và ở đâu cũng giống nhau, mà tùy thuộc hoàn cảnh
lịch sử của từng nước, từng thời kỳ; tùy thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được và
cả tập quán, điều kiện địa lý, điều kiện hình thành giai cấp công nhân…
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như các hàng hóa khác
là giá trị sử dụng cho người mua, chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao
động, tức quá trình người lao động tiến hành sản xuất. Tuy nhiên tính đặc biệt về
giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động so với giá trị sử dụng các hàng hóa khác
thể hiện ở chỗ, tiêu dùng sức lao động chính là quá trình lao động, do đó khi tiêu
dùng sức lao động sẽ tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức
lao động. Nói cách khác, hàng hóa sức lao động có khả năng tạo ra giá trị, là nguồn
gốc của giá trị. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao
động khác biệt so với các hàng hóa khác.
* Sự sản xuất giá trị thặng dư 109
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Đặc điểm của quá trình sản xuất TBCN
- Nhà tư bản sở hữu tư liệu sản xuất cho nên chỉ huy quá trình sản xuất, người
công nhân làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản, làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.
- Sản phẩm sản xuất ra thuộc quyền sở hữu của Nhà tư bản.
- Quá trình sản xuất TBCN có tính 2 mặt, một mặt sản xuất ra giá trị sử dụng mặt
khác sản xuất ra giá trị thặng dư
Ta nghiên cứu mặt thứ hai của quá trình này.
Ta lấy ví dụ về việc sản xuất sợi trong một nhà máy sản xuất sợi của CNTB.
Giả định rằng để sản xuất ra 10 kg sợi nhà tư bản phải mua 10kg bông với giá
10$. hao mòn máy móc là 2$, thuê 1 công nhân lao động một ngày với giá là 3$. Nhà tư
bản bắt công nhân làm việc 6 giờ , mỗi giờ lao động của người công nhân tạo ra một
lượng giá trị mới là 0,5$.
Ta phân tích chi phí sản xuất và giá trị của 10kg sợi như sau Chi phí sản xuất
Giá trị của 10 kg sợi - Tiền mua bông 10$
-Giá trị TLSX( lao động quá khứ) : 12$ - Hao mòn máy móc 2$
-Giá trị mới: 0,5 x 6 giờ = 3$ - Tiền công 3$
Tổng chi phí sản xuất: 15$
Tổng giá trị hàng hóa; 15$
Nhà tư bản mang 10 kg sợi ra thị trường bán đúng giá trị thu được 15 $ đủ bù đắp
lại chi phí sản xuất, không thu được giá trị thặng dư m= 0. tiền chưa biến thành tư bản
Nhưng nhà TB không dừng lại ở đó, nhà tư bản đã thuê công nhân 1 ngày thì có
quyền sử dụng cả ngày. tâ phân tích trường hợp thứ hai. Nếu nhà tư bản bắt công nhân
làm việc 12 giờ 1 ngày, sản xuất ra 20 kg sợi.
Giá định rằng các định mức khác là không đổi, ta phân tích chi phí sản xuất và
giá trị của 20kg sợi như sau. Chi phí sản xuất
Giá trị của 10 kg sợi 110
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 - Tiền mua bông 20$
-Giá trị TLSX( lao động quá khứ) : 24$ - Hao mòn máy móc 4$
-Giá trị mới: 0,5 x 12 giờ = 6$ - Tiền công 3$
Tổng chi phí sản xuất: 27$
Tổng giá trị hàng hóa: 30$
Nhà tư bản mang 20kg sợi ra thị trường bán đúng giá trị thu được 30$, bù đắp lại
chi phí sản xuất và thu được giá trị thặng dư là 3$ (m=3$). Tiền đã biến thành tư bản.
Từ sự nghiên cứu trên ta rút ra những kết luận sau:
Thứ nhất; Phân tích giá trị của 20kg sợi ta thấy; giá trị cũ 24$ được lao động cụ
thể của người công nhân bảo tồn và chuyển vào sản phẩm mới, giá trị mới 6$ do lao
động trừu tượng của người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
Thứ hai: Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị kéo dài
quá "một điểm nhất định". Nếu chỉ kéo dài đến điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao động
thì chỉ là sản xuất giá trị giản đơn, còn kéo dài quá điểm đó mới là sản xuất giá trị thặng dư.
Thứ ba: Ngày lao động của người công nhân được chia làm 2 phần: thời gian lao
động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Thời gian lao động cần thiết là thời gian
sản xuất ra một lượng giá trị mới đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ đầu), thời gian
lao động thặng dư là thời gian tạo ra giá trị thặng dư (6 giờ sau).
Vậy, Giá trị thặng dư là một phần của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do lao động của người công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
* Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản bất biến (c)
Khái niệm: Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất, khi tham gia vào quá
trình sản xuất giá trị của nó được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là không có sự
biến đổi về lượng gọi là tư bản bất biến.
Tư bản bất biến bao gồm: Máy móc và nguyên vật liệu
Ví dụ: tiền bông 20$, khấu hao máy móc 4$. Tổng tư bản bất biến là 24$ 111
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Như vậy; tư bản bất biến đóng vai trò là điều kiện cần thiết trong quá trình sản
xuất giá trị thặng dư (C.Mác ví nó như chiếc bình cổ cong trong phản ứng hóa học, nó
không tham gia vào phản ứng nhưng nếu thiếu nó thì phản ứng không thể thức hiện được).
- Tư bản khả biến (v)
Khái niệm: Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra nhưng
thông qua lao động trừu tượng của người công nhân làm thuê mà tăng lên tức là có sự
biến đổi về lượng gọi là tư bản khả biến.
Tư bản khả đóng vai trò quyết định sản xuất ra giá trị thặng dư, là điều kiện
không thể thiếu để sản xuất giá trị thặng dư.
C.Mác phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch rõ bản
chất bóc lột của CNTB. Chỉ có lao động làm thuê của công nhân mới tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. * Tiền công
Công nhân sau một khoảng thời gian lao động cho nhà tư bản hoặc sau khi hoàn
thành xong một công việc nào đó thì nhận được một số tiền công. Điều này đã dẫn đến
một sự nhầm lẫn cho rằng tiền công là giá cả của lao động.
C.Mác đã chứng minh, tiền công không phải là giá cả của lao động, lao động không phải là hàng hóa. Chứng minh
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được vật hóa thành các vật có hình
thức cụ thể. Điều kiện đê lao động được vật hóa là phải có TLSX, nếu người lao động
có TLSX thì người lao động sẽ sản xuất ra hàng hóa để bán chứ không bán lao động.
Thứ hai, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải có giá trị, mà thước đo nội tại của
giá trị là lao động, vậy lao động lại được đo bằng lao động thì đây là một điều luẩn quẩn vô nghĩa.
Thứ ba, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được trao đổi ngang giá mà nếu trao
đổi ngang giá thì nhà tư bản không thu được giá trị thặng dư điều này phủ nhận quy luật 112
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
giá trị thặng dư và CNTB không tồn tại, còn nếu trao đổi không ngang giá thì phủ nhận quy luật giá trị.
Như vậy lao động không phải là hàng hóa, chỉ có sức lao động mới là hàng hóa.
Tiền công chính là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, hay tiền công
là giá cả của hàng hóa sức lao động
Các hình thức cơ bản của tiền công
- Tiền công tính theo thời gian
- Tiền công tính theo sản phẩm
Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động,
nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hoá thành tiền công thực tế.
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tiêu dùng
và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm
xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá sức lao động trên thị
trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá
cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên. Tuần hoàn của tư bản
Tư bản luôn luôn vận động và lớn lên không ngừng, sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn sau:
* Giai đoạn thứ nhất :(giai đoạn lưu thông)
Giai đoạn chuẩn bị các yếu tố sản xuất SLĐ T - H TLSX 113
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng của nó
là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, kết thúc giai đoạn này tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
* Giai đoạn thứ hai: (giai đoạn sản xuất)
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất, chức năng
của nó là sản xuất ra giá trị và giá trị thặng dư. Kết thúc giai đoạn này tư bản sản
xuất biến thành tư bản hàng hóa. SLĐ H …SX…H' TLSX
* Giai đoạn thứ ba: (giai đoạn lưu thông)
Công thức vận động của tư bản ở giai đoạn thứ ba biểu thị theo sơ đồ H’ - T’.
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, thực hiện chức
năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm
một lượng giá trị thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách
là người bán hàng. Hàng hoá của nhà tư bản được chuyển hoá thành tiền.
Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá chuyển thành tư bản tiền tệ. Đến đây,
mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban đầu trong
tay chủ của nó, nhưng với số lượng lớn hơn trước. Số tiền bán hàng hoá đó, nhà tư bản
lại đem dùng vào việc mua bán tư liệu sản xuất và sức lao động cần thiết để tiếp tục sản
xuất và toàn bộ quá trình trên được lặp lại.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản công nghiệp trong cả ba giai đoạn ta có sơ đồ SLĐ T - …SX…H' - T' H TLSX 114
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn,
lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại
quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
* Chu chuyển của tư bản
Sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới, và thường
xuyên lặp đi lặp lại thì gọi là chu chuyển của tư bản.
* Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra
dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất, hàng hóa) cho đến khi nó trở về tay
nhà tư bản cũng dưới hình thức như thế, nhưng có thêm giá trị thặng dư. Nói cách
khác, thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần hoàn gọi là thời gian chu chuyển của tư bản. TGcc = TGsx + TGlt
Trong đó: TGsx = TGlđ + TGgđ + TGdt
Trong đó, thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản
xuất gồm thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra sản phẩm; đây là thời kỳ hữu ích nhất vì nó tạo ra giá trị hàng hóa. Thời gian gián
đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động hoặc bán thành phẩm chịu sự tác động
của quá trình tự nhiên, mà không cần lao động của con người tác động vào như thời gian
để cây lúa tự lớn lên, rượu ủ lên men, gạch mộc phơi cho khô…Thời gian dự trữ sản
xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về sẵn sàng tham gia vào quá trình sản
xuất, nhưng chưa được đưa vào sản xuất. Sự dự trữ đó là điều kiện cho quá trình sản
xuất liên tục; quy mô dự trữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm của ngành, tình
hình thị trường, năng lực tổ chức quản lý sản xuất… Cả thời gian gián đoạn lao động và 115
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo ra giá trị sản phẩm. Vì vậy, việc rút ngắn thời
gian này có tác dụng quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời gian
lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hoá. Thời gian lưu thông dài hay
ngắn là do các nhân tố sau đây quy định: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu
hay tốt, trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải v.v.
* Tốc độ chu chuyển của tư bản
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần (vòng) chu chuyển của tư bản trong một CH n=
năm. Công thức tính số vòng chu chuyển của tư bản là ch trong đó n là số lần
(hay lần) chu chuyển của tư bản trong một năm, CH là thời gian tư bản vận động trong
một năm (360 ngày hoặc 12 tháng), ch là thời gian chu chuyển của một vòng của một tư
bản nhất định (thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản).
Ví dụ: Một tư bản có thời gian chu chuyển một vòng là 4 tháng, số vòng chu
chuyển trong một năm của tư bản đó là 12 tháng thì n = 3 vòng/năm.
3.1.2 Bản chất của giá trị thặng dư
Để hiểu sâu hơn bản chất của giá trị thặng dư, C.mác đã làm rõ 2 phạm trù tỷ suất
giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
+ Tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư với tư
bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó m m' = 100% v
Ví dụ: m= 3$, v =3$ ta có m' = 100% 116
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh chính xác trình độ bóc lột của tư bản đối với lao động.
Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong một ngày lao động của công nhân phần lao
động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so
với thời gian lao động tất yếu. Do đó ta có thể tính tỷ suất giá trị thặng dư theo công thức sau
Thời gian lao động thặng dư m' = 100%
Thời gian lao động cần thiết
+ Khối lượng giá trị thặng dư
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư với tư bản khả
biến đã được sử dụng M = m' x V
Vi dụ; m= 3$, m' =100% ta có M = 3x 100% = 3$
khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của tư bản đối với lao động.
3.1.3 Các phương pháp sản xuất giá tri thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
*Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Khái niệm: Là phương pháp kéo dài ngày lao động một cách tuyệt đối vượt quá
thời gian lao động cần thiết trong điều kiện năng suất lao động không đổi, thời gian lao
động cần thiết không đổi.
Ví dụ; Ngày lao động là 8 giờ,
+ Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ,
+ Thời gian lao động thặng dư 4 giờ
Ta có tỷ suất giá trị thặng dư 4 117
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 m' = 100% = 100% 4
Nếu ngày lao động được kéo dài ra 12 giờ, thời gian lao động cần thiết
không đổi, ngày lao động sẽ đươch chia như sau:
+ Thời gian lao động cần thiết: 4 giờ
+ Thời gian lao động thặng dư: 8 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư: 200% Trong phương pháp này
Những nhân tố cố định
+ Năng suất lao động không đổi
+ Thời gian lao động cần thiết không đổi
Những nhân tố biến đổi
+ Ngày lao động được kéo dài ra (cường độ lao động tăng lên)
+ Thời gian lao động thặng dư tăng lên
+ Tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên
+ Làm kiệt quệ sức lao động của công nhân
Phương pháp này được áp dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản
xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, năng suất lao động xã hội thấp.
Tuy nhiên, phương pháp này gặp phải giới hạn
+ Thời gian lao động cần thiết ≤ Ngày lao động ≤ 24 giờ.
+ Phong trào đấu tranh của công nhân.
Vậy, giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động một cách tuyệt đối vượt quá thời gian lao động cần thiết.
Khi sản xuất TBCN phát triển, năng suất lao động xã hội tăng, các nhà tư bản
chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Đó là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. 118
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
* Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khái niệm: Là phương pháp rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều
kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ
+ Thời gian lao động cần thiết: 4 giờ
+ Thời gian lao động thặng dư: 4 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư m'= 100%
Nêu năng suất lao động tăng lên gấp đôi Ngày lao động 8 giờ
+ Thời gian lao động cần thiết: 2 giờ
+ Thời gian lao động thặng dư: 6 giờ
Tỷ suất giá trị thặng dư là m'= 300% Trong phương pháp này
Những nhân tố cố định
+ Ngày lao động không đổi
+ Cường độ lao động không đổi
Nhân tố biến đổi
+Năng suất lao động tăng lên
+ Thời gian lao động cần thiết giảm xuống
+Thời gian lao động thặng dư tăng lên.
+ Tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
+ Sức lao động được giảm nhẹ
Vậy, Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian
lao động cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. 119
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết phải giảm giá trị sức lao động. Muốn
hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết của công
nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu
tiêu dùng hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.
ý nghĩa của việc nghiên cứu hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
Đối với nước ta hiện nay, do trình độ phát triển của LLSX còn thấp kém, máy
móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động xã hội thấp, cần phải tăng cường độ
lao động bằng cách kéo dài ngày lao động, dể sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm
thặng dư cho xã hội. Nhưng về lâu dài cần phải phát triển khoa học- kỹ thuật để tăng
năng suất lao động xã hội.......
3.2 TÍCH LŨY TƯ BẢN
3.2.1 Bản chất của tích lũy tư bản
Tái sản xuất quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại liên tục không ngừng. Tái sản
xuất giản đơn là tái sản xuất được lặm đi lặp lại với quy mô năm sau giống quy mô năm trước.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại với quy mô nă sau
lớn hơn quy mô năm trước.
Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng.
*Tái sản xuất giản đơn
Ví dụ: Tư bản ứng trước là 1000 (trong đó 800c và 200v) m’ =100% Ta có:
Quy mô sản xuất năm thứ 1 là 800c +200v + 200m =1200
Toàn bộ 200m giá trị thặng dư tiêu dùng hết cho nên
Quy mô sản xuất năm thứ 2 là 800c +200v +200m = 1200
Ví dụ về tái sản xuất mở rộng
Ví dụ: Tư bản úng trước 1000 ( trong đó 800c và 200v) m’ =100% 120
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Quy mô sản xuất năm thứ 1: 800c +200v +200m =1200
200m được chia thành 2 quỹ (100m1 để tích lũy và 100m2 để tiêu dùng) 100m1 lại
được chia thành 80c và 20v)
- Quy mô sản xuất năm thứ 2: 880c + 220v + 220m = 1320
(220m chia làm 2 phần 110m1 tích lũy và 110m2 tiêu dùng), 110m1 lại được chia thành 85c và 25v
-Quy mô sản xuất năm 3: 965c + 245v +245m
Như vậy, quy mô tư bản ứng trước là 1000, năm thứ hai đã tăng lên 1100, năm
thứ 3 tăng lên 1210, quá trình đó cứ tiếp diễn cho đến năm thứ n quy mô tư bản là rất lớn.
Như vậy, thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị
thặng dư thành tư bản hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
3.2.2 Những nhân tố góp phần làm tang quy mô tích tũy
Thứ nhất: nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư
Thứ hai, nâng cao năng suất lao động
Thứ ba, Sử dụng hiệu quả máy móc
Thứ tư, lượng tư bản ứng trước
3.2.3 Một số hệ quả của tích lũy tư bản
Thứ nhất, Tích lũy tư bản làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên
Cáu tạo hữu cơ của tư bản gồm 2 mặt vất chất và mặt giá trị.
- Cấu tạo kỹ thuật của tư bản: là quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và
số lượng sức lao động để sử dụng tư liệu sản xuất nói trên.
Để biểu thị cấu tạo kỹ thuật của tư bản, người ta thường dùng các chỉ tiêu như số
năng lượng hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất, ví dụ
100kw điện/1công nhân, 10máy dệt/1 công nhân. 121
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Điều đó biểu thị ở số lượng tư liệu sản xuất mà một công nhân sử dụng ngày càng tăng lên.
- Cấu tạo giá trị của tư bản: là quan hệ tỷ lệ giữa số lượng giá trị các tư liệu
sản xuất và giá trị sức lao động để tiến hành sản xuất (C/V).
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói
chung, những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi
trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu thị mối quan hệ này Mac dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản: là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật
của tư bản quyết định và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày
càng tăng, kéo theo sự tăng lên của cấu tạo giá trị, nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng
ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ biểu hiện ở chỗ tư bản bất biến tăng
tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống
một cách tương đối. Sự giảm xuống một cách tương đối của tư bản khả biến cũng sẽ làm
cho cầu về sức lao động giảm một cách tương đối. Vì vậy, một số công nhân lâm vào
tình trạng bị thất nghiệp.
Thực tế thì trong quá trình tích lũy tư bản, cũng có khi quy mô sản xuất được mở
rộng, thu hút thêm công nhân, nhưng cũng có khi thì giãn thải bớt công nhân. Tuy nhiên,
sự thu hút và giãn thải đó không khớp với nhau về không gian và thời gian và về quy
mô, do đó trên phạm vi toàn xã hội luôn luôn tồn tại một bộ phận công nhân bị thất nghiệp.
Thứ hai, Tích lũy tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản
Tích tụ tư bản là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư
Ví dụ: Tư bản úng trước 1000 ( trong đó 800c và 200v) m’ =100%
- Quy mô sản xuất năm thứ 1: 800c +200v +200m =1200 122
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
200m được chia thành 2 quỹ (100m1 để tích lũy và 100m2 để tiêu dùng) 100m1 lại
được chia thành 80c và 20v)
- Quy mô sản xuất năm thứ 2: 880c + 220v + 220m = 1320
(220m chia làm 2 phần 110m1 tích lũy và 110m2 tiêu dùng), 110m1 lại được chia thành 85c và 25v
-Quy mô sản xuất năm 3: 965c + 245v +245m
Như vậy, quy mô tư bản ứng trước là 1000, năm thứ hai đã tăng lên 1100, năm
thứ 3 tăng lên 1210, quá trình đó cứ tiếp diễn cho đến năm thứ n quy mô tư bản là rất lớn.
Tập trung tư bản là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách kết hợp nhiều tư bản cá biệt nhỏ.
Sự kết hợp này có thể do cạnh tranh dẫn đến phá sản và thôn tính lẫn nhau hoặc
có thể do các nhà tư bản tự nguyện kết hợp lại với nhau
Thứ ba, Quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của người lao động
3.3 CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 3.3.1 Lợi nhuận
Để làm rõ bản chất của lợi nhuận. C.Mác bắt đầu phân tích làm rõ chi phí sản xuất
* Chi phí sản xuất TBCN (k)
Đứng về mặt xã hội mà nói, để sản xuất ra hàng hóa xã hội phải hao phí
+ Lao động quá khứ, biểu hiện dưới hình thái giá trị tư liệu sản xuất (Giá trị cũ) ký hiệu là c
+ Lao động sổng, biểu hiện dưới hình thái giá trị mới ký kiệu là (v + m).
Ta có chi phí thực tế để sản xuất ra hàng hóa. Gi = c + v + m 123
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Nhưng đối với nhà tư bản, để sản xuất ra hàng hóa họ chỉ cần ứng tư bản tiền tệ ra
để mua tư liệu sản xuất (c) và thuê công nhân (v) là có thể tiến hành sản xuất ra hàng
hóa. Do đó ta có khái niệm chi phí sản xuất TBCN (k)
Chi phí sản xuất TBCN là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng
hóa bao gồm tư bản bất biến và tư bản khả biến. k= c +v
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuát TBCN thì công thức giá trị hàng hóa được viết thành Gi = k+ m
Phân biệt chi phí thực tế để sản xuất hàng hóa với chi phí sản xuất TBCN Xét về mặt chất
- Chi phí thực tế để sản xuất ra hàng hóa là chi phí về lao động
- Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản
Xét về mặt lượng
Chi phí sản xuát TBCN (k) < Chi phí thức tế để sản xuất ra hàng hóa. Chú ý
Phân biệt chi phí sản xuất TBCN với tư bản ứng trước
Giống nhau: Đều là những chi phí về tư bản (Tiền tệ) Khác nhau
Tư bản ứng trước
Chi phí sản xuất TBCN (k)
Là toàn bộ chi phí mà nhà tư bản ứng Chỉ tính những chi phí trong một chu
ra để sản xuất và kinh doanh hàng hóa kỳ sản xuất
bao gồm tư bản cố định và tư bản lưu
động. Tư bản cố định tham gia hoàn
toàn vào quá trình sản xuất nhưng giá 124
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
trị không chuyển hết một lần mà
chuyển dần vào sản phẩm trong nhiều chu kỳ sản xuất
C.Mac đã đồng nhất k = c + v vì C.Mác giả định tư bản cố định khấu hao hết một
lần vào sản phẩm (Đây là phương pháp trừu tượng hóa khoa học).
*Lợi nhuận(P)
Do chi phí sản xuất TBCN nhỏ hơn chi phí thực tế để sản xuất hàng hóa cho nên
sau khi bán hàng hóa xong nhà tư bản thu được một số tiền dôi ra ngoài chi phí sản xuất,
họ mang số tiền đó so với tổng tư bản ứng trước và gọi là lợi nhuận.
Giá trị thặng dư khi được so với tổng tư bản ứng trước thì mang hình thức biến tướng là lợi nhuận.
Sau khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận công thức giá trị hàng hóa được viết thành Gi= k +P
Phân biệt phạm trù lợi nhuận với phạm trù giá trị thặng dư Xét về mặt chất:
- Phạm trù giá trị thặng dư do tư bản khả biến (v) sinh ra
- Phạm trù lợi nhuận lợi nhuận được quan niệm là o tổng tư bản ứng trước sinh ra.
Như vậy phạm trù lợi nhuận đã che đậy bản chất bóc lột TBCN
Xét về mặt lượng
Nếu giá cả hàng hóa = giá trị hàng hóa thì P = m
Nếu giá cả hàng hóa > giá trị hàng hóa thì P> m
Nếu giá cả hàng hóa < giá trị hàng hóa thì P < m
* Tỷ suất lợi nhuận (P') 125
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư với
tổng tư bản ứng trước. m P' = 100% c + v
Phân biệt phạm trù tỷ suất giá trị trặng dư với phạm trù tỷ suất lợi nhuận Xét về mặt chất
- Tỷ suất giá trị thặng dư (m') phản ánh chính xác trình độ bóc lột của tư bản đối với lao động.
- Tỷ suất lợi nhuận phản ánh hiệu quả của việc đầu tư
"Các nhà tư bản ghét cay ghét đắng tình trạng sản xuất mà không có lợi nhuận,
chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không. Lợi nhuận mà đảm bảo 10% thì các nhà
tư bản có thể sử dụng tư bản ở khắp mọi nơi, đảm bảo 30% thì nó can đảm lên, đảm
bảo 100% thì nó hăng máu lên đảm bảo 300% thì nó táo bạo không biết sợ là gì, thâm
chí treo cổ nó cũng làm" C.Mác
Xét về mặt lượng
Tỷ suất lợi nhuận (P') > tỷ suất giá trị thặng dư (m')
* Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
-Tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
-Cấu tạo hữu cơ cua tư bản
Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi nếu cấu tạo hữu cơ của tư bản
càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại. 126
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
-Tốc độ chu chuyển của tư bản
Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng
dư trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều lần, giá trị thặng dư theo đó mà tăng lên
làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng tăng.
-Tiết kiệm tư bản bất biến
Nếu tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi thì nếu tiết kiệm tư bản
khả biến sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận tăng lên.
* Lợi nhuận bình quân
Lợi nhuận bình quân được hình thành do cạnh tranh giữa các ngành
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành khác nhau.
Mục đích: Tìm nơi đầu ư có nhiều lợi nhuận
Biện pháp cạnh tranh: Tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác.
(Điều kiện giao thông vận tải và quan hệ tín dung phát triển).
Kết quả: hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân. Ví dụ
Giả sử có 3 ngành sản xuất khác nhau, tư bản ở cả ba ngành đều bằng 100, tỷ suất
giá trị thặng dư đều là 100%, tốc độ chu chuyển tư bản ở các ngành đều như nhau, chỉ
có cấu tạo hưu cơ của tư bản ở mỗi ngành là khác nhau. Ngành Tư bản m P' P' P Da 70c +30v 30 30% 20% 20 Dệt 80c +20v 20 20% 20% 20 Cơ khí 90c + 10v 10 10 20% 20 Tổng 300 60 60 127
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Các nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản đầu tư vào ngành da là ngành
có tỷ suất lợi nhuận cao nhất (30%).
làm cho quy mô sản xuất ngành da tăng lên, cung về sản phẩm da tăng lên, giá cả
giảm xuống, lợi nhuận giảm và tỷ suất lợi nhuận giảm.
Ngược lại ở ngành cơ khí do có một số nhà tư bản đã di chuyển tư bản sang
ngành da làm cho quy mô sản xuất ngành cơ khí giảm xuống, cung về sản phẩm cơ khí
giám xuống, giá cả giảm, lợi nhuận giảm và tỷ suất lợi nhuận giảm.
quá trình dao động trên đã dễn đến hiện tượng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận
chung cho các ngành gọi là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng
dư của xã hội chia cho tổng tư bản xã hội.
∑Giá trị thặng dư của xã hội P' = 100% ∑ tư bản xã hội 60 P' = 100% = 20% 300
Các nhà tư bản ở các ngành khác nhau sẽ thu được lợi nhuận căn cứ vào tỷ suất
lợi nhuận bình quân gọi là lợi nhuận bình quân. P = P' x Tư bản đầu tư P = 20% x 100 = 20
Sau khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì cạnh
tranh giữa các ngành vẫn tiếp diễn vì vần còn tồn tai cạnh tranh nội bộ ngành (vì mục 128
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
đích theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch) làm cho tỷ suất lợi nhuận của mỗi ngành thay đổi,
lại dẫn đến cạnh tranh giữa các ngành.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân không phủ nhận
quy luật giá trị thặng dư mà chỉ là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong
giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh.
quá trình dao động trên đã dễn đến hiện tượng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận
chung cho các ngành gọi là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng
dư của xã hội chia cho tổng tư bản xã hội.
∑Giá trị thặng dư của xã hội P' = 100% ∑ tư bản xã hội 60 P' = 100% = 20% 300
Các nhà tư bản ở các ngành khác nhau sẽ thu được lợi nhuận căn cứ vào tỷ suất
lợi nhuận bình quân gọi là lợi nhuận bình quân. P = P' x Tư bản đầu tư P = 20% x 100 = 20
Sau khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì cạnh
tranh giữa các ngành vẫn tiếp diễn vì vần còn tồn tai cạnh tranh nội bộ ngành (vì mục
đích theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch) làm cho tỷ suất lợi nhuận của mỗi ngành thay đổi,
lại dẫn đến cạnh tranh giữa các ngành. 129
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân không phủ nhận
quy luật giá trị thặng dư mà chỉ là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong
giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh.
* Lợi nhuận thương nghiệp
Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư mà các nhà tư bản công
nghiệp bóc lột được trong sản xuất nhường cho nhà tư bản thương nghiệp, khi các
nhà tư bản thương nghiệp đảm nhận việc lưu thông hàng hóa.
Một nhà tư bản có quy mô tư bản 900
Trong đó : 720c và 180v, m’ =100%
Sản xuất ra hàng hóa có giá trị
Gi = 720c + 180v + 180m = 1080
Tỷ suất lợi nhuận P’ = 20%
Nếu nhà tư bản thương nghiệp ứng ra 100 để đảm nhận việc lưu thông hàng hóa.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân ¯P = (180 / 100) 100% = 18%.
Sự phân chia giá trị thặng dư giữa hai nhà tư bản như sau
Phần của nhà tư bản công nghiệp 18% x 900 = 162m
Phần của nhà tư bản thương nghiêp 18% x 100 =18m
Nhà tư bản công nghiệp bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp với giá 720c +180v + 162 m = 1062
Nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa trên thị trường với giá 720c +180v + 180m =1080
Lợi nhuận thương nghiệp la 1080- 1062 =18 3.3.2 Lợi tức 130
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Bản chất của tư bản cho vay
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra.
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, thường
xuyên có một bộ phận tư bản tiền tệ ở trạng thái nhàn rỗi. Ví dụ: tiền trong quĩ khấu
hao nhưng chưa đến kỳ đổi mới hoặc sửa chũa lớn tư bản cố định, tiền mua nguyen
nhiên vật liệu nhưng chưa đến kỳ hạn mua, quĩ tiền lương để trả công nhân nhưng
chưa đến kỳ phải trả, phần giá trị thặng dư dùng để tích lũy mở rộng sản xuất nhưng chưa có cơ hội…
Trong khi đó lại có những nhà tư bản cần tiền để sản xuất, kinh doanh
Từ đó nảy sinh quan hệ cung - cầu về tư bản tiền tệ và xuất hiện quan hệ vay
mượn lẫn nhau, trong đó bên cung về tư bản tiền tệ chính là bên cho vay, còn bên cầu
về tư bản tiền tệ chính là bên đi vay.
Vậy: Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một
người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó. Số lời đó
gọi là lợi tức. Ký hiệu ( z )
Đặc điểm của tư bản cho vay
• Quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng
• Công thức vận động: T- T’ (T’ = T + ∆t)
• Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt
• Tư bản cho vay là một loại tư bản được sùng bái nhất
* Lợi tức và tỷ suất lợi tức
- Lợi tức cho vay( z ) là một phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh
doanh bằng tiền đi vay bóc lột được trong sản xuất phải trả cho nhà tư bản cho vay.
Vì là một phần của lợi nhuận bình quân, nên thông thường, giới hạn của lợi tức
phải ở trong khoảng: 0 ‹ z ‹ P 131
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Tỷ xuất lợi tức: Là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được và số tư bản cho
vay trong một thời gian nhất định. z’ = × 100%
Tỷ suất lợi tức vận động trong giới hạn: 0 < z' < ¯P ’
Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi tức:
- Tỉ suất lợi nhuận bình quân. Do giới hạn của tỷ suất lợi tức : : 0 < z’ < ¯p ’,
nên ¯p ’cao thì z’ cũng cao và ngược lại
Giới hạn tối đa của tỷ suất lợi tức: z’ < (=) ¯P ’
- Quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay. Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tổng tư bản
cho vay. Tổng tư bản cho vay lớn, tức cung tư bản cho vay lớn nhưng cầu tư bản cho
vay nhỏ, thì tỷ suất lợi tức thấp, và ngược lại
- Phụ thuộc vào sự thỏa thuận trực tiếp giữa người cho vay và người đi vay, vào
tục lệ xã hội, tức là phụ thuộc vào sự phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và lợi nhuận doanh nghiệp.
3.3.3 Địa tô tư bản chủ nghĩa
Địa tô TBCN là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ lợi nhuận bình
quân của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp và phải nộp cho địa
- Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa + Địa tô chênh lệch:
Sự hình thành giá cả ruộng đất và lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp khác với trong công nghiệp. 132
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Do nông nghiệp ruộng đất thì có hạn và không sản xuất ra được, trong khi đó dân
số lại tăng nhanh, vì vậy, để đáp ứng nhu cầu nông sản cho xã hội phải canh tác cả trên
ruộng đất xấu nhất. Các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu nhất phải thu được lợi
nhuận bình quân (nếu không họ sẽ chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác), vì vậy giá cả
sản xuất trong nông nghiệp (còn gọi là giá cả sản xuất chung) do ruộng đất xấu quyết
định. Do đó, các nhà tư bản sản xuất trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn
sẽ có giá cả sản xuất cá biệt thấp hơn nên họ thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Trong nông nghiệp không có tự do cạnh tranh do độc quyền sử dụng ruộng đất và
độc quyền sở hữu ruộng đất ngăn cản. Vì vậy, các nhà tư bản khác không thể đầu tư tư
bản trên mảnh ruộng đó để thu lợi nhuận siêu ngạch. Do đó, lợi nhuận siêu ngạch trong
nông nghiệp tồn tại lâu dài, tương đối ổn định và chuyển thành địa tô chênh lệch. (Còn
trong công nghiệp sự tồn tại của lợi nhuận siêu ngạch chỉ là hiện tượng tạm thời đối với từng tư bản cá biệt).
Như vậy, địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình
quân thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch
giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu
nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.
Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc địa tô chênh
lệch là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Địa tô chênh lệch
gắn liền với độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối TBCN, đó là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch.
Địa tô chênh lệch có hai loại là địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II.
- Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự
nhiên thuận lợi. Chẳng hạn, có độ màu mỡ tự nhiên trung bình, tốt và có vị trí gần nơi
tiêu thụ hay gần đường giao thông.
Ví dụ 1, địa tô chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên
trung bình và tốt (giả sử có ba thửa ruộng tương ứng với ba mức độ màu mỡ khác nhau: 133
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
tốt, trung bình, xấu; tư bản đầu tư trên ba thửa này đều bằng 100 và p’ = 20% nhưng do
khác nhau về độ màu mỡ của đất đai nên sản lượng thu được trên ba thửa này khác nhau). Giá cả sản xuất cá Giá cả sản xuất biệt chung Loại Tư ¯p Sản Địa tô ruộng bản lượn của tổng của 1 của 1 của tổng chênh đầu tư g sản tạ tạ sản phẩm lệch (tạ) phẩm Tốt 100 20 6 120 20 30 180 60 Trung 100 20 5 120 24 30 150 30 bình Xấu 100 20 4 120 30 30 120 0
Ví dụ 2, địa tô chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có vị trí thuận lợi như
gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông. Tổng Giá cả Giá cả sản xuất giá cả sản chung Vị trí Tư Sản Chi Địa sản xuất cá ruộng bản lượn phí của của tổng tô ¯p xuất biệt của đầu g vận 1 tạ sản chên cá biệt 1 tạ tư chuyể phẩm h (tạ) n lệch Gần 100 20 5 0 120 24 27 135 15 Xa 100 20 5 15 135 27 27 135 0
- Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu được nhờ thâm canh, là kết quả của đầu tư
thêm tư bản trên cùng đơn vị diện tích để nâng cao chất lượng canh tác của đất, nhằm
tăng độ màu mỡ trên thửa ruộng đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích. Cần
chú ý rằng, năng suất của lần đầu tư thêm phải lớn hơn năng suất của lần đầu tư trên
ruộng xấu, thì mới có lợi nhuận siêu ngạch. Tư Giá cả sản xuất Giá cả sản xuất bản cá biệt chung 134
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 Lần đầu ¯p Sản tổng sản 1 tạ 1 tạ tổng sản Địa tô chênh đầu tư tư lượng lượng lượng lệch II (tạ) Lần1 100 20 4 120 30 30 120 0 Lần2 100 20 6 120 20 30 180 60 Lần3 100 20 8 120 15 30 240 120
Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại thuộc
nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chỉ đến khi hết thời hạn hợp đồng, địa chủ mới tìm
cách nâng giá cho thuê ruộng đất, tức là biến lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh
đem lại thành địa tô chênh lệch I để hưởng thành quả của việc thâm canh. Tình trạng
này dẫn đến mâu thuẫn: nhà tư bản thuê đất muốn kéo dài thời hạn thuê, còn địa chủ lại
muốn rút ngắn thời hạn cho thuê. Do đó, trong thời gian thuê đất, nhà tư bản tìm mọi
cách quay vòng, tận dụng, vắt kiệt độ màu mỡ đất đai.
+ Địa tô tuyệt đối là loại địa tô thu được trên mọi thứ đất, địa tô mà tất cả các chủ
ruộng đều thu được, dù ruộng đất đó tốt hay xấu, ở gần hay xa.
Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp
hơn trong công nghiệp. Còn nguyên nhân tồn tại địa tô tuyệt đối là do chế độ độc quyền
sở hữu ruộng đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh giữa các ngành để hình
thành lợi nhuận bình quân.
Ví dụ, có hai tư bản trong nông nghiệp và trong công nghiệp đều là 100, cấu tạo
hữu cơ trong nông nghiệp là 3/2, cấu tạo hữu cơ trong công nghiệp là 4/1. Giả sử
m’=100%, thì giá trị sản phẩm, giá trị thặng dư sản xuất ra và tỷ suất lợi nhuận trong từng lĩnh vực sẽ là:
Trong công nghiệp: 80c + 20v + 20m = 120; p’= 20%;
Trong nông nghiệp: 60c + 40v + 40m = 140; p’ = 40%.
Giá trị thặng dư dôi ra trong nông nghiệp so với trong công nghiệp là 20m và tỷ suất
lợi nhuận trong nông nghiệp cao hơn trong công nghiệp (40%>20%). Song, do chế độ 135
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
độc quyền tư hữu ruộng đã ngăn cản các nhà tư bản đầu tư vào nông nghiệp nên không
diễn ra quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận giữa nông nghiệp và các ngành khác.
Số chênh lệch 20m này không bị bình quân hóa mà chuyển hóa thành địa tô tuyệt đối.
Vậy, địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo
hữu cơ của tư bản trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và giá
cả sản xuất chung của nông phẩm.
Phân biệt địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối
Điểm giống nhau: về thực chất, địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối đều là lợi
nhuận siêu ngạch, đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, đều là kết quả của sự chiếm
đoạt lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê.
Điểm khác nhau: độc quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa là
nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch, còn độc quyền tư hữu về ruộng đất là nguyên
nhân sinh ra địa tô tuyệt đối. Địa tô tuyệt đối tham gia hình thành giá trị nông sản, địa tô
chênh lệch không tham gia vào việc hình thành giá trị nông sản. 136
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 CHƯƠNG 4
CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
4. 1 Quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường Một số khái niệm
Cạnh tranh là sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hóa tư nhân nhằm
giành giật lấy điều kiện sản xuất và tiêu thụ hoàng hóa thuận lợi nhất để thu lợi nhuận tối đa.
Có 2 loại cạnh tranh là cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành
Trong nền kinh tế thị trường dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư đã thúc đấy quá
trình tích tụ và tập trung tư bản. Khi tập trung tư bản phát triển đến một mức độ nhất định đã dẫn đến độc quyền
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, năm trong tay phần lớn việc sản
xuất và tiêu thụ một loại hang hóa, định ra giá cả độc quyền và thu lợi nhuận độc quyền cao.
Như vậy độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do nhưng độc quyền không thủ tiêu được
cạnh tranh tự do mà trái lại còn làm cho cạnh tranh gay gắt hơn
Hay có thể nói trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và độc quyền tồn tại xen kẽ lẫn nhau
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc quyênd
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các tổ chức độc quyền
- Cạnh trong nội bộ các tổ chức độc quyền
4.2 Độc quyền và độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường
4.2.1 Lý luận của V.I.Lênin về độc quyền trong nền kinh tế thị trường
4.2.1.1 Nguyên nhân hình thành và tác động của độc quyền
Nguyên nhân hình thành độc quyền
Sự phát triển của LLSX
Tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và sự áp dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học, kỹ
thuật mới trong 30 năm cuối thế kỷ XIX
Tác động của các quy luật kinh tế thị trường TBCN làm biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội Quy luật cạnh tranh
Khủng hoảng kinh tế năm 1873
Sự phát triển hệ thống tín dụng Lợi nhuận độc quyền
Lợi nhuận độc quyền là lợi nhuận thu được cao hơn lợi nhuận bình quân, di sự thống trị của các tổ chức độc quyên Giá cả độc quyền
Là giá cả do các tổ chức độc quyền áp đặt trong mua và bán hàng hóa 137
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Giá cả độc quyền cao khi bá và giá cả độc quyền thấp khi mua
Giá cả độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị hang hóa trong giai đọn độc quyền
Tác động của độc quyền đối với nền kinh tế
- Những tác động tích cực
+ Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học
kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật
+ Độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân
các tổ chức độc quyền
+ Độc quyền tao được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng
sản xuất lớn, hiện đại
- Những tác động tiêu cực
+ Độc quyền làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt hại cho người tiêu dung và xã hội
+ Độc quyền có thể kìm hàm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội
+ Độc quyền chi phối các quan hệ kinh tế- xã hội, làm tăng sự phân hóa giàu nghèo
4.2.1.2 Những đặc điểm của độc quyền trong CNTB
Một là: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền •
Tổ chức độc quyền là sự liên minh giữa các nhà tư bản, nắm trong tay phần lớn việc sản
xuất một loại hàng hóa nào đó, định giá cả độc quyền và thu lợi nhuận độc quyền cao. •
Các tổ chức độc quyền phát triển từ thấp đến cao dưới các hình thức Cartel Cyndicast Trust Consortium
Cartel là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các doanh nghiệp
thành viên để thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn
thanh toán… còn việc sản xuất và kinh doanh vẫn do bản thân mỗi thành viên thực hiện
Cyndycast là hình thức tổ chức độc quyền, trong đó có một ban quản trị chung đảm nhiệm việc
mua bán, còn sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi thành viên. Mục đich của Cyndycast là
thống nhất đầu mối mua và bán hàng hóa
Trust là một hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, các thành viên mất tính độc lập cả lưu thông
lẫn sản xuất, họ là những cổ đông hưởng lợi tức cổ phần. Điều hành sản xuất, mua bán là do
một ban quản trị đảm nhận. 138
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Consortium: Là sự liên kết giữa các nhà tư bản ở các ngành khác nhau nhưng có liên quan đến
nhau về kinh tế và kỹ thuật (liên kết dọc). Điều hàng sản xuất kinh doanh do một nhà tư bản tài chính khống chế.
Conglomerat: Là sự kết hợp của hang chục các hang vừa và nhỏ không có sự liên quan trực
tiếp hoặc dịch vụ cho sản xuất. Mục đích chủ yếu của tổ chức này là thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán
Ở các nước tư bản phát triển hiện nay bên cạnh các tổ chức độc quyền lớn lại ngày càng xuất
hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nguyên nhân là do
+ Việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật cho phép tiêu chuẩn hóa và chuyên môn hóa sản
xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công
+ Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó đó là; nhạy cảm đối với những thay
đổi trong sản xuất, linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường, mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới….
Hai là: Tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối sâu sắc nền kinh tế •
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong công nghiệp đã thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung tư bản trong ngân hàng. •
Cạnh tranh là phá sản các ngân hàng nhỏ, chỉ còn lại một số ít ngân hàng lớn thống trị.
Vai trò của ngân hàng thay đổi
Không chỉ đơn thuần là một trung gian trong việc thanh toán và tín dụng.
Do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng có quyền lực vạn năng, chi
phối các hoạt động kinh tế - xã hội.
Quan hệ giữa tư bản độc quyền với tư bản ngân hàng đã có sự thay đổi. Hai bên đều
quan tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau.
Hình thành nên một loại tư bản mới: Tư bản tài chính
Tư bản tài chính là thâm nhập, dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền trong
ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp.
Sự phát triển của tư bản tài chính đã dẫn đến hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối
toàn bộ đời sống kinh tế- chính trị của xã hội tư bản. Đó là hệ thống tài phiệt chi phối sâu sắc nền kinh tế
Ba là: Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến •
Xuất khẩu tư bản là mang tư bản ra nước ngoài để chiếm đoạt giá trị thặng dư và các
nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản. •
Ở các nước tư bản phát triển. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao
động tăng, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung tư bản, đã dẫn đến hiện tượng “thừa
tương đối” tư bản, cần tìm nơi đầu tư có tỉ suất lợi nhuận cao. Trong khi đó ở các nước 139
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
kém phát triển lại rất thiếu tư bản, khoa học- kỹ thuât lạc hậu, nguồn nhân lực và nguồn
nguyên liệu rẻ. Các nước phát triển xuất khẩu tư bản “thừa” sang các nước kém phát triển
Bốn là: Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền
Năm là: Sự phân chia thế giới về địa lý giữa các cường quốc tư bản
4.2.2 Lý luận của Lênin về độc quyền Nhà nước trong CNTB
4.2.2.1 Nguyên nhân ra đời và phát triển của độc quyền Nhà nước trong CNTB •
Sự phát triển của LLSX dẫn đến tích tụ và tập trung tư bản, tập trung sản xuất, quy mô
sản xuất ngày một lớn, cơ chế thị trường không thể tự điều tiết, do đó cần phải có một
trung tâm điều khiển nền kinh tế đang ngày càng được xã hội hóa •
Sự phát triển của phân công lao động xã hội làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới có vai
trò quan trọng đối với nền kinh tế nhưng các tổ chức độc quyền tư nhân lại không thể
hoặc không muốn kinh doanh vì vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận. Ví dụ
giao thông vận tải, y tế, an ninh quốc phòng, giáo dục đào tạo •
Mâu thuẫn cơ bản của CNTB •
Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền. •
Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế
4.2.2.2 Bản chất của độc quyền Nhà nước trong CNTB •
CNTB độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân
với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chể thống nhất nhằm mục
đích phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho CNTB. •
Nhà nước tư sản biểu hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư bản xã hội, đồng thời
lại là người quản lý xã hội bằng pháp luật tư sản với bộ máy bạo lực to lớn.
4.2.2.3 Những biểu hiện chủ yếu của độc quyền Nhà nước trong CNTB •
Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước. •
Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước. •
Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản.
4.2.2.4 Vai trò lịch sử của CNTB
Chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa; chuyển SX nhỏ thành SX lớn. Phát triển LL SX.
Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
Xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động. 140
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Thiết lập nền dân chủ tư sản – xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể cá nhân. 141
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 CHUONG 5
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CÁC QUAN
HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
5.1 KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
5.1.1 Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng
thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa bao hàm đầy đủ các đặc trưng chung vốn
có của nền kinh tế thị trường nói chung vừa có những đặc trưng riêng của Việt nam. Đây là
kiểu mô hình kinh tế thị trường phù hợp với đặc trưng lịch sử, trình độ phát triển, hoàn cảnh
chính trị xã hội của Việt Nam. Muốn thành công phải do nhân dân nỗ lực xây dựng mới có thể đạt đươc.
5.1.2 Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCn ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất
quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sự lựa chọn đó xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Một là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu, phù hợp với
quy luật khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hai là, do tính ưu việt của thị trường thúc đẩy phát triển
Ba là, do đó là mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyên vọng của nhân dân mong
muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
5.1.3 Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Về mục tiêu: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là phương thức để phát triển LLSX,
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu
nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
Đây là sự khác biệt của kinh tế thị trường định hướng XHCN so với kinh tế thị trường TBCN.
Việt Nam đang trong chặng đầu của TKQĐ lên CNXH, lực lượng sản xuất còn thấp
kém, lạc hậu nên việc sử dụng cơ chế thị trường cùng các hình thức và phương pháp quản lý
của kinh tế thị trường là để kích thích sản xuất, khuyến khích sự năng động, sang tạo của người
lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đấy CNH-HĐH bảo đảm từng bước xây dựng thành công CNXH
Về quan hệ sở hữu và các thành phần kinh tế 142
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Sở hữu là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất
xã hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực trong quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng
với quá trình sản xuất hay tái sản xuất trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý. + Nội dung kinh tế:
Sở hữu là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Biểu hiện về mặt kinh tế của sở hữu là khía cạnh lợi ích kinh tế.
Sở hữu là cơ sơ để các chủ thể thực hiện lợi ích từ đối tượng sở hữu + Nội dung pháp lý:
Sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về quyền hạn, nghĩa vụ của chủ thể sở hữu.
Chú ý : Nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu thống nhất biện chứng trong một chỉnh thể.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng, Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là
nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Đây không chỉ là điểm khác biệt
cơ bản với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà còn phản ánh nhận thức mới về quan hệ
sở hữu và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo động
lực cạnh tranh cho nền kinh tế. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam không chỉ củng cố và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa với hai thành phần (nhà nước và
tập thể) mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân coi đó là
động lực quan trọng, thực hiện sự liên kết giữa các loại hình công hữu – tư hữu sâu rộng ở cả
trong và ngoài nước. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
Về quan hệ quản lý nền kinh tế
Quan hệ quản lý và cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam có đặc trưng riêng đó là: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị
trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh, dân 143
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
chủ, công bằng, văn minh”. Đảng lãnh đạo nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua
cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế - xã họi và các chủ trương, quyết sách lớn trong từng thời kỳ.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua pháp
luật, các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế chính sách cùng các công cụ kinh tế trên
cơ sở tôn trọng những nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhà nước chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường để phát triển đồng bộ các loại thị trường, khuyến
khích các thành phần kinh tế phát huy mọi nguồn lực để mở mang kinh doanh, cạnh tranh bình
đẳng, lành mạnh, có trật tự, kỷ cương.
Cùng với đó thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ quản lý kinh tế, nhà nước tác
động vào thị trường nhằm bảo đảm tính bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô; khắc phục
những khuyết tật của kinh tế thị trường, khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu, khủng
hoảng tài chính - tiền tệ, thảm họa thiên tai, nhân tai…Nhà nước hỗ trợ thị trường trong nước
khi cần thiết, hỗ trợ các nhóm dân cư có thu nhập thấp, gặp rủi ro trong cuộc sống… nhằm
giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong xã hội mà kinh tế thị trường mang lại.
Về quan hệ phân phối
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện phân phối công
bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi chủ thể
kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều giàu có, đồng thời phân
phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Quan
hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần với sự đa dạng hóa các
loại hình sở hữu và do vậy thích ứng với nó là các loại hình phân phối khác nhau (cả đầu vào
và đầu ra của các quá trình kinh tế). Thực hiện nhiều hình thức phân phối (thực chất là thực
hiện các lợi ích kinh tế) ở nước ta sẽ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội,
góp phần cải thiệ Trong các hình thức phân phối đó, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh
tế, phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối phản ánh định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường và nâng đời sống cho mọi tầng lớn nhân dân trong xã hội, bảo
đảm công bằng xã hội trong sử dụng các nguồn lực kinh tế và đóng góp của họ trong quá trình
lao động và sản xuất, kinh doanh.
Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội bởi tiến bộ, công bằng xã hội
vừa là điều kiện vừa là mục tiêu thể hiện bản chất của chế độ XHCN. 144
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Đây là đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã hội chủ
nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bởi tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện bảo
đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phải hiện thực hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa – xã hội; thực hiện công bằng xã hội ngay
trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường.
5.2 HOÀN THIỆN THẾ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
5.2.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Thể chế và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN Thể chế
Thể chế là những quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh
các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội. Thể chế kinh tế
Là hệ thống quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hành
vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế
Thể chế kinh tế thị trường đinh hướng XHCN
Thể chế kinh tế thị trường đinh hướng XHCN là hệ thống đường lối, chủ trương chiến
lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy đinh xác lập cơ chế vận hành, điều chỉnh chức năng,
hoạt động, mục tiêu, phuuwong thức hoạt động, các quan hệ lợi ích của các tổ chức, các chủ
thể kinh tế nhằm hướng tới xác lập đồng bộ các yêu tố thị trường, các loại thị trường hiện đại
theo hướng góp phần thúc đẩy dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn mình
Lý do phải thực hiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
+ Thứ nhất; Do thể chế KTTT định hướng XHCN còn chưa đồng bộ
+ Thứ hai; Hệ thống thể chế còn chưa đầy đủ
+ Thứ ba; Hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, kém đầy đủ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường.
5.2.2 Nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế
Để hoàn thiện thể chế về sở hữ trong nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN ở Việt Nam cần 145
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
- Thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân, bảo đảm công
khai, minh bạch về nghĩa vụ, trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công.
- Hoàn hiện pháp luật về đất đai
- Hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
- Hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước
- Hoàn thiện hệ thống thể chế liên quan đến sở hữu trí tuệ
- Hoàn thiện khung pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng thống nhất, đồng bộ.
- Hoàn thiện thể chế cho sự phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Thứ hai; Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường •
Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường •
Hoàn thiện thể chế để phát tiển đồng bộ, vận hành thông suốt các loại thị trường
Thứ ba; Hoàn thiện thể chế để đảm bảo gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
Thứ tư: Hoàn thiện thể chế thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ năm; Hoàn thiện thể chế nâng cao năng lực hệ thống chính tri
5.3 CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
5.3.1 Lợi ích kinh tế và các quan hệ lợi ích kinh tế
5.3.1.1 Lợi ích kinh tế
Khái niệm lợi ích kinh tế •
Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được
nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó. •
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế của con người. •
Bản chất của lợi ích kinh tế : lợi ích kinh tế phản ảnh mục đích và động cơ các quan hệ
giữa các chủ thể trong nền sản xuất xã hội. •
Biểu hiện của lợi ích kinh tế: là các khoản thu được do hoạt động kinh tế như lợi nhuận, tiền công, lợi tức
Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế 146
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng phong phú. Mặc
dù vậy, điểm chung của hết thảy các hoạt động đó là hướng tới lợi ích. Xét theo nghĩa như vậy,
có thể khái quát vai trò của lợi ích kinh tế trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
-Lợi ích là động lực trực tiếp của các chủ thể kinh tế và hoạt động kinh tế
-Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đấy sự phát triển của các lợi ích khác
5.3.1.2 Quan hệ lợi ích kinh tế
Khái niệm về quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con người,
giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế,
giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế với mối
quan hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng với
một giai đoạn phát triển nhất định.
Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế -Sự thống nhất
Vì một chủ thể có thể trở thành một bộ phận cấu thành của chủ thể khác. Do đó lợi ích
của chủ thể này được thực hiện thì thì lợi ích của chủ thể khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếp
được thực hiện. Ví dụ, mỗi cá nhân người lao động có lợi ích riêng của mình, đồng thời các cá
nhân đó lại là một bộ phận cấu thành tập thể doanh nghiệp và tham gia vào lợi ích tập thể đó.
Doanh nghiệp các hoạt động hiệu quả thì lợi ích của doanh nghiệp được đảm bảo và do đó lợi
ích của từng người lao động cũng được đảm bảo. Một dụ khác, Để thu được nhiều lợi nhuận
doanh nghiệp đã không ngừng đổi mới kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm và do đó làm
cho lợi ích người tiêu dung cũng được thỏa mãn tốt hơn -Sự mâu thuẫn
Các quan hệ lợi ích mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể hành động theo các
phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình. Sự khác nhau đó đến mức đối lập sẽ
trở thành mâu thuẫn. Ví dụ vì lợi ích của mình các doanh nghiệp có thể làm hang giả, trốn lậu
thuế… do đó làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dung, lợi ích của toàn xã hội..
Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của các lợi ích khác.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
+ Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
+ Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất XH --
+ Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
+ Hội nhập kinh tế quốc tế.
- Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường 147
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động
+ Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động
+ Quan hệ lợi ích giữa những người lao động
+ Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích xã hội
-Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
+ Thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường. Đây là phương thức phổ biến
+ Thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của Nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội.
5.3.2 Vai trò nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích
5.3.2.1 Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích
của các chủ thể kinh tế
- Nhà nước giữ vững ổn định về chính trị, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động
kinh tế, xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các
chủ thể kinh tế trong và ngoài nước.
- Nhà nước xây dựng chính sách phù hợp, phát triển kết cấu hạ tầng, tạo môi trường văn hóa phù hợp.
5.3.2.2 Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Nhà nước cần có chính sách đặc biệt là chính sách phân phối thu nhập nhằm đảm bảo
hài hòa các lợi ích kinh tế, giảm phân hóa giàu nghèo; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất,
phát triển khoa học công nghệ để nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế.
5.2.3.3 Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã hội
- Nhà nước thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập
- Nhà nước có các chính sách xóa đói giảm nghèo, ưu đãi xã hội, các hoạt động từ thiện.
5.2.3.4 Giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Các cơ quan chức năng của Nhà nước cần thường xuyên phát hiện mâu thuẫn phát sinh
và chuẩn bị các giải pháp để ứng phó. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn là phải có sự tham gia
của các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích của đất nước lên trên hết
Khi có xung đột cần có sự tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên quan đặc biệt có nhà nước. 148
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 CHƯƠNG 6
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
6.1 CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
6.1.1 Khái quát cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa
6.1.1.1 Khái quát về cách mạng công nghiệp
Khái niệm cách mạng công nghiệp
CM Công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của TLLĐ trên cơ
sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại
kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động XH cũng như tạo bước phát triển NSLĐ
cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ thuật- công nghệ đó vào đời sống XH.
Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp’
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (Cách mạng 1.0)
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới khởi phát từ nước Anh bắt đầu từ
những năm 60 của thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng này thực chất là cuộc cách mạng về kỹ thuật
với nội dung cơ bản là thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (Cách mạng 2.0)
Cuộc cách mạng công nghiệp lần hai (hay còn gọi là cách mạng khoa học kỹ thuật lần
thứ II) diễn ra vào cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX. Cuộc cách mạng lần
này được chuẩn bị bằng quá trình phát triển hàng trăm năm của lực lượng sản xuất dựa trên cơ
sở của nền sản xuất đại cơ khí và sự phát triển của khoa học kỹ thuật
Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai là chuyển nền sản xuất cơ khí
sang nền sản xuất điện - cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất. Việc phát
minh và sử dụng phổ biến điện lực, một dạng năng lượng mới là tiền đề cho sự ra đời các thiết
bị điều khiển tự động và được xem là bộ phận thứ tư của hệ thống máy móc, cho phép sản xuất
tập trung quy mô lớn để thỏa mãn nhu cầu to lớn của sản xuất và đời sống.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (Cách mạng 3.0) C
ách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu từ khoảng 1969 và kết thúc vào khoảng cuối
thế kỷ XX, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
ba có khởi nguồn từ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi kết thúc chiến tranh, các thành
tựu khoa học - kỹ thuật quân sự được áp dụng vào sản xuất trong nhiều lĩnh vực, tác động đến
tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, tư tưởng, đời sống, văn hóa của con người.
Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba là ra đời của sản xuất tự động dựa
vào máy tính, thiết bị điện tử và Internet, tạo nên một thế giới kết nối. Cách mạng công nghiệp
lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và số hoá vì nó được xúc tác 149
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên
1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Đến cuối thế kỷ XX, quá trình này cơ bản hoàn
thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0)
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) lần đầu tiên được đề cập trong
bản Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao được chính phủ Đức thông qua năm 2012.
Cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư là một thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ tự động
hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo, được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công
nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không
gian ảo, Internet của vạn vật và Internet của các dịch vụ
Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công
nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ
đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ tự động hóa, người máy,... Đây được gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các
công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại
ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để chuyển
hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số.
Cách mạng 4.0 với những đột phá trong các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa chuỗi gen
cho tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo tới tính toán lượng tử và sự dung hợp của các
công nghệ này, sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, số và sinh học, làm cho cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư về cơ bản khác với các cuộc cách mạng trước đó.
Công nghệ có trí tuệ nhân tạo được sử dụng rộng rãi, tạo ra những đột phá mới trong
việc giải phóng con người khỏi các chức năng thực hiện, chức năng quản lý và quá trình sản xuất trực tiếp.
Trong cách mạng công nghiệp 4.0, thông tin và tri thức khoa học trở thành yếu tố đặc
biệt quan trọng của sản xuất và đời sống xã hội, ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, trở thành động
lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Nó thực sự biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, con người trở thành những chủ thể sáng tạo thực sự, tạo tiền đề vật chất và lực lượng sản
xuất mới cho một nền kinh tế mới
Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Một là: Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
Hai là; Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
Ba là; Thúc đẩy đối mới phương thức quản trị phát triển
6.1.1.2 Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
Khái niệm Công nghiệp hóa
CNH là quá trình chuyển đổi nền sản xuất XH từ dựa trên lao động thủ công là chính
sang nền sản xuất XH dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc nhằm tao ra NSLĐ XH cao 150
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
Mô hình CNH cổ điển - TK 18 ở Anh
- CN nhẹ: dệt, kéo theo sự phát triển ngành trồng bông và chăn nuôi cừu
- Vốn: chủ yếu do bóc lột lao động làm thuê
Mô hình CNH kiểu Liên Xô cũ
- Bắt đầu năm 1930 ở Liên Xô( cũ)
- 1945 áp dụng ở các nước Đông Âu( cũ) - 1960: Việt Nam
- Ưu tiên phát triển CN nặng
Vốn được NN huy động trong XH( phân bổ đầu tư theo cơ chế KHH tập trung, mệnh lệnh:
ngành chủ yếu là cơ khí, chế tạo máy Mô hình CNH của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới( NICs)
- Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo: đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển sx trong nước thay thế hàng nhập khẩu.
- Tận dụng lợi thế về KH, CNg của các nước đi trước
- Vốn: thu hút từ bên ngoài
6.1.2 Tính tất yếu khách quan và nội dung của CNH,HĐH ở Việt Nam
6.1.2.1 Tính tất yếu của CNH,HĐH ở Việt Nam
CNH, HĐH theo quan điểm của Đảng ta là:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý KT- XH, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại;
dựa trên sự phát triển của CN và tiến bộ KHCN, nhằm tạo ra NSLĐ XH cao
CNH,HĐH ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau
+ CNH, HĐH theo định hướng XHCN, thực hienj mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn mình”
+ CNH,HĐH gắn với nền kinh tế tri thức
+ CNH,HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
+ CNH.HĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và
Việt Nam đang tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm 151
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Một là, lý uận và thực tiễn cho thấy, CNH là quy luật phổ biến của sự phát triển LLSX
xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở quốc gia phát triển sớm hay quốc gia đi sau
Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên CNXH như nước ta,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phải thực hiện tự đấu thông qua CNH, HĐH. Mỗi bước tiến
của quá trình CNH, HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất –kỹ thuật cho CNXH, phát
triển mạnh mẽ LLSX và góp phần hoàn thiện QHSX XHCN, trên cơ sở đó từng bước nâng dần
trình độ văn minh của xã hội
6.1.2.2 Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Một là; Tạo lập những điều kiện để có thể chuyển đổi từ nền sản xuất xã hội lạc hậu
sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ
Hai là, Thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi nền sản xuất xã hội lạc hậu sang nền sản
xuất –xã hội hiện đại.
+ Đấy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại
+ Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
+ Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
6.1.3 CNH,HĐH ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư
6.1.3.1 Quan điểm về CNH, HĐH ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
Thứ nhất, Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết, giải phóng mọi nguồn lực
Ngày nay quá trình CNH,HĐH của tất cả các nước đều chịu sự tác động mạnh mẽ của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đây là thách thức, đồng thời cũng là cơ hội đối với tất cả các
nước, nhất là các nước còn kém phát triển. Do đó phải tích cực chủ động, chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để có thể thực hiện CNH,HĐH thích ững với tác động của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, coi đây là quan điểm xuất phát.
Thứ hai, Các biện pháp thích ứng phải được thực hiện đồng bộ, phát huy sức sang tạo của toàn dân
6.1.3.2 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thích ứng với cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng sang tạo
Thứ hai, nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Thứ ba, Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực của
cách mạng công nghiệp 4.0
+ Xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin 152
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Phát triển ngành công nghiệp
+ Đẩy mạnh CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn
+ Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội, tạo điều kiện để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
+Phát huy những lợi thế trong nước để phát triển du lịch, dịch vụ
+ Phát triển hợp lý các vùng, lãnh thổ
+ Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao
+ Tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
6.2 HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
6.2.1 Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
6.2.1.1 Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết
nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các
chuẩn mực quốc tế chung.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, Do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh
tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay
các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mô toàn cầu
Toàn cầu hoá đang là xu hướng tất yếu và ngày càng được mở rộng. Toàn cầu hoá diễn
ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội v.v...trong đó, toàn cầu hoá kinh tế
là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hoá các lĩnh vực khác.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, khu vực hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc
tế trở thành tất yếu khách quan.
+Toàn cầu hóa kinh tế là sản phẩm của phân công lao động quốc tế nhưng mặt
khác nó đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế, các mối
liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của
các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu.
+ Trong toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi
toàn cầu, thương mại quốc tế được mở rộng chưa từng thấy, đầu tư trực tiếp, chuyển
giao công nghệ, truyền bá thông tin, lưu động nhân viên, du lịch…đều phát 153
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là cách thức thích ứng trong phát triển của các nước
trong điều kiện toàn cầu hóa gắn với nền kinh tế thông tin
Thứ hai, Hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất
là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển tuy đã giành được độc lập, song vẫn bị phụ
thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản và đang phải đối diện trước thách thức của
nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Hầu hết các nước này đều có cơ cấu kinh tế lạc hậu và
bất hợp lý, tỷ trọng của nông nghiệp còn rất cao, tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị
thu nhập quốc dân, năng suất lao động thấp kém, tốc độ phát triển kinh tế của đa số các nước
thấp và bấp bênh. Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để các nước đang và kém phát triển
tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm của các nước cho phát triển
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển
có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến khi mà
bức tranh kinh tế - xã hội của các nước đang và kém phát triển vẫn biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt hậu rõ rệt.
Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế còn có tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ
mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn, một mặt thúc đẩy công
nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải thiện mức thâm hụt ngân sách. Chính sự ổn định
kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm tin cho các chương trình phát triển hỗ trợ cho những quốc gia
thành công trong cải cách kinh tế và mở cửa.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao
mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
6.2.1.2 Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
6.2.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
6.2.2.1 Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn
trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và
người tiêu dùng. Cụ thể:
- Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại
phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng triệt để các lợi thế kinh tế của
nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng
nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn
để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh 154
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
nghiệp trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng
thu hút khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực
khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu
khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và
tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ
để thay đổi, nâng cao chất lượng của nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản
xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, các cá nhân
được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất
lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ
đó có cơ hội tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt
tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến
lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp
thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn
minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo động
lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh hơn
- Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật
tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các các tổ chức
chính trị, kinh tế toàn cầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn
định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả
năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm
chung như môi trường, biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế
6.2.2.2 Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra
nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức: 155
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanh nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản,
gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế
quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến
động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích
và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng
khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Bốn là, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như
nước ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên
hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có
giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ
trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên
nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực
Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an
ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Sáu là, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền
thống Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Bảy là, hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
6.2.3 Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát
triển của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những chủ đề kinh tế có tác động tới toàn bộ
tiến trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, liên quan trực tiếp đến quá trình
thực hiện định hướng và mục tiêu phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế
và cách mạng công nghệp 4.0 đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có. Với cả
những tác động đa chiều của hội nhập kinh tế quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước,
Việt Nam cần phải tính toán một cách thức phù hợp để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
6.2.3.1. Nhận thức đúng đắn về hội nhập kinh tế quốc tế
Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế có tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn đến
những vấn đề cốt lõi của hội nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật vận động khách
quan của lịch sử xã hội. Nhận thức về tính tất yếu, bản chất, phương thức tác động của
toàn cầu hóa, của hội nhập quốc tế là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đề ra chủ 156
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
trương và biện pháp phát triển thích ứng. Không có nhận thức đúng đắn thì không thể có biện pháp đúng đắn.
Nhận thức về hội nhập kinh tế cần phải thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực của nó
vì tác động của nó là đa chiều, đa phương diện. Trong đó, cần phải coi mặt thuận lợi, tích
cực là cơ bản. Đó là những tác động thúc đẩy của hội nhập kinh tế quốc tế tới tăng
trưởng, tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận khoa học công nghệ, mở rộng thị trường…nhưng đồng
thời cũng phải thấy rõ những tác động mặt trái của hội nhập kinh tế như những thách thức
về sức ép cạnh tranh gay gắt hơn; những biến động khó lường trên thị trường tài chính,
tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế và cả những thách thức về chính trị, an ninh, văn hóa.
Nhận thức này là cơ sở để đề ra đối sách thích hợp nhằm tận dụng ưu thế và khắc chế tác
động tiêu cực của hội nhập kinh tế, phù hợp với điều kiện thực tiễn.
6.2.3.2. Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp
Để hội nhập kinh tế quốc tế thành công thì vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trong là
phải xây dựng được một chiến lược hội nhập kinh tế phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế.
Chiến lược hội nhập kinh tế về thực chất là một kế hoạch tổng thể về phương
hướng, mục tiêu và các giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập
kinh tế cần phải xuất phát từ:
- Đánh giá đúng được bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động kinh tế, chính trị thế
giới; tác động của toàn cầu hóa, của cách mạng công nghiệp đối với phát triển của các
nước và cụ thể hóa đối với nước ta. Trong đó, cần chú ý tới sự chuyển dịch trên phạm vi
toàn cầu cũng như ở từng nước, từng khu vực tạo nên tương quan sức mạnh kinh tế giữa
các trung tâm. Xu hướng đa trung tâm, đa tầng nấc đang ngày càng được khẳng định. Nền
tảng kinh tế thế giới có những chuyển dịch căn bản, toàn cầu hóa, cách mạng 4.0 và công
nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ
6.2.3.3. Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực
hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
Việc tích cực tham gia các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện nghiêm túc các cam
kết của các liên kết góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Việt Nam trong các tổ chức này;
tạo được sự tin cậy, tôn trọng của cộng đồng quốc tế đồng thời giúp chúng ta nâng tầm
hội nhập quốc tế trên các tầng nấc, tạo cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh chủ động
đóng góp, tiếp cận đa ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển để đảm bảo các lợi ích
cần thiết trong hội nhập kinh tế.
6.2.3.4. Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
Một trong những điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế là sự tương đồng giữa các
nước về thể chế kinh tế. Trên thế giới ngày nay hầu hết các nước đều phát triển theo mô
hình kinh tế thị trường tuy có sự khác biệt nhất định. Việc phát triển theo mô hình “kinh tế 157
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của nước ta mặc dù có sự khác biệt với các nước
về định hướng chính trị của sự phát triển nhưng nó không hề cản trở sự hội nhập. Vấn đề
có ảnh hưởng lớn hiện nay là cơ chế thị trường của nước ta chưa hoàn thiện, hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, chính sách điều chỉnh nền kinh tế trong nước
chưa phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, môi trường cạnh tranh cạnh tranh
còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế, cần
hoàn thiện cơ chế thị trường trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ về sở hữu, coi trọng khu vực tư
nhân, đổi mới sở hữu và doanh nghiệp nhà nước; hình thành đồng bộ các loại thị trường;
đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế…
Đi đôi với hoàn thiện cơ chế thị trường cần đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước
trên cơ sở thực hiện đúng các chức năng của nhà nước trong định hướng, tạo môi trường,
hỗ trợ và giám sát hoạt động các chủ thể kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải cải
cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước ngày càng minh bạch hơn,
làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước để thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư
của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là các công ty
xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến. Đó là
cơ sở then chốt để nước ta có thể tham gia vào tầng nấc cao hơn của chuỗi cung ứng và
giá trị khu vực cũng như toàn cầu.
Nhà nước cũng cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là luật pháp liên
quan đến hội nhập kinh tế như: đất đai, đầu tư, thương mại, doanh nghiệp, thuế, tài chính
tín dụng, di chú…Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc
tế đồng thời phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh
chấp thương mại, đầu tư quốc tế; xử lý có hiệu quả các tranh chấp, vướng mắc kinh tế,
thương mại nhằm bảo đảm lợi ích của người lao động và doanh nghiệp trong hội nhập.
6.2.3.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
Hiệu quả của hội nhập kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế cũng như của các doanh nghiệp.
Nhà nước cần sớm chủ động, tích cực tham gia đầu tư và triển khai các dự án xây
dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến thức, kỹ năng cần
thiết đáp ứng yêu cầu mới của hội nhập sâu rộng. Nâng cao hiệu quả đào tạo nghề theo cơ
chế thị trường, chú trọng đào tạo gắn với nhu cầu của các doanh nghiệp và nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên, sự phát triển của các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào nhà nước mà
chủ yếu dựa vào năng lực tự thích ứng của các doanh nghiệp. Tác động tổng thể của hội
nhập đối với nền kinh tế Việt Nam có thể rất tích cực, song không có nghĩa đúng với mọi
ngành, mọi doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, ngành hàng, lợi ích cũng không tự đến.
Để đứng vững trong cạnh tranh ngày càng khốc liệt do phải mở cửa thị trường, các doanh
nghiệp phải chú trọng tới đầu tư, cải tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh của mình. 158
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Nhà nước cũng cần huy động nhiều nguồn lực khác nhau để phát triển, hoàn thiện cơ sở
hạ tầng sản xuất, giao thông, thông tin, dịch vụ…để cải thiện môi trường đầu tư, giúp
giảm chi phí sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn và công nghệ tiên tiến
nhằm nâng cao khả năng tiếp cận với những thành tựu của cách mạng công nghiệp, thúc
đẩy tăng năng suất lao động.
6.2.3.6. Đảm bảo lợi ích quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế
Lợi ích quốc gia - dân tộc là các mục tiêu mà quốc gia theo đuổi để bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của mình, bao gồm: Giữ vững chủ quyền; thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Lợi ích quốc gia - dân tộc thường được hiểu là phải đảm bảo sự ổn định chế độ
chính trị; bảo đảm an ninh và an toàn cho người dân; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo
đảm các điều kiện cho quốc gia phát triển kinh tế, xã hội,...
Để đảm bảo lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình hội nhập, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ:
Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn
định chính trị và môi trường hoà bình.
Hai là, kiên trì thức hiện đầy đủ và đúng các nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh
tế quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Tích cực tham gia vào thị trường
thế giới, nỗ lực để tranh thủ giành được lợi ích cùng tỷ lệ trong thương mại và hợp tác quốc tế khác.
Ba là, chú trọng phát triển các doanh nghiệp trong nước đủ mạnh (về vốn, kỹ
thuật, thương hiệu) làm đối tác liên kết kinh tế quốc tế. Tranh thủ môi trường cạnh tranh
quốc tế để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế. Xóa bỏ chính sách đãi ngộ quá mức và không cần thiết đối với một số
khu vực, nhất là các khu vực nhà nước
Bốn là, gia tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo, sáng tạo nguồn lực tri thức. Đó là kế
sách lâu dài để nâng cao sức sản xuất và hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Năm là, chủ động đối phó với những vấn đề nảy sinh từ hội nhập kinh tế, nhất là
vấn việc làm do thất nghiệp có nguy cơ gia tăng do tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong điều kiện hội nhập kinh tế và tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đồng thời có
các biện pháp cần thiết để bảo vệ văn hóa dân tộc trước sự xâm nhập của các luồng văn hóa độc hại. 159
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu quốc gia và quốc
tế, chống rửa tiền, tội phạm công nghệ cao và các loại tội phạm quốc tế khác thường lấy
địa bàn các nước đang phát triển hoạt động để phá hoại tiền tệ, gây rối loạn về tài chính.
Tăng cường trật tự xã hội, an ninh kinh tế. 160
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com) lOMoARcPSD|36232506 161
Downloaded by V?n V?n (thisailen20011@gmail.com)