Đề cương Triết học Mác – Lênin | Đại học Nội Vụ Hà Nội
Khái niệm: Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học củaC.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin, được hình thành và phát triển trên cơ sở kếthừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại, là thế giới quan, phươngpháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự giảiphóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới
giải phóng con người.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Môn: Triết học Mác-Lenin (THML1)
Trường: Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 36844358
Đề cương ôn thi hết môn (Tham khảo)
TÀI LIỆU THAM KHẢO TRIẾT HỌC MACLENIN
Câu 1. vì sao nói sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là một tất yếu lịch sử?
Khái niệm: Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học của
C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin, được hình thành và phát triển trên cơ sở kế
thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại, là thế giới quan, phương
pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự giải phóng
giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội. -
Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp:
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và
lan rộng ra các nước Tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với chế độ phong
kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước hết là sự hình thành
và phát triển của giai cấp vô sản. -
Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính
trị - xã hội độc lập:
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong
kiến. Giai cấp vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong
kiến. Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản,
vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản không còn đóng
vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, giai cấp vô sản
đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội độc lập và đã ý thức được những lợi
ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản. 1 lOMoAR cPSD| 36844358 -
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được
soi sáng bằng lý luận khoa học. Mác và Ăng ghen sáng lập Chủ nghĩa Mác là lời giải đáp cho
yêu cầu xã hội đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
1.2. Tiền đề lý luận. -
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và
Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy
tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng
duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để. -
Kinh tế chính trị học Anh, với những đại biểu xuất sắc là A.Xmit và Đ.Ricacđô,
mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở của hệ thống kinh
tế tư bản chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các quy luật khách quan của đời sống kinh tế xã
hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống kinh tế và rằng, do đó chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu. -
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh
Ximông và Sáclơ Phuriê và những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người là một
quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất hiện các giai
cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ nghĩa tư bản là
ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo. Khẳng định xã
hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến
khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều kiện vật chất cho cuộc sống,... là cơ sở
để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát
minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học. -
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự
phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng. -
Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật
và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền
sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật. lOMoAR cPSD| 36844358 -
Thuyết tiến hoá đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật
không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học,
xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu
cầu nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những
thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học
, mà còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề
khách quan cho sự ra đời của nó . Bởi vậy, chủ nghĩa Mác “Cung cấp cho loài người
và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam
“kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng”.
Câu 2. Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác. Thực chất và ý nghĩa
cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện?
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày nay.
Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học và trở
thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác nhìn chung, có hai nguồn gốc ra
đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc
ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
2.1. Điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác.
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công nghiệp
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn
thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp… Sự phát triển của
lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã
hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ
rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản
với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp. -
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử. lOMoAR cPSD| 36844358
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp lOMoAR cPSD| 36844358
tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản
với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi
nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào
cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách
mạng. Giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước.
Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và
trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo
ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng
những quan điểm triết học.
Như vậy, từ thực tiễn xã hội (Đấu tranh của giai cấp vô sản chỉ là đấu tranh 1 cách tự phát
không làm thay đổi được địa vị xã hội của họ) đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý
luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu
tranh chuyển từ tự phát sang tự giác để nhanh chóng đạt được thắng lợi toàn diện.
2.1.2. Điều kiện về mặt lý luận.
- Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học.
- Sự ra đời của triết học mác phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại, là sự kế thừa
và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại.
- Xây dựng học thuyết mới trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng có mối qua hệ hữu cơ với nhau.
- Triết học Mác ra đời là sự tác động qua lại với quá trình các ông kế thừa và cải tạo học thuyết
kinh tế chính trị của Anh và lý luận của chủ nghĩa xã hội.
- Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm, vừa đánh giá cao tư tưởng biện chứng của Heghen,
của Phơbach, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách
hữu cơ; đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, xả hội và tư duy con người,...
Từ những điều kiện trên, chủ nghĩa Mác - Lênin được ra đời.
Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử,
không những vì nó là sự phản ảnh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiển cách mạng của giai cấp vô
sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
2.2. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực lOMoAR cPSD| 36844358 hiện.
Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận là một
cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời
kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo
thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển
sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa
chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật
thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có thể nói, đã có sự
thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng ở một số nhà triết học
duy vật. Sự thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong triết học của Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống
nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học của Hêraclít còn ở trình
độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng của Hêraclít đều còn ở trình
độ thô sơ, chất phác, đúng như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ,
nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần
đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không
tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong".
Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển về chất so với
chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này, về cơ bản, vẫn
là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời phương pháp biện chứng.
Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập phương pháp biện chứng với phương
pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về chất trong phương pháp nhận thức. Tuy nhiên,
phương pháp biện chứng của Hêghen lại dựa trên nền thế giới quan duy tâm. Nói khác đi,
phương pháp biện chứng của Hêghen không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết
hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm. Cho nên, phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành
khoa học, mặc dù nó có đóng góp nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao của chủ
nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy
vật nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương
pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng, còn
phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy lOMoAR cPSD| 36844358
vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất. Do
vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học
Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng
trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách
mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã
hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Nghĩa là nó chỉ
duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích xã hội, lịch sử,
tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ được chủ nghĩa duy tâm
một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của nó là lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh
thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới
tự nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ
nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất. Không phải ngẫu nhiên mà
V.I.Lênin đã khẳng định: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”. Rằng,
“chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận
khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ
trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”. Như vậy, với quan niệm duy vật về
lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra
một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động
và phát triển của xã hội, của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như phát
minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của
thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”. Chủ nghĩa duy vật lịch
sử của C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ
chức xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác,
cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh ra như thế nào từ chế độ phong kiến”. Về bản
chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa
duy vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động
của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, lOMoAR cPSD| 36844358
phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy sử là , sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch
biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Trên
cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải thích
thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng nhận định: “Các nhà triết học
đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Cũng đã
có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng con đường không tưởng dựa vào
các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang dân trí, bằng con đường giáo dục đạo
đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của
nó đối với cải tạo thế giới. Các nhà triết học Khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội
phong kiến lạc hậu, lỗi thời bằng các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu được rằng,
phải thông qua hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng mới thực hiện được điều này. Ngay
cả L.Phoiơbắc - đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác “cũng chỉ coi hoạt động lý
luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định
trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”. Không phải ngẫu nhiên mà sau này,
C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay –
kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận
thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động
cảm giác của con người, là thực tiễn”.
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là
cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải tạo
được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào
lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn
về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, không có sự đối lập giữa triết học
với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt
động thực tiễn của giai cấp vô sản được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp
vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất
hữu cơ với nhau. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là
vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Do lOMoAR cPSD| 36844358
vậy, triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của
toàn thể nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa học
khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ đại, triết học thường ẩn giấu đằng
sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo, đạo đức,v.v.. Ở Hy Lạp cổ đại, triết học được coi là
“khoa học của các khoa học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học được coi là “bộ môn” của thần
học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Ở thời kỳ Cận đại, triết học được coi là
mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới quan của con người, như quan niệm của R.Đêcáctơ;
hoặc triết học được coi là tổng thể tri thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v..
Trong triết học cổ điển Đức, triết học lại được coi là “khoa học của các khoa học”. Quan hệ giữa
triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các
khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học
Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học
tự nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những
hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ
sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể,
triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển
mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò thế giới quan, phương pháp luận của
triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học tự nhiên ở thế kỷ XX đã nhận xét: “Các khái quát
hóa triết học cần dựa trên các kết quả khoa học’’. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được
truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học,
khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”. Như vậy, sự ra đời của
triết học Mác đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô
cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội không
tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả
về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế
giới của nhân loại tiến bộ.
Câu 3. Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Nội dung vấn đề cơ bản của triết học?
3.1. Khái niệm: Vấn đề cơ bản của triết học. Khởi điểm lý luận của bất kỳ học thuyết triết học
nào đều là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại; giữa ý thức với vật chất; giữa tinh
thần với giới tự nhiên.
Vấn đề cơ bản của triết học có đặc điểm: lOMoAR cPSD| 36844358
- Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định hướng để giải quyết những vấn đề khác.
- Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không có cơ sở để giải quyết các vấn đề khác,
ít chung hơn của triết học.
- Giải quyết vấn đề này như thế nào thể hiện thế giới quan của các nhà triết học và thế giới
quan đó là cơ sở tạo ra phương hướng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.
Theo Ph.Ăngghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại,
là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
3.2. Hai nội dung (hai mặt) vấn đề cơ bản của triết học.
Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa
ý thức với vật chất. Cái gì sinh ra và quy định cái gì - thế giới vật chất sinh ra và quy định thế
giới tinh thần; hoặc ngược lại, thế giới tinh thần sinh ra và quy định thế giới vật chất - đó là mặt
thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học như thế
nào là cơ sở duy nhất phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành hai trường phái
đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm triết học; phân chia các nhà triết học và
các học thuyết của họ thành triết học nhất nguyên (còn gọi là nhất nguyên luận) và triết học nhị
nguyên (còn gọi là nhị nguyên luận).
Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa
khách thể với chủ thể nhận thức, tức trả lời câu hỏi liệu con người có khả năng nhận thức được
thế giới (hiện thực khách quan) hay không? Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học
như thế nào là cơ sở phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành phái khả tri (có
thể biết về thế giới), bất khả tri (không thể biết về thế giới) và hoài nghi luận (hoài nghi bản chất
nhận thức của con người về thế giới).
Câu 4. Trình bày định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin và ý nghĩa phương pháp
luận của định nghĩa.
4.1. Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
Phân tích định nghĩa: Vật chất là 1 phạm trù triết học, thì nó khác với vật chất trong khoa
học tự nhiên và trong đời sống hàng ngày.
Vật chất trong khoa học tự nhiên, trong đời sống hàng ngày là các dạng vật chất cụ thể,
tồn tại hữu hình, hữu hạn; có sinh ra có mất đi, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Chúng
bao gồm vật chất dưới dạng hạt, trường, trong tự nhiên, xã hội, dưới dạng vĩ mô, vi mô rất phong phú đa dạng. lOMoAR cPSD| 36844358
Vật chất với tính cách là 1 phạm trù triết học tức là vật chất đã được khái quát từ tất cả
các sinh vật cụ thể. Do đó, nó tồn tại vô cùng vô tận, không có khởi đầu, không có kết thúc,
không được sinh ra, không bị mất đi; đây là phạm trù rộng nhất, vì thế không thể quy nó vào các
vật cụ thể để hiểu nó.
Vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Nghĩa là vật
chất là tất cả những gì tồn tại thực, tồn tại khách quan ở bên ngoài, độc lập với cảm giác, ý thức
con người, không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức. Đây là thuộc tính quan trọng nhất của vật chất,
là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không là vật chất. Điều đó khẳng định vật chất
có trước, cảm giác ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức.
Vật chất tồn tại không huyền bí mà nó là “thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh“. Điều này khẳng định
con người có khả năng nhận thức thế giới vật chất, chỉ có những điều chưa biết chứ không thể
có những điều không biết.
4.2. Ý nghĩa phương pháp luận.
Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của triết học, thể hiện rõ lập trường
duy vật biện chứng. Lênin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản của triết học đứng trên lập trường
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng. -
Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý
thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới. -
Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức). -
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của
chủ nghĩa duy vật trước Mác (quan niệm vật chất về các vật thể cụ thể, về nguyên tử, không thấy
vật chất trong đời sống xã hội là tồn tại). -
Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường về
vật chất (coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất). - Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết. -
Định nghĩa này đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử
thành một thể thống nhất. (Vật chất trong tự nhiên, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ
thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan). -
Mở đường cổ vũ cho khoa học đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn của thế giới vật chất.
Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ thể, vì thế sẽ tạo ra kẻ hở cho chủ nghĩa
duy tâm tấn công, cũng không thể quy vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn để định nghĩa nó, lOMoAR cPSD| 36844358
vì không có khái niệm nào rộng hơn khái niệm vật chất. Vì thế chỉ định nghĩa nó bằng cách đối
lập nó với ý thức để định nghĩa vạch rõ tính thứ nhất và tính thứ 2, cái có trước và cái có sau.
Câu 5. Tại sao nói định nghĩa vật chất của Lênin ra đời là bước ngoặt trong lịch sử triết học?
Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ănghen thực hiện.
Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự lệch rời giữa thế giới quan duy vật và phép biện
chứng tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
hình thức cao nhất của phép biện chứng là biện chứng duy vật. -
Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát hiện vĩ đại trongcuộc
cách mạng do Mác và Ănghen thực hiện trong triết học.
Triết học Mác ra đời đã làm cho vai trò, vị trí của triết học là quan hệ giữa triết học với
các khoa học khác có sự thay đổi.
Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là để cải tạo thế giới.
Triết học Mác còn là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, nó chỉ ra cho giai
cấp công nhân con đường đấu tranh để giải phóng Mác nói "Giống như triết học thấy ở giai cấp
vô sản mới vũ khí vật chất thì giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học một vũ khí tinh thần".
Triết học Mác có sự gắn bó giữa tính khoa họcvà tính cách mạng giữa lý luận với thực
tiễn. Đó là triết học sáng tạo.
Câu 6. Trình bày quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động của vật
chất và ý nghĩa phương pháp luận của nó. Thế nào là hiện tượng đứng im tương đối?
6.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động của vật chất.
6.1.1. Khái niệm vận động.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức
tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Vận động là
phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất
Vật chất và vận động không tách rời nhau. Ở đâu có vật chất thì ở đó có vận động, và ở đâu
có vận động thì ở đó phải có vật chất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào, dù trong tự nhiên hay xã
hội, dù vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, dù thuộc giới vô sinh hay hữu sinh đều ở trong trạng thái
biến đổi không ngừng. Theo Ph.Ăngghen, vật chất mà không vận động là điều không thể tưởng
tượng được. Vật chất chỉ có thể tồn tại được bằng cách vận động và thông qua sự vận động mà
biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy, nhận thức sự vận động của sự vật cũng chính là nhận thức bản thân sự vật.
Vận động của vật chất là sự tự thân vận động. Nguồn gốc của sự vận động nằm ngay trong
bản thân thế giới vật chất, mà không cần đến một lực lượng siêu tự nhiên nào từ bên ngoài. Vật lOMoAR cPSD| 36844358
chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị tiêu diệt, mà vận động là thuộc tính cố hữu của
vật chất, nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Vận động của một
vật thể cụ thể có thể tăng, giảm, nhưng vận động của toàn thế giới vật chất bao giờ cũng là một
số không thay đổi. Định luật chuyển hóa và bảo toàn năng lượng đã cho thấy, nếu một hình thức
vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế.
Các hình thức vận động có thể chuyển hóa lẫn nhau, nhưng vận động của vật chất luôn luôn
được bảo toàn cả về mặt chất và lượng.
6.1.2. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.
Dựa vào những thành tựu khoa học thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động của
vật chất thành năm hình thức cơ bản.
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, từ,...).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong
những quá trình hóa hợp và phân giải).
- Vận động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường...).
- Vận động xã hội (quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội; sự biến
đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v. của đời sống xã hội).
Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, có quy luật vận động riêng. Song
chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiêt với nhau, trong đó hình thức vận
động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong đó những hình thức
vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động
khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà
nó có. Ví dụ, đối với động vật thì vận động sinh học là vận động đặc trưng, mặc dù trong cơ thể
động vật còn có các vận động cơ học, vật lý và hóa học. Không thấy được điều đó sẽ không phản
ánh được bản chất của sự vật.
6.2. Đứng im tương đối.
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Nhưng điều đó
không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương đối. Nếu không có hiện tượng
đứng im tương đối thì sẽ không có một sự vật nào tồn tại được, và chúng ta cũng sẽ không nhận
thức được sự vận động của sự vật.
Hiện tượng đứng im chỉ là tương đối và tạm thời, sở dĩ như vậy là vì:
- Thứ nhất, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định, còn trong mối
quan hệ khác thì sự vật vẫn đang vận động. Ví dụ, con tàu đứng im so với bến cảng, còn so với
mặt trời thì nó đang vận động theo sự vận động của trái đất. lOMoAR cPSD| 36844358
- Thứ hai, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động nhất định trong
một lúc nào đó, chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Ví
dụ, con tàu đứng im xét về hình thức vận động cơ học, trong khi đó các hình thức vận động lý,
hóa không ngừng diễn ra trong bản thân nó.
- Thứ ba, hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này mà vật chất biểu hiện
thành các sự vật, hiện tượng cụ thể và qua đó sự vật mới có điều kiện để thực hiện sự phân hóa
tiếp theo. Bởi vậy, trạng thái đứng im tương đối biểu hiện như một quá trình vận động trong
phạm vi chất của sự vật còn ổn định; nó còn là nó, chứ chưa chuyển thành cái khác. Nhưng trạng
thái thăng bằng, ổn định này sẽ bị sự vận động là tuyệt đối phá vỡ. Ph.Ăngghen viết: “Vận động
riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt"
Tóm lại: Trong quan hệ giữa vận động và đứng im, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng
im là tương đối, tạm thời; vận động là tuyệt đối không hề loại trừ mà còn hàm chứa cả sự đứng
im, còn sự đứng im không phải là một trạng thái cố định mà là một dạng của vận động.
Câu 7. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất
của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hay ý thức chỉ chẳng qua là hình ảnh
của thế giới khách quan được di chuyển vào trong bộ óc người và cải biến đi.
7.1. Nguồn gốc của ý thức.
7.1.1. Nguồn gốc tự nhiên (Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức) –
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữa lại, tái hiện của
hệthống vật chất này, những đặc điểm của hộ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại. Định nghĩa vật chất của Lênin –
Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ
thấpđến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. –
Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não con người, là
sựphản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
7.1.2. Nguồn gốc xã hội (Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành và phát triển của ý thức). –
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất cả các độngvật khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ và sử dụng các công cụ để
tạo ra của cải vật chất. lOMoAR cPSD| 36844358
+ Lao động của con người là hành động có mục đích – tác động vào thế giới vật chất
khách quan làm biến đổi thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
+ Trong quá trình lao động, bộ não người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho
khả năng tư duy trừu tượng của con người cùng ngày càng phát triển. – Lao động sản xuất
còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.
+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu cần trao đổi kinh
nghiệm. Từ đó nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy”. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời
và phát triển cùng với lao động.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện để con
người giao tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiêm thực tiễn
và trao đổi chung giữa các thế hệ. Chính vì vậy, Ăngghen coi: lao động và ngôn ngữ là “hai sức
kích thích chủ yếu” biến bộ não của con vật thành bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và phát triển ý thức.
7.2. Bản chất của ý thức.
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập, là
thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật
chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất. 14
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não
con người thông qua thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
– Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức
là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ
không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm. – Khi nói
ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cùng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự
giác, sáng tạo thế giới.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định. Nhu cầu đó đòi
hỏi chủ thể phản ánh phải hiệu được cái được phản ánh. Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh
tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan, Song,
sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dự trên hoạt động thực tiễn
và là sản phẩn của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất của ý thức là có tính xã hội. lOMoAR cPSD| 36844358
Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn toàn đối lập
với chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật
tầm thường coi ý tức là một dạng vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động về thế giới vật chất.
7.3. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí. - Do
ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ động và chủ
nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn
Câu 8. Tại sao nói bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin,
xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những
thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo
của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả 15
tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, qui
luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về hình thức
biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua
lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các qui luật sinh học mà
chủ yếu là của các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện
thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Câu 9. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa của vấn
đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
9.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. 9.1.1. Khái niệm. lOMoAR cPSD| 36844358 -
Vật chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại lhách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, pháp ánh, và tồn tại không lệ thuộc vàp cảm giác. -
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giơi khách quan của bộ óc con người; là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
9.1.2. Mối quan hệ biện chứng giũa vật chất và ý thức.
Triết học Mác – Lênin khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất
quyết định ý thức và ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức.
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là
nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
- Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức.
- Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó.
- Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiện thực b. Vai trò của ý thức đối với vật chất.
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức đựơc quy luật vận động, phát
triển của thế giới khách quan
- Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực phát triển cuả vật chất.
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức
phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất.
9.2. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn
gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người; vì vậy con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng thời phát huy tính năng
động, chủ quan của mình.
- Ý có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn,
sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động
sai và thất bại khi con ngưọi phản ánh sai thế giới khách quan.
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ bệnh bảo thủ
trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
- Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. lOMoAR cPSD| 36844358
* Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:
- Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác.
- Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác,...
Câu 10. Trình bày nội dung “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” và ý nghĩa phương
pháp luận của nguyên lý này. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
10.1. Nội dung “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến”.
10.1.1. Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến.
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn
tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những
mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép
biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định,
cái chung và cái riêng…Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những
mối liên hệ đặc thù vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định, nhưng
đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó, những mối liên hệ đặc thù là
sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối
liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa
dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
10.1.2. Tính chất của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ.
Theo quan điểm biện chứng duy vật: các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là
có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển
hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó,
tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ.
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt
đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sụ
vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với
những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa
là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mac-Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính
phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay lOMoAR cPSD| 36844358
quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau đối
với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng
trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng
nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với những sự vật nhất
định, trong những điều kiện xác định. Đó là mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản
chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu và thứ yếu…
Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về
sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi
sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
10.2. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem
xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt
của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở
đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu
tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan
điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong
hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình
huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của
mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn
và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không
những cần phải tránh và lhắc phục quan điểm phiến diện siêu hình mà còn phải tránh và khắc
phục quan điểm chiết trung, ngụy biện. 10.3. Liên hệ.
Trong cuộc sống khi giải quyết các tình huống cần phải xem xét quá trình cũng như các
hoạt động từ quá khứ đến hiện tại trong các mối liên hệ qua lại lẫn nhau để có cách giải quyết xử lý tốt nhất. lOMoAR cPSD| 36844358
Câu 11. Trình bày nội dung “Nguyên lý về sự phát triển” và ý nghĩa phương pháp
luận của phương pháp này. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
11.1. Nội dung “Nguyên lý về sự phát triển”.
11.1.1. Khái niệm phát triển.
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng giảm thuần
túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là
quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để
chỉ quá trình vận động theo khuynh hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm vận động nói chung; 19
đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn
lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự
vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố
tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
11.1.2. Tính chất của sự phát triển.
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. -
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong
sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. -
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả moi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình,
mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn
đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với qui luật khách quan. -
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại
có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian
khác nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật
còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố
và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự
vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và
thoái hóa ở mặt khác…Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.