











Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377
1. Số liệu thống kê tội phạm đã phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình tội phạm
- Sai. Tình hình tội phạm trên thực tế gồm 2 phần: Phần rõ của tình hình tội phạm và phần ẩn của
tình hình tội phạm. Trong đó, phần rõ bao gồm tất cả các tội phạm rõ và phần ẩn bao gồm tất cả
các tội phạm ẩn. Trên thực tế, chỉ có số tội phạm rõ mới được xác định qua thống kê. Chính vì vậy,
số liệu thống kê tội phạm chưa phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình tội phạm.
2. Tội phạm ẩn chủ quan (tội phạm ẩn nhân tạo) tồn tại phổ biến hơn tội phạm ẩn khách
quan (tội phạm ẩn tự nhiên)
- Sai. Tội phạm ẩn chủ quan là tội phạm đã xảy ra trên thực tế bị các cơ quan nhà nước phát hiện
nhưng không bị xử lý do có sự che đậy từ tội phạm ẩn khách quan, nên 1 tội phạm ẩn chủ quan là
kết quả của 1 hay nhiều tội phạm ẩn khách quan khác nên tội phạm ẩn khách quan tồn tại phổ biến
hơn tội phạm ẩn chủ quan.
3. Tội phạm có nguyên nhân và điều kiện từ phía nạn nhân, có nghĩa là nạn nhân cũng có lỗi
khi tội phạm được thực hiện
- Sai. Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây
ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác. Tuy nhiên,
không phải tội phạm có nguyên nhân và điều kiện từ phía nạn nhân, có nghĩa là nạn nhân cũng có
lỗi khi tội phạm được thực hiện. Trong nhiều trường hợp, nạn nhân không có một đặc điểm đặc
biệt hay không có lỗi, những hành vi của bạn nhân là những hành vi tích cực (thi hành công vụ
hợp pháp, truy đuổi tội phạm, tố giác tội phạm…). Những hành vi dạng này là nguyên nhân và
điều kiện từ phía nạn nhân làm hình thành tội phạm, tuy nhiên nó không hàm chứa những mẫu
thuẫn trực tiếp giữa nạn nhân và người phạm tội, vậy nên nạn nhân không có lỗi khi tội phạm được thực hiện.
4. Trong cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội luôn có khâu thực hiện tội phạm - Sai. Cơ
chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội thông thường được thể hiện qua 3 khâu cơ bản: quá trình
hình thành tính động cơ của tội phạm, kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm và trực tiếp thực hiện
tội phạm. Tuy nhiên, không phải bất cứ tội phạm nào khi thực hiện cũng bộc lộ đầy đủ cơ chế gồm
3 khâu như trên. Tùy thuộc vào sự khác nhau ở mỗi hành vi phạm tội, loại lỗi, sự phát triển của
hoạt động phạm tội trong thực tế mà cơ chế này có được biểu hiện đầy đủ hay không. Thông
thường, chỉ có loại tội phạm thực hiện với lỗi cố ý mới có cơ chế được biểu hiện đầy đủ 3 khâu.
Các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý, chỉ có khâu thực hiện được biểu hiện trong thực tế. Đối
với trường hợp chỉ có 2 khâu đầu của cơ chế mà không có khâu thực hiện tội phạm, trường hợp
này có thể đến từ hai nhóm nhân tố chủ quan hoặc khách quan trong sự tương tác lẫn nhau. Với
nhân tố chủ quan là trường hợp người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm.
Với nhân tố khách quan là các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, tội phạm không
được thực hiện đến cùng vì có sự trở ngại của hoàn cảnh khách quan không thuận lợi. Vì vậy, trong
cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội không phải luôn có khâu thực hiện tội phạm.
5. Một người phạm tội để thỏa mãn những gì mà người đó đang thiếu là biểu hiện của đặc
điểm hứng thú phạm tội
- Sai. Một người phạm tội để thỏa mãn những gì người đó đang thiếu là biểu hiện của đặc điểm về
nhận thức và tâm lý của người phạm tội, cụ thể ở đây là Nhu cầu. Nhu cầu được hiểu là những đòi
hỏi mà cá nhân thấy cần được thỏa mãn trong những điều kiện nhất định để có thể tồn tại và phát
triển. Nhu cầu gây cho con người cảm giác đang ở trong tình trạng thiếu thốn và cá nhân tìm mọi
cách để đáp ứng, thỏa mãn nó. Nhu cầu của tội phạm làm phát sinh tính động cơ và ảnh hưởng đến
hành vi, cách xử sự của người phạm tội khi nó không được thỏa mãn. Có thể nói, điều này ảnh lOMoAR cPSD| 58702377
hưởng sâu sắc đến hành vi của tội phạm, đồng thời thúc đẩy xử sự ở mức độ phản ứng (tìm kiếm
có định hướng phương thức thỏa mãn) và cả ở mức độ của hoạt động nhận thức.
6. Tất cả các biện pháp phòng ngừa tội phạm đều được pháp luật quy định
- Sai. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm là một trong những vấn đề lý luận của phòng ngừa tội
phạm theo đó, nó là những biện pháp được chủ thể sử dụng để loại bỏ nguyên nhân và điều kiện
phạm tội. Pháp luật cũng có những quy định về phòng ngừa tội phạm và những biện pháp phòng
ngừa tội phạm theo đó, các chủ thể phòng ngừa tội phạm phải tuân thủ và sử dụng các biện pháp
phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, một số biện pháp phòng ngừa tội phạm không
được quy định nhưng vẫn phù hợp với pháp luật, văn hóa thì vẫn được coi là một trong các biện
pháp phòng ngừa tội phạm, ví dụ như: Biện pháp văn hóa – tâm lý.
7. Trong tội phạm học, phương pháp thống kê chỉ được sử dụng để mô tả phần hiện của tình hình tội phạm
- Sai. Trong tội phạm học, phương pháp thống kê không chỉ được sử dụng để mô tả phần hiện của
tình hình tội phạm mà còn được sử dụng để mô tả đa số thông số của tình hình tội phạm, ví dụ: cơ
cấu, động thái, thiệt hại của hình hình tội phạm …
8. Tỉ lệ tội phạm trên một đơn vị dân cư (10.000, 100.000) phản ánh động thái của tình hình tội phạm
- Sai. Động thái của tình hình tội phạm là sự thay đổi về thực trạng và cơ cấu của tình hình tội phạm tại
một không gian, thời gian xác định.Trong khi đó, thực trạng của tình hình tội phạm là thông số phản ánh
tổng số vụ phạm tội, người phạm tội trong 1 khoảng không gian, thời gian phạm tội xác định. Thực trạng
của tình hình tội phạm được biểu thị bằng trị số tuyệt đối và chỉ số tương đối của tình hình tội phạm
trong xã hội. Trong các phương pháp xác định thực trạng của tình hình tội phạm có phương pháp hệ số.
Tỉ lệ tội phạm trên một đơn vị dân cư (10.000, 100.000) được xác định bằng phương pháp hệ số. Vì vậy,
Tỉ lệ tội phạm trên một đơn vị dân cư (10.000, 100.000) phản ánh thực trạng của tình hình tội phạm.
9. Tội phạm rõ (hiện) chỉ bao gồm những tội phạm bị Tòa án tuyên có tội bằng bản án có hiệu lực
- Sai. Tội phạm rõ là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý theo thủ
tục tố tụng hình sự. Trên thực tế, số tội phạm rõ này được xác định thông qua thống kê của cơ quan chức
năng. Việc thống kê số vụ phạm tội, số người phạm tội dựa trên dấu hiệu của hành vi phạm tội chứ
không chỉ căn cứ vào bản án có hiệu lực của Tòa án, cho nên khái niệm tội phạm rõ được hiểu là số tội
phạm, số người phạm tội tồn tại cả trong giai đoạn khởi tố hoặc giai đoạn truy tố hoặc giai đoạn xét xử.
10. Cần tiền tiêu xài dẫn đến trộm cắp tài sản. Trường hợp phạm tội này có nguyên nhân do đặc
điểm hứng thú phạm tội
- Sai. Cần tiền tiêu xài dẫn đến trộm cắp tài sản. Trường hợp phạm tội này có nguyên nhân do đặc
điểm nhu cầu một trong những đặc điểm về nhận thức và tâm lý của người phạm tội. Nhu cầu được
hiểu là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần được thỏa mãn trong những điều kiện nhất định để có
thể tồn tại và phát triển. Nhu cầu gây cho con người cảm giác đang ở trong tình trạng thiếu thốn
và cá nhân tìm mọi cách để đáp ứng, thỏa mãn nó. Nhu cầu của tội phạm làm phát sinh tính động
cơ và ảnh hưởng đến hành vi, cách xử sự của người phạm tội khi nó không được thỏa mãn. Trong
trường hợp này, người phạm tội thiếu tiền, cần tiền tiêu xài, vì vậy, người phạm tội tìm mọi cách
để đáp ứng, để thỏa mãn nhu cầu của mình. Điều này, làm phát sinh động cơ và hình thành hành
vi phạm tội bằng cách trộm cắp tài sản.
11. Số liệu thống kê tội phạm có xu hướng tăng, điều đó chỉ có thể khẳng định rằng phòng
ngừa tội phạm không đạt hiệu quả
- Sai. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm bao gồm: các tiêu chí về lượng, các tiêu
chí về chất và một số tiêu chí khác. Số liệu thống kê tội phạm là một yếu tố thuộc nhóm các tiêu lOMoAR cPSD| 58702377
chí về lượng. Tuy nhiên, số liệu thống kê tội phạm có xu hướng tăng, điều đó không thể khẳng
định rằng phòng ngừa tội phạm không đạt hiệu quả bởi vì: việc đánh giá phòng ngừa tội phạm đạt
hiệu quả dựa trên các tiêu chí về lượng là có sự giảm dần về số lượng vụ phạm tội và người phạm
tội. Có nghĩa là sau khi tiến hành hoạt động phòng ngừa tội phạm thì tổng số vụ phạm tội của các
loại tội phạm xảy ra trên thực tế (bao gồm tội phạm rõ và tội phạm ẩn) giảm. Số vụ phạm tội thực
tế xảy ra khác với số vụ phạm tội đã bị phát hiện, xét xử và thống kê (chỉ là tội phạm rõ). Do đó,
không thể dựa vào số liệu thống kê tội phạm được các cơ quan tố tụng thống kê trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự để đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm.
12. Nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa tội phạm đòi hỏi sự tham gia của các chủ thể phòng
ngừa tội phạm với vai trò như nhau
- Sai. Nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa tội phạm đòi hỏi sự tham gia tích cực và có hiệu quả
của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân vào hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, mức độ tham tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các khả năng, lợi thế hiện
có của cá chủ thể. Vì vậy, không thể đòi hỏi sự tham gia với vai trò như nhau của các chủ thể phòng
ngừa tội phạm trong nguyên tắc này.
13. Tỷ lệ tăng, giảm (%) tình hình tội phạm so với thời điểm được chọn làm mốc (100%) là
thông số phản ánh cơ cấu của tình hình tội phạm.
- Sai. Tỷ lệ tăng, giảm (%) tình hình tội phạm so với thời điểm được chọn làm mốc (100%) là
thông số phản ánh động thái của tình hình tội phạm. Động thái của tình hình tội phạm là sự thay
đổi về thực trạng và cơ cấu của tình hình tội phạm tại một không gian, thời gian xác định. Sự thay
đổi này được xác định bằng tỷ lệ tăng, giảm thực trạng, cơ cấu tình hình tội phạm so với điểm thời
gian được lựa chọn làm mốc (xác định 100%). 14.
Tất cả các tội phạm được thực hiện đều có quá trình hình thành động cơ phạm tội
- Sai. Các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý là loại tội phạm chỉ có khâu thực hiện được
biểu hiện trong thực tế, không có khâu hình thành động cơ và kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm 15.
Đặc điểm giới tính hoàn toàn không có vai trò trong cơ chế xã hội của hành vi
phạm tội - Sai. Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội bao gồm 2 bộ phận cơ bản tác động lẫn nhau:
+ Bộ phận thứ nhất: các nhân tố bên ngoài thuộc về môi trường khách quan
+ Bộ phận thứ hai: các đặc điểm cá nhân của người phạm tội
- Đặc điểm giới tính thuộc về khía cạnh sinh học là đặc điểm cá nhân của người phạm tội. Đặc
điểm giới tính có vai trò quan trọng trong cơ chế xã hội của hành vi phạm tội. Giúp lí giải nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể, đồng thời mở ra những cơ sở của việc hoạch định các giải
pháp phòng ngừa tội phạm một cách khoa học, hiệu quả.
16. Dự báo tội phạm chỉ cần dựa vào số liệu thống kê của tình hình tội phạm
- Sai. Phương pháp thống kê tội phạm chỉ có thể sử dụng để dự báo tội phạm trong thời gian ngắn
(từ 1 đến 2 năm), không thể dự báo trong thời gian dài vì nhiều khả năng có tác động bên ngoài
khó lường làm ảnh hưởng đến diễn biến tình hình tội phạm. Riêng những tội phạm có độ ẩn cao
không nên sử dụng phương pháp này vì số liệu thống kê tội phạm có độ ẩn cao không phản ánh
đầy đủ thực trạng tình hình tội phạm. Vì vậy, chỉ dựa vào số liệu thống kê để dự báo tội phạm chắc
chắn sẽ cho kết quả thiếu chính xác. lOMoAR cPSD| 58702377
17. Hình phạt không phải là biện pháp phòng ngừa tội phạm
- Sai. Pháp luật cũng có những quy định về phòng ngừa tội phạm và những biện pháp phòng
ngừa tội phạm theo đó, hình phạt là biện pháp pháp luật được quy định trong luật hình sự. Vì vậy,
hình phạt là một trong những biện pháp phòng ngừa tội phạm.
18. Phương pháp thống kê chỉ được sử dụng để mô tả thực trạng tình hình tội phạm
- Sai. Trong tội phạm học, phương pháp thống kê không chỉ được sử dụng để mô tả thực trạng tình
hình tội phạm mà còn được sử dụng vào việc đánh giá mức độ, cơ cấu, diễn biến tội phạm, phân
tích làm rõ nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm, các đặc điểm nhân khẩu của nhân thân
người phạm tội; xác định quy luật vận động phát triển của tội phạm để dự báo tội phạm và lập ra
những kế hoạch, biện pháp phòng chống tội phạm.
19. Tội phạm ẩn là tội phạm chưa được bất kỳ người nào phát hiện -
Sai. Tội phạm ẩn được chia thành 3 loại: tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo và
tội phạm ẩn thống kê. Trong đó, tội phạm ẩn nhân tạo là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, đã bị cơ
quan chức năng phát hiện nhưng không bị xử lý do những sự che đậy từ tội phạm ẩn tự nhiên
khác (ẩn chủ quan). Tội phạm ẩn thống kê là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, đã bị các cơ quan
chức năng phát hiện, xử lý nhưng không đưa vào thống kê hình sự. Vì vậy, tội phạm ẩn không
phải là tội phạm chưa được bất kỳ người nào phát hiện. 20. Tính xã hội là thuộc tính đặc trưng
của tình hình tội phạm -
Sai. Tính xã hội là thuộc tính cơ bản nhất của tình hình tội phạm, dùng để phân biệt tình
hình tội phạm với những hiện tượng tự nhiên khác. Thuộc tính đặc trưng nhất của tình hình tội
phạm là tính trái pháp luật hình sự. Thuộc tính này giúp phân biệt tình hình tội phạm với những
hiện tượng xã hội tiêu cực và những hành vi trái pháp luật khác.
21. Bất kì tội phạm nào được thực hiện cũng có quá trình hình thành động cơ phạm tội -
Sai. Các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý là loại tội phạm chỉ có khâu thực hiện tội phạm
được thực hiện trong thực tế không có khâu hình thành động cơ và kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm.
22. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nam phạm tội nhiều hơn nữ. Điều đó có nghĩa đặc
điểm sinh học có vai trò quyết định việc thực hiện tội phạm
- Sai. Tỷ lệ phạm tội của nam giới nhiều hơn nữ giới là một trong hai vấn đề khi nghiên cứu giới
tính của người phạm tội. Giới tính là một trong những đặc điểm sinh học của người phạm tội. Đặc
điểm sinh học không đóng vai trò quyết định việc thực hiện tội phạm, nó chỉ giữ một vai trò nào
đó trong việc lựa chọn phương thức và thủ đoạn phạm tội. Sự khác biệt bởi quá trình xã hội hóa,
sự phân hóa về vai trò, vị trí xã hội cũng như điều kiện hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi giới được coi là nguyên nhân cơ bản xác định sự khác biệt về tỷ lệ phạm tội cũng như cơ cấu
phạm tội theo giới. Việc quyết định thực hiện tội phạm hay không không quyết định dựa trên đặc
điểm sinh học mà dựa vào nhiều điều kiện và yếu tố: các đặc điểm về nhận thức, tâm lý của người
phạm tội như nhu cầu, hứng thú, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật…; các đặc điểm nhân thân có
tính pháp lý hình sự; các đặc điểm xã hội; những tình huống, hoàn cảnh khách quan thuận lợi…
23. Nạn nhân của tội phạm không phải là chủ thể phòng ngừa tội phạm
- Sai. Theo khoản 3 điều 4 BLHS 2015 quy định: Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia
phòng, chống tội phạm. Vì vậy, nạn nhân của tội phạm cũng là một trong những chủ thể có nghĩa
vụ phòng ngừa tội phạm. lOMoAR cPSD| 58702377
BÀI TẬP TỘI PHẠM HỌC
Bài tập 1: Dữ liệu về số vụ phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh A
giai đoạn 2016-2021 như sau: Tội cướp tài sản-10 vụ; tội cướp giật tài sản- 36 vụ;
tội trộm cắp tài sản- 98 vụ; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản- 66 vụ; tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản- 42; Các tội xâm phạm sở hữu khác - 68 vụ. Hãy dùng
biểu đồ mô tả cơ cấu của các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh A giai đoạn
2016-2021 theo số vụ phạm tội và rút ra nhận xét. Bài làm:
1. Xác định công thức Số tương đối cơ cấu: Trong đó: lOMoAR cPSD| 58702377
- Ycc là số tương đối cơ cấu.
- Ybp là số vụ phạm tội của tội cướp tài sản; tội cướp giật tài sản; tội trộm cắp tài sản; tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; các tội xâm phạm sở hữu khác trên
địa bàn tỉnh A giai đoạn 2016-2021.
- Ytt là tổng số vụ phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh A giai đoạn 2016-2021.
2. Áp dụng công thức ta có:
Tổng số vụ phạm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh A giai đoạn 2016-2021 là 320 vụ. Ta có bảng số liệu sau lOMoAR cPSD| 58702377
3. Dựa trên bảng số liệu trên ta có biểu đồ sau: 1%=3.6 độ
4. Nhận xét và đánh giá
Qua số liệu thống kê về các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh A trong 6 năm từ năm 2016 đến năm 2021 cho thấy: -
Các tội danh phát sinh chủ yếu là các tội xâm phạm sở hữu có mục đích chiếm đoạt, gồm
5 trong số 13 tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự 2015 là: Tội cướp tài sản (Điều 168),
Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 174), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175). -
Trong tổng số 320 vụ phạm tội xảy ra thì tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất với
30,63% với 98 vụ, tiếp đến là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm 20,63% với 66 vụ, tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chiếm 13,13% với 42 vụ, tội cướp giật tài sản chiếm 11,25% với 36
vụ, tội cướp tài sản chiếm 3,11% với 10 vụ; cuối cùng là tổng 08 tội xâm phạm sở hữu còn lại
chiếm 21,25% với tổng số 68 vụ.
NOTE: BÀI KHÁC – THAM KHẢO: cái nào lớn nhất, nhỏ nhất; lớn nhất cách nhỏ nhất bao
nhiêu, cách cái thứ 2,3,.. bao nhiêu; 1. Nhận xét
Căn cứ Biểu đồ về cơ cấu tình tội phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh A giai đoạn 2016
-2021 có thể thấy tình hình tội phạm như sau: -
Tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ trọng cao nhất trong giai đoạn này, chiếm 28,75% (88 vụ vi
phạm) hơn tội xâm phạm sở hữu 4% tương đương 14 vụ ; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 8% tương
đương 26 vụ; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 14% tương đương 44 vụ; tội cướp giật tài
sản 20% tương đương 62%; tội cướp tài sản 24% tương đương 76 vụ. -
Cao thứ hai là tội xâm phạm sở hữu khác chiếm 17% (tương ứng 74 vụ vi phạm) thấp hơn
tội trộm cắp hơn 4% và cao hơn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gần 4% ; Tội lạm dụng tín nhiệm
chiêm đoạt tài sản 8%; tội cướp giật tài sản200%; tội cướp tài sản 24%. -
Đứng ở vị trí thứ ba là tội chiếm đoạt tài sản với 20,27% kém xâ phạm sở hữu khác hơn
4% và tội trộm cắp tài sản hơn 8% còn hơn tội Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gần 6%;
tội cướp giật tài sản 11%; tội cướp tài sản 24%. -
Đứng ở vị trí thứ tư là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chiếm 14,38% tương
đương 44 vụ và vị trí thứ 5 là tội cướp giật tài sản với 8,5% tương đương 26 vụ lOMoAR cPSD| 58702377 -
Tội phạm chiếm cơ cấu ít nhất là tội cướp tài sản với 3,92% tương đương 12 vụ thấp hơn
Tội trộm cắp tài sản....%; hơn tội xâm phạm sở hữu...%
2. Đánh giá và giải thích
Thứ nhất, Qua biểu đồ có thể thấy nhóm các tội phạm có tính chất nghiệm trọng và chiếm tỷ trọng
lớn là tội trộm cắp tài sản, các tội xân phạm sở hữu khác; số vụ vi phạm cao hơn hẳn so với các tội
phạm khác. Nguyên nhân trộm cắp là tội chiếm tỷ trọng cao nhất bởi vì loại hình tội phạm này có
thể diễn ra dưới nhiều hình thức từ giản đơn đến phức tạp, dễ dàng phát sinh trên thực tế, khi hành
vi vi phạm diễn ra cũng dễ dàng bị phát hiện, xử lý. Mặt khác hình phạt đối với loại tội phạm này
cũng không đên mức quá khăt khe.
Thứ hai, Đối với các tội phạm vê tính lạm dụng tín nhiệm chiêm đoạt tài sản, và lừa đảo chiếm
đoạt tài sản yêu cầu thủ đoạn và hành vi thực hiện tội phạm phải có nhiều sự tính toán, chuẩn bị
công phu nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, vì vậy đối với các hành vi vi phạm tội này thường
khó phát hiện, nhận dạng và chứng minh vi phạm trong vụ án. Do đó số vụ việc phát hiện xử lý
của nhóm tội này cũng được thực hiện nhiều trên thực tế hiện thấp hơn các tội về trộm cắp tài sản.
Thứ ba tội cướp tài sản, cướp giật do tính chất nguy hiểm và yêu cầu người vi phạm liều lĩnh dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tấn công người nhắc nhằm đạt được mục đích chiếm
đoạt tài sản của mình. Với hành vì nguy hiểm cho xã hội như vậy, dễ bị phát hiện, đồng thời với
khung hình phạt cao, nghiêm khắc tạo được tâm lý e sợ và sự răn đe trong xã hội. Vì vậy giai đoạn
2016-2021 tội cưỡng đoạt tài sản chiếm tỷ trọng thấp nhất trong nhóm tội xâm phạm về sở hữu.
Bài tập 2: Dữ liệu về số vụ phạm tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh B giai đoạn 2016-2021 như sau:
Năm 2016 có 19 vụ; năm 2017 có 25 vụ; năm 2018 có 28 vụ; năm 2019 có 36 vụ; năm 2020 có 49
vụ; năm 2021 có 56 vụ. Hãy dùng biểu đồ mô tả diễn biến của tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh B giai
đoạn 2016-2021 theo số vụ phạm tội và rút ra nhận xét. Bài làm
1. Xác định công thức Số tương đối diễn biến: Trong đó:
- Ydb là số tương đối diễn biến.
- Mi là số vụ phạm tội của tội buôn lậu năm 2017, năm 2018, năm 2019, năm 2020, năm 2021 trên
địa bàn tỉnh B giai đoạn 2016-2021.
- M1 là số vụ phạm tội của tội buôn lậu năm 2016 trên địa bàn tỉnh B giai đoạn 2016-2021.
2. Áp dụng công thức ta có: lOMoAR cPSD| 58702377
Ta có bảng số liệu sau:
3. Dựa trên bảng số liệu trên ta có biểu đồ sau
Câu 3: Dữ liệu về số vụ phạm tội giết người trên địa bàn tỉnh B từ năm 2006 đến năm 2012 như sau :
- Năm 2006 : số vụ phạm tội là 65 - Năm 2007 : số vụ phạm tội là 83
- Năm 2008 : số vụ phạm tội là 78 - Năm 2009 : số vụ phạm tội là 91
- Năm 2010 : số vụ phạm tội là 101 - Năm 2011 : số vụ phạm tội là 105
- Năm 2012 : số vụ phạm tội là 110 a)
Thông qua dữ liệu đã cho , lập biểu đồ cơ cấu tình hình tội phạm giết người theo số vụ
phạm tội trên địa bàn tỉnh B từ năm 2006 đến năm 2012 b)
Đánh giá diễn biến tình hình tội phạm giết người theo số vụ phạm tội trên địa bàn tỉnh B
từ năm 2006 đến năm 2012 . c)
Xác định nguyên nhân và đề suất 1 số biện pháp phòng ngừa tội phạm giết người trên địa
bàn tỉnh B trong thời gian tới BÀI LÀM lOMoAR cPSD| 58702377
a) Xác định công thức - Số tương đối diễn biến : Ydb = Mi/M1 x 100% - Trong đó :
+ Ydb là số tương đối diễn biến
+ Mi là số vụ phạm tội của tội giết người nă 2006,2007,2008,2009,2010,2011,2012 trên địa bàn tỉnh B
+ M1 là số vụ án phạm tội của tội giết người năm 2006 trên địa bàn tỉnh B giai đoạn 2006 đến 2012
·Áp dụng công thức , ta có :
- Ydb năm 2007 = 83/65 x 100% = 127.69%
- Ydb năm 2008 = 78/65 x 100% = 120%
- Ydb năm 2009 = 91/65 x 100% = 149.23%
- Ydb năm 2010 = 101/65 x 100% = 155.38%
- Ydb năm 2011 = 105/65 x 100% = 161.53%
- Ydb năm 2012 = 110/65 x 100% = 169.23%
Ta có bảng số liệu về tình hình tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh B từ năm 2006 đến 2012
Dựa trên số liệu ta có biểu đồ cơ cấu tình hình tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh B từ năm 2006 đến 2012 lOMoAR cPSD| 58702377
b) Đánh giá diễn biến tình hình tội phạm giết người theo số vụ phạm tội trên địa bàn tỉnh B từ năm 2006 đến năm 2012
- Qua số liệu thống kê về tội giết người trên địa bàn tỉnh B trong 7 năm từ năm 2006 đến 2012 cho
thấy tăng dần tỷ lệ rừ 2006 đến 2012 .
- Tỷ lệ tội phạm cao nhất là năm 2012 với 169.23% , thấp nhất là năm 2006 có tỷ lệ 100% .
- Tăng đột biến từ năm 2008 đến 2009 là 29.23%
- Do vậy , ta phải tìm hiểu tại sao lại có sự gia tăng đột biến như vậy , đồng thời cũng tìm hiểu
nguyên nhân tại sao năm 2008 số người phạm tội lại giảm, để qua đó đề ra các biện pháp hạn chế
và phòng ngừa tội phạm c) Xác định nguyên nhân
- Nguyên nhân có thể là mâu thuẫn trong sinh hoạt hằng ngày, có trường hợp mâu thuẫn nhỏ do va
chạm giao thông, có trường hợp dắt thú cưng đi vệ sinh. Có trường hợp sử dụng ma túy gây ảo
giác, ngáo đá, có trường hợp do sử dụng rượu bia, do một số băng nhóm thanh niên tụ tập hẹn nhau
giải quyết mâu thuẫn gây ra giết người ·Biện pháp
1. Công tác phòng ngừa xã hội : -
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục đạo đức, pháp luật, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm. -
Chấn chỉnh và tăng cường các mặt quản lý xã hội; xác định trách nhiệm đối với gia đình,
cơ quan, tổ chức trong phòng chống tội phạm. -
Nghiên cứu xây dựng và từng bước hoàn thiện các mô hình tổ chức quần chúng tham gia
bảo vệ an ninh trật tự, phòng chống tội phạm. -
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, chú trọng tuyên truyền ý
thức chấp hành pháp luật, kiến thức, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử lành mạnh cho cán bộ quản lý,
nhà giáo, người học tại các cơ sở giáodục. -
Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục đối tượng ở địa bàn dân cư, nhất là người có tiền
án, tiền sự, người nghiện ma túy, người mắc bệnh tâm thần tại cộng đồng;
2. Công tác phòng ngừa nghiệp vụ lOMoAR cPSD| 58702377 -
Đẩy mạnh công tác nghiệp vụ cơ bản, chủ động nắm chắc tình hình, đề ra các kế hoạch,
biện pháp phòng ngừa hiệu quả, kịp thời đối với nhóm các hành vi bạo lực, tội phạm xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. -
Tổ chức tuần tra, kiểm soát tại các tuyến, địa bàn trọng điểm; duy trì chế độ trực ban, trực
chiếnbảo đảm xử lý nhanh, giải quyết kịp thời, triệt để các hành vi bạo lực, côn đồ. -
Tăng cường năng lực cho lực lượng Công an xã, phường, thị trấn để chủ động nắm và giải
quyết tình hình ngay từ cơ sở, sớm phát hiện các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân để kịp thời tham
mưu cấp ủy, chính quyền có biện pháp tuyên truyền, giáo dục, hòa giải không để kéo dài. - Nâng
cao hiệu quả công tác tiếp nhận, phát hiện, điều tra, xử lý BÀI BIỂU ĐỒ CỘT Nhân xét:
Từ biểu đồ và những dữ liệu đã cho về số vụ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua các năm
trong giai đoạn từ 2016 đến 2021 có xu hướng tăng đều qua các năm. Tính trung bình mỗi năm
trên địa bàn tỉnh B tăng lên thêm 6 vụ phạm tội. Đây là một điều đáng báo động ở mức cao, khi
mà hậu quả của tội phạm này gây ra rất nghiêm trọng gây thất toát tài sản của cơ quan, tổ chức,
của nhà nước và các cá nhân.
Năm có số vụ phạm tội thấp nhất là 46 vụ (2016), đến năm 2021 thì tăng lên đến 75 vụ. Điều
đó cho thấy tình hình tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh B rất phức tạp. Đây
mới chỉ là những vụ được phát hiện và được người dân tố giác chỉ được coi là phần nổi của tảng
băng chìm. Ngoài ra có thể còn rất nhiều các vụ phạm tội khác đã và đang thực hiện trót lọt thì các
cơ quan Nhà nước vẫn chưa thể phát hiện và xử lý kịp thời trên thực tiễn.
Tóm tại, qua kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm trên biểu đồ cho chúng ta thấy được một
cách khái quát toàn cảnh vẻ tội phạm đã xảy ra. Từ đó, để nắm bắt tình hình thực tế diễn ra như
thế nào, các cơ quan chức năng có thể đưa ra dự báo trong những năm tiếp theo về các hiện tượng
tội phạm nói chung và tội phạm về lừa đảo chiếm đoạt nói riêng để có các phương án khắc phục,
giảm thiểu tối đa các vụ phạm tội.