








Preview text:
lOMoAR cPSD| 59908026
Đề tài 12: Trình bày quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành về thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, những kết
quả đạt được và hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hành qua một số vụ án hình sự
cụ thể và giải pháp hoàn thiện pháp luật. Làm 1. Mở đầu
Hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những chức năng quan trọng của
Nhà nước nhằm đảm bảo trật tự, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Việt Nam đang trên con đường đổi mới đất
nước hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách sâu sắc và
toàn diện nền hành chính nhà nước ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến
cải cách tư pháp nói chung và nhất là cải cách tố tụng hình sự, vì đây là công cụ sắc
bén và đầy hiệu lực của Nhà nước, thông qua đó đấu tranh phòng chống tội phạm,
bảo vệ an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp luật và pháp chế Xã hội
chủ nghĩa, đồng thời đó là chỗ dựa của nhân dân bảo vệ công lý, bảo vệ quyền công
dân, quyền con người, bảo đảm không làm oan, làm sai đối với người vô tội đồng
thời mọi hành vi phạm tội đều được xử lý nghiêm minh đúng pháp luật.
Tuy nhiên, hoạt động xét xử các vụ án hình sự trong giai đoạn sơ thẩm vẫn chưa đạt
được yêu cầu, mục tiêu đề ra vì vẫn còn phát sinh rất nhiều bản án bị Tòa án cấp
trên tuyên hủy, sửa theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Để khắc
phục tình trạng này thì từng cấp xét xử phải đảm bảo xét xử vụ án đúng về cả nội
dung lẫn tố tụng, trong đó việc Tòa án cấp trên 2 thực hiện các quyền như: giữ
nguyên bản án, sửa bản án hay hủy bản án của Tòa án cấp dưới khi xét xử vụ án
hình sự luôn được đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật.
Mỗi quyết định của Tòa án cấp trên về hủy bản án hay sửa bản án hình sự của
Tòa án cấp dưới đều có ý nghĩa, tác động quan trọng đến quá trình giải quyết vụ án
hoặc sai sót trong việc áp dụng pháp luật. Nếu như việc hủy bản án của Tòa án sơ
thẩm do có những tình tiết mới phát sinh liên quan đến việc giải quyết vụ án thì việc
hủy bản án (trừ trường hợp hủy và đình chỉ vụ án) chủ yếu là nhằm tạo điều kiện để
các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp dưới khắc phục những vi phạm pháp luật
nghiêm trọng để điều tra, xét xử lại hoặc chỉ để xét xử lại đúng đắn vụ án.
Những vấn đề trên đây là lý do tôi chọn đề tài “Quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng lOMoAR cPSD| 59908026
xét xử phúc thẩm, những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi
hành qua một số vụ án hình sự cụ thể và giải pháp hoàn thiện pháp luật”
2. Các căn cứ pháp lý về thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm:
Trong tố tụng hình sự Việt Nam khi nói đến thuật ngữ “hủy bản án” sơ thẩm
hình sự là nói đến thẩm quyền của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hoặc giám đốc
thẩm, tái thẩm được quy định trong pháp luật hình sự.
Căn cứ theo điểm c,d khoản 1 điều 355 BLTTHS ( Bộ luật tố tụng hình sự)
năm 2015 quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm:
1 . Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền :
c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án;
Theo đó, hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong
các trường hợp theo khoản 1 điều 358 BLTTHS:
- Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để
khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;
- Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.
Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm
với thành phần Hội đồng xét xử mới trong các trường hợp theo khoản 2 điều 358 BLTTHS:
- Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định;
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm;
- Người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho
rằng người đó đã phạm tội;
- Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp
đối với bị cáo không có căn cứ; lOMoAR cPSD| 59908026
- Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng
không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy
định tại Điều 357 của BLTTHS năm 2015
Khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Hội đồng xét xử phúc
thẩm phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm.
Khi hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, Hội đồng xét xử phúc thẩm không quyết định
trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác
bỏ, cũng như không quyết định trước về điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự cần
áp dụng và hình phạt đối với bị cáo.
Trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam
đối với bị cáo đã hết và xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam bị cáo thì Hội đồng xét
xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc
Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được
chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung.
Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án theo điều 359 BLTTHS -
Khi có một trong các căn cứ sau thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy
bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án (khoản 1,2 điều 157 BLTTHS). +
Không có sự việc phạm tội. +
Hành vi không cấu thành tội phạm.
Như vậy, khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
157 của BLTTHS năm 2015: “Không có sự việc phạm tội hay hành vi không cấu
thành tội phạm” thì Tòa án cấp phúc thẩm phải tuyên bị cáo không có tội để đảm bảo
khôi phục danh dự, cũng như quyền lợi cho bị cáo và đình chỉ vụ án. -
Khi có một trong các căn cứ sau thì Hôi đồng xét xử phúc thẩm hủy
bản áṇ sơ thẩm và đình chỉ vụ án (khoản 3 đến khoản 7 điều 157 BLTTHS).
+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự. lOMoAR cPSD| 59908026
+ Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ
vụ án có hiệu lực pháp luật. +
Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. +
Tội phạm đã được đại xá.
+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần
tái thẩm đối với người khác.
Trường hợp hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là khi Tòa án cấp phúc
thẩm xác định có một trong các căn cứ như bị cáo chưa đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hay quyết định đình chỉ vụ
án có hiệu lực pháp luật; hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; bị cáo chết
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm….Các căn cứ trên cũng chính là các căn cứ không
được khởi tố vụ án hình sự và cũng là những sai lầm, vi phạm nghiêm trọng trong
việc áp dụng BLHS và BLTTHS. Những căn cứ này có thể xuất hiện trước khi khởi
tố vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không phát hiện được nên
vẫn kết án bị cáo nhưng cũng có thể xuất hiện sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử.
3. Những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hành qua
một số vụ án hình sự cụ thể và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
2.1, Thực tiễn thi hành qua một số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Qua nghiên cứu các bản án mà Tòa án cấp cao tại TPHCM tuyên hủy cho
thấy do có những vi phạm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử buộc Tòa án cấp
trên phải hủy bản án của Tòa án cấp dưới để điều tra lại hoặc xét xử lại. Một trong
những vi phạm đó thể hiện trong các vấn đề sau:
- Huỷ bản án do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự
Dạng vi phạm thường gặp trong các vụ án bị hủy là chưa làm rõ chứng cứ
chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng phạm tội, như vụ án Nguyễn Hồng
Ngân phạm tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” xảy ra tại quận 7, Thành phố Hồ
Chí Minh. Nội dung vụ án thể hiện: Năm 2004, Nguyễn Hoàng Ngân mua căn hộ tại
khu đô thị Phú Mỹ Hưng. Năm 2012, bà Trần Thị Lệ Quyên mua căn hộ này với gia
5,4 tỷ đồng, đã thanh toán 4,999.022.500 đồng, số tiền còn lại 400.977.500 đồng khi
nào làm xong thủ tục sang tên sẽ thanh toán hết. Ngân đã bàn giao hồ sơ gốc và giao
quyền sử dụng cho bà Quyên, từ tháng 5/2012, bà Quyên cùng gia đình dọn về ở tại
căn hộ. Vào các ngày 23-25/6/2015, Ngân gửi thư điện tử yêu cầu bà Quyên thanh
toán 250 triệu đồng nhưng Quyên không trả lời. Ngày 27/6/2015, Ngân cùng con lOMoAR cPSD| 59908026
trai (15 tuổi) đi đến tìm Quyên nhưng Quyên đi nước ngoài. Ngân nhờ bảo vệ kêu
thợ đến mở kháo và cùng con trai vào ở căn hộ cho đến sáng ngày 26/6/2015 thì bị
người nhà bà Quyên phát hiện tố giác. Cơ quan tiến hành tố tụng cấp phúc thẩm
khởi tố, truy tố xét xử bị cáo Nguyễn Hoàng Ngân về tội “Xâm phạm chỗ ở của
công dân”, xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy:
Năm 2004, Ngân mua căn hộ ở Phú Mỹ Hưng nhưng chưa làm được giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sử hữu nhà. Ngày 36 20/4/2012, Ngân và bà Quyên
ký kết hợp đồng hứa bán, hứa mua căn hộ này với giá 5,4 tỷ đồng, đã thanh toán
một phần, còn lại 400.977.500 đồng sẽ trả sau. Tuy nhiên, Ngân khai hợp đồng hứa
bán hứa mua được lập là giả cách để bà Quyên vay ngân hàng. Ngân chỉ nhận có
450 triệu đồng chứ không phải là 4,9 tỷ đồng. Bà Quyên không ở tại căn hộ mà
thường xuyên ở nước ngoài. Ngày 27/6/2015, Ngân có gọi điện báo bà Quyên trước.
Việc bị cáo vào nhà có sự chứng kiến của bảo vệ. Với những chứng cứ thu thập có
trong hồ sơ vụ án là chưa đầy đủ, chưa làm rõ căn cứ xác định căn hộ là chỗ ở hợp
pháp của bà Quyên được pháp luật công nhận và bảo vệ, do đó chưa đủ căn cứ xác
định hành vi của bị cáo vào trong căn hộ là hành vi xâm nhập trái pháp luật. Do
chứng cứ vụ án chưa đảm bảo tính khách quan, hợp pháp và chưa mang tính thuyết
phục, Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Hoặc một vụ án mà hủy bản án do sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
pháp luật ( điểm đ khoản 2 điều 358). Cụ thể ở đây là vi phạm về truy tố, xét xử
không đúng tội danh. Những vi phạm này thường xảy ra ở những tội phạm có dấu
hiệu đặc trưng gần giống nhau như giết người với giết người trong trạng thái bị kích
động mạnh, cố ý gây thương tích hoặc các tội phạm về kinh tế như tội lừa đảo và tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. ví dụ là vụ án Nguyễn Văn Quy phạm tội
“Cố ý gây thương tích” xảy ra tại quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung vụ án
thể hiện: Do bực tức về việc bị Vương Đình Khánh đánh chảy máu, Nguyễn Văn
Quy cầm dao sang phòng trọ anh Khánh trả thù, khi đến cửa phòng, ông Vương
Đình Diệu là cha anh Khánh ra can ngăn, Quy dùng dao chém 06 nhát vào đỉnh đầu,
01 nhát vào tai, 01 nhát vào cằm và 01 nhát vào tay trái ông Diệu, hậu quả làm cho
ông Diệu bị thương tích 96% và bị liệt nửa người. Hành vi phạm tội của bị cáo có
tính chất côn đồ, dùng hung khí nguy hiểm chém liên tiếp vào người bị hại gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng, bị hại không chết là nằm ngoài mong muốn của bị cáo,
do đó, hành vi của bị cáo có dấu hiệu phạm vào tội “Giết người”. Viện kiểm sát và
Tòa án quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn Quy về
tội “Cố ý gây thương tích”, là chưa phù hợp những tính tiết khách quan của vụ án.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. lOMoAR cPSD| 59908026
3.2 , Những kết quả đạt được trong thực tiễn thi hành
Việc hủy bản án sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm giúp cho các cơ
quan tiến hành tố tụng cấp dưới trong quá trình giải quyết vụ án phát hiện ra những
sai phạm, thiếu sót của mình qua đó có cách thức khắc phục, tạo điều kiện để đưa vụ
án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Đây được xem là yếu tố quan trọng
giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được những bản án có vi phạm, tính
chất mức độ như thế nào, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quyền lợi cơ bản của
công dân ra sao để quyết định có tiếp tục thi hành bản án hay hoãn thi hành bản án.
Nếu như trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử của vụ án có những sai sót
thì việc hủy bản án sẽ góp phần khẳng định tính khách quan, dân chủ của các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như quyền lợi của người tham gia tố tụng, trong việc
chứng minh tính công bằng được xã hội thừa nhận. Đồng thời qua đó góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề còn bất cập, những tình tiết chưa rõ ràng của vụ án, đảm bảo
sự tin tưởng của người dân 10 nói chung và những người đang trong quá trình áp
dụng các biện pháp nhằm phục vụ quá trình điều tra xử lý án nói riêng an tâm vào
chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước và đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội
được nêu cao. Việc hủy bản án cũng góp phần khẳng định vai trò và đảm bảo uy tín
của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng, tránh để xảy ra
tình trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức luôn luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đây được xem là
một trong những mục tiêu quan trọng của Nhà nước ta nhằm xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là một trong những nhiệm vụ của
pháp luật. Như vậy, hủy bản án sẽ là căn cứ, điều kiện để các cơ quan thực thi pháp
luật xem xét, đánh giá lại tính chất vụ án, mức độ hành vi của bị can, khung hình
phạt… đã đúng, khách quan và chính xác chưa, qua đó nhằm bảo đảm các quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tăng cường dân chủ. Đồng thời,
nguyên tắc này cũng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo đảm việc
xác định sự thật vụ án được khách quan, toàn diện, chính xác và đầy đủ.
3.3 , Những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hành
Phải nói rằng, BLTTHS 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung khắc phục được
những hạn chế của BLTTHS 2003 liên quan đến các căn cứ và thẩm quyền huỷ án
sơ thẩm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xét xử phúc thẩm của Toà án. Tuy nhiên, lOMoAR cPSD| 59908026
BLTTHS 2015 vẫn còn những quy định làm hạn chế chất lượng huỷ bản án của Toà
án cấp sơ thẩm. Ví dụ như:
Quy định cho phép xét xử sơ thẩm vắng mặt người tham gia tố tụng, nhất là
bị hại quá rộng, người làm chứng, dẫn đến hạn chế trong việc giúp cho Toà án xác
định chính xác, khách quan hơn các tình tiết của vụ án trong một phiên toà tranh
tụng (Điều 292, Điều 293).
Điều BLTTHS cho phép Toà án xét xử tội nặng hơn tội mà VKS truy tố, nhưng thủ
tục để xét xử tội nặng hơn đó lại có thể vi phạm nguyên tắc tranh tụng (khoản 3
Điều 298) khi mà tại phiên toà, đại diện bên buộc tội và gỡ tội không thể tranh tụng
về tội nặng hơn mà Toà án dự định xét xử...
Các quy định của BLTTHS liên quan đến huỷ bản án để điều tra, xét xử lại hoặc
đình chỉ vụ án chưa được hướng dẫn kịp thời. Cho đến nay, chưa có một án lệ nào
liên quan đến vấn đề này được xây dựng, ban hành. Công tác tổng kết thực tiễn
chưa được chú trọng. Các vụ án Tòa án tuyên hủy để điều tra, xét xử lại chưa được
tổng kết, phân tích để rút ra những vấn đề cần khắc phục từ công tác nghiệp vụ đến
công tác quản lý, chỉ đạo; việc triển khai thực hiện chuyên đề nghiệp vụ, thông báo
rút kinh nghiệm của một số Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra kém hiệu quả.
Những vi phạm, thiếu sót trong hoạt động tố tụng đã được thông báo rút kinh
nghiệm nhiều lần, tuy nhiên những vi phạm thiếu sót này vẫn tiếp tục lặp lại ở một
số địa phương, làm hạn chế chất lượng công tác…
Ngoài những bản án bị Tòa án tuyên hủy là có căn cứ, đúng pháp luật, vẫn
còn một số bản án Tòa án tuyên hủy không có căn cứ, cụ thể:
Một số trường hợp có đủ căn cứ kết tội bị cáo nhưng do nhận thức và áp dụng pháp
luật không đúng dẫn đến Tòa án nhận định, đánh giá không toàn diện, không phù
hợp với tài liệu, chứng cứ khách quan của vụ án từ đó tuyên bị cáo không phạm tội,
Viện kiểm sát đã kháng nghị và Tòa án các cấp đã xử lại tuyên bị cáo có tội hoặc
hủy án để xét xử lại.
Ngoài ra còn tồn tại những hạn chế trong công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự của VKS dẫn đến tình trạng bản án
bị hủy để điều tra, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án có nguyên nhân từ hoạt động của
KSV và lãnh đạo VKS các cấp trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. lOMoAR cPSD| 59908026
Kiểm sát viên không thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và hạn chế về năng lực nghiệp vụ, không kịp thời đề ra
yêu cầu điều tra để làm rõ những tình tiết vụ án, nhằm giải quyết các mâu thuẫn
trong tài liệu chứng cứ để đảm bảo có đủ chứng cứ khi quyết định việc truy tố bị can
ra trước tòa. Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp không thực hiện đầy đủ trách nhiệm
và hạn chế trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động nghiệp vụ.
3.4 , Các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc huỷ án sơ thẩm có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc bảo đảm cho hoạt động xét xử sơ thẩm cũng như phúc thẩm đảm bảo chất
lượng, đạt hiệu quả cao.
Ví dụ là cần bổ sung vào Điều 358 BLTTHS một khoản quy định “Những
trường hợp mặc dù quá trình tố tụng trước đó có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng, nhưng việc Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét
xử lại không thể khắc phục được vi phạm đó thì Toà án cấp phúc thẩm giải quyết
theo thủ tục chung”. Ví dụ, trong giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử sơ thẩm, bị
can, bị cáo dưới 18 tuổi không được cử người bào chữa (tức có căn cứ đề huỷ bản
án theo điểm c khoản 1 hoặc điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS); nhưng đến khi
xét xử phúc thẩm bị cáo đã trên 18 tuổi, không bắt buộc có người bào chữa nữa.
Trong trường hợp này, Toà án cần căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được xác
định để ra phán quyết mà không cần huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Ngoài ra việc nâng cao chất lượng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm nghề nghiệp luôn là một
nhiệm vụ quan trọng góp phần không nhỏ trong việc phòng chống oan sai, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tăng cường các lớp bồi dưỡng kiến thức
nghiệp vụ, trình độ chính trị, chuyên môn, trang bị thêm kiến thức trong lĩnh vực
kinh tế, tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán trực tiếp làm nhiệm vụ trong công tác đấu tranh với tội phạm
có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm diễn biến
phức tạp và tinh vi như hiện nay. 4. Kết luận
Xuất phát từ mục đích của tố tụng hình sự và từ nhu cầu thực tiễn cần thiết
phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án của Tòa án cấp dưới, đồng thời lOMoAR cPSD| 59908026
khắc phục vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nhằm góp phần bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo công bằng xã
hội, pháp luật tố tụng hình sự quy định Tòa án cấp trên trong quá trình xem xét lại
bản án bị kháng cáo, kháng nghị của Tòa án cấp dưới, xét thấy có căn cứ theo quy
định của pháp luật có quyền hủy bỏ một phần hay toàn bộ bản án đó để điều tra
hoặc xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án. Trên cơ sở đó, các quy định của BLTTHS năm
2015 về hủy bản án cũng thay đổi theo hướng phù hợp và đó là kết quả của công
tác tổng kết thực tiễn, sửa đổi bổ sung những bất cập, hạn chế trong thời gian qua và
tiếp thu có chọn lọc những quy định tiến bộ của các BLTTHS trước. Danh mục tham khảo:
- Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam – Trường đại học Luật Hà Nội.
- Luật văn: Hủy bản án sơ thẩm hình sự - Học viện khoa học xã hội.