ĐỀ TÀI “Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm này trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”
ĐỀ TÀI
“Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển.
Vận dụng quan điểm này trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”
Preview text:
Triết học Mác-Lênin (Trường Đại học Thương Việt Nam hiện nay mại)
Studocu n'est pas sponsorisé ou supporté par une université ou un lycée
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
“Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển.
Vận dụng quan điểm này trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”
Nhóm thực hiện: Nhóm 8
Mã lớp học phần: 2318MLNP0221
Giảng viên: Đào Thu Hà
Hà Nội - 2023
MỤC LỤC Phần I: Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển....3
1.1 Khái niệm của phát triển..........................................3
1.2 Tính chất của phát triển...........................................5
1.3 Ý nghĩa của phát triển..............................................6
Phần II: Vận dụng quan điểm phát triển trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay...................................................................8
2.1 Khái niệm và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam....................................................8
2.2 Khả năng tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.........................................................................12
2.3 Nguyên nhân quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay..................................................................13
2.4 Thực trạng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay...........................................................14
2.4.1Thành tựu đã đạt được......................................14
2.4.2Hạn chế và những vẫn đề đặt ra.......................18
Phần III: Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay..........................................................20
3.1 Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam 20
3.2 Giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.............21
KẾT LUẬN........................................................23 Mở đầu
Ngày nay, triết học là một bộ phận cấu thành của bất kỳ hình thức phát triển kinh tế nào. Nhận thức lý luận và thực tiễn những vấn đề triết học và phép biện chứng luôn là cơ sở, phương hướng, kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ quan điểm triết học đúng đắn, con người có thể có những giải pháp phù hợp cho các vấn đề trong cuộc sống. Chấp nhận hay không chấp nhận một quan điểm triết học nào đó không chỉ là chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách giải thích nhất định về thế giới mà còn là chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định và một hướng dẫn lập pháp nhất định.
Những nguyên lý phát triển dựa trên cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự vật và hiện tượng một cách toàn diện. Sự phát triển đó là xu thế tất yếu, phổ biến của mọi sự vật trên thế giới, xu thế này có tính phổ biến và được phản ánh trong các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư tưởng,…
Sự phát triển diễn ra dưới ba hình thức: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện và sự vật tiến lên. Nói chung, vạn vật đều có quá trình sinh thành, biến đổi, phát triển và cuối cùng là diệt vong, nhưng chúng đều có một xu thế chung là luôn luôn phát triển, cũ mới thay thế, cái sau tiến bộ hơn cái trước. Theo quan điểm biện chứng, phát triển là quá trình vận động đi lên, có những bước nhảy vọt và không phải lúc nào sự phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng mà rất ngoằn ngoèo, phức tạp, thậm chí có những bước thụt lùi tạm thời. Phát triển là kết quả của những thay đổi về lượng, dần dần dẫn đến những thay đổi về chất. Trái ngược với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình cho rằng sự phát triển là liên tục không có biến đổi và sự phát triển chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không phải sự thay đổi về chất..
Nhận thấy ý nghĩa quan trọng của nguyên lý về sự phát triển trong chủ nghĩa Mac – Lenin, nhóm em sau đây sẽ phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, và từ đó vận dụng quan điểm này trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay.
Phần I: Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển
1.1 Khái niệm của phát triển
Theo quan điểm biện chứng
Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn.
Phân biệt sự khác nhau giữa phát triển và vận động. Vận động là bao hàm mọi biến đổi nói chung, còn phát triển là biểu hiện của tính quy luật, tính khuynh hướng của vận động: vận động theo khuynh hướng tiến lên làm cho sự vật ngày càng hoàn thiện hơn.
Như vậy, phát triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển, mà chỉ vận động nào theo khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển. Vận động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không thể có phát triển. Do vậy ở phương Tây trước Kant chưa có quan niệm về phát triển, vì trước đó người ta chỉ mới suy tư về không gian mà chưa đặt vấn đề suy tư sâu về thời gian. Còn ở phương Đông với văn hóa coi trọng truyền thống, mà Nho giáo là điển hình, thì quan niệm phát triển không hẳn hướng về tương lai mà thường hướng về quá khứ. Một xã hội lý tưởng không phải là xã hội sẽ có mà là đã có. Như vậy, nếu người phương Tây xem vật chất vận động trong thời gian tuyến tính, thì người phương Đông lại xem vật chất vận động trong thời gian tuần hoàn. Xét từ cách tiếp cận phương Tây thì phương Đông không có khái niệm “phát triển”, mà chỉ có khái niệm “tăng trưởng”.
Từ quan niệm, phát triển là sự vận động theo chiều hướng đi lên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ, thực chất của phát triển là sự phát sinh đối tượng mới phù hợp với quy luật tiến hóa và sự diệt vong của đối tượng cũ đã trở nên lỗi thời. Ph.Ăngghen cho rằng, phát triển “...là mối liên hệ nhân quả của sự vận động tiến lên từ thấp đến cao thông qua tất cả những sự vận động chữ chi và những bước thụt lùi tạm thời...”.
Quan điểm biện chứng coi sự phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế; chỉ ra nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong sự vận động, phát triển và chuyển hóa không ngừng. Cơ sở của sự vận động đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. Vì thế V.I.Lênin cho rằng, học thuyết về sự phát triển của phép biện chứng duy vật là “hoàn bị nhất và không phiến diện”. Do vậy, quan điểm này được xây dựng thành khoa học nhằm phát hiện ra các quy luật, bản chất và tính phổ biến của vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Tùy theo các lĩnh vực khác nhau mà sự vận động đó có thể là vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Đặc điểm chung của sự phát triển là tính tiến lên theo đường xoáy ốc, có kế thừa, dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa có những bước nhảy vọt...làm cho sự phát triển mang tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi trong sự tiến lên.
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của vận động, chỉ khái quát xu hướng chung của vận động là vận động đi lên của sự vật, hiện tượng mới trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Tùy thuộc vào hình thức tồn tại của các tổ chức vật chất cụ thể mà “phát triển” thể hiện khác nhau.
Theo quan điểm siêu hình
Quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng.
Phát triển ở đây chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại mà không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và nguồn gốc của sự “phát triển” đó nằm ngoài chúng.
Nếu có sự thay đổi về mặt chất thì cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, không có sự ra đời cái mới.
Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có bước quanh có, phức tạp.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
1.2 Tính chất của phát triển
Tính khách quan
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có con người nhưng nó vẫn phát triển.
Tính phổ biến
Sự phát triển diễn ra ở trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật, hiện tượng, mọi quá trình của giai đoạn của sinh vật, hiện tượng và kết quả mới là cái xuất hiện.
- Trong tự nhiên: Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi trường
Ví dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí hậu thay đổi họ sẽ khó chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.
- Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước.
- Trong tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với tự nhiên và xã hội.
Ví dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
Tính phong phú, đa dạng
Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không hoàn toàn giống nhau, ở những không gian và thời gian khác nhau; chịu sự tác động của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sự cụ thể.
Ví dụ, không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới tự nhiên với sự phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự nhiên thuần tuý tuân theo tính tự phát, còn sự phát triển của xã hội loài người lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức.
Tính kế thừa
- Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô.
- Sự vật. hiện tượng còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp và gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ.
Ví dụ: Một quả trứng sẽ là sự khẳng định ban đầu ở trong điều kiện được ấp qua quá trình phủ định lần 1 sẽ tạo ra gà mái con tiếp đó trải qua quá trình phủ định lần 2 tức là khi gà mái con lớn lên thì sẽ sinh ra nhiều quả trứng.
Đây chính là kết quả sự phủ định của phủ định. Sự phát triển biện chứng thông qua mỗi lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa loại bỏ, những kế thừa và phát triển. Trải qua mỗi lần phủ định sẽ loại bỏ được những cái cũ, những vấn đề còn lạc hậu từ đó sẽ tạo ra được những cái mới hơn, những cái phù hợp hơn với sự phát triển.
1.3 Ý nghĩa của phát triển
- Khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, ta cần đặt nó trong sự vận động và phát triển, phát hiện xu hướng biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
- Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
- Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Ví dụ: Khi lựa chọn cánh cửa đại học là đích đến tiếp theo thì chúng ta cần phải xây dựng ra chiến lược trong 4 năm này chúng ta cần làm gì, nếu tốt nghiệp rồi thì sẽ hướng về làm cho doanh nghiệp hay tự khởi nghiệp.
- Phải nhận thấy rằng sự phát triển của sự vật không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp. Không lung lay trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn. Phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển, chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
- Cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
Ví dụ: Một người đã từng gặp lỗi sai trong quá khứ thì chúng ta cần phân tích chỉ ra cái sai để họ làm tốt hơn, chứ đừng chỉ nhìn vào quá khứ sai lầm của họ để mang ra chì chiết, kìm hãm sự phát triển của họ.
- Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia thành các quá trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn, chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó → quan điểm lịch sử - cụ thể.
- Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển. Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo. Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Ví dụ: Sinh viên phát triển theo từng thời kì từ năm nhất đến năm cuối có 4 năm để có thể lên một kết hoạch cụ thể cho từng năm , từng quá trình để có thể phân phối thời gian, trí tuệ, sức lực sao cho phù hợp.
- Phải nỗ lực tìm kiếm, học hỏi và tích lũy những kiến thức về khoa học và kiến thức thực tiễn. Trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
- Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
- Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
Ví dụ: Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội phải kế thừa thành tựu của chủ nghĩa tư bản
Phần II: Vận dụng quan điểm phát triển trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1 Khái niệm và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Khái niệm
Thời kỳ quá độ là thời kì diễn ra với giai đoạn trong thay đổi tính chất xã hội. Cải tạo cách mạng xã hội Tư bản chủ nghĩa thành xã hội Xã hội chủ nghĩa. Khi đó hàng hoạt các chính sách được thay đổi đáp ứng với chiến lược đề ra. Mang đến các chuyển hóa để đi đến thành công trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Kết quả sau thời kỳ này là quốc gia tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở một số quốc gia, có thể có bước nhảy vọt lên Chủ nghĩa xã hội mà không trải quan Tư bản chủ nghĩa. Nhưng tất cả các tính chất diễn ra trong giai đoạn này vẫn đảm bảo cho thời kỳ quá độ được phản ánh.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Lịch sử xã hội đã trái qua 5 hình thái kinh tế-xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế xã hội đã xuất hiện trong lịch sử, hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa có sự khác biệt về chất, trong đó không có giai cấp đối kháng, con người từng bước trở thành người tự do... Bởi vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. C.Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính tri, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gi khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”, V.I Lênin trong điều kiện nước Xô – Viết cũng khẳng định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản phải có một thời kỳ quá độ nhất định. Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản:
- Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư bản phát triển chưa từng diễn ra.
- Quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trên thế giới một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay, theo đúng lý luận Mác – Lênin, đều đang trải qua thời kỳ quá độ gián tiếp với những trình độ phát triển khác nhau. Xuất phát từ quan điểm cho rằng: chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo mà là kết quả của phong trài hiện thực, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng: Các nước lạc hậu với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng có thể rút ngắn được quá trình phát triển: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng, các dân tộc lạc hậu có thể rút ngắn khá nhiều quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và tránh được phần lớn những đau khổ và phần lớn các cuộc đấu tranh mà chúng ta bắt buộc phải trải qua ở Tây Âu. C.Mác khi tìm hiểu về nước Nga cũng ghi rõ: “Nước Nga... có thể không cần trải qua đau khổ của chế độ (chế độ tư bản chủ nghĩa) mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy". Vận dụng và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I Lênin khẳng định: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản, các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô - Viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (hiểu theo nghĩa con đường rút ngắn). Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thời đại ngay nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tu bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Tính chất mang đến các mốc thời điểm và kết thúc. Không có một khoảng thời gian cụ thể để các quốc gia thực hiện thành công đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi các phản ánh trong thực tế đất nước và cách thức lãnh đạo tác động rất lớn lên kết quả. Cho nên, bên cạnh các kinh nghiệm trên thế giới, các thuận lợi, sáng tạo sẽ giúp các quốc gia nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
- Trên lĩnh vực kinh tế
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
- Trên lĩnh vực chính trị
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
- Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
- Trên lĩnh vực xã hội
Tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Đây là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
Phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
2.2 Khả năng tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Khả năng khách quan
Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên giúp chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội là Liên Xô lúc đó đã tiến hành thành công cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tinh thần. Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đưa ra cho chúng ta tấm gương khá sinh động về sự thành công và thất bại sâu sắc và chi tiết đến mức có thể từ đó đưa ra những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng.
Ngày nay, xu thế quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới đã đóng vai trò tích cực, không những làm cho quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản là tất yếu mà còn đem lại điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Quá tình quốc tế hoá sản xuất, toàn cầu hoá với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo khả năng cho những nước kém phát triển đi sau tiếp thu, vận dụng đưa vào nước ta lực lượng sản xuất hiện đại và kinh nghiệm của những nước đi trước cũng như tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn, kĩ thuật hiện đại. Điều kiện đó giúp chúng ta tranh thủ được cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Khả năng chủ quan
Sự lãnh đạo của Đảng và liên minh công nông vững chắc là yếu tố quan trọng bậc nhất cho mọi thành công của chúng ta đạt được. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin luôn luôn nhấn mạnh vai trò của Đảng vô sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện quá tình phát triển rút ngắn ở các nước tiền tư bản nói riêng. Ở Việt Nam, Đảng công sản Việt Nam là một nhân tố có vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những kết quả khả quan như: Đã củng cố và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn. Sự lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa của nước ta là phù hợp với sự lựa chọn của nhân dân ta. Các tầng lớp lao động công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Do đó họ sẵn sàng liên minh chặt chẽ với nhau và cùng với Đảng để vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Khả năng và nguồn lực trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, chăm chỉ, khéo léo, dễ dàng đào tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và phong phú tạo điều kiện hoàn thành sự công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo tiền đề xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2.3 Nguyên nhân quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Nguyên nhân khách quan
Khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin thì người đã tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản. Bác Hồ khẳn định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bực: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Tư tưởng đó được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo. Lựa chọn đó là của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Nguyên nhân chủ quan
Đầu tiên, chủ nghĩa xã hội có mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện; là một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì con người.
Thứ hai, thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của thế lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, là một dân tộc yêu chuộng hoà bình, khát khao về một xã hội công bằng tốt đẹp, ước mơ giải phóng dân tộc, dân ta phải đấu tranh với kẻ thù đàn áp. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.
Thứ tư, hiện nay, chủ nghĩa tư bản, nhất là ở một số nước tư bản phát triển đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ; có sự điều chỉnh nhất định về sở hữu, an sinh xã hội,… làm cho diện mạo của chủ nghĩa tư bản khác nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, do vậy các cuộc khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục xảy ra. Chẳng hạn là khủng hoảng trong việc giải quyết dịch bệnh Covid – 19 hiện nay đang làm trầm trọng thêm các mâu thuẫn, xung đột, bạo lực dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, biểu tình, bãi công,… không chỉ ở thế giới tư bản, mà còn đặt ra nhiều thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Chắc chắn đây không phải là chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam mong đợi, càng không phải là tương lai của nhân loại. Nhân dân Việt Nam cần một xã hội “mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người…”.
Cuối cùng, thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực, có thể nói, “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với cứ thời kỳ nào trước đây”. Rõ ràng “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về mặt kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản có cùng mức phát triển kinh tế”.
2.4 Thực trạng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển kinh tế và chính trị đánh kể trong những năm qua, với sự gia tăng của chủ nghĩa thị trường và văn hoá tiêu dùng. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội vẫn là một mục tiêu lý tưởng và được nhiều người ủng hộ. Hiện nay, chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn đi kèm với những thách thức. Một số vấn đề cấp thiết là cải thiện hệ thống tài nguyên chính, tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, duy trì và phát triển các ngành nghề và dịch vụ cộng đồng, nâng cao quyền lợi cho người dân và bảo vệ môi trường. Mặc dù chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều khó khăn, nhưng với niềm tin của mọi người vào sự cố gắng của Chính phủ
2.4.1Thành tựu đã đạt được
30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung phát triển năm 2011) và 35 năm đổi mới: “Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới. Trình độ nền kinh tế được nâng cao. Đời sống nhân dân về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát triển; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh; kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm lực kinh tế đất nước tăng lên. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, phát triển con người,…. Các chính sách, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chính sách dân tộc, tôn giáo được thực hiện có kết quả. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, dân chủ xã hội chủ nghĩa được tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng được hoàn thiện. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Cụ thể như sau:
- Về kinh tế
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tích cực thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước đầu tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có tiến bộ. Cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, sinh học hóa được chú trọng gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới. Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục trong nhiều năm; tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện, nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, quy trình quản lý công nghiệp hiện đại được áp dụng. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao, thị trường được mở rộng. Một số ngành dịch vụ mới, chủ lực có giá trị gia tăng cao như khoa học - công nghệ, thiết kế công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông. .. đã hình thành và từng bước phát triển.
- Ứng dụng công nghệ cao để đẩy mạnh nhiều ngành, lĩnh vực. Nông nghiệp tập trung vào sản xuất hàng hoá theo hướng hiện đại, giá trị tăng cao, bền vững, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và hình thành nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ. Cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao. Công nghiệp hỗ trợ từng bước được hình thành và phát triển. Ngành xây dựng tăng trưởng mạnh, năng lực xây lắp và chất lượng công trình xây dựng từng bước được cải thiện. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, chất lượng ngày càng cao. Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng, cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
- Về chính trị
- Bám sát tám phương hướng trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta đã cụ thể hóa, bổ sung, làm sáng tỏ hơn phương hướng phát triển đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được tiếp cận theo tư duy mới gắn với đổi mới mô, cơ cấu lại nền kinh tế; nhấn mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; chú trọng chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; phát triển nhanh, bền vững. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được đầy đủ hơn theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập, bảo đảm độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
- Xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng có bước chuyển biến mạnh mẽ: Các quy định, nguyên tắc, cơ chế vận hành tổ chức bộ máy ngày càng hoàn thiện. Các văn bản về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng liên tục được bổ sung, được cụ thể, toàn diện, đồng bộ hơn. Bộ máy của Đảng được đẩy mạnh sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên bước đầu có kết quả.
- Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực, cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.
- Về văn hoá, xã hội
Xuất phát từ nhận thức về mục tiêu của cuộc cách mạng và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương đã triển khai bao quát toàn diện các lĩnh vực xã hội, từ giáo dục, y tế, gia đình, môi trường, xóa đói giảm nghèo, đến an sinh, phúc lợi xã hội, thể dục thể thao, văn hóa giải trí, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quyền con người, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Nhà nước giữ vai trò trung tâm, đồng thời động viên mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo cho mọi người dân được thụ hưởng xứng đáng, công bằng những thành tựu của phát triển, tạo lập một xã hội văn minh, hài hòa, mang lại hạnh phúc ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.
- Về quốc phòng, an ninh
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng an ninh. Để bảo đảm nền tảng vững chắc cho quốc phòng, an ninh, Đảng chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh. Về xây dựng lực lượng, Đảng chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; kết hợp giữa xây dựng lực lượng quân đội, công an chính quy, có sức chiến đấu cao với lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, lực lượng an ninh bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Về đối ngoại
Đường lối nhất quán của Đảng ta là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Trong điều kiện thế giới đã có nhiều thay đổi, sự phát triển mới trong đường lối đối ngoại của Đảng ta chính là chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đường lối đối ngoại xây dựng trên cơ sở những đổi mới, sáng tạo trong nhận thức lý luận của Đảng thời gian qua đã mở ra điều kiện thuận lợi để đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mở mang quan hệ ngoại giao, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chắt lọc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.4.2Hạn chế và những vẫn đề đặt ra
- Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn đổi mới nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Với những thành tựu vô cùng to lớn về kinh tế trong quá trình đổi mới trong những năm qua đã khẳng định đường lối đúng đắn của mô hình kinh tế tổng quát mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định. Đó cũng chính là thành tựu của sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhận thức lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng còn nhiều hạn chế:
- Chưa hình thành được khung lý luận đầy đủ và hệ thống về kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về một số nội dung của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Nhận thức chưa rõ về bản chất, đặc trung của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các chủ thể của kinh tế thị trường.
- Chưa hình thành đầy đủ về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên chưa nhất quán những nguyên tắc của kinh tế thị trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế
- Thể chế kinh tế thị trường nói chung còn thiếu đồng bộ, nhất quán, điều này gây ra sự cản trở trong vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhận thức chưa đầy đủ và thiếu thống về chế độ sở hữu, về phân định vai trò các thành phần kinh tế. Chưa có tư duy đột phá về chiến lược phát triển công nghiệp, nông nghiệp
- Chưa làm sáng tỏ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường do chưa phân định rõ chức năng Nhà nước – thị trường. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập.
- Chưa có những giải pháp hữu hiệu củng cố và phát triển kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước chưa thực hiện được đầy đủ vai trò chủ đạo, định hướng của nó trong nền kinh tế thị trường.
- Các vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn đối với đổi mới chính trị
- Nhận thức về hệ thống chính trị về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, cấu trúc,
- tổ chức, cơ chế vận hành hệ thống chính trị, phương thức, cơ chế hoạt động của các thành viên có mặt chưa thật rõ, chưa thống nhất, nhất là trước yêu cầu và trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyên, phát triển thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chưa nghiên cứu sâu và làm rõ một cách có hệ thống về đổi mới phương thức lãnh đạo – cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và đối với các thành viên khác của hệ thống chính trị trong mọi cấp độ tổ chức của hệ thống chính trị. Giữa chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước vẫn có sự chồng chéo ở các cấp, trong nhiều lĩnh vực, dẫn đến định hướng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên còn có những lúng tùng.
- Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền còn những bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ các nguyên tắc cơ bản: Thượng tôn pháp luật; hoạt động thực sự dân chủ; chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…, đã hạn chế việc thực hiện đầy đủ các quyền và điều kiện làm chủ của nhân dân. Còn diễn ra tình trạng lạm quyền, tham quyền, tha hóa quyền lực gây bức xúc trong xã hội. Giữa nhận thức lý luận với các chế định luật pháp, cơ chế chính sách và với việc thực thi trong cuộc sống về các giá trị dân chủ vẫn còn những khoảng cách. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho xã hội và công dân. Tình trạng quan liêu, tiêu cực của một bộ máy hành chính làm cho việc dân chủ hóa quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa nhanh, nhạy, hiệu quả không cao.
- Trong đổi mới chính trị mục tiêu trước hết là thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giữa vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Song quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được nghiên cứu và nhân thức sâu sắc, đầy đủ; còn xem nhẹ việc thực hành dân chủ, coi nhẹ vai trò làm chủ của nhân dân; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp còn những biểu hiện thiếu thực chất, chưa phát huy tốt vai trò. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, một số lĩnh vực còn bị vi phạm, việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức.
- Trong mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với kinh tế thể hiện giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế chưa thật đồng bộ, phù hợp. Thể hiện ở chỗ, một mặt, chưa nắm bắt đầy đủ quy luật của thị trường cũng như yêu cầu và tác động của kinh tế thị trường đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị; mặt khác, chưa thấy hết vai trò thúc đẩy của hệ thống chính trị trong xây dựng và phát triển thể chế kinh tế mới. Về quan hệ giữa hệ thống chính trị với các tổ chức chính trị - xã hội hiện cho thấy, nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị còn những điểm chưa được làm rõ. Trong thực tế, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia cùng với Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, quyền dân chủ của nhân dân; các tổ chức này hoạt động với những nội dung mang tính chất kinh tế xã hội theo cơ chế tự chủ và tự quản theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, theo điều lệ của từng tổ chức. Việc chưa nhận thức và phân định rõ hai chức năng này đã dẫn đến việc xác định cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động và mối quan hệ với hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở còn nhiều điểm chưa phù hợp, cồng kềnh, bị hành chính hóa.
Phần III: Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
3.1 Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đại hội XII của Đảng đánh dấu bước phát triển về nhận thức lý luận của Đảng trong việc xác định phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn 2016 – 2020. Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị quyết đại hội XI, Đại hội xác định mục tiêu tổng quát phát triển đất nước: “Tăng cường xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhật quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và iu tín Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Từ mục tiêu tổng quát này, Đại học XII đề ra các phương hướng để thực hiện. Đây cũng là những phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 2016 – 2020 của nước ta:
- Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực - Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
- Xây dựng, phát triển văn hóa, con người.
- Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
- Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
- Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
3.2 Giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Giải pháp của Đảng
Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là, chúng ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây quả là những nhiệm vụ nặng nề bởi trước hết "xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội" nghĩa là nền kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển vượt bậc để đến khi kết thúc thời kỳ quá độ chúng ta đạt được nền kinh tế phát triển rất cao đủ cơ sở hiện thực để đưa xã hội ta bước vào thời kỳ phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa; thứ hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp với hạ tầng cơ sở phát triển cao như thế. Đây quả là vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp tư sản, những thế lực phản động và giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Nghĩa là, ở đó chúng ta không chỉ có xây dựng mà cơ bản hơn là phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính quyền, bảo vệ chế độ và xây dựng những "cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc". Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ.
Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công băng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần thực hiện thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Lịch sử thế giới cho thấy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với nhân loại. Tuy nhiên, do những khuyết điểm về nhận thức và tổ chức thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, khiến cho thời kỳ quá độ bị kéo dài, hoặc hoàn toàn chệch hướng, xa rời mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta cần vững vàng, tỉnh táo, sáng suốt và sáng tạo trong nhận thức và tổ chức thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ. Trong xã hội, có một số người ráo riết phê phán con đường xã hội chủ nghĩa, cho rằng con đường đó đã lỗi thời, nên tìm con đường khác, đồng thời phủ nhận vấn đề đã trở thành chân lý của cách mạng Việt Nam: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, việc hâm nóng lại lý luận và thực tiễn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta ở thời điểm hiện nay là một vấn đề có tính thời sự, có tính cấp thiết đối với một công cuộc đổi mới đúng đắn. Phải kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể, nhà nước thì mới tạo động lực phát triển kinh tế, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, đồng thời phải áp dụng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ để hiện thực hóa thời kỳ quá độ.
Liên hệ bản đến bản thân sinh viên:
- Tích cực học tập, trang bị kiến thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm được sựvận động phát triển của quy luật xã hội, tin tưởng vào đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Rèn luyện kỹ năng, phẩm chất tốt để đóng góp công sức vào công cuộc xâydựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Hiểu được và thực hiện đúng các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảngvà nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia các đoàn thể trong nhà trường, hoạt động tình nguyện,… nâng cao ý thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Chủ động tiếp cận khoa học kỹ thuật mới, bảo vệ tài sản của cộng đồng, xãhội, tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sang tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trê, lạc hậu so với cuộc sống.
- Giữ gìn bản sắc văn hoá, truyền thống lịch sử, đấu tranh với các quan điểmsai trái, phê phán những lệch lạc trong nhận thức.
KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng mới có được quan điểm về sự phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Loại góc nhìn này đòi hỏi chúng ta không chỉ nắm bắt được màu sắc thực sự của sự vật trước mắt mà còn phải nắm bắt được xu hướng phát triển trong tương lai và khả năng biến đổi của nó. Chúng ta phải dùng tư duy khoa học để soi sáng những khuynh hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau ấy. Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Việc tuyệt đối hóa một tri thức nhất định về sự vật thu được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định như tri thức đúng đắn duy nhất về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ dẫn chúng ta đến sai lầm. Sai lầm nghiêm trọng. Chúng ta cần khẳng định rằng, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó, tất nhiên chúng ta phải thừa nhận rằng sự quanh co và phức tạp của quá trình phát triển là một hiện tượng phổ biến. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng.
Tìm hiểu sự phát triển của các kiểu, hình thức nhà nước thông qua các nguyên lý phát triển, chúng ta có thể thấy mỗi kiểu nhà nước đều có những đặc điểm riêng, cái mới là loại bỏ những cái chưa tốt trong kiểu nhà nước này. Nhà nước cũ, bổ sung những điều tốt đẹp dẫn đến một nhà nước đầy đủ nhất, công bằng và dân chủ nhất; hình thức nhà nước thể hiện kiểu nhà nước. Đó là sự đi lên từ một trạng thái có trình độ kinh tế - xã hội thấp kém lên một trạng thái cao hơn, đầy đủ hơn; từ một hình thái nhà nước này sang một hình thái nhà nước khác đầy đủ hơn, bình đẳng hơn. Trong quá trình phát triển sẽ cố gắng loại bỏ những yếu tố tiêu cực và kế thừa, phát huy những yếu tố tích cực sẵn có của các loại hình đất nước trước nó. Khi nhận thức đúng về quy luật phát triển, con người sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về quá trình phát triển của các loại hình, các loại hình quốc gia, từ đó giải thích được vì sao loại hình quốc gia này diệt vong và hình thành loại hình quốc gia mới; hình thức nhà nước này phổ biến trong kiểu nhà nước này, không phổ biến trong nhà nước kia.
Danh mục và tài liệu tham khảo
- Tailieuchung viet nam di len cnxh bo qua che do tu ban chu nghia 9457 - Quá độ lên CNXH bỏ qua chế - Studocu
- Lý luận chung về quá độ lên CNXH - CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN
CHUNG VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH 1 Khái niệm về thời kỳ - Studocu
Tài liệu, ebook, giáo trình (doc.edu.vn)
"Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản - Studocu
- Hồ Chí Minh với việc đi tìm chân lý thời đại: “Muốn cứu nước không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (dangcongsan.vn)
- Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam, lý luận thực trạng và giải pháp | Kết Nối - Blog Giáo dục và
GẦN 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (congdoankontum.vn)
- Vận dụng và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới (lyluanchinhtri.vn)
- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa: Cơ hội và thách thức - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn)
- Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự bổ sung, phát triển của Đảng ta