



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59908026
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI KHOA LUẬT
BÀI TẬP LỚN MÔN:
CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM
Đề tài số 20: Chế tài đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh Họ và tên: Lớp: Mã SV: 12/2022 lOMoAR cPSD| 59908026 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. Khái quát về Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1. Cạnh Tranh và Hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh
1.1. Khái niệm Cạnh Tranh, Cạnh Tranh không lành mạnh
1.2. Đặc điểm Cạnh tranh không lành mạnh
1.3. Các hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh
CHƯƠNG II. Thực tiễn áp dụng quy định về Hành vi Cạnh Tranh không lành
mạnh và Kiện nghị hoàn thiện
1. Thực trạng hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh tại Việt Nam
2. Xử lý hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh
2.1. Quy định của pháp luật vè xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2.2. Căn cứ xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2.3. Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
3. Sự thay đổi về quy định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong luật cạnh tranh 2018
4. Kiến nghị hoàn thiện KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU lOMoAR cPSD| 59908026
Cạnh tranh trong kinh doanh là một hoạt động tất yếu trong nền kinh tế thị
trường. Hoạt động này thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như xã hội.
Tuy nhiên, hoạt động cạnh tranh bao giờ cũng gây rất nhiều áp lực đối với các
doanh nghiệp trên thương trường. Với mục đích duy trì tồn tại, mở rộng thị phần
cũng như đạt lợi nhuận tối đa thì hoạt động cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
càng trở nên khốc liệt hơn. Do đó, không ít doanh nghiệp đã dùng những thủ
đoạn để cạnh tranh một cách không lành mạnh. Từ đó, yêu cầu có quy định của
pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành là tất yếu nhằm tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế cho doanh nghiệp, đồng thời xử phạt nghiêm các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Vậy hiện nay, pháp luật cạnh tranh quy định về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh như thế nào? sự thay đổi của Luật Cạnh tranh 2018 so với luật
cạnh tranh 2004 đã đủ để hoàn thiện các quy định còn thiếu sót hay chưa? bài
tiểu luận sau đây sẽ đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi trên nhằm rõ " thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ". Qua đó
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh tranh cũng như
giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh trong nhóm hành vi " cạnh tranh không lành mạnh".
CHƯƠNG I. Khái quát về hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh
1. Cạnh Tranh và Hành vi Cạnh Tranh không lạnh mạnh
1.1. Khái niệm Cạnh Tranh, Cạnh Tranh không lành mạnh • Cạnh Tranh
Từ điển tiếng Việt, "cạnh tranh là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng
về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm lợi ích như nhau ".
Đây là khái niệm chung cho " Cạnh Tranh" trong nhiều mặt của đời sống xã hội.
Cạnh tranh là một hoạt động thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Theo đó
có thể hiểu cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành
lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất tiêu thụ hay tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lOMoAR cPSD| 59908026
lợi ích nhất cho mình. Về bản chất cạnh tranh kinh tế là sự chạy đua giữa các
"Doanh nghiệp" trên thị trường nhằm không ngừng tung ra thị trường những sản
phẩm, dịch vụ tốt nhất với giá cả thấp nhất nhằm thu hút lôi kéo khách hàng về
phía mình, cùng với mục đích tối ưu hóa lợi nhuận có thể đạt được của kinh
doanh nghiệp. Vì thế nhiều doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh theo nhiều
hình thái khác nhau, và một trong số đó là hình thái "Cạnh tranh không lành
mạnh". Vậy hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được hiểu như thế nào? và
nó sẽ có tác động như thế nào đến nền kinh tế thị trường?
• Cạnh Tranh không lành mạnh
Dựa trên tính chất của các hành vi cạnh tranh có thể chia cạnh tranh thành hai
hình thái là: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là các hành vi cạnh tranh thực hiện tuân theo các
nguyên tắc của pháp luật, tập quán kinh tế hay các chuẩn mực khác của kinh doanh.
Cạnh tranh không lành mạnh là một hình thái đối lập với cạnh tranh lành mạnh
về tính chất của hành vi. Khi các doanh nghiệp thực hiện các hành vi cạnh tranh mà
trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực vê tập quán kinh tế hay các chuẩn mực khác
trong kinh doanh dẫn đến việc gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho quyền
lợi của các doanh nghiệp khác, thì đây được xem là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Một hành vi được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh phụ thuộc vào
các nguyên tắc cũng như tập quán thương mại hay các chuẩn mực khác trong kinh
doanh. Mặt khác sự vận động của xã hội và nhận thức của các quốc gia sẽ thay đổi
về các nguyên tắc, tập quán hay các chuẩn mực đó chấm vì vậy, khái niệm cạnh
tranh không lành mạnh chỉ có tính chất tương đối.
1.2. Đặc điểm Cạnh Tranh không lành mạnh
Dựa trên khái niệm đã trình bày có thể thấy rõ ba đặc điểm cơ bản thể hiện
bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh: lOMoAR cPSD| 59908026
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Đặc điểm này thể hiện quy định về đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh.
Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các doanh nghiệp
theo nghĩa rộng, thuộc mọi thành phần kinh tế hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể,
doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các hiệp hội ngành nghề.
Những đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của người tiêu
dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế... Không là đối tượng áp
dụng các quy định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Nhưng trên
thực tế vẫn có những trường hợp một số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị truyền
thông,... thực hiện những hành vi xâm phạm đến quyền cạnh tranh lành mạnh
của doanh nghiệp, ví dụ: việc đưa tin sai sự thật về doanh nghiệp, về hàng hóa,
dịch vụ... của các đơn vị truyền thông. Với quy định trên, chủ thể thực hiện hành
vi bị hạn chế nên pháp luật cạnh tranh không áp dụng để xử lý những tình huống
trên chấm mặt khác, đặc điểm này cũng khẳng định hành vi cạnh tranh không
lành mạnh xảy ra trong kinh kinh doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh chấm pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh được áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế
nói cách khác, pháp luật không giới hạn áp dụng cho bất kỳ ngành nghề, lĩnh vực
hoặc hoạt động kinh doanh nào của kinh tế quốc dân.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán
thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh.
Đây là căn cứ để xác định tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh
phân biệt giữa cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Khi một
hành vi cạnh tranh đi ngược với nguyên tắc thiện chí, trung thực hay tập quán
thương mại hay các chuẩn mực khác trong kinh doanh thì đó được xem là một
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường
thì các nguyên tắc cũng như chuẩn mực này sẽ thay đổi phụ thuộc theo sự phát
triển đó. Do đó, dựa trên căn cứ này thì hành vi cạnh tranh không lành ảnh mạng
sẽ biến đổi cũng như thay đổi không ngừng trên thực tế mà khó có thể định hình
rõ ràng và đầy đủ về những hành vi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. lOMoAR cPSD| 59908026
Thứ ba, hành vi gây thiệt hại có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác.
Một hành vi cạnh tranh khi thực hiện gây ra thiệt hại thực tế hoặc có khả
năng gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác chấm
theo luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hòa Liên bang của Đức,
cấm "Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể gây ảnh hưởng đáng kể về
cạnh tranh làm tổn hại đến đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng và các chủ thể
tham gia thị trường khác ". Luật Cạnh tranh thương mại của Vương Quốc Thái
Lan cũng có quy định tương tự : "Không được tiến hành các hoạt động cạnh tranh
không tự do và không bình đẳng, không được tiến hành các hoạt động gây thiệt
hại, cản trở hoặc hạn chế đối với những hoạt động của những thương nhân
khác...". Có thể thấy đây là đặc điểm để phân biệt giữa hành vi cạnh tranh không
lành mạnh so với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong khi các thỏa thuận
hạn chế cạnh cạnh tranh là sự thống nhất hành động của nhóm doanh nghiệp
nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh, hạn chế khả năng hành động độc
lập của đối thủ cạnh tranh, làm thay đổi tình trạng và quy luật cạnh tranh trên thị
trường. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, không cần phải xác định định chính xác
đối tượng và mức độ thiệt hại vật chất cụ thể, chỉ cần phân tích bản chất và diễn
biến của hành vi để kết luận về những tác động của nó đến tình hình cạnh tranh
trên thị trường liên quan. Còn ở hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải xác
định được mức độ gây thiệt hại hoặc khả năng gây thiệt hại của hành vi và các chủ thể thực hiện.
2 . Các hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh
Dưới góc độ kinh tế, bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất
hợp pháp hoặc là vì hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác hoặc là
hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo. Dựa trên bản chất đó có thể phân nhóm
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thành 3 nhóm : lOMoAR cPSD| 59908026 •
Nhóm 1: Nhóm các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác
Nhóm này được coi là nhóm các hành vi cạnh tranh điển hình nhất nó được
thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng
hóa, dịch vụ, lợi dụng thành quả đầu tư của người khác, xâm phạm bí mật kinh
doanh.... bản chất của hành vi này là việc chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh
nghiệp khác một cách bất hợp pháp . Dạng hành vi này được coi là phổ biến, điển
hình của cạnh tranh không lành mạnh theo quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam ghi nhận nhóm này có thể bao gồm hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn hay hành
vi xâm phạm bí mật kinh doanh. "Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn" thường xâm
phạm đến tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì,
chỉ dẫn địa lý...được in trên sản phẩm hàng hóa , dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
Mục đích của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là tạo nên sự nhầm lẫn của khách
hàng về hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa,
dịch vụ của chính doanh nghiệp mình. " Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh"
là tiếp nhận, thu thập, sử dụng, tiết lộ hoặc vi phạm hợp đồng bảo mật, có hành
vi lừa gạt hay lợi dụng người có nghĩa vụ bảo mật để có được thông tin thuộc bí
mật doanh kinh doanh của doanh nghiệp khác khi chưa có sự đồng ý của chủ sở
hữu. Hành vi này nhằm chiếm đoạt, sử dụng ưu thế cạnh tranh của các doanh nghiệp khác. •
Nhóm 2: Nhóm các hành vi hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác
Nhóm hành vi này có chung bản chất là công kích vào các đối thủ cạnh
tranh. Có thể là hành vi để triệt tiêu, hành vi làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh
của các đối thủ cạnh tranh chấm hành vi nhóm này thường được thực hiện dưới
các hình thức rất đa dạng, nó phụ thuộc vào mục đích công kích. Hành vi này có
thể đưa ra thông tin sai sự thật nhằm làm giảm uy tín của đối thủ cạnh tranh hay
lôi kéo, ép buộc khác hàng hay các đối tác của đối thủ cạnh tranh. hành vi ép
buộc trong kinh doanh; hành vi về pha doanh nghiệp khác; hành vi gây rối hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác đây là hành vi được ghi nhận trong pháp lOMoAR cPSD| 59908026
luật cạnh tranh Việt Nam được ghi nhận nằm trong nhóm hành vi này. "Hành vi
ép buộc trong kinh doanh" phương thức này là dùng áp lực để đe dọa hoặc chọn
hoặc thực hiện cưỡng ép thực hiện cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh
không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với chính đối thủ cạnh tranh của mình.
Mục đích thực hiện hành vi là nhằm lôi kéo khách hàng hoặc đối tác kinh doanh
của đối thủ cạnh tranh để họ ngừng giao dịch hoặc không thực hiện giao dịch với
doanh nghiệp đó, làm giảm lượng khách hàng cũng như đối tác làm ăn của đối
thủ cạnh tranh với mình. “Hành vi gièm pha doanh nghiệp khác” Đây là hành vi
đưa thông tin sai sự thật về đối thủ cạnh tranh nhằm làm suy giảm uy tín của đối
thủ. Hành vi này có thể hình thành dưới các dạng hình thức như nói xấu bôi nhọ
chất lượng hàng hóa, dịch vụ, cách thức bán hàng, tiềm lực tài chính của đối thủ
cạnh tranh chống hành vi này có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp không
nhất thiết doanh nghiệp này phải có hành vi trực tiếp thực hiện hành vi gièm pha.
"Hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác" xâm phạm trực
tiếp đến đối thủ cạnh tranh, cụ thể là quấy phá gây rối với các hoạt động kinh
doanh của đối thủ cạnh tranh. Mục đích của hành vi này là cản trở, gián đoạn
hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh. Hành vi này có thể được doanh
nghiệp trực tiếp thực hiện hoặc thông qua một chủ thể khác thực hiện, hành vi
này ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh. •
Nhóm 3: Nhóm các hành vi tạo ưu thế cạnh tranh giả tạo
Bản chất của nhóm hành vi này là tạo ra lợi thế cạnh tranh giả tạo nhằm lôi
kéo khách hàng khách hàng là đối tượng bị tác động trực tiếp trong nhóm hành
vi này, về phía các doanh nghiệp khác chịu tác động trực tiếp hoặc tác động gián
tiếp khi bị mất đi nguồn khách hàng . Pháp luật hiện hành của Việt Nam ghi nhận
các hành vi thuộc nhóm này là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh, khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh và bán hàng đa cấp bất
chính. "Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh" có thể hiểu là
hành vi trái hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
quảng cáo trái pháp luật, trái với hiện thực, thực chất của hàng hóa, dịch vụ được
thực hiện bằng cách quảng cáo theo kiểu so sánh hàng hóa, dịch vụ, bắt chước lOMoAR cPSD| 59908026
sản phẩm quảng cáo khác, đưa thông tin gian dối cho khách hàng.... Đây là hành
vi cạnh tranh xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh, quyền và lợi ích hợp pháp
của người tiêu dùng. " Hành vi khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh"
có thể thấy biểu hiện của hành vi này là các hoạt động khuyến mãi bất chính,
không trung thực nhằm lừa dối để thu hút khách hàng về phía mình. Cụ thể như
hành vi tổ chức khuyến mãi gian dối về già thường, khuyến mãi không trung
thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ,... các hành vi này có thể do doanh
nghiệp trực tiếp thực hiện hoặc được tiến hành thông qua thương nhân kinh
doanh thực hiện dịch vụ khuyến mãi của mình. "Hành vi bán hàng đa cấp bất
chính" những quy định của pháp luật về hành vi này mà mục đích là nhằm bảo
vệ lợi ích chính đáng của những người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, cũng
như hạn chế việc tổn hại về kinh tế cho những người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp bất chính.
CHƯƠNG II. Thực tiễn áp dụng quy định về Hành vi Cạnh Tranh
không lành mạnh và Kiện Nghị hoàn thiện
1 . Thực trạng Hành vi Cạnh Trạnh không lành mạnh tại Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, thì các hoạt động cạnh
tranh đang diễn ra một cách khốc liệt mang lại sự phát triển cả về mặt kinh tế lớn
các mặt khác của đời sống xã hội. Nhưng một số doanh nghiệp vì muốn chiếm
ưu thế cạnh tranh để tăng lợi nhuận đã không thực hiện các hoạt động cạnh tranh
một cách lành mạnh mà sử dụng những phương thức thủ đoạn khác nhau thực
hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà pháp luật quy định cấm thực hiện.
Hơn thế nữa, hiện nay những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 đã có những tác động không hề nhỏ đến tình hình chung của mọi mặt đời
sống xã hội mà còn tác động đến hoạt động cạnh tranh. Một số doanh nghiệp đã
lợi dụng những thành tựu đó, đặc biệt là các thành tựu công nghệ thông tin và
internet để thực hiện các hành hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hiện nay
khi thương mại điện tử phát triển một cách cực thịnh, người tiêu dùng có thể
mua bất cứ hàng hóa, dịch vụ nào ở bất cứ thời gian, bất cứ nơi nào chỉ một cú lOMoAR cPSD| 59908026
" Click" thông qua các trang bán hàng hay mạng xã hội nhưng họ lại không thể
xác định rõ các xuất xứ, công dụng, mẫu mã, chất lượng,... Nhưng thông tin chỉ
được viết theo một chiều từ doanh nghiệp cung cấp mà khách hàng khó có thể
kiểm chứng. Không ít các doanh nghiệp đã lợi dụng điểm này nhằm thực hiện
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: quảng cáo không trung thực về
hàng hóa, chỉ dẫn gây nhầm lẫn,... Không những thế tình trạng hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng cũng tăng cao khi mà việc sản xuất một mặt hàng là
không thể đơn giản hơn với các thành tựu của công nghệ hiện nay. Vậy trong
những năm gần đây đã có bao nhiêu vụ vi phạm quy định về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh bị điều tra, xử lý?
Thông qua báo cáo thường niên của Cục Quản lý cạnh tranh, dưới đây là bảng
thống kê Điều tra vụ việc cạnh tranh trong giai đoạn từ 2009 đến 2015 .
Bảng thống kê điều tra vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. lOMoAR cPSD| 59908026
Tình hình của các vụ việc vi phạm quy định về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh có diễn biến phức tạp trong những năm qua. Hành vi vi phạm chiếm
đa số là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Trong năm 2015, cục Quản lý cạnh tranh đã tiến hành điều tra tố 46 của
việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh, qua đó khởi xướng Điều
28 vụ việc đồng thời hoàn thành điều tra ban hành quyết định xử lý đối với 02
vụ việc khởi xướng từ năm 2014 - các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được khởi xướng điều tra trong năm 2015 chủ yếu là: Quảng cáo đưa ra thông lOMoAR cPSD| 59908026
tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn, quảng cáo so sánh trực tiếp, bán hàng đa cấp bất chính.
Trong năm 2016 cục quản lý cạnh tranh cũng thực hiện hàng loạt xử phạt
đối với nhiều công ty bán hàng đa cấp, 14 công ty bị thu hồi giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, 11 doanh nghiệp tạm ngừng và chấm dứt
hoạt động. Hiện số doanh nghiệp hoạt động giảm từ 67 công ty trong năm 2015
xuống còn 40 doanh nghiệp hoạt động trong năm 2016. Số người tham gia bán
hàng đa cấp giảm còn khoảng 500.000 người giảm 57% so với cùng kỳ năm
2015 là khoảng 1,2 triệu người. Đầu năm 2017 cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công
thương cũng thực hiện chấm dứt hoạt động kinh doanh của hai doanh nghiệp đa
cấp là công ty TNHH Triwonder International và công ty TNHH Isagenix Việt
Nam vì lý do công ty này không triển khai hoạt động bán hàng đa cấp trong thời
hạn 12 tháng liên tục kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
2. Xử lý Hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh
2.1. Quy định của pháp luật xử lý Hành vi Cạnh Tranh không lành mạnh
Quy định về việc xử lí Hành vi cạnh trang không lành mạnh được quy định
theo Luật cạnh tranh 2004. Ngoài ra còn được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ
2005. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây nguy hại cho xã hội,
ảnh hưởng đến các đối thủ cạnh trang nói riêng cũng như đến môi trường cạnh
tranh nói chung. Pháp luật quy định các biện pháp chế tài phù hợp để áp dụng đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm đảm bảo tạo một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
các tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng.
• Đối tượng áp dụng các hình thức xử lí
Đối tượng bị áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
các chủ thể buộc đối tượng điều chỉnh của Luật Cạnh tranh không lành mạnh bị
cấm. Vậy nên đối tượng có thể bị áp dụng chế tài có thể là tổ chức, cá nhân kinh lOMoAR cPSD| 59908026
doanh như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và
doanh nghiệp tư nhân; Hợp tác xã; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; hộ kinh
doanh; cá nhân không có đăng ký kinh doanh như người bán hàng rong, làm
dịch vụ có thu nhập thấp và Hiệp hội ngành nghề (Khoản 2 Điều 3 Luật Cạnh
tranh 2004) thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm.
• Thẩm quyền xử lí
Căn cứ vào Điểm d Khoản 2 Điều 49 Luật Cạnh Tranh và Điều 40 Nghị
định số 71/2014/NĐ-CP, thẩm quyền xủa lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thuộc về cơ quan quản lý cạnh tranh, hiện nay là Cục quản lý cạnh tranh
trực thuộc Bộ công thương. Cơ quan này có chức năng chính là giúp bộ trưởng
bộ công thương thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu
hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam được quy Định trong nghị định số
06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý Cạnh tranh. Cục Quản lý Cạnh
tranh là cơ quan có chức năng tiến hành điều tra, xử lí các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh Tranh.
2.2. Căn cứ xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Thứ nhất, phải có hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Hành vi cạnh tranh
có bản chất là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, hủy hoại ưu thế cạnh tranh
của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
Thứ hai, phải có thiệt hại hoặc khả năng thiệt hại trong cạnh tranh không
lành mạnh. Thiệt hại là một đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và là điểm phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh. Việc xác định thiệt hại hay khả năng gây thiệt hại là một yêu
cầu bắt buộc và cần thiết để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường và cơ quan có lOMoAR cPSD| 59908026
thẩm quyền áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại hay các chế tài khác để xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và thiệt hại. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối
quan hệ trực tiếp, không phải là sự suy diễn chủ quan. Hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi diễn ra trước, thiệt hại trực tiếp do hành vi đó gây ra xảy ra
sau. Bên thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ phải chịu trách
nhiệm pháp lý và các chế tài tương ứng khi gây ra thiệt hại nhât định cho đối thủ
cạnh tranh, mà nguyên nhân trực tiếp là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của mình.
Thứ tư, phải có lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh. Lỗi là trang thái tâm
lý của người có hành vi vi phạm, phản ánh nhận thức của con người đó đối với
hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Hành vi cạnh tranh bị coi là có
lỗi và không lành mạnh là hành vi vi phạm các tập quán nghề nghiệp, phá vỡ
quan hệ bình đẳng, công bằng trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường.
2.3 . Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hình thức chế tài xử lý
vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là các chế tài hành chính.
Ngoài ra còn có chế tìa về hình sự cũng như dân sự trong một số trường hợp.
• Chế tài hành chính
Căn cứ theo khoản 1 điều 117 Luật Cạnh tranh 2004 có quy định, tổ chức,
cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải chịu một trong các
hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Cụ thể hình thức phạt tiền và
mức phạt tiền tối đa là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng
đối với tổ chức theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP. Ngoài bị
phạt tiền, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể bị áp dụng các hình
thức xử phạt bổ sung theo quy định tại Nghị định số 71/2014/NĐ-CP. Các hình lOMoAR cPSD| 59908026
phạt bổ sung bao gồm: tịch thu tang vật p phương tiện được sử dụng để thực
hiện hành vi vi phạm, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hơn thế
nữa, pháp luật cạnh tranh chỉ quy định biện pháp khắc phục hậu quả duy nhất là
buộc cải chính công khai đối với các chủ thể thực hiện từ hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nhất định.
• Chế tài hình sự
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh được quy định tại chương XVIII Bộ Luật Hình Sự 2015. Cụ thể các
tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Tội sản xuất buôn bán hàng giả
(điều 192); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm phụ gia
thực phẩm (điều 193); tội sản xuất buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh cây
thuốc phòng bệnh (điều 194); tội sản xuất buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để
chăn nuôi, phân bón, thú y, thuốc bảo vệ thực vật, sống cây trồng, vật nuôi
(điều 195); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong
hoạt động chứng khoán (điều 209); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán
chứng khoán (điều 210); tội thao túng thị trường chứng khoán (điều 211); tội vi
phạm quy định về cạnh tranh (điều 217); tội vi phạm quy định về kinh doanh
theo phương thức đa cấp (217a); tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
(điều 225); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 226). Hình phạt áp
dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền cải tạo không giam giữ hoặc
tù có thời hạn. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm nghề hoặc làm công việc nhất định.
• Chế tài dân sự
Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng trong hệ thống chế tài áp
dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chức năng chủ yếu của bồi
thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và
tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi phạm các quy tắc
trong kinh doanh của bên kia gây ra. Theo điều 6 nghị định số 71/2014/NĐ-CP lOMoAR cPSD| 59908026
ngày 21/07/2014, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thì vấn đề
bồi thường thiệt hại được dẫn chiếu thực hiện hiện theo các quy định của pháp
luật về dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thuê tại chương XX của bộ luật dân sự 2015 và
pháp luật có liên quan. Yêu cầu bồi thường thiệt hại của một quyền mặc định
được pháp luật thừa nhận, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể bị
xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình. Vì vậy, chế tài bồi thường thiệt hại có
thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.
3. Sự thay đổi về quy định Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật
Cạnh tranh 2018
Luật Cạnh tranh 2018 đã thay đổi một số quy định về cạnh tranh không
lành mạnh so với luật cạnh tranh 2004. Luật Cạnh tranh 2018, các hành vi như
"Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh", "Phân biệt đối xử của hiệp
hội", "Bán hàng đa cấp bất chính" không còn được quy định là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh chịu sự điều chỉnh bởi Pháp Luật Cạnh tranh nữa. Bởi
các hành vi này đã được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật mang tính chất
chuyên ngành khác như luật quảng cáo Nghị định 42/2014/NĐ-CP về quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp,...Việc quy định như vậy sẽ tránh được sự mâu
thuẫn và chồng chéo về thẩm quyền cũng như hình thức xử lý, đảm bảo nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật và việc bãi bỏ quy định về "Hành vi bán hàng đa
cấp bất chính" và "Phân biệt đối xử của hiệp hội", do các hành vi này không
phản ánh đúng bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi
ép buộc trong kinh doanh, rèm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác nhìn chung không sự thay đổi về bản chất cũng
như hành vi so với luật cạnh tranh 2018.
Tại Luật cạnh tranh 2018, đã có sự thay đổi một số quy định về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh cụ thể là: lOMoAR cPSD| 59908026
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn, nếu doanh nhân doanh nghiệp nào mà thiết kế logo,
Sử dụng mẫu mã bao bì, đóng gói đặt tên gọi hàng hóa của mình tương tự tên
gọi hàng hóa của đối thủ cạnh tranh dẫn đến nhầm lẫn cho người tiêu dùng thì
đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi các cơ quan hành chính
phải xử lý ngay từ khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký bản quyền
kiểu dáng mẫu mã, logo, slogan cũng như tên gọi cho hàng hóa...(Điều 40 Luật
Cạnh tranh 2004). Theo luật cạnh tranh 2018 thì thay đổi bằng hành vi lôi kéo
khách hàng bất chính và cụ thể hóa tại điểm a, khoản 5, Luật Cạnh tranh 2018:
đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp
hoặc hàng hóa, dịch vụ.
So sánh hàng hóa của doanh nghiệp mình với hàng hóa của doanh nghiệp
khác nhưng không chứng minh được nội dung, tại Khoản 1, Điều 45 Luật cạnh
tranh 2004 quy định: chỉ cần so sánh trực tiếp sản phẩm của doanh nghiệp mình
với doanh nghiệp khác thì đã là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy
nhiên, Luật Cạnh tranh 2018 đã thu hẹp phạm vi điều chỉnh của quy định này,
theo đó việc so sánh hàng hóa và không chứng minh được nội dung thì mới bị
coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh, hành vi này nghị luận cạnh
tranh 2018 cụ thể bằng hành vi bán hàng hóa cung cấp cung ứng dịch vụ dưới
giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác
cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó.
4. Kiến Nghị hoàn thiện
Thực tế cho thấy, cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam diễn ra vô cùng
phức tạp, phổ biến và rộng khắp các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong những
năm gần đây khi mà nhu cầu xử lý và giải quyết tranh chấp cao như một số vụ
được đưa ra ánh sáng còn ít. Bên cạnh đó người bị hại thì còn "ngại" đi kiện. Vì
vậy chúng ta cần có những biện pháp xử lý và giải quyết tranh chấp cạnh tranh
không lành mạnh để xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công
bằng, bình đẳng và phát triển. lOMoAR cPSD| 59908026
4.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh. a)
Xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành cho
Luật Cạnh tranh 2018 một cách cụ thể. Để khi áp dụng vào thực tiễn
không diễn ra sự khó hiểu hay hiểu sai tinh thần của luật cạnh tranh 2018. b)
Bổ sung một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh mới vào Luật Cạnh tranh Việt Nam
Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công
nghệ trong Luật Cạnh tranh 2018 thì mang tính liệt kê xong vẫn chưa bao quát
hết được các trường hợp trong thực tế. Điểm hình hành vi chiếm đoạt tên miền
trên internet cần được bổ sung vào hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài
ra các hành vi như "chấm dứt đột ngột quan hệ kinh doanh với các đối tác" mà
không thông báo trước một thời gian hợp lý hay hành vi "Từ chối kinh doanh
không có lý do chính đáng" hoặc "Phân biệt về giá" những hành vi này xảy ra
khá phổ biến trong thực tế kinh doanh và gây hậu quả tương đối nghiêm trọng vì
vậy nên bổ sung 3 hành vi này vào hành vi cạnh tranh không lành mạnh. c)
Đề xuất về địa chỉ áp dụng của luật cạnh tranh năm 2018
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của hầu hết các nước đều quy
định tất cả các chủ thể tham gia thị trường nhằm mục đích cạnh tranh đều là địa
chỉ áp dụng của luật chứ không chỉ bó hẹp là doanh nghiệp như luật cạnh tranh
của Việt Nam chấm do vậy, để đảm bảo tính hiệu quả và tác động đến tất cả các
đối tượng tham gia trên thị trường thì Luật Cạnh tranh 2018 cần được áp dụng cho
tất cả các chủ thể tham gia trên thị trường với mục đích cạnh tranh.
4.2. Về thẩm quyền xử lý hành vi Cạnh tranh không lành mạnh
Về năng lực và thẩm quyền của các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng như
những quy định của luật cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Vì vậy mặc dù số lượng lOMoAR cPSD| 59908026
hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng gia lặng tăng với tính chất ngày
càng phức tạp song số vụ được các cơ quan đứng ra giải quyết tranh chấp còn
hạn chế chưa tương xứng nhu cầu. Do có sự chồng chéo về thẩm quyền trong
việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh nên doanh nghiệp không biết tố
cáo ở đây, tố cáo như thế nào đây cũng là nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngại
tố cáo các hành vi vi phạm. Ví dụ như trường hợp một doanh nghiệp có hành vi
tổng hợp từ nhiều vi phạm khác nhau như quyền tác giả tên nhãn hiệu hàng
hóa... nằm trên bao bì sản phẩm. Khi đó tham thanh tra bộ khoa học và công
nghệ chỉ xử lý đến vấn đề liên quan đến bảo hộ thương hiệu hàng hóa, bộ văn
hóa thể thao và du lịch lại xử lý vấn đề liên quan đến bản quyền tác giả, cục
Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương lại chịu trách nhiệm phát hiện và xử lý hành vi này.
Do vậy, Luật Cạnh tranh cần quy định rõ ràng và cụ thể trách nhiệm của
từng cơ quan. Tuy nhiên nếu để cho một cơ quan duy nhất chuyên môn hóa xử
lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì cần phải quy định sự hỗ trợ về
mặt kỹ thuật đặc thù cho từng cơ quan có liên quan.
4.3. Sử dụng thực tiễn tư pháp trong việc giải quyết vụ việc cạnh
tranh không lành mạnh.
Có thể khẳng định rằng Luật Cạnh tranh của Việt Nam còn nhiều "kẽ hở".
Pháp luật cạnh tranh không thể liệt kê hết được các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Các điều tra viên phải đối mặt với những vụ việc thực tế chưa bao
giờ xảy ra tại Việt Nam cũng như không được quy định rõ ràng trong luật. Do
đó các vụ xử lý về cạnh tranh không lành mạnh nếu có thể cần phải được tuyên
bố công khai để những nhà làm luật cũng như công chúng có được thông tin
cũng như "căn cứ" để xử lý những vụ việc tương tự xảy ra sau này. Việc sử
dụng thực tiễn tư pháp trong việc giải quyết tranh chấp nên coi là một " án lệ"
để các cơ quan quản lý cạnh tranh hay Tòa Án đúc rút kinh nghiệm cho các vụ
việc tương tự xảy ra sau này được giải quyết thỏa đáng, khách quan và nhanh chóng hơn. lOMoAR cPSD| 59908026
4.4. Nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của doanh nghiệp và người tiêu dùng. a) Về phía doanh nghiệp
Thực tế hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập thậm chí cả
những doanh nghiệp tồn tại lâu đời vẫn chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan
trọng của ý thức pháp luật trong kinh doanh. Họ chưa thực sự hiểu pháp luật cho
họ những quyền gì, ngược lại họ phải có những nghĩa vụ gì và pháp luật quy
định như thế nào về những hoạt động mà họ quan tâm. Vì vậy các doanh nghiệp
cần nâng cao nhận thức về pháp luật cạnh tranh đồng thời cũng nâng cao ý thức
tự bảo vệ mình trước các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của đối thủ cạnh tranh. b)
Khả năng tự bảo vệ của người tiêu dùng
Thực tế hiện nay những hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn làm xâm
hại đến quyền lợi của người tiêu dùng và còn có thể gây nguy hiểm cho sức
khỏe và tính mạng của họ nữa. Điều đáng lo là kiến thức tiêu dùng của người
Việt Nam còn thấp. Vì vậy mỗi người tiêu dùng hãy tự cập nhật học hỏi và bổ
sung kiến thức cho mình để tự bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Người tiêu
dùng cần phải mạnh khiếu nại tố cáo tới các cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu
đổi hàng hóa đúng chất lượng đòi bồi thường thiệt hại cho mình và bảo vệ quyền
lợi cho cộng đồng người tiêu dùng.