lOMoARcPSD| 59769538
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THU PHƯƠNG
Ngày 06, tháng 02, năm 2003
Lớp: 2152A01
Ngành: Luật quốc tế
BÀI TẬP LỚN MÔN:
Đề tài số 7:
Phân tích điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Chỉ ra
những thiệt hại có thể được bồi thường trong trường hợp tài sản gây
thiệt hại?
Hà Nội, 10/2022
lOMoARcPSD| 59769538
2
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU...............................................................................................3
II. NỘI DUNG...........................................................................................3
1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng............................3
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng*.......................................................................................................3
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng**.......................6
4. Những thiệt hại có thể được bồi thường trong trường hợp tài sản
gây thiệt hại?***.....................................................................................7
III. KẾT LUẬN......................................................................................10
I. MỞ ĐẦU
Trong đời sống hàng ngày, có rất nhiều vấn đề làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật của các chủ thể. Đó là một chế
định quan trọng trong luật dân sự. Vậy bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì?
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các nguyên
tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Những thiệt hại có thể được bồi thường
trong trường hợp tài sản gây thiệt hại?
II. NỘI DUNG
1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự của bên
lỗi (cố ý hoặc vô ý), gây hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy
lOMoARcPSD| 59769538
3
tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, gây hại đến danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác.
- Ví dụ: Ông A sở hữu một chiếc xe ô tô giá 500 triệu đồng. Ông đỗ xe đúng
quy định ở bãi đỗ của công ty. Ông B lái xe ô tô của mình vào bãi gửi xe, do
có sử dụng rượu khi lái xe nên vào bãi đổ xe ông B đã không làm chủ được
tay lái, đâm vào xe máy của ông A làm xe hư hỏng nặng.
Như vậy, trong trường hợp này ông B đã có hành vi xâm phạm tài sản của ông
A, đây hành vi trái pháp luật. Do đó, ông B đã phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho ông A.
-
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng*
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác
định dựa trên bốn yếu tố sau đây:
Có thiệt hại xảy ra
- Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích
của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt
hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có đầy
đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền,
do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá
nhân, tổ chức.
- Trách nhiệm hình sự đối với một số tội có cấu thành hành thức thì không đòi
hỏi có hậu quả vật chất. Ngay đối với một số tội có cấu thành vật chất thì
trọng một số trường hợp cá biệt, hậu quả chưa xảy ra nhưng do tính chất của
hành vi nguy hiểm có khả năng gây ra hậu quả lớn cũng đã cấu thành tội phạm
hoặc ngược lại, đối với một số tội như tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vi
phạm các quy định về an toàn giao thông thì phải có thiệt hại nghiêm trọng
mới cấu thành tội phạm.
- Nhưng trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có thiệt hại dù không nghiêm trọng
cũng phải bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện bát buộc phải có trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì không phải
bồi thường vì vậy trước tiên cần xác định thế nào là thiệt hại.
Xác định thế nào là thiệt hại dựa vào các nội dung sau:
lOMoARcPSD| 59769538
4
Thiệt hại về tài sản: biểu hiên cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi
phí để ngăn chăn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc
sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của
người bị thiệt hịa.
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất: gồm chi
phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực
tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại: gồm chi phí hợp lí để ngăn
chăn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Tổn hại về tinh thần.
Về nguyên tắc, đời sống tinh thần không thể giá trị được bằng tiền theo nguyên
tắc ngang giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được.
Nhưng với mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại về tinh thần
cũng như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp
luật, BLDS quy định người xâm hại phải ” bồi thường một khoản tiền khác để
bù đắp tổn thất về tinh thần” cho người bị thiệt hại, người thân thích của người
đó phải gánh chịu.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
- Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một
quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng
những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào
“xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó.
- Điều 584 BLDS quy định “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” Điều luật này xuất phát từ
nguyên tắc chung của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 3 BLDS ” Việc
xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm
đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác.”
lOMoARcPSD| 59769538
5
- Việc xâm phạm mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự,
hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân sư.
- Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã
thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
Lỗi của người gâỵ ra thiệt hại
- Về nguyên tắc, một người bị áp dụng cưỡng chế nhà nước thì họ phải có hành
vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên trong quan hệ dân sự có
những trường hợp ngoại lệ là người không có hành vi trái pháp luật, không có
lỗi vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự,..
- Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong
muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
- Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng
thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
- Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái
pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều
584 Bộ luật dân sự năm 2015 dưới dạng: “người nào… xâm phạm… mà gây
thiệt hại” thì phải bồi thường. Ở đây có thể thấy hành vi “xâm phạm” đến tính
mạng, tài sản… là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả của hành vi đó. Tuy
nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là vấn đề rất phức tạp. Phạm trù
nguyên nhân và kết quả là cặp phạm trù trong triết học. Nhân quả là mối liên
hệ nội tại, khách quan và tất yếu giữa các hiện tượng tự nhiên cũng như xã
hội, trong đó một là nguyên nhân và sau nó là kết quả.
- Việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là sự liên hệ khách quan đó.
Nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả và kết quả là hậu quả của nguyên
nhân. Xem xét mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội, trong đó con
người sinh sống và hoạt động phức tạp hơn nhiều so với các hiện tượng tự
nhiên khác. Vì vậy, việc xem xét chỉ có ý nghĩa khi hành vi của con người và
hậu quả của hành vi đó được đánh giá dưới góc độ xã hội, trong đó đặc biệt
lOMoARcPSD| 59769538
6
chú trọng đến hành vi của con người, liên quan đến con người vào thời điểm
có hành vi và hậu quả xảy ra.
- Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Vì vậy, cần phải xem xét, phân
tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan
toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân,
xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại. 3. Nguyên tắc bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng**
Theo điều 585 Bộ luật dân sự 2015:
__________________________________
* https://luatsux.vn/dieu-kien-phat-sinh-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-
hopdong/
- Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ kịp thời. Về mức bồi
thường các n bên thể tự thỏa thuận nếu trong trường hợp không tự thỏa
thuận được sẽ do quan thẩm quyền xác định. Hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường mt lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thể được giảm mức bồi
thường nếu không lỗi hoặc lỗi ý thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc
bên gây thiệt hại quyền yêu cầu Tòa án hoặc quan nhà nước thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường.
- Khi bên bị thiệt hại lỗi trong việc gây thiệt hại tkhông được bồi thường
phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy
ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại cho chính mình.
4. Những thiệt hại có thể được bồi thường trong trường hợp tài sản gây thiệt
hại?***
- Theo Bộ luật dân sự năm 2015 tại khoản 3 Điều 584: “Trường hợp tài sản
gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm
lOMoARcPSD| 59769538
7
bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại
khoản 2 Điều này”.
- Quy định này đã bao quát được toàn bộ các trường hợp tài sản gây thiệt hại,
theo đó, việc giải quyết các vụ việc về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
sẽ áp dụng theo nguyên tắc sau đây:
+ Một là, nếu thiệt hại do tài sản gây ra thuộc các trường hợp quy định riêng
như nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, công trình xây dựng thì áp
dụng những quy định cụ thể tại Điều 601, Điều 603, Điều 604 và Điều 605
BLDS năm 2015.
+ Hai là, đối với những tài sản khác gây thiệt hại mà không được quy định
cụ thể thì áp dụng khoản 3 Điều 584 để giải quyết.
- Về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong từng trường hợp cụ thể:
Về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 601 )
Phạm vi chủ thể được quy định theo BLDS năm 2015 rộng hơn so với phạm
vi chủ thể theo quy định của BLDS năm 2005, Điều 623 BLDS năm 2005
quy định những người trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra gồm: Chủ sở hữu; người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sdụng nguồn nguy hiểm cao độ; người đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật.
Đối với những chủ thể chiếm hữu căn cứ pháp luật nhưng không phải
theo sự chuyển giao của chủ sở hữu tài sản Điều luật này chưa đề cập đến.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định chủ thể bồi thường tại khoản 3, khoản 4
Điều 601 người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, mở rộng
phạm vi chủ thể so với quy định tại Điều 623 BLDS năm 2005. Những chủ
thể chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể theo sự chuyển giao
của chủ sở hữu hoặc của một chủ thể khác hoặc do họ tự chiếm hữu, sdụng
thông qua một sự kiện nhất định.
Về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 603)
Khoản 1 Điều 603 BLDS năm 2015 bổ sung quy định về chủ thể “người
chiếm hữu, sử dụng súc vật” phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm
hữu, sử dụng động vật, trừ trường hợp thỏa thuận khác. Bổ sung này tương
đồng với sửa đổi về chthể bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao đ
gây ra. Người chiếm hữu, sử dụng động vật được hiểu người đang trực
tiếp cầm giữ, quản lý hoặc đang khai thác công dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ
động vật. Việc chiếm hữu, sdụng thể theo sự chuyển giao của chủ sở
lOMoARcPSD| 59769538
8
hữu hoặc không; việc chiếm hữu, sử dụng thể nằm trong trường hợp
căn cứ pháp luật hoặc không có căn cứ pháp luật.
Về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra (Điều 604)
_______________________________
**https://luatduonggia.vn/khai-niem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop
dong/_Nguyen_tac_boi_thuong_thiet_hai_ngoai_hop_dong
Điều 626 BLDS năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại
do cây cối đổ, gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”
Điều 604 BLDS năm 2015 bổ sung thêm trách nhiệm của người chiếm hữu,
người được giao quản lý phải bồi thường bên cạnh chủ sở hữu cây cối. Như
vậy, người đang chiếm hữu, quản lý là người trực tiếp chăm sóc cây cối
buộc phải biết tình trạng của cây cối để kịp thời chặt bỏ, phát, tỉa cảnh hay
chặt cây mục ruỗng nhằm tránh nguy cơ cây cối đổ, gẫy gây ra thiệt hại nên
họ phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu để cây cối gây ra thiệt hại.
Về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra (Điều
605)
Vấn đề bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
được quy định trong BLDS năm 2015 nhiều nét tương đồng với trường
hợp bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.
Vchủ thể: Điều 607 BLDS năm 2015 quy định chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường “chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử
dụng nhà cửa, ng trình xây dựng khác”, đã khắc phục được điểm thiếu sót
của BLDS năm 2005 không quy định một số chủ thể chịu trách nhiệm như:
Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai đối với bất động sản,...
Vcác trường hợp bồi thường thiệt hại: Điều 605 BLDS năm 2015 quy định
bao quát chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng
nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công
trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.
___________________________________
lOMoARcPSD| 59769538
9
***https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/diem-moi-ve-boi-thuong-
thiethai-do-tai-san-gay-ra-d10-t1225.html
III. KẾT LUẬN
Như vậy bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan trọng trong pháp
luật dân sự. Trong cuộc sống ta không thể hoàn toàn tránh khỏi những trường hợp
trái phạm luật dù là cố ý hay vô ý, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ một
phần nào giúp mọi người lấy lại công bằng, xử lý thiệt hại đáng tiếc. Dù chế định
này vẫn còn nhiều hạn chế nhưng vẫn đang được sửa đổi và đã góp phần quan
trọng làm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59769538
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU PHƯƠNG
Ngày 06, tháng 02, năm 2003 Lớp: 2152A01
Ngành: Luật quốc tế
BÀI TẬP LỚN MÔN: LUẬT DÂN SỰ Đề tài số 7:
Phân tích điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Chỉ ra
những thiệt hại có thể được bồi thường trong trường hợp tài sản gây thiệt hại? 1 Hà Nội, 10/2022 lOMoAR cPSD| 59769538 MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU...............................................................................................3
II. NỘI DUNG...........................................................................................3
1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng............................3
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng*.......................................................................................................3
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng**.......................6
4. Những thiệt hại có thể được bồi thường trong trường hợp tài sản
gây thiệt hại?***.....................................................................................7
III. KẾT LUẬN......................................................................................10 I. MỞ ĐẦU
Trong đời sống hàng ngày, có rất nhiều vấn đề làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật của các chủ thể. Đó là một chế
định quan trọng trong luật dân sự. Vậy bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì?
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các nguyên
tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Những thiệt hại có thể được bồi thường
trong trường hợp tài sản gây thiệt hại? II. NỘI DUNG
1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự của bên có
lỗi (cố ý hoặc vô ý), gây hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy 2 lOMoAR cPSD| 59769538
tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, gây hại đến danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác.
- Ví dụ: Ông A sở hữu một chiếc xe ô tô giá 500 triệu đồng. Ông đỗ xe đúng
quy định ở bãi đỗ của công ty. Ông B lái xe ô tô của mình vào bãi gửi xe, do
có sử dụng rượu khi lái xe nên vào bãi đổ xe ông B đã không làm chủ được
tay lái, đâm vào xe máy của ông A làm xe hư hỏng nặng.
Như vậy, trong trường hợp này ông B đã có hành vi xâm phạm tài sản của ông
A, đây là hành vi trái pháp luật. Do đó, ông B đã phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho ông A. -
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng*
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác
định dựa trên bốn yếu tố sau đây:
Có thiệt hại xảy ra
- Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích
của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt
hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có đầy
đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền,
do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
- Trách nhiệm hình sự đối với một số tội có cấu thành hành thức thì không đòi
hỏi có hậu quả vật chất. Ngay đối với một số tội có cấu thành vật chất thì
trọng một số trường hợp cá biệt, hậu quả chưa xảy ra nhưng do tính chất của
hành vi nguy hiểm có khả năng gây ra hậu quả lớn cũng đã cấu thành tội phạm
hoặc ngược lại, đối với một số tội như tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vi
phạm các quy định về an toàn giao thông thì phải có thiệt hại nghiêm trọng
mới cấu thành tội phạm.
- Nhưng trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có thiệt hại dù không nghiêm trọng
cũng phải bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện bát buộc phải có trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì không phải
bồi thường vì vậy trước tiên cần xác định thế nào là thiệt hại.
Xác định thế nào là thiệt hại dựa vào các nội dung sau: 3 lOMoAR cPSD| 59769538
Thiệt hại về tài sản: biểu hiên cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi
phí để ngăn chăn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc
sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hịa.
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất: gồm chi
phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực
tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại: gồm chi phí hợp lí để ngăn
chăn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Tổn hại về tinh thần.
Về nguyên tắc, đời sống tinh thần không thể giá trị được bằng tiền theo nguyên
tắc ngang giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được.
Nhưng với mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại về tinh thần
cũng như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp
luật, BLDS quy định người xâm hại phải ” bồi thường một khoản tiền khác để
bù đắp tổn thất về tinh thần” cho người bị thiệt hại, người thân thích của người đó phải gánh chịu.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
- Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một
quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng
những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào
“xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó.
- Điều 584 BLDS quy định “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” Điều luật này xuất phát từ
nguyên tắc chung của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 3 BLDS ” Việc
xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm
đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.” 4 lOMoAR cPSD| 59769538
- Việc xâm phạm mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự,
hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân sư.
- Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã
thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
Lỗi của người gâỵ ra thiệt hại
- Về nguyên tắc, một người bị áp dụng cưỡng chế nhà nước thì họ phải có hành
vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên trong quan hệ dân sự có
những trường hợp ngoại lệ là người không có hành vi trái pháp luật, không có
lỗi vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự,..
- Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong
muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
- Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng
thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
- Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái
pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều
584 Bộ luật dân sự năm 2015 dưới dạng: “người nào… xâm phạm… mà gây
thiệt hại” thì phải bồi thường. Ở đây có thể thấy hành vi “xâm phạm” đến tính
mạng, tài sản… là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả của hành vi đó. Tuy
nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là vấn đề rất phức tạp. Phạm trù
nguyên nhân và kết quả là cặp phạm trù trong triết học. Nhân quả là mối liên
hệ nội tại, khách quan và tất yếu giữa các hiện tượng tự nhiên cũng như xã
hội, trong đó một là nguyên nhân và sau nó là kết quả.
- Việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là sự liên hệ khách quan đó.
Nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả và kết quả là hậu quả của nguyên
nhân. Xem xét mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội, trong đó con
người sinh sống và hoạt động phức tạp hơn nhiều so với các hiện tượng tự
nhiên khác. Vì vậy, việc xem xét chỉ có ý nghĩa khi hành vi của con người và
hậu quả của hành vi đó được đánh giá dưới góc độ xã hội, trong đó đặc biệt 5 lOMoAR cPSD| 59769538
chú trọng đến hành vi của con người, liên quan đến con người vào thời điểm
có hành vi và hậu quả xảy ra.
- Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Vì vậy, cần phải xem xét, phân
tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và
toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân,
xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại. 3. Nguyên tắc bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng**

Theo điều 585 Bộ luật dân sự 2015:
__________________________________
* https://luatsux.vn/dieu-kien-phat-sinh-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai- hopdong/
- Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Về mức bồi
thường các bên bên có thể tự thỏa thuận nếu trong trường hợp không tự thỏa
thuận được sẽ do cơ quan có thẩm quyền xác định. Hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc
bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường.
- Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường
phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy
ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại cho chính mình.
4. Những thiệt hại có thể được bồi thường trong trường hợp tài sản gây thiệt hại?***
- Theo Bộ luật dân sự năm 2015 tại khoản 3 Điều 584: “Trường hợp tài sản
gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm 6 lOMoAR cPSD| 59769538
bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
- Quy định này đã bao quát được toàn bộ các trường hợp tài sản gây thiệt hại,
theo đó, việc giải quyết các vụ việc về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
sẽ áp dụng theo nguyên tắc sau đây:
+ Một là, nếu thiệt hại do tài sản gây ra thuộc các trường hợp quy định riêng
như nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, công trình xây dựng thì áp
dụng những quy định cụ thể tại Điều 601, Điều 603, Điều 604 và Điều 605 BLDS năm 2015.
+ Hai là, đối với những tài sản khác gây thiệt hại mà không được quy định
cụ thể thì áp dụng khoản 3 Điều 584 để giải quyết.
- Về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong từng trường hợp cụ thể: •
Về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 601 )
Phạm vi chủ thể được quy định theo BLDS năm 2015 rộng hơn so với phạm
vi chủ thể theo quy định của BLDS năm 2005, Điều 623 BLDS năm 2005
quy định những người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra gồm: Chủ sở hữu; người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ; người đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật.
Đối với những chủ thể chiếm hữu có căn cứ pháp luật nhưng không phải
theo sự chuyển giao của chủ sở hữu tài sản Điều luật này chưa đề cập đến.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định chủ thể bồi thường tại khoản 3, khoản 4
Điều 601 là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, mở rộng
phạm vi chủ thể so với quy định tại Điều 623 BLDS năm 2005. Những chủ
thể chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể theo sự chuyển giao
của chủ sở hữu hoặc của một chủ thể khác hoặc do họ tự chiếm hữu, sử dụng
thông qua một sự kiện nhất định. •
Về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 603)
Khoản 1 Điều 603 BLDS năm 2015 bổ sung quy định về chủ thể là “người
chiếm hữu, sử dụng súc vật” phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm
hữu, sử dụng động vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bổ sung này tương
đồng với sửa đổi về chủ thể bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. Người chiếm hữu, sử dụng động vật được hiểu là người đang trực
tiếp cầm giữ, quản lý hoặc đang khai thác công dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ
động vật. Việc chiếm hữu, sử dụng có thể theo sự chuyển giao của chủ sở 7 lOMoAR cPSD| 59769538
hữu hoặc không; việc chiếm hữu, sử dụng có thể nằm trong trường hợp có
căn cứ pháp luật hoặc không có căn cứ pháp luật. •
Về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra (Điều 604)
_______________________________
**https://luatduonggia.vn/khai-niem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop
dong/_Nguyen_tac_boi_thuong_thiet_hai_ngoai_hop_dong
Điều 626 BLDS năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại
do cây cối đổ, gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”
Điều 604 BLDS năm 2015 bổ sung thêm trách nhiệm của người chiếm hữu,
người được giao quản lý phải bồi thường bên cạnh chủ sở hữu cây cối. Như
vậy, người đang chiếm hữu, quản lý là người trực tiếp chăm sóc cây cối và
buộc phải biết tình trạng của cây cối để kịp thời chặt bỏ, phát, tỉa cảnh hay
chặt cây mục ruỗng nhằm tránh nguy cơ cây cối đổ, gẫy gây ra thiệt hại nên
họ phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu để cây cối gây ra thiệt hại. •
Về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra (Điều 605)
Vấn đề bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
được quy định trong BLDS năm 2015 có nhiều nét tương đồng với trường
hợp bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.
Về chủ thể: Điều 607 BLDS năm 2015 quy định chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường là “chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử
dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác”, đã khắc phục được điểm thiếu sót
của BLDS năm 2005 không quy định một số chủ thể chịu trách nhiệm như:
Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai đối với bất động sản,...
Về các trường hợp bồi thường thiệt hại: Điều 605 BLDS năm 2015 quy định
bao quát chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng
nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công
trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.
___________________________________ 8 lOMoAR cPSD| 59769538
***https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/diem-moi-ve-boi-thuong-
thiethai-do-tai-san-gay-ra-d10-t1225.html III. KẾT LUẬN
Như vậy bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan trọng trong pháp
luật dân sự. Trong cuộc sống ta không thể hoàn toàn tránh khỏi những trường hợp
trái phạm luật dù là cố ý hay vô ý, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ một
phần nào giúp mọi người lấy lại công bằng, xử lý thiệt hại đáng tiếc. Dù chế định
này vẫn còn nhiều hạn chế nhưng vẫn đang được sửa đổi và đã góp phần quan
trọng làm hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 9