lOMoARcPSD| 48541417
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
BỘ GIÁODỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------------------------------------------
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
Từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, làm rõ vai trò của người lao động trong
Sinh viên: Lê Thị Phương Thảo
Mã sinh viên: 11233149
Lớp tín chỉ: LLNL1105(223)_24
Giảng viên: Ts. Nghiêm Thị Châu Giang
Tháng 05 năm 2024
lOMoARcPSD| 48541417
2
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 2
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3
1 .CƠ SỞ LÍ THUYẾT ..................................................................................... 3
1.1 Khái niệm về phương thức sản xuất. ............................................................ 3
1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất .................................................................... 4
1.3 Khái niệm về lực lượng sản xuất .................................................................. 5
1.4 Khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất .... 5
2.QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ...................................................... 6
2.1 Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ................................................................................................ 6
2.2 Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................................................... 8
2.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam . 10
3 .VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁCH MẠNG 4.0 .... 11
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 13
LỜI MỞ ĐẦU
Ph. Ăngghen nhấn mạnh rằng, “cái sự thật hiển nhiên.. là trước hết con người cần
phải ăn, uống, mặc, nghĩa phải lao động..., trước khi thể đấu tranh để giành
quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học, v.v...”, điều này
cho thấy lao động sáng tạo nên con người, đồng thời thể hiện được sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
lOMoARcPSD| 48541417
3
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
quan hệ sản xuất hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau,
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy luật cơ bản nhất của sự
vận động, phát triểnhội. Quy luật này chỉ ra rằng khi quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, đó sẽ là động lực để kinh tế - xã hội phát triển, còn khi
quan hệ sản xuất không phù hợp với trình đphát triển của lực lượng sản xuất, dù là lạc
hậu hơn hay đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì đều lực cản đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. vậy, quy luật quan hệ sản xuất phợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất quy luật bản nhất của sự vận động phát triển lịch
sử xã hội.
Trước đây, nền kinh tế hóa tập trung đã từng chủ quan dẫn đến nhận thức sai
lệch vận dụng méo mó quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất lực lượng
sản xuất, chế quan liêu, bao cấp đã tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ
lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở
nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - hội. Vậy nên, việc đưa nhận
thức một cách đúng đắn về mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn. Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cả thế giới vật chất, thế giới số thế giới sinh học...
đang hòa trộn với nhau, ảnh hưởng đến mọi quy tắc, mọi nền kinh tế,... càng thách thức
chúng ta cần phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, làm vai trò của người lao động trong Cách mạng
4.0.
NỘI DUNG
1 .CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1 Khái niệm về phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất cách thức con người sản xuất vật chất những giai đoạn
lịch sử của xã hội loài người.
Mỗi giai đoạn của lịch sử sẽ có một phương thức sản xuất khác nhau. Tương ứng
với từng phương thức sản xuất, những đặc điểm, tính chất và kết cấu sẽ được hình thành
lOMoARcPSD| 48541417
4
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
cùng với sự phát triển của hội. Nói cách khác, phương thức sản xuất sự kết hợp
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Phương thức sản xuất chính sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong qtrình sản xuất vật chất. Đây một phần không thể thiếu của cấu hội,
bao gồm các quy định, quyền lực, trách nhiệm và vai trò của các tầng lớp trong xã hội.
Quan hệ sản xuất không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ ai, luôn
tuân theo những quy luật xã hội tất yếu, khách quan của đời sống xã hội. Trong thực tế
quá trình sản xuất, hệ thống các quan hệ sản xuất biểu hiện cụ thể theo 03 mặt khác nhau
bao gồm: quan hệ về sở hữu đối với liệu sản xuất ( việc chiếm hữu liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội), quan hệ về tổ chức quản lý quá trình sản xuất (việc tổ chức quản lý
sản xuất hội trong trao đổi hoạt động với nhau), quan hệ về phân phối lưu thông
(việc phân phối lưu thông sản phẩm trong hội). Các mặt quan hệ nêu trên đều
mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội và có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau. Những quan hệ đó là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là sở sâu
xa của đời sống tinh thần hội, chúng luôn gắn với nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất.
Như vậy, các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu , tác động qua lại,
chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hữu liệu sản xuất đóng vai trò
quyết định bản chất tính chất của quan hệ sản xuất (giai cấp o chiếm hữu liệu
sản xuất thì giai cấp đó giai cấp thống trị đứng ra tổ chức, quản sản xuất sẽ quyết
định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu nhập). Quan hệ sản xuất quy
định các quan hệ hội khác của con người, nhưng bản thân lại chịu ảnh ởng của
chúng. vậy, việc thực hiện quan hệ sản xuất phải đi cả bằng con đường hội chứ
không phải chỉ đi bằng con đường kinh tế. Chúng ta thể chứng minh một cách dễ
dàng rằng: quan hệ phân phối không chỉ là quan hệ kinh tế mà nó còn là quan hệ mang
tính hội sâu sắc giữa những con người. Nếu không công bằng hội trong quan
hệ phân phối thì cũng không thể hoàn thiện được cả mặt kinh tế của quan hệ sản xuấtvà
lOMoARcPSD| 48541417
5
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
do đó cũng không thể hoàn thiện được toàn xã hội. Tóm lại, quan hệ sản xuất hình thành
1 cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
1.3 Khái niệm về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất sự kết hợp giữa người lao động với liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất gồm có hai bộ phận cơ bản đó là tư liệu sản xuất và người lao
động. Trong đó, nhân tố người lao động chủ thể của quy trình lao động sản xuất,
người tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng người tiêu dùng lao động để tạo
ra loại sản phẩm. Đây cũng nguồn lực cơ bản, tận và đặc biệt của sản xuất bởi
bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về người
lao động (như năng lực, k năng, tri thức,… của người lao động). Bên cạnh đó, liệu
sản xuất chính điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm liệu lao
động (công cụ lao động, phương tiện lao động) và đối tượng lao động.
Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra của cải vật chất thì liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao
động cao. Còn trong liệu lao động tức tất cả các yếu tố vật chất con người sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất
linh hoạt nhất. Bởi vậy, khi công cụ lao động được chuyển đổi cải tiến hoàn thiện
không ngừng, sẽ gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ liệu sản xuất.
thể nói, trình độ phát triển công cụ lao động thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người, vậyn, con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất.
1.4 Khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất
Ngoài những khái niệm đã nêu trên, khi nói về lực ợng sản xuất chúng ta không
thể không nói đến khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là tổng hợp trình độ phát triển của các
yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất trong đó trình độ của công cụ lao động và trình độ
kiến thức ( khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm…), k năng của
người lao động ý nghĩa quyết định nhất. Trình độ công cụ lao động, trình độ hiểu biết
lOMoARcPSD| 48541417
6
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
kỹ năng lao động của con người cũng như các yếu tố cấu thành khác càng cao, thì
năng suất lao động càng cao. Chính vậy, năng suất lao động biểu hiện nhất trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, là yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế và tiến bộ xã hội.
Tính chất của lực lượng sản xuất thể hiện ở tính cá thể, phân tán, sản xuất nhhay
tính cộng đồng, tập trung (tính xã hội), sản xuất lớn. Nó thường tương ứng với trình độ
của lực lượng sản xuất chủ yếu trình độ của công cụ lao động. Nếu công cụ lao
động thô sơ, thì lực lượng sản xuất mang tính chất thể, sản xuất nhỏ. Còn nếu công
cụ lao động y móc, thiết bị hiện đại thì lực lượng sản xuất mang tính hội cao,
tính sản xuất lớn. Mỗi sản phẩm làm ra công sức đóng góp của nhiều người nhiều
khâu khác nhau. Công cụ lao động theo Ph. Ăngghen “kquan của bộ óc con người”,
“là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá” có tác dụng “nối dài bàn tay” nhân lên
sức mạnh trí tuệ của con người. Bởi vậy, khi công cụ lao động đạt tới trình độ được tin
học hoá, được tự động hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của trở nên hết sức kỳ
diệu. Do vậy, thể nói, trình độ phát triển của công cụ lao động chính là thước đo trình
độ chinh phục tự nhiên của con người.
2.QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
2.1 Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất hai mặt của một phương thức sản xuất
tác động đến biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,
còn quan hệ sản xuất tác động ngược lại đối với lực lượng sản xuất. Mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận động, phát triển của
các phương thức sản xuất trong lịch sử.
Biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất một tất yếu khách
quan. Sản xuất vật chất của xã hội luôn luôn có khuynh hướng phát triển không ngừng.
Sự phát triển đó, xét cho đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng
sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
lOMoARcPSD| 48541417
7
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện qua các trình độ khác nhau.Trình
độ của lực lượng sản xuất cũng chính trình độ của công cụ lao động (thủ công, cơ khí,
công nghiệp hiện đại…), trình độ của người lao động (kinh nghiệm, trình độ ứng dụng
khoa học-k thuật công nghệ vào quá trình sản xuất, trình độ tổ chức phân công
lao động xã hội…). Như vậy, trình độ của lực lượng sản xuất quy định tính chất của lực
lượng sản xuất và biểu hiện rõ nhất qua sự phân công lao động xã hội. Tính chất của lực
lượng sản xuất mang tính cá nhân khi trình độ lực lượng lao động ở mức thủ công, công
cụ lao động đơn giản. Đến khi sản xuất đạt đến trình độ khí, máy móc công nghiệp
hiện đại đòi hỏi trình độ lực ợng sản xuất phải cao hơn thì tính chất của lực lượng sản
xuất lại mang tính hội. Công cụ lao động yếu tố động, luôn luôn được cải tiến
và phát triển qua từng thời kì dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và khi ấy
xuất hiện sự đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế vào đó quan
hệ sản xuất mới. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn. Như vậy, chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất qua các trình độ khác nhau đã quy định làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đòi hỏi khách quan của nên sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không
ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất từ “tạo địa bàn” phát triển lực lượng sản xuất lại trở thành “xiềng xích” kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ thiết lập quan
hệ mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tuy nhiên các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác đã xác định quan hệ sản xuất mới ấy phải dựa trên chế độ công hữu
hội chủ nghĩa sẽ được hình thành từng bước theo trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau.
Tóm lại, lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất
mới trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Khi một quan
hệ sản xuất được thay thế bằng mối quan hệ sản xuất mới cũng lúc phương thức
sản xuất cũ mất đi và phương thức sản xuất mới ra đời.
Trong sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, một mặt quan hệ
sản xuất luôn luôn do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định, nhưng mặt
lOMoARcPSD| 48541417
8
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
khác, bản thân quan hệ sản xuất cũng tính độc lập tương đối so với lực lượng sản
xuất. Điều này được thể hiện trong sự tác động trở lại của nó đến lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất phát triển được do nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn
cảnh địa lí, trình độ phát triển của khoa học, còn quan hệ sản xuất chỉ giữ vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là sự phản ánh của
lực lượng sản xuất nhưng chính nó lại quy định mục đích sản xuất, khuynh hướng phát
triển của các nhu cầu lợi ích vật chất tinh thần, quyết định hệ thống quản hệ
thống hội. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì sẽ làm động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất
lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực ợng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ xảy ra trong
những giới hạn, với những điều kiện nhất định ( chịu chi phối bởi các yếu tố chung như:
các quy luật kinh tế bản, phụ thuộc vào trình độ người lao động, tùy thuộc vào s
phát triển của khoa học và côcng nghệ).
Như vậy, ta có thể khẳng định quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho xã hội loài người, chính sự tác động
của quy luật y đã làm cho hội loài người phát triển từ hình thái kinh tế - hội này
đến hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Quy luật này là cơ sở lí luận chống lại quan điểm
duy tâm tôn giáo về sự phát triển lịch sử, đó cũng sở cho việc hoạch định đường
lối của Đảng, phê phán các nhận thức sai lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất
mới. Cuối cùng, đây là quy luật cơ bản, khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế,
xã hội, lịch sử của nhân loại.
2.2 Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Quy luật biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực ợng sản xuất tác động mạnh m
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước đây, nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước, lực lượng sản xuất lúc đó của nước ta trình độ rất thấp được thể hiện qua các
đặc điểm tính chất sản xuất nhỏ (cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, năng suất lao động
lOMoARcPSD| 48541417
9
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
rất thấp, phân công lao động chưa phát triển, công nghiệp và nông nghiệp chưa kết hợp
được với nhau thành một cơ cấu...); cụ thể nhất là công cụ lao động chủ yếu vẫn ở trình
độ thủ công, còn máy móc thiết bị cơ giới rất ít lại lạc hậu. Có thể nói, tất cả các yếu tố
cấu thành lực lượng lao động đều thiếu về số lượng, tính chất sản xuất nhỏ, phân tán và
trình độ lạc hậu; điều này tất yếu sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp, khối lượng hàng
hoá làm ra không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Do những nhận thức sai lầm vận
dụng méo quy luật quan hệ sản xuất trình độ lực lượng sản xuất nên người lao
động mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả... Đây cũng căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ một số
người có quyn quyết định phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Đối với nước ta, thời k trước đổi mới, chúng ta đã chủ quan, duy ý chí trong việc
thiết kế mô hình phát triển lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. hình đó đã không
phù hợp với biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. Vậy nên, lực lượng
sản xuất bị cản trở do quan hệ sản xuất không phù hợp, còn quan hệ sản xuất cũng vận
động theo khuynh hướng xa rời lực lượng sản xuất. Vấn đề chỗ làm thế o giải
phóng được lực lượng sản xuất, từng bước củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất, từ
đó hướng nền kinh tế phát triển đúng theo quy luật khách quan của trong điều kiện
mới của nước ta.
Để cải thiện vấn đề này, trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chtrương
thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đường
lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa không đồng
đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ công hữu hội chủ nghĩa về liệu sản xuất. Như thế, quan
hệ sản xuất sẽ tiên tiến” hơn so với lực lượng sản xuất vốn của chúng ta. vậy,
thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong công cuộc đổi mới đất nước là nhằm khơi dậy tiềm
năng của sản xuất. Đảng ta khẳng định muốn phát triển lực lượng sản xuất thì không có
con đường nào khác phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan niệm y
lOMoARcPSD| 48541417
10
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
cho thấy vấn đề then chốt, đó không đơn giản là sự tăng thêm về tốc độ và tỷ trọng của
sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình chuyn dịch cơ cấu,
gắn liền với đổi mới công nghệ, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho đất nước phát triển.
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, tận dụng để phát triển chiều rộng, với việc
tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu để phát triển chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn
theo trình độ tiến triển của khoa học, công nghệ trong khu vực và trên thế giới.
Cùng với sự phát triển trong nhận thức của Đảng các chính sách cũng thường xuyên
được điều chỉnh, bổ sung nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước đề ra. Từ
đó đem lại nhiều hiệu ứng tích cực trong nền kinh tế sản xuất. Việt Nam từ một nước
nghèo nàn, lạc hậu đã và đang thể hiện sự nắm vững, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Như vậy quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Nhận thức đúng đắn quy luật này
ý nghĩa to lớn trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối chính sách, sở
khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Các quan hệ sản xuất ở trình độ khác nhau được thiết lập đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế đã từng bước tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển
không đồng đều về mọi yếu tố trong kết cấu của lực lượng sản xuất.
2.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Có thể nói, những hạn chế trong việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất nói chung, được thể hiện ở những sai lầm trong đường lối cải tạo
xã hội chủ nghĩa thời kỳ trước đổi mới. Vì vậy, đẩy mạnh quá trình đổi mới kinh tế, xã
hội; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - thuật điều cần thiết để nâng cao hiệu
quả vận dụng quy luật biện chứng giữa quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất. Luôn
không ngừng nâng cao trình độ lao động, học hỏi phát triển khoa học kĩ thuật, nâng cao
công cụ lao động, máy móc hiện đại để nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế sản xuất.
Để nhận thức đúng đắn quy luật ycả một quá trình dài, bởi vậy trong thực tiễn
không tránh khỏi những yếu tố bất ngờ, phức tạp; đòi hỏi phải chỉnh và bổ sung liên tục
lOMoARcPSD| 48541417
11
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
các chính sách của Đảng. Để đất nước thể phát triển một cách bền vững lâu dài,
nhà nước cần quản lý nền kinh tế linh hoạt bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính
sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
kinh tế thị trường để ch thích sản xuất, phát huy tính tích cực hạn chế những mặt
tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường...
3 .VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁCH MẠNG 4.0
Thế giới đang chứng kiến một knguyên mới với những thành tựu đột phá của
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công
nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Tuy nhiên, những tiến
bộ gần đây về công nghệ mới, sử dụng trí tuệ nhân tạo với hệ thống tự động hóa tích
hợp cao, sử dụng robot công nghệ để tăng năng suất lao động trong các dây chuyền sản
xuất đang đặt ra nhiều thách thức lớn hơn trước. Bên cạnh những lợi ích cho người lao
động như: tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống, mở cửa thị trường
lao động thông qua những sản phẩm và dịch vụ mới... Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng
tiền ẩn nhiều nguy cơ tiêu cực tới người lao động.
Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra những thay đổi mạnh mẽ trong cấu nhân lực
và việc m ở nhiều góc độ khác nhau. Công cuộc này mở ra nhiều hội nhưng đồng
thời cũng đi kèm với những thách thức mà các quốc gia phải đối mặt, đặc biệt Việt Nam
còn là đất nước đang trong quá trình phát triển hội nhập một cách tích cực, vậy, nước
ta chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cùng với bước xác
lập về nhận thức nh động của Chính phủ các bộ, ngành, nh vực, người lao
động - để trở thành những lao động 4.0 - không thể đứng ngoài xu thế tất yếu ấy. Trong
cuộc cách mạng này, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội đều bị tác động, đặc biệt
những tác động đối với lĩnh vực lao động việc m là rất lớn. Những ứng dụng của
CMCN 4.0 các công cụ giúp cho việc mở rộng và đa dạng hóa các hình thức sản xuất,
quản lý. Con người có thể tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng đầy đủ nhờ sự hỗ
trợ của internet, dữ liệu lớn, sự phát triển của hệ thống thông tin trực tuyến, mạng
hội... cuộc cách mạng 4.0 đã đem đến cho Việt Nam được tiếp cận với sự phát triển đa
lĩnh vực góp phần rất lớn trong cải thiện, nâng cao đời sống cho người lao động. Tuy
nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực do cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đem lại vẫn đi kèm những thách thức mà nước ta cần phải đối mặt để giải quyết.
lOMoARcPSD| 48541417
12
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (2019), tới 70% số việc m mức
rủi ro cao (có xác suất bị thay thế trên 70%), 18% rủi ro trung bình (có xác suất bị
thay thế từ 30-70%) và 12% có rủi ro thấp (có xác suất bị thay thế dưới 30%). Điều này
đòi hỏi c doanh nghiệp phải xử lý, thích ng với sự thay đổi y. thể thấy, nguy
cơ lao động ngành Nông, lâm và thủy sản; ng nghiệp chế biến, chế tạo... bị thay thế
rất lớn. Đây là những ngành, nghề đang tạo ra rất nhiều công ăn việc làm và góp phần
cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Trong lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, nguy
bị thay thế, một số ngành khác cũng sẽ bị nh hưởng tác động của cuộc cách mạng này
như chăm sóc sức khỏe, y tế giáo dục, bán lẻ, giao thông vận tải. Điều này sẽ gây ra
những hệ lụy khó lường đối với nền kinh tế và các vấn đề an sinh xã hội khác.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra
đối với các quốc gia hiện nay là phải có tầm nhìn chiến lược và hành động quyết liệt để
nắm bắt cơ hội và giải quyết thách thức. Bên cạnh những chủ trương, chính sách mang
tính tổng thể, mạnh mẽ và tạo đột phá hơn nữa để có thể nắm bắt được cơ hội, vượt qua
thách thức của Nhà nước, người lao động trong cuộc cách mạng 4.0 cần thiết phải nâng
cao trình độ, tri thức, chuyên môn kinh nghiệm để theo kịp tốc độ của sự phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình tự thân của mỗi cá nhân cũng là quá trình
tự thân của mỗi doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức. vậy, ch cực đổi mới, không ngừng
học hỏi để nâng cao của mỗi cá nhân yếu ttất yếu để thể sống sót bền vững
trong vòng xoáy phát triển của thời đại công nghệ.
Sự thay đổi linh hoạt, không ngừng học hỏi trau dồi tri thức, phát triển kĩ năng,
tham gia tích cực vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 của lực lượng lao động luôn
chủ đề nóng hổi mang tính thời sự và cấp thiết. Đó là khối lực lượng lao động góp phần
đưa đất nước của chúng ta ra xa để phát triển hơn, bền vững hơn, khẳng định vị thế của
mình trên thế giới. Tóm lại, lao động đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc cách
mạng 4.0 tại Việt Nam bằng cách thích ứng với công nghệ mới, tạo ra giá trị gia tăng,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế hội; không chỉ giúp tăng ờng sức cạnh tranh
phát triển kinh tế còn góp phần vào việc giảm bớt bất bình đẳng nâng cao chất
lượng cuộc sống cho toàn bộ xã hội.
lOMoARcPSD| 48541417
13
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
KẾT LUẬN
Như vậy, qua từng thời phát triển, nhận thức của con người ngày càng đúng
đắn và rõ ràng hơn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất và lực ợng sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chi phối
qua lại một cách biện chứng, vậy nên quy luật này chính quy luật tất yếu, cơ bản trong
sự vận động phát triển của hội. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng lao động, nó sẽ trở thành động lực cho nền kinh tế xã hội phát triển.
Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hay phát triển hơn so với trình độ lực lực lao
động thì sẽ thành trở ngại m hãm sự phát triển của hội. Tuy vậy quan hệ sản
xuất cũng không hoàn toàn phụ thuộc tính độc lập tương đối tác động lại lực
lượng sản xuất. Trạng thái vận động mâu thuẫn biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất diễn ra từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới trình
độ cao hơn. Sự phù hợp không diễn ra “ tự động” mà đòi hỏi trình độ tự giác cao trong
nhận thức và vận dụng quy luật.
Từ việc vận dụng quy luật vào thực tiễn, áp dụng trong thời kì cách mạng 4.0 hiện
nay, ta càng hiểu rõ vai trò quan trọng của người lao động hiện nay. Chúng ta cần không
ngừng học hỏi, nâng cao bản thân, linh hoạt thay đổi trong mọi điều kiện để tồn tại trong
thời công nghệ, luôn luôn sáng tạo để không trở thành nhóm người phụ thuộc, lạc
hậu, bị “ bỏ lại” trong thời đại phát triển như vũ bão. Bên cạnh đó là sự hoàn thiện hơn
của Đảng về việc nhận thức rõ ràng quy luật, đề ra định hướng, mục tiêu và chính sách
rõ ràng, đòi hỏi. Nhà nước ta cần linh hoạt chỉnh sửa, bổ sung các chính sách để có thể
phù hợp mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Triết học Mác Lênin” (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
luận chính trị), Bộ Giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021.
lOMoARcPSD| 48541417
14
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.166.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.641.
4. Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất y dựng hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, Hữu Nghĩa, Bài trích, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Số 7/2014.
5. Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Lê Văn Dương, Triết học, Viện
Triết học, Số 1/2002, trang 5 9.
HẾT

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48541417
BỘ GIÁODỤC VÀ ĐÀO TẠO
------------------------------------------- BÀI TIỂU LUẬN MÔN: TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
Từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, làm rõ vai trò của người lao động trong
cách mạng 4.0.
Sinh viên: Lê Thị Phương Thảo
Mã sinh viên: 11233149
Lớp tín chỉ: LLNL1105(223)_24
Giảng viên: Ts. Nghiêm Thị Châu Giang Tháng 05 năm 2024
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 2
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3
1 .CƠ SỞ LÍ THUYẾT ..................................................................................... 3
1.1 Khái niệm về phương thức sản xuất. ............................................................ 3
1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất .................................................................... 4
1.3 Khái niệm về lực lượng sản xuất .................................................................. 5
1.4 Khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất .... 5
2.QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ...................................................... 6
2.1 Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ................................................................................................ 6
2.2 Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................................................... 8

2.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam . 10

3 .VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁCH MẠNG 4.0 .... 11
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 13 LỜI MỞ ĐẦU
Ph. Ăngghen nhấn mạnh rằng, “cái sự thật hiển nhiên.. là trước hết con người cần
phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động..., trước khi có thể đấu tranh để giành
quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học, v.v...”, điều này
cho thấy lao động sáng tạo nên con người, đồng thời thể hiện được sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và 2
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau,
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự
vận động, phát triển xã hội. Quy luật này chỉ ra rằng khi quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, đó sẽ là động lực để kinh tế - xã hội phát triển, còn khi
quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, dù là lạc
hậu hơn hay đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì đều là lực cản đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển lịch sử xã hội.
Trước đây, nền kinh tế hóa tập trung đã từng chủ quan dẫn đến nhận thức sai
lệch và vận dụng méo mó quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất, cơ chế quan liêu, bao cấp đã tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ
lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở
nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vậy nên, việc đưa nhận
thức một cách đúng đắn về mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn. Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cả thế giới vật chất, thế giới số và thế giới sinh học...
đang hòa trộn với nhau, ảnh hưởng đến mọi quy tắc, mọi nền kinh tế,... càng thách thức
chúng ta cần phân tích rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, làm rõ vai trò của người lao động trong Cách mạng 4.0. NỘI DUNG
1 .CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1 Khái niệm về phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thức con người sản xuất vật chất ở những giai đoạn
lịch sử của xã hội loài người.
Mỗi giai đoạn của lịch sử sẽ có một phương thức sản xuất khác nhau. Tương ứng
với từng phương thức sản xuất, những đặc điểm, tính chất và kết cấu sẽ được hình thành 3
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
cùng với sự phát triển của xã hội. Nói cách khác, phương thức sản xuất là sự kết hợp
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
1.2 Khái niệm về quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất. Đây là một phần không thể thiếu của cơ cấu xã hội,
bao gồm các quy định, quyền lực, trách nhiệm và vai trò của các tầng lớp trong xã hội.
Quan hệ sản xuất không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ ai, và nó luôn
tuân theo những quy luật xã hội tất yếu, khách quan của đời sống xã hội. Trong thực tế
quá trình sản xuất, hệ thống các quan hệ sản xuất biểu hiện cụ thể theo 03 mặt khác nhau
bao gồm: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất ( việc chiếm hữu tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội), quan hệ về tổ chức quản lý quá trình sản xuất (việc tổ chức quản lý
sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động với nhau), quan hệ về phân phối lưu thông
(việc phân phối và lưu thông sản phẩm trong xã hội). Các mặt quan hệ nêu trên đều
mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội và có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau. Những quan hệ đó là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu
xa của đời sống tinh thần xã hội, chúng luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất.
Như vậy, các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại,
chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất đóng vai trò
quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất (giai cấp nào chiếm hữu tư liệu
sản xuất thì giai cấp đó là giai cấp thống trị đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết
định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu nhập). Quan hệ sản xuất quy
định các quan hệ xã hội khác của con người, nhưng bản thân lại chịu ảnh hưởng của
chúng. Vì vậy, việc thực hiện quan hệ sản xuất phải đi cả bằng con đường xã hội chứ
không phải chỉ đi bằng con đường kinh tế. Chúng ta có thể chứng minh một cách dễ
dàng rằng: quan hệ phân phối không chỉ là quan hệ kinh tế mà nó còn là quan hệ mang
tính xã hội sâu sắc giữa những con người. Nếu không có công bằng xã hội trong quan
hệ phân phối thì cũng không thể hoàn thiện được cả mặt kinh tế của quan hệ sản xuấtvà 4
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
do đó cũng không thể hoàn thiện được toàn xã hội. Tóm lại, quan hệ sản xuất hình thành
1 cách khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
1.3 Khái niệm về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất gồm có hai bộ phận cơ bản đó là tư liệu sản xuất và người lao
động. Trong đó, nhân tố người lao động là chủ thể của quy trình lao động sản xuất, là
người tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng người tiêu dùng lao động để tạo
ra loại sản phẩm. Đây cũng là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất bởi vì
bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về người
lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động). Bên cạnh đó, tư liệu
sản xuất chính là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao
động (công cụ lao động, phương tiện lao động) và đối tượng lao động.
Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao
động cao. Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất
linh hoạt nhất. Bởi vậy, khi công cụ lao động được chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện
không ngừng, nó sẽ gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Có
thể nói, trình độ phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người, vậy nên, con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất.
1.4 Khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất
Ngoài những khái niệm đã nêu trên, khi nói về lực lượng sản xuất chúng ta không
thể không nói đến khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là tổng hợp trình độ phát triển của các
yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất trong đó trình độ của công cụ lao động và trình độ
kiến thức ( khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm…), kỹ năng của
người lao động có ý nghĩa quyết định nhất. Trình độ công cụ lao động, trình độ hiểu biết 5
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
và kỹ năng lao động của con người cũng như các yếu tố cấu thành khác càng cao, thì
năng suất lao động càng cao. Chính vì vậy, năng suất lao động biểu hiện rõ nhất trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, là yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế và tiến bộ xã hội.
Tính chất của lực lượng sản xuất thể hiện ở tính cá thể, phân tán, sản xuất nhỏ hay
tính cộng đồng, tập trung (tính xã hội), sản xuất lớn. Nó thường tương ứng với trình độ
của lực lượng sản xuất mà chủ yếu là trình độ của công cụ lao động. Nếu công cụ lao
động thô sơ, thì lực lượng sản xuất mang tính chất cá thể, sản xuất nhỏ. Còn nếu công
cụ lao động là máy móc, thiết bị hiện đại thì lực lượng sản xuất mang tính xã hội cao,
tính sản xuất lớn. Mỗi sản phẩm làm ra là công sức đóng góp của nhiều người ở nhiều
khâu khác nhau. Công cụ lao động theo Ph. Ăngghen là “khí quan của bộ óc con người”,
“là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá” có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên
sức mạnh trí tuệ của con người. Bởi vậy, khi công cụ lao động đạt tới trình độ được tin
học hoá, được tự động hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở nên hết sức kỳ
diệu. Do vậy, có thể nói, trình độ phát triển của công cụ lao động chính là thước đo trình
độ chinh phục tự nhiên của con người.
2.QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
2.1 Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất
có tác động đến biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,
còn quan hệ sản xuất tác động ngược lại đối với lực lượng sản xuất. Mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận động, phát triển của
các phương thức sản xuất trong lịch sử.
Biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một tất yếu khách
quan. Sản xuất vật chất của xã hội luôn luôn có khuynh hướng phát triển không ngừng.
Sự phát triển đó, xét cho đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. 6
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện qua các trình độ khác nhau.Trình
độ của lực lượng sản xuất cũng chính là trình độ của công cụ lao động (thủ công, cơ khí,
công nghiệp hiện đại…), trình độ của người lao động (kinh nghiệm, trình độ ứng dụng
khoa học-kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, trình độ tổ chức và phân công
lao động xã hội…). Như vậy, trình độ của lực lượng sản xuất quy định tính chất của lực
lượng sản xuất và biểu hiện rõ nhất qua sự phân công lao động xã hội. Tính chất của lực
lượng sản xuất mang tính cá nhân khi trình độ lực lượng lao động ở mức thủ công, công
cụ lao động đơn giản. Đến khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, máy móc công nghiệp
hiện đại đòi hỏi trình độ lực lượng sản xuất phải cao hơn thì tính chất của lực lượng sản
xuất lại mang tính xã hội. Công cụ lao động là yếu tố động, nó luôn luôn được cải tiến
và phát triển qua từng thời kì dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và khi ấy
xuất hiện sự đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế vào đó quan
hệ sản xuất mới. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn. Như vậy, chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất qua các trình độ khác nhau đã quy định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
đòi hỏi khách quan của nên sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không
ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất từ “tạo địa bàn” phát triển lực lượng sản xuất lại trở thành “xiềng xích” kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ cũ và thiết lập quan
hệ mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tuy nhiên các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác đã xác định quan hệ sản xuất mới ấy phải dựa trên chế độ công hữu
xã hội chủ nghĩa và nó sẽ được hình thành từng bước theo trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau.
Tóm lại, lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất
mới trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Khi một quan
hệ sản xuất cũ được thay thế bằng mối quan hệ sản xuất mới cũng là lúc phương thức
sản xuất cũ mất đi và phương thức sản xuất mới ra đời.
Trong sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, một mặt quan hệ
sản xuất luôn luôn do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định, nhưng mặt 7
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
khác, bản thân quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối so với lực lượng sản
xuất. Điều này được thể hiện trong sự tác động trở lại của nó đến lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất phát triển được là do nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn
cảnh địa lí, trình độ phát triển của khoa học, còn quan hệ sản xuất chỉ giữ vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là sự phản ánh của
lực lượng sản xuất nhưng chính nó lại quy định mục đích sản xuất, khuynh hướng phát
triển của các nhu cầu lợi ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống quản lí và hệ
thống xã hội. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì sẽ làm động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất
lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ xảy ra trong
những giới hạn, với những điều kiện nhất định ( chịu chi phối bởi các yếu tố chung như:
các quy luật kinh tế cơ bản, phụ thuộc vào trình độ người lao động, tùy thuộc vào sự
phát triển của khoa học và côcng nghệ).
Như vậy, ta có thể khẳng định quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho xã hội loài người, chính sự tác động
của quy luật này đã làm cho xã hội loài người phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội này
đến hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Quy luật này là cơ sở lí luận chống lại quan điểm
duy tâm tôn giáo về sự phát triển lịch sử, đó cũng là cơ sở cho việc hoạch định đường
lối của Đảng, phê phán các nhận thức sai lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất
mới. Cuối cùng, đây là quy luật cơ bản, khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế,
xã hội, lịch sử của nhân loại.
2.2 Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Quy luật biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tác động mạnh mẽ
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước đây, nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước, lực lượng sản xuất lúc đó của nước ta trình có độ rất thấp được thể hiện qua các
đặc điểm tính chất sản xuất nhỏ (cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, năng suất lao động 8
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
rất thấp, phân công lao động chưa phát triển, công nghiệp và nông nghiệp chưa kết hợp
được với nhau thành một cơ cấu...); cụ thể nhất là công cụ lao động chủ yếu vẫn ở trình
độ thủ công, còn máy móc thiết bị cơ giới rất ít lại lạc hậu. Có thể nói, tất cả các yếu tố
cấu thành lực lượng lao động đều thiếu về số lượng, tính chất sản xuất nhỏ, phân tán và
trình độ lạc hậu; điều này tất yếu sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp, khối lượng hàng
hoá làm ra không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Do những nhận thức sai lầm và vận
dụng méo mó quy luật quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất nên người lao
động mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả... Đây cũng là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số
người có quyền quyết định phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Đối với nước ta, thời kỳ trước đổi mới, chúng ta đã chủ quan, duy ý chí trong việc
thiết kế mô hình phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mô hình đó đã không
phù hợp với biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Vậy nên, lực lượng
sản xuất bị cản trở do quan hệ sản xuất không phù hợp, còn quan hệ sản xuất cũng vận
động theo khuynh hướng xa rời lực lượng sản xuất. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào giải
phóng được lực lượng sản xuất, từng bước củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất, từ
đó hướng nền kinh tế phát triển đúng theo quy luật khách quan của nó trong điều kiện mới của nước ta.
Để cải thiện vấn đề này, trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đường
lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa không đồng
đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như thế, quan
hệ sản xuất sẽ “ tiên tiến” hơn so với lực lượng sản xuất vốn có của chúng ta. Vì vậy,
thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong công cuộc đổi mới đất nước là nhằm khơi dậy tiềm
năng của sản xuất. Đảng ta khẳng định muốn phát triển lực lượng sản xuất thì không có
con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan niệm này 9
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
cho thấy vấn đề then chốt, đó không đơn giản là sự tăng thêm về tốc độ và tỷ trọng của
sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu,
gắn liền với đổi mới công nghệ, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho đất nước phát triển.
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, tận dụng để phát triển chiều rộng, với việc
tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu để phát triển chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn
theo trình độ tiến triển của khoa học, công nghệ trong khu vực và trên thế giới.
Cùng với sự phát triển trong nhận thức của Đảng các chính sách cũng thường xuyên
được điều chỉnh, bổ sung nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ mà Nhà nước đề ra. Từ
đó đem lại nhiều hiệu ứng tích cực trong nền kinh tế sản xuất. Việt Nam từ một nước
nghèo nàn, lạc hậu đã và đang thể hiện sự nắm vững, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Như vậy quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Nhận thức đúng đắn quy luật này
có ý nghĩa to lớn trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối chính sách, là cơ sở
khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Các quan hệ sản xuất ở trình độ khác nhau được thiết lập đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế đã từng bước tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển
không đồng đều về mọi yếu tố trong kết cấu của lực lượng sản xuất.
2.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Có thể nói, những hạn chế trong việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất nói chung, được thể hiện ở những sai lầm trong đường lối cải tạo
xã hội chủ nghĩa thời kỳ trước đổi mới. Vì vậy, đẩy mạnh quá trình đổi mới kinh tế, xã
hội; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - kĩ thuật là điều cần thiết để nâng cao hiệu
quả vận dụng quy luật biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Luôn
không ngừng nâng cao trình độ lao động, học hỏi phát triển khoa học kĩ thuật, nâng cao
công cụ lao động, máy móc hiện đại để nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế sản xuất.
Để nhận thức đúng đắn quy luật này là cả một quá trình dài, bởi vậy trong thực tiễn
không tránh khỏi những yếu tố bất ngờ, phức tạp; đòi hỏi phải chỉnh và bổ sung liên tục 10
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
các chính sách của Đảng. Để đất nước có thể phát triển một cách bền vững và lâu dài,
nhà nước cần quản lý nền kinh tế linh hoạt bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính
sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt
tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường...
3 .VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁCH MẠNG 4.0
Thế giới đang chứng kiến một kỷ nguyên mới với những thành tựu đột phá của
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công
nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Tuy nhiên, những tiến
bộ gần đây về công nghệ mới, sử dụng trí tuệ nhân tạo với hệ thống tự động hóa tích
hợp cao, sử dụng robot công nghệ để tăng năng suất lao động trong các dây chuyền sản
xuất đang đặt ra nhiều thách thức lớn hơn trước. Bên cạnh những lợi ích cho người lao
động như: tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống, mở cửa thị trường
lao động thông qua những sản phẩm và dịch vụ mới... Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng
tiền ẩn nhiều nguy cơ tiêu cực tới người lao động.
Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu nhân lực
và việc làm ở nhiều góc độ khác nhau. Công cuộc này mở ra nhiều cơ hội nhưng đồng
thời cũng đi kèm với những thách thức mà các quốc gia phải đối mặt, đặc biệt Việt Nam
còn là đất nước đang trong quá trình phát triển hội nhập một cách tích cực, vì vậy, nước
ta chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cùng với bước xác
lập về nhận thức và hành động của Chính phủ và các bộ, ngành, lĩnh vực, người lao
động - để trở thành những lao động 4.0 - không thể đứng ngoài xu thế tất yếu ấy. Trong
cuộc cách mạng này, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội đều bị tác động, đặc biệt
những tác động đối với lĩnh vực lao động và việc làm là rất lớn. Những ứng dụng của
CMCN 4.0 là các công cụ giúp cho việc mở rộng và đa dạng hóa các hình thức sản xuất,
quản lý. Con người có thể tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng và đầy đủ nhờ sự hỗ
trợ của internet, dữ liệu lớn, sự phát triển của hệ thống thông tin trực tuyến, mạng xã
hội... cuộc cách mạng 4.0 đã đem đến cho Việt Nam được tiếp cận với sự phát triển đa
lĩnh vực góp phần rất lớn trong cải thiện, nâng cao đời sống cho người lao động. Tuy
nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực do cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đem lại vẫn đi kèm những thách thức mà nước ta cần phải đối mặt để giải quyết. 11
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (2019), có tới 70% số việc làm ở mức
rủi ro cao (có xác suất bị thay thế trên 70%), 18% có rủi ro trung bình (có xác suất bị
thay thế từ 30-70%) và 12% có rủi ro thấp (có xác suất bị thay thế dưới 30%). Điều này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải xử lý, thích ứng với sự thay đổi này. Có thể thấy, nguy
cơ lao động ngành Nông, lâm và thủy sản; Công nghiệp chế biến, chế tạo... bị thay thế
là rất lớn. Đây là những ngành, nghề đang tạo ra rất nhiều công ăn việc làm và góp phần
cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Trong lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, nguy cơ
bị thay thế, một số ngành khác cũng sẽ bị ảnh hưởng tác động của cuộc cách mạng này
như chăm sóc sức khỏe, y tế giáo dục, bán lẻ, giao thông vận tải. Điều này sẽ gây ra
những hệ lụy khó lường đối với nền kinh tế và các vấn đề an sinh xã hội khác.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra
đối với các quốc gia hiện nay là phải có tầm nhìn chiến lược và hành động quyết liệt để
nắm bắt cơ hội và giải quyết thách thức. Bên cạnh những chủ trương, chính sách mang
tính tổng thể, mạnh mẽ và tạo đột phá hơn nữa để có thể nắm bắt được cơ hội, vượt qua
thách thức của Nhà nước, người lao động trong cuộc cách mạng 4.0 cần thiết phải nâng
cao trình độ, tri thức, chuyên môn và kinh nghiệm để “ theo kịp “ tốc độ của sự phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình tự thân của mỗi cá nhân cũng là quá trình
tự thân của mỗi doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức. Vì vậy, tích cực đổi mới, không ngừng
học hỏi để nâng cao của mỗi cá nhân là yếu tố tất yếu để có thể “ sống sót ” bền vững
trong vòng xoáy phát triển của thời đại công nghệ.
Sự thay đổi linh hoạt, không ngừng học hỏi trau dồi tri thức, phát triển kĩ năng,
tham gia tích cực vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 của lực lượng lao động luôn là
chủ đề nóng hổi mang tính thời sự và cấp thiết. Đó là khối lực lượng lao động góp phần
đưa đất nước của chúng ta ra xa để phát triển hơn, bền vững hơn, khẳng định vị thế của
mình trên thế giới. Tóm lại, lao động đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc cách
mạng 4.0 tại Việt Nam bằng cách thích ứng với công nghệ mới, tạo ra giá trị gia tăng,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội; không chỉ giúp tăng cường sức cạnh tranh và
phát triển kinh tế mà còn góp phần vào việc giảm bớt bất bình đẳng và nâng cao chất
lượng cuộc sống cho toàn bộ xã hội. 12
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417 KẾT LUẬN
Như vậy, qua từng thời kì phát triển, nhận thức của con người ngày càng đúng
đắn và rõ ràng hơn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chi phối
qua lại một cách biện chứng, vậy nên quy luật này chính là quy luật tất yếu, cơ bản trong
sự vận động và phát triển của xã hội. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng lao động, nó sẽ trở thành động lực cho nền kinh tế xã hội phát triển.
Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hay phát triển hơn so với trình độ lực lực lao
động thì nó sẽ thành trở ngại kìm hãm sự phát triển của xã hội. Tuy vậy quan hệ sản
xuất cũng không hoàn toàn phụ thuộc mà có tính độc lập tương đối tác động lại lực
lượng sản xuất. Trạng thái vận động mâu thuẫn biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất diễn ra từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình
độ cao hơn. Sự phù hợp không diễn ra “ tự động” mà đòi hỏi trình độ tự giác cao trong
nhận thức và vận dụng quy luật.
Từ việc vận dụng quy luật vào thực tiễn, áp dụng trong thời kì cách mạng 4.0 hiện
nay, ta càng hiểu rõ vai trò quan trọng của người lao động hiện nay. Chúng ta cần không
ngừng học hỏi, nâng cao bản thân, linh hoạt thay đổi trong mọi điều kiện để tồn tại trong
thời kì công nghệ, luôn luôn sáng tạo để không trở thành nhóm người phụ thuộc, lạc
hậu, bị “ bỏ lại” trong thời đại phát triển như vũ bão. Bên cạnh đó là sự hoàn thiện hơn
của Đảng về việc nhận thức rõ ràng quy luật, đề ra định hướng, mục tiêu và chính sách
rõ ràng, đòi hỏi. Nhà nước ta cần linh hoạt chỉnh sửa, bổ sung các chính sách để có thể
phù hợp mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Triết học Mác – Lênin” (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị), Bộ Giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021. 13
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com) lOMoAR cPSD| 48541417
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.166.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.641.
4. Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, Lê Hữu Nghĩa, Bài trích, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Số 7/2014.
5. Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Lê Văn Dương, Triết học, Viện
Triết học, Số 1/2002, trang 5 – 9. HẾT 14
Downloaded by Anh Tr?n (anhtrann1406200@gmail.com)