lOMoARcPSD| 53331727
Trường đại học Mở Hà Nội
Khoa công nghệ thông tin
Môn : Triết học Mác-Lênin
Đề tài: Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện
nay
Họ và tên: Giáp Văn Mạnh
Mã sinh viên: 24A1001D0280
Lớp: 2410A05
Khóa: 2024-2029
lOMoARcPSD| 53331727
Giảng viên : Phạm Thị Thùy
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và cấu trúc của lực lượng sản xuất
2. Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tri thức
3. Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế tri thức
a. Vai trò của nguồn lực con người
b. Vai trò của khoa học công nghệ
II. Vận dụng
1 . Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước ta
a. Thực trạng đội ngũ người lao động
b. Thực trạng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong sản xuất
2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện
nay
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập kỷ gần đây, thế giới đã chứng kiến sự chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, nơi mà tri thức, sáng tạo và công nghệ trở thành
các nguồn lực chính tạo ra giá trị và sức cạnh tranh. Đối với Việt Nam, nền kinh tế tri
thức không chỉ là một hướng đi tất yếu để bắt kịp sự phát triển của thế giới, mà còn là con
đường khả dĩ giúp đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nâng cao đời sống người
n và khẳng định vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh đó, lực lượng
sản xuất đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tri thức, là nền tảng cơ bản cho mọi hoạt động kinh tế, tạo tiền đề để khai thác, phát huy
các yếu tố tri thức và công nghệ.
Lực lượng sản xuất, bao gồm lao động, công cụ sản xuất, và tri thức, là yếu tố then chốt
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, với nền kinh tế tri thức, lực lượng sản xuất cần
được hiểu rộng hơn và phải gắn kết chặt chẽ với tri thức, k năng, công nghệ và khả năng
lOMoARcPSD| 53331727
sáng tạo. Lao động không còn đơn thuần là lao động phổ thông, mà cần được trang bị tri
thức, k năng chuyên môn và tư duy đổi mới. Công nghệ sản xuất không chỉ dừng lại ở
máy móc cơ bản mà phải bao gồm các công nghệ cao, các công cụ sản xuất hiện đại, và
các hệ thống tự động hóa tiên tiến. Tri thức trong lực lượng sản xuất không chỉ dừng lại ở
kiến thức khoa học mà còn bao gồm khả năng quản lý, sáng tạo và linh hoạt ứng phó với
các thay đổi.
Với những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt là sự trỗi dậy của các
nền công nghiệp 4.0 và các mô hình kinh tế số, Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức
lớn trong việc nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất để phát triển nền kinh tế tri
thức. Việc phát triển và tận dụng tối đa vai trò của lực lượng sản xuất không chỉ giúp tăng
cường hiệu quả sản xuất mà còn tạo ra động lực cho các doanh nghiệp đổi mới, nâng cao
năng suất, và cải thiện khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế. Bên cạnh đó, một lực
lượng sản xuất hiện đại sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, tối ưu hóa
nguồn lực và phát triển các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, như công nghệ thông tin, tài chính
- ngân hàng, và y tế.
Tiểu luận này sẽ tập trung phân tích vai trò quan trọng của lực lượng sản xuất trong việc
phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp, đề
xuất cụ thể nhằm tối ưu hóa tiềm năng của lực lượng này. Bằng cách nhìn nhận đúng vai
trò và khai thác tối đa hiệu quả của lực lượng sản xuất, Việt Nam có thể tiến xa hơn trong
hành trình xây dựng nền kinh tế tri thức, tạo ra bước phát triển bền vững và toàn diện cho
đất nước.
B.NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận
1 .Khái niệm và cấu trúc của lực lượng sản xuất
a.Khái niệm lực lượng sản xuất
Khái niệm: là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất
và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu
cầu nhất định của con người và xã hội. b.Cấu trúc của lực lượng sản xuất
Cấu trúc: Lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố người lao động và tư liệu
sản xuất cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp) tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản
xuất) để cải biến giới tự nhiên sáng tạo tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con
người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất năng lực hoạt động sản xuất
vật chất của con người và được xem xét trên hai mặt:
lOMoARcPSD| 53331727
Kinh tế - xã hội (đối tượng lao động): Người lao động là những yếu tố vật chất của sản
xuất là con người dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho p
hợp với mục đích sử dụng của con người.
+ Con người có tri thức kinh nghiệm k năng lao động và năng lực sáng tạo nhất
định trong quá trình sản xuất của xã hội người lao động là chủ thể sáng tạo đồng
thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản vô
tận và đặc biệt của sản xuất.
+ Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội tỉnh trọng lao động cơ bắp đang có xu thế
giảm trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên. -Kinh tế -
kỹ thuật (tư liệu sản xuất): là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
bao gồm tư liệu và đối tượng lao động.
+ Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư
liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử
dụng của con người.
+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào
đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành
sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.đổi đối tượng lao động thành
sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.
- Tư liệu lao động gồm :
+ Phương tiện lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất cùng với công cụ
lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá
trình sản xuất vật chất.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng tạo ra các của cải vật
chất phục vụ yêu nhu cầu của con người và xã hội.
lOMoARcPSD| 53331727
+ Là cầu nối giữa người lao động và đối tượng lao động => Giữ vai trò quyết định
trực tiếp đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; Ngày nay công cụ lao
động được tin học hoá, tự động hoá và trí tuệ hoá…
+ Là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân
sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử; cải biến tự nhiên của môi
trường => Là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2 .Khái niệm
và đặc điểm của kinh tế tri thức
a.Khái niệm
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức. Có nhà
nghiên cứu đã đồng nhất nền kinh tế sử dụng công nghệ cao với kinh tế tri thức. Định
nghĩa này không chính xác vì tri thức không thể chỉ có công nghệ cao (bao gồm các công
nghệ trụ cột là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ năng lượng mới và năng lượng tái sinh, công nghệ không gian vũ trụ, và khoa học
kỹ thuật hải dương). Đây là một cách hiểu hẹp vì nó đã tách rời tri thức về khoa học, công
nghệ ra khỏi tri thức rộng lớn hơn nhiều của con người cũng như tách rời khoa học, công
nghệ ra khỏi môi trường kinh tế – văn hóa xã hội nói chung.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thành: “Kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao
nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hóa tư bản, trong đó, công thức hoạt động cơ bản Tiền
Hàng Tiền’ được thay thế bằng công thức Tiền -Tri thức - Tiền”
Định nghĩa này đã chỉ ra được tầm quan trọng của tri thức trong nền kinh tế mới, tuy
nhiên, nó mới chỉ đề cập đến t r i thức trong môi trường kinh tế, kinh doanh, k h i tri thức
thay thế vị trí của hàng hóa trong công thức cũ, có nghĩa là t r i thức là một dạng hàng hóa
cao cấp, có thổ dùng tiên mua được và việc sử dụng tri thức mua được ấy mang lại lợi
nhuận lớn hơn số tiền bỏ ra ban đầu. Tuy nhiên, tri thức không chỉ tác động đến môi
trường kinh tế mà còn tác động đến nhiều môi trường khác trong nền kinh tế tri thức như
môi trường văn hóa, môi trường xã hội , môi trường giáo dục… Do đó, định nghĩa này
cũng chí là một định nghĩa hẹp, chưa bao quát được lổng thổ vấn đổ.
Cho đến nay, hầu hết các tài liệu quốc tế khi đề cập đến kinh tế tri thức đều sử dụng định
nghĩa đơn giản nhưng bao quát của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra
trong báo cáo “Kinh tế dựa trên tri thức” năm 1996. Theo báo cáo đó, “Kinh tế tri thức là
một nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức” hoặc
“Kinh tế tri thức là kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển
kinh tế, xã hội loài người”. Đây là những định nghĩa có tính khái quát cao, tuy nhiên trong
hai định nghĩa đó, theo chúng tôi, định nghĩa thứ nhất chuẩn hơn. Bởi vì, định nghĩa này
đã chỉ ra được những thuộc tính cơ bản quy định nội hàm của khái niệm kinh tế tri thức,
đó là: nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Đây cũng
lOMoARcPSD| 53331727
chính là những thuộc tính phản ánh bản chất của nền kinh tế tri thức, thiếu những thuộc
tính này nền kinh tế không được gọi là nền kinh tế tri thức. Và với một nền kinh tế mang
bản chất như vậy, thì yếu tố tri thức có vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế –
hội của loài người là điều đương nhiên, nó chính là hệ quả của nền kinh tế trực tiếp dựa
vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Trong khi đó, định nghĩa thứ hai mới chí
khẳng định trong nền kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đóng vai trò then chốt đốt với sự phát
triển kinh tế xã hội của loài người. Nhưng tính chất then chốt đó thể hiện như thế nào và
tại sao nó lại đóng vai trò then chốt, những câu hỏi cơ bản và quan trọng này chưa được
định nghĩa chỉ ra, và do đó, bản chất của nền kinh tế tri thức chưa được định nghĩa làm
sáng tỏ.
b. Đặc điểm của kinh tế tri thức
+ Nền kinh tế dựa trên tri thức và vốn con người: Một hệ thống kinh tế không dựa trên tri
thức được coi là không thể tưởng tượng được. Nó mô tả quá trình tiêu dùng và các hoạt
động sản xuất được thoả mãn từ việc áp dụng chuyên môn của người lao động – vốn tri
thức và thường thể hiện mức độ đáng kể của các hoạt động kinh tế cá thể trong các nền
kinh tế phát triển hiện đại thông qua việc xây dựng một nền kinh tế toàn cầu tiên tiến và
kết nối với nhau, nơi các nguồn tri thức là những người đóng góp quan trọng.
Khái niệm hiện tại cho “kiến thức” có nguồn gốc từ các nghiên cứu lịch sử và triết học
của Gilbert Ryle và Israel Scheffler, những người đã tiến hành kiến thức đến các thuật
ngữ “kiến thức thủ tục” và “kiến thức khái niệm” và xác định hai loại k năng: “năng lực
hoặc cơ sở thường xuyên” và “kỹ năng quan trọng” đó là hiệu suất thông minh; và nó
được xây dựng thêm bởi Lundvall và Johnson, người đã định nghĩa “kiến thức” về mặt
kinh tế làm nổi bật bốn phạm trù lớn:
+ Lực lượng lao động có trình độ và k năng: Sự hình thành của nền kinh tế tri thức
mạnh mẽ đòi hỏi người lao động phải có khả năng liên tục học hỏi và áp dụng các k
năng của họ để xây dựng và thực hành kiến thức một cách hiệu quả.
+ Cơ sở hạ tầng thông tin dày đặc và hiện đại: là khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn
lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) nhằm vượt qua rào cản về chi phí giao dịch
cao và tạo điều kiện hiệu quả trong việc tương tác, phổ biến và xử lý các nguồn thông tin
và tri thức.
+ Hệ thống đổi mới hiệu quả: mức độ đổi mới lớn trong các công ty, ngành và quốc gia
để theo kịp với công nghệ toàn cầu mới nhất và trí tuệ con người để sử dụng nó cho nền
kinh tế trong nước.
+ Chế độ thể chế hỗ trợ khuyến khích tinh thần kinh doanh và sử dụng tri thức: Một hệ
thống nền kinh tế cần cung cấp các biện pháp khuyến khích để cho phép huy động và
phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích tinh thần kinh doanh.
+ Sự tiến bộ của nền kinh tế dựa trên tri thức xảy ra khi các nền kinh tế toàn cầu thúc đẩy
những thay đổi trong sản xuất vật chất, cùng với sự ra đời của các cơ chế lý thuyết kinh tế
lOMoARcPSD| 53331727
phong phú sau chiến tranh thế giới thứ hai có xu hướng tích hợp khoa học, công nghệ và
kinh tế.
Peter Drucker đã thảo luận về nền kinh tế tri thức trong cuốn sách Người điều hành hiệu
quả năm 1966, nơi ông mô tả sự khác biệt giữa người lao động chân tay và người lao
động tri thức. Người lao động chân tay là người lao động bằng chính đôi tay của họ và
sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Ngược lại, nhân viên tri thức làm việc bằng đầu chứ
không phải bằng tay tạo ra ý tưởng, kiến thức cũng như thông tin.
Các định nghĩa xung quanh “tri thức” được coi là mơ hồ trong điều kiện chính thức hóa
và mô hình hóa nền kinh tế tri thức, vì nó là một khái niệm tương đối. Ví dụ, không có đủ
bằng chứng và cân nhắc về việc liệu “xã hội thông tin” có thể phục vụ hoặc hoạt động
như một “xã hội tri thức” thay thế cho nhau hay không. Thông tin nói chung, không tương
đương với kiến thức. Việc sử dụng chúng phụ thuộc vào sở thích cá nhân và nhóm “phụ
thuộc vào nền kinh tế”. Thông tin và kiến thức cùng là nguồn lực sản xuất có thể tồn tại
mà không cần tương tác với các nguồn khác. Các tài nguyên có tính độc lập cao với nhau
theo nghĩa là nếu chúng kết nối với các nguồn lực có thể sử dụng được, chúng chuyển
thành các yếu tố sản xuất ngay lập tức; và các yếu tố sản xuất hiện diện chỉ để tương tác
với các yếu tố khác. Khi đó, tri thức gắn liền với thông tin trí tuệ được cho là một yếu tố
sản xuất trong nền kinh tế mới được phân biệt với các yếu tố sản xuất truyền thống. 3. Vai
trò của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế tri thức
a. Vai trò của nguồn lực con người
Nguồn lực con người đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Trong
nền kinh tế này, tri thức, sáng tạo và khả năng đổi mới của con người là các yếu tố chính
tạo ra giá trị. Dưới đây là một số vai trò chủ đạo của nguồn lực con người trong phát triển
kinh tế tri thức:
1. Tạo ra và truyền tải tri thức: Nguồn lực con người không chỉ là người sáng tạo ra
tri thức mới mà còn truyền tải tri thức qua các hoạt động đào tạo, giáo dục và
nghiên cứu. Tri thức tích lũy và chia sẻ giúp cải thiện năng suất lao động và hiệu
quả sản xuất.
2. Đổi mới và sáng tạo: Khả năng đổi mới và sáng tạo của con người giúp phát triển
sản phẩm và dịch vụ mới, đồng thời cải tiến các quy trình sản xuất hiện có. Điều
này tạo ra động lực cạnh tranh, giúp doanh nghiệp và quốc gia duy trì lợi thế trong
bối cảnh toàn cầu hóa và công nghệ thay đổi nhanh chóng.
3. Thúc đẩy ứng dụng công nghệ: Con người là trung tâm của việc nghiên cứu và áp
dụng công nghệ mới. Đội ngũ lao động có kỹ năng cao có khả năng làm chủ công
nghệ, triển khai các giải pháp tự động hóa và cải tiến quy trình, từ đó nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm.
4. Thích ứng với thay đổi và phát triển bền vững: Nhờ có tri thức và k năng, nguồn
lực con người có thể nhanh chóng thích ứng với những thay đổi trong thị trường và
lOMoARcPSD| 53331727
công nghệ, giúp doanh nghiệp và nền kinh tế duy trì sự bền vững. Con người có tư
duy sáng tạo và học hỏi suốt đời sẽ đảm bảo quá trình chuyển đổi diễn ra liên tục
và hiệu quả.
5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế: Con người là yếu tố quyết định trong các hoạt động
hợp tác quốc tế về nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ. Đội ngũ nhân
lực có kiến thức và năng lực cao giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, học
hỏi kinh nghiệm và tận dụng tri thức toàn cầu cho phát triển kinh tế tri thức trong
nước.
Tóm lại, nguồn lực con người là nhân tố quyết định trong nền kinh tế tri thức, không ch
thúc đẩy sáng tạo và công nghệ mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao năng
lực cạnh tranh của quốc gia.
b. Vai trò của khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ (KHCN) đóng vai trò then chốt trong sự phát triển của nền kinh tế tri
thức, nơi tri thức, sáng tạo và công nghệ là những yếu tố cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Trong nền kinh tế tri thức, giá trị không còn dựa vào tài nguyên thiên nhiên hay lao
động phổ thông, mà vào tri thức, thông tin và đổi mới sáng tạo. KHCN giúp tăng cường
hiệu quả sản xuất, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc
sống. Dưới đây là các vai trò quan trọng của KHCN trong nền kinh tế tri thức:
1. Tăng cường năng suất và hiệu quả sản xuất
KHCN giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất và nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng
dụng các công nghệ tiên tiến như tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI), và robot. Nhờ có các
tiến bộ công nghệ, nhiều quy trình sản xuất có thể tự động hóa hoàn toàn, giảm thiểu sai
sót, giảm chi phí sản xuất, và gia tăng sản lượng. Điều này giúp doanh nghiệp cạnh tranh
hiệu quả hơn trên thị trường, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn và thúc đẩyng trưởng kinh
tế.
2. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển sản phẩm mới
KHCN đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra các sản phẩm
và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. Các phát minh,
sáng chế trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sinh học, và vật liệu mới đã thay đổi căn bản
cách sản xuất và tiêu dùng, mang lại nhiều giá trị mới cho nền kinh tế. Các sản phẩm như
điện thoại thông minh, phương tiện tự lái, công nghệ sinh học trong y tế đều là những
thành quả của đổi mới KHCN và đã tạo ra những ngành kinh tế mới đầy tiềm năng.
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thúc đẩy tri thức
Sự phát triển của KHCN giúp nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực,
thông qua các nền tảng học tập trực tuyến, hệ thống đào tạo thông minh và các công cụ
công nghệ hỗ trợ giáo dục. Nhờ có KHCN, kiến thức và k năng mới được truyền đạt
nhanh chóng và hiệu quả, góp phần xây dựng lực lượng lao động có trình độ cao, sẵn sàng
lOMoARcPSD| 53331727
tham gia vào nền kinh tế tri thức. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực mà còn thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời, đảm bảo lực lượng lao động có khả năng
thích nghi và đổi mới liên tục.
4. Thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghệ cao
KHCN là động lực để hình thành và phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano, và công nghệ vũ trụ. Các ngành công
nghệ cao này không chỉ tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới mà còn tạo ra giá trị gia tăng lớn
cho nền kinh tế. Đồng thời, các ngành công nghệ cao giúp nâng cao năng lực cạnh tranh
của quốc gia trên thị trường quốc tế và mở rộng thị trường cho các sản phẩm tri thức của
Việt Nam.
5. Thúc đẩy chuyển đổi số và tối ưu hóa quản lý
KHCN là công cụ nền tảng cho chuyển đổi số, giúp doanh nghiệp, chính phủ và các tổ
chức tối ưu hóa quy trình quản lý, nâng cao hiệu quả và giảm thiểu chi phí. Chuyển đổi số
không chỉ đơn thuần là áp dụng công nghệ vào các quy trình, mà còn thay đổi cách thức
vận hành, từ đó tạo ra giá trị mới, cải thiện trải nghiệm của khách hàng và tối ưu hóa
nguồn lực. Các công nghệ như điện toán đám mây, dữ liệu lớn (Big Data), và trí tuệ nhân
tạo đã giúp nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam cải thiện đáng kể khả năng quản lý và phân
tích thị trường, đưa ra các quyết định kinh doanh sáng suốt hơn.
6. Tạo ra nền tảng cho sự hợp tác và chia sẻ tri thức
KHCN giúp kết nối mọi người và tổ chức trên toàn cầu, tạo điều kiện cho việc chia sẻ tri
thức, hợp tác nghiên cứu và phát triển. Với các công cụ kết nối hiện đại, các doanh
nghiệp, trường đại học và các tổ chức nghiên cứu có thể hợp tác với nhau trên phạm vi
toàn cầu. Điều này thúc đẩy việc chia sẻ kiến thức, kỹ thuật mới, và các phát minh, từ đó
thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức một cách nhanh chóng và bền vững hơn.
7. Góp phần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
KHCN đóng vai trò nền tảng trong việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo điều
kiện thuận lợi cho các cá nhân và doanh nghiệp phát triển ý tưởng, sản phẩm, và công
nghệ mới. Một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ bao gồm các viện nghiên cứu,
trường đại học, trung tâm ươm tạo, và các quỹ đầu tư mạo hiểm. KHCN giúp thúc đẩy sự
kết nối và hợp tác giữa các thành phần này, tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển
và thương mại hóa các ý tưởng sáng tạo, từ đó đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế
tri thức.
Khoa học công nghệ là yếu tố nền tảng và động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tri thức, từ việc nâng cao năng suất lao động, tối ưu hóa quy trình sản xuất, cho đến việc
thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Để tận dụng tối đa vai trò của KHCN, Việt
Nam cần đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong doanh
nghiệp và tạo điều kiện cho sự phát triển của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Điều này sẽ
lOMoARcPSD| 53331727
giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế tri thức hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh
và thúc đẩy tăng trưởng bền vững trong tương lai.
II. Vận dụng
1 . Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước ta
a. Thực trạng đội ngũ người lao động
Trong nền kinh tế tri thức, người lao động đóng vai trò chủ chốt, không chỉ với tư cách là
lực lượng sản xuất trực tiếp mà còn là nhân tố sáng tạo, đổi mới và quản lý tri thức. Tại
Việt Nam, lực lượng lao động đang ngày càng được chú trọng đào tạo để đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ lao động vẫn còn nhiều hạn chế và
thách thức cần khắc phục để nâng cao hiệu quả và năng suất lao động trong bối cảnh hội
nhập quốc tế.
1. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chưa đồng đều
Thiếu hụt nhân lực trình độ cao: Dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào,
nhưng t lệ lao động có trình độ chuyên môn cao vẫn còn hạn chế. Đội ngũ lao
động có trình độ đại học và sau đại học còn thấp, trong khi đó, các ngành nghề đòi
hỏi kỹ thuật cao như công nghệ thông tin, kỹ thuật số, y sinh học, tài chính và quản
trị tri thức lại đang thiếu nhân lực nghiêm trọng.
Đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tế: Hệ thống giáo dục của Việt Nam chủ yếu
vẫn thiên về lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành và khả năng ứng dụng. Nhiều sinh
viên sau khi ra trường gặp khó khăn trong việc thích nghi với môi trường công
việc thực tế, đặc biệt trong các ngành đòi hỏi kỹ năng công nghệ cao, sáng tạo và
đổi mới.
2. Thiếu kỹ năng mềm và kỹ năng số
Thiếu kỹ năng mềm: Một trong những yếu tố quan trọng của nền kinh tế tri thức là
kỹ năng giao tiếp, tư duy phản biện, khả năng làm việc nhóm và k năng giải quyết
vấn đề. Tuy nhiên, các kỹ năng này vẫn chưa được chú trọng trong chương trình
đào tạo tại Việt Nam. Điều này gây ra hạn chế cho người lao động khi làm việc
trong môi trường quốc tế hoặc các dự án đa quốc gia, ảnh hưởng đến hiệu quả và
năng lực cạnh tranh.
Thiếu kỹ năng số: Trong bối cảnh chuyển đổi số, kỹ năng số là yêu cầu thiết yếu
cho lực lượng lao động, nhưng tại Việt Nam, nhiều lao động chưa được trang bị
đầy đủ kỹ năng này. Đặc biệt, những k năng như sử dụng công nghệ thông tin,
phân tích dữ liệu và xử lý các hệ thống phần mềm hiện đại vẫn còn thiếu hụt.
3. Đội ngũ lao động chất lượng cao phân bổ không đồng đều
Tập trung ở các thành phố lớn: Lực lượng lao động có trình độ cao, đặc biệt là
trong các ngành công nghệ cao, chủ yếu tập trung ở các thành phố ln như Hà Nội,
lOMoARcPSD| 53331727
TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Ở các khu vực nông thôn và các tỉnh miền núi,
nguồn nhân lực chất lượng cao rất khan hiếm. Điều này dẫn đến sự chênh lệch
trong phát triển kinh tế giữa các khu vực và gây khó khăn cho việc phát triển kinh
tế tri thức một cách đồng đều trên toàn quốc.
Di chuyển nhân lực sang nước ngoài: Một số lượng không nhỏ người lao động chất
lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học, k thuật và công
nghệ, lựa chọn làm việc tại các nước phát triển. Tình trạng chảy máu chất xám này
khiến cho Việt Nam gặp khó khăn trong việc giữ chân và phát triển nhân lực chất
lượng cao, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế tri thức trong nước.
4. Tư duy sáng tạo và khả năng tự học của người lao động còn hạn chế
Thiếu tư duy sáng tạo và đổi mới: Mặc dù có tiềm năng, nhưng phần lớn lao động
Việt Nam chưa phát triển được tư duy sáng tạo và khả năng đổi mới. Điều này một
phần do chương trình giáo dục truyền thống còn hạn chế khả năng phát triển các
kỹ năng này. Người lao động thường thiếu sự tự tin và kém thích nghi trong việc
sáng tạo, thử nghiệm các phương pháp mới, trong khi đó đây lại là yêu cầu thiết
yếu trong nền kinh tế tri thức.
Khả năng tự học còn yếu: Văn hóa học tập suốt đời và kỹ năng tự học, cập nhật
kiến thức chưa phổ biến. Nhiều người lao động vẫn phụ thuộc vào các kiến thức cơ
bản từ đào tạo ban đầu mà thiếu ý thức chủ động nâng cao kỹ năng và tri thức mới.
Điều này khiến người lao động khó thích nghi và phát triển trong môi trường công
nghệ thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế tri thức.
5. Các chương trình và chính sách hỗ trợ phát triển nhân lực chưa đủ mạnh
Chính sách phát triển nguồn nhân lực chưa hiệu quả: Chính phủ đã đưa ra nhiều
chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức, tuy nhiên,
việc triển khai các chính sách này còn hạn chế và chưa thực sự hiệu quả. Các
chương trình đào tạo kỹ năng số, nâng cao kỹ năng cho người lao động vẫn còn
chậm trễ và chưa đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp.
Thiếu hợp tác giữa trường học và doanh nghiệp: Mối liên kết giữa các trường đại
học và doanh nghiệp còn yếu, dẫn đến thiếu sự liên kết trong việc đào tạo và đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động. Do đó, sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng tốt
các yêu cầu từ thực tiễn công việc, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tìm
kiếm và phát triển nhân lực phù hợp với nền kinh tế tri thức.
Thực trạng đội ngũ người lao động ở Việt Nam trong nền kinh tế tri thức hiện nay vẫn
còn nhiều thách thức về chất lượng, kỹ năng, tư duy sáng tạo và chính sách hỗ trợ. Mặc
dù Việt Nam có lực lượng lao động đông đảo và tiềm năng phát triển, nhưng còn thiếu
những yếu tố cần thiết để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Để phát triển đội ngũ
lao động hiệu quả, cần có các chính sách đột phá trong giáo dục, đào tạo kỹ năng mềm, kỹ
năng số, và xây dựng một môi trường khuyến khích sáng tạo, học tập suốt đời. Điều này
lOMoARcPSD| 53331727
sẽ giúp Việt Nam tạo ra lực lượng lao động chất lượng cao, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
tri thức phát triển bền vững trong tương lai
b. Thực trạng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong sản xuất
Việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ (KHCN) trong sản xuất là một yếu tố quan
trọng để nâng cao năng suất lao động, tăng cường sức cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế tri thức. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến
trong việc áp dụng KHCN vào các lĩnh vực sản xuất, đặc biệt trong các ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo, nông nghiệp và các lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, thực trạng ứng
dụng khoa học công nghệ trong sản xuất tại Việt Nam vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần
giải quyết.
1. Ứng dụng công nghệ trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những nỗ
lực đáng kể trong việc đầu tư vào công nghệ mới, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất
thép, điện tử, dệt may và chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp vẫn
chưa chú trọng đến việc đổi mới công nghệ trong quy trình sản xuất của mình. Các công
nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) đã
được áp dụng ở một số doanh nghiệp lớn, nhưng lại còn khá hạn chế ở các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Một số lý do chính dẫn đến tình trạng này
bao gồm:
Thiếu đầu tư vào công nghệ mới: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu
nguồn lực tài chính để đầu tư vào các công nghệ mới và hiện đại. Việc đầu tư vào
công nghệ đòi hỏi vốn lớn, trong khi khả năng tiếp cận vốn vay cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn.
Tính bảo thủ trong việc áp dụng công nghệ: Nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn
còn giữ thói quen sản xuất theo cách truyền thống, ít quan tâm đến việc đổi mới
công nghệ. Điều này tạo ra rào cản lớn trong việc tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ
công nghệ vào sản xuất.
2. Ứng dụng công nghệ trong ngành nông nghiệp
Trong nông nghiệp, việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ đã có những bước tiến
lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ tưới tiêu
thông minh, phân bón hữu cơ, và các phương pháp sản xuất nông nghiệp sạch. Tuy nhiên,
việc áp dụng các công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở
các vùng đồng bằng, còn ở các khu vực miền núi và vùng sâu vùng xa, ứng dụng công
nghệ trong sản xuất vẫn rất yếu.
Một số khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp Việt Nam bao
gồm:
lOMoARcPSD| 53331727
Chi phí đầu tư cao: Công nghệ cao trong nông nghiệp đòi hỏi chi phí đầu tư ban
đầu rất lớn, điều này khiến nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ.
Đặc biệt, các giống cây trồng, vật nuôi hiện đại hay các thiết bị tự động hóa trong
nông nghiệp đòi hỏi mức vốn đầu tư lớn mà không phải ai cũng có khả năng chi
trả.
Thiếu kiến thức và kỹ năng: Một phần lớn nông dân Việt Nam thiếu kiến thức và
kỹ năng để ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất. Các khóa đào tạo và hướng
dẫn ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp chưa phổ biến và hiệu quả.
Chưa tận dụng tối đa công nghệ số: Mặc dù các công nghệ như Internet vạn vật
(IoT), trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn đã bắt đầu xuất hiện trong nông nghiệp,
nhưng việc ứng dụng các công nghệ số này trong sản xuất nông nghiệp ở Việt
Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu và chưa rộng rãi.
3. Ứng dụng công nghệ trong các dịch vụ và lĩnh vực khác
Trong các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế và giao thông, ứng dụng công
nghệ đã có những bước tiến đáng kể. Đặc biệt là các dịch vụ tài chính số, ngân hàng điện
tử, và thương mại điện tử, đã trở thành các lĩnh vực tiên phong trong việc ứng dụng công
nghệ cao tại Việt Nam.
Chuyển đổi số trong ngành tài chính - ngân hàng: Ngành ngân hàng đã triển khai
nhiều sản phẩm và dịch vụ mới sử dụng công nghệ thông tin, như ngân hàng trực
tuyến, thanh toán qua di động, và các dịch vụ tài chính số. Tuy nhiên, vẫn còn một
bộ phận người dân chưa hoàn toàn quen thuộc với các dịch vụ ngân hàng điện tử,
gây khó khăn trong việc triển khai rộng rãi các công nghệ này.
Ứng dụng công nghệ trong y tế: Các công nghệ tiên tiến như y học từ xa, ứng dụng
phần mềm quản lý bệnh nhân, hay các thiết bị chẩn đoán hiện đại đã được áp dụng
trong một số bệnh viện, nhưng nhìn chung, việc ứng dụng công nghệ trong y tế còn
hạn chế và không đồng đều ở các vùng miền.
Giao thông và vận tải: Công nghệ thông minh đã được ứng dụng trong một số lĩnh
vực như quản lý giao thông, hệ thống thanh toán điện tử trong giao thông công
cộng, nhưng công nghệ này vẫn còn chưa phổ biến rộng rãi.
4. Khó khăn và thách thức trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất
Hạn chế về cơ sở hạ tầng công nghệ: Hạ tầng công nghệ tại Việt Nam, đặc biệt
mạng internet, điện toán đám mây và các công nghệ hỗ trợ sản xuất thông minh,
vẫn còn thiếu đồng bộ và chưa đạt mức độ hiện đại để hỗ trợ sản xuất. Đặc biệt là
ở các khu vực nông thôn và các doanh nghiệp nhỏ, việc triển khai hạ tầng công
nghệ thông tin vẫn còn khó khăn.
Thiếu đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao: Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến
trong sản xuất đòi hỏi một đội ngũ nhân lực có trình độ cao và kỹ năng chuyên
lOMoARcPSD| 53331727
môn vững vàng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề
cao trong các lĩnh vực công nghệ cao như AI, tự động hóa, công nghệ thông tin, và
kỹ thuật số.
Thiếu cơ chế hỗ trợ chuyển giao công nghệ: Việc chuyển giao công nghệ từ các
viện nghiên cứu, trường đại học đến các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn.
Các doanh nghiệp thiếu các kênh tiếp cận và ứng dụng các nghiên cứu khoa học
vào thực tiễn sản xuất.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất ở Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt
trong nhiều lĩnh vực, tuy nhiên còn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức. Để tăng cường
ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
đầu tư vào công nghệ mới, cải thiện cơ sở hạ tầng công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao và thúc đẩy hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp.
Chỉ khi các yếu tố này được cải thiện, Việt Nam mới có thể tận dụng được đầy đủ tiềm
năng của khoa học công nghệ, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong
tương lai.
2 . Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước
ta hiện nay
Để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức, Việt
Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động, tăng
cường ứng dụng khoa học công nghệ và thúc đẩy sự sáng tạo trong các lĩnh vực sản xuất.
Dưới đây là một số giải pháp quan trọng:
1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển k năng cho lao động: Một trong những yếu tố quan trọng
nhất trong việc phát triển lực lượng sản xuất là nguồn nhân lực. Để xây dựng đội
ngũ lao động chất lượng cao, cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao trình
độ chuyên môn và kỹ năng nghề cho lao động. Các cơ sở đào tạo cần gắn kết với
nhu cầu thực tế của thị trường lao động và yêu cầu của nền kinh tế tri thức, đặc biệt
trong các lĩnh vực công nghệ cao, kỹ thuật số và các ngành nghề sáng tạo.
Phát triển giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học: Để đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế tri thức, cần tăng cường đầu tư vào hệ thống giáo dục đại học, sau đại học,
đặc biệt trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin, tự động hóa,
trí tuệ nhân tạo (AI), và các ngành nghề liên quan đến sáng tạo và đổi mới sáng
tạo. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ giúp tạo ra đội ngũ lao động
có khả năng sáng tạo và phát triển các công nghệ mới, từ đó đóng góp vào sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Khuyến khích học tập suốt đời: Trong nền kinh tế tri thức, sự học không chỉ dừng
lại ở bậc học chính thức mà còn cần được duy trì suốt đời. Nhà nước và các doanh
nghiệp cần tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia các khóa đào tạo
bổ sung, các chương trình học trực tuyến, đào tạo tại chỗ để cải thiện kỹ năng và
lOMoARcPSD| 53331727
nâng cao khả năng cạnh tranh trong môi trường công nghệ ngày càng thay đổi
nhanh chóng.
2. Thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất
Khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D): Để tăng cường sức
mạnh của lực lượng sản xuất, cần đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu và phát triển
khoa học công nghệ. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, trong việc đầu tư vào R&D sẽ tạo động lực mạnh mẽ để cải tiến công
nghệ, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, các cơ sở
nghiên cứu, viện nghiên cứu cần hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp trong việc
chuyển giao và ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất.
Tăng cường ứng dụng công nghệ số và tự động hóa: Công nghệ số, trí tuệ nhân tạo
(AI), Internet vạn vật (IoT) và tự động hóa đang trở thành yếu tố quan trọng trong
việc nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất. Chính phủ cần có các chính sách hỗ
trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp
cận và ứng dụng các công nghệ mới này. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng
suất lao động mà còn giúp cải thiện chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí và tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Phát triển các ngành công nghệ cao: Việt Nam cần chú trọng phát triển các ngành
công nghệ cao, như công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa, công nghệ sinh học
và công nghệ môi trường. Việc tạo ra các khu công nghiệp, các trung tâm nghiên
cứu phát triển và các khu công nghệ cao sẽ thúc đẩy sự sáng tạo, ứng dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất, đồng thời thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao
trong các lĩnh vực này.
3. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho đổi mới sáng tạo
Cải cách thể chế và giảm bớt thủ tục hành chính: Một trong những yếu tố quan
trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất là tạo ra một môi trường kinh doanh
thuận lợi. Nhà nước cần thực hiện các cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn lực tài chính, công nghệ và
các cơ hội hợp tác quốc tế. Môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và cởi mở
sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào đổi mới sáng tạo, nghiên cứu
phát triển và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Khuyến khích các mô hình doanh nghiệp sáng tạo: Nhà nước cần có chính sách
khuyến khích các mô hình doanh nghiệp sáng tạo, như các startup, doanh nghiệp
khoa học công nghệ, và các mô hình kinh doanh đổi mới. Các chính sách hỗ trợ
này có thể bao gồm giảm thuế, hỗ trợ tài chính, tạo điều kiện cho việc bảo vệ sở
hữu trí tuệ, từ đó thúc đẩy sự sáng tạo và phát triển lực lượng sản xuất dựa trên tri
thức và công nghệ.
4. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ và mạng lưới kết nối
lOMoARcPSD| 53331727
Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại: Để thúc đẩy ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, cần phải xây dựng một cơ sở hạ tầng công nghệ mạnh mẽ, bao
gồm mạng internet tốc độ cao, hạ tầng điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn và các
nền tảng công nghệ khác. Việc cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ giúp các doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, dễ dàng tiếp cận công nghệ và thực hiện
quá trình chuyển đổi số, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động.
Thúc đẩy hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp: Việc
tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học và
doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng trong phát triển lực lượng
sản xuất. Các viện nghiên cứu cần chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học
thành các công nghệ ứng dụng thực tế trong sản xuất, đồng thời, các doanh nghiệp
cần chủ động tham gia vào quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng công
nghệ mới.
5. Khuyến khích đầu tư vào phát triển hạ tầng giáo dục, nghiên cứu và đào tạo ngh
Tăng cường đầu tư vào hệ thống giáo dục và đào tạo nghề: Để phát triển lực lượng
sản xuất trong nền kinh tế tri thức, cần tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo nghề. Đầu tư vào cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên
và các chương trình giáo dục nghề nghiệp sẽ giúp phát triển đội ngũ lao động có
tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tri thức. Các chương trình đào tạo
nghề nên được liên kết chặt chẽ với nhu cầu của thị trường lao động và yêu cầu
của các ngành công nghiệp, công nghệ cao.
Khuyến khích nghiên cứu và sáng tạo: Cần có các chính sách hỗ trợ và khuyến
khích nghiên cứu khoa học, sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học công nghệ và sản
xuất. Các tổ chức nghiên cứu cần được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các
nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất, góp phần cải
tiến công nghệ và nâng cao năng suất lao động.
Để phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức, Việt Nam cần triển khai đồng
bộ các giải pháp, từ việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy ứng dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, đến việc phát triển cơ
sở hạ tầng công nghệ và hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Chỉ khi giải quyết được các yếu tố này,
Việt Nam mới có thể tạo ra một lực lượng sản xuất mạnh mẽ, đủ khả năng cạnh tranh
trong bối cảnh nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển.
C.KẾT LUẬN
Lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu và chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Các yếu tố chủ yếu của lực lượng sản
xuất như nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ tiên tiến, và cơ sở hạ tầng
hiện đại đều có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, khả năng cạnh tranh, và sự
sáng tạo trong mọi lĩnh vực sản xuất.
lOMoARcPSD| 53331727
Đầu tiên, nguồn nhân lực là yếu tố then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế
tri thức. Một đội ngũ lao động có trình độ, tay nghề cao và khả năng tiếp cận và ứng dụng
công nghệ mới sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và tạo ra
giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Để phát triển lực lượng lao động chất lượng, việc đầu tư
vào giáo dục, đào tạo nghề và phát triển kng là cần thiết, đồng thi tạo điều kiện
thuận lợi cho học tập suốt đời và nâng cao năng lực sáng tạo.
Thứ hai, khoa học công nghệ (KHCN) là động lực chính thúc đẩy sự chuyển đổi trong lực
lượng sản xuất. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất không chỉ giúp
cải thiện năng suất lao động mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường
gia tăng giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Đặc biệt, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, và tự
động hóa đang trở thành xu hướng chủ đạo trong việc nâng cao năng lực sản xuất và đổi
mới sáng tạo. Tuy nhiên, để tận dụng được các thành tựu này, Việt Nam cần tiếp tục cải
cách các chính sách, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, cũng như xây dựng
cơ sở hạ tầng công nghệ mạnh mẽ hơn.
Cuối cùng, môi trường kinh doanh và cơ sở hạ tầng công nghệ cũng đóng một vai trò
quan trọng không kém trong việc phát triển lực lượng sản xuất. Các chính sách khuyến
khích đầu tư, giảm bớt thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sẽ
giúp tạo ra một hệ sinh thái sản xuất hiệu quả, nơi mà sáng tạo và đổi mới công nghệ có
thể được triển khai rộng rãi.
Nhìn chung, lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay đang đối
mặt với nhiều thách thức, nhưng cũng có những cơ hội lớn để phát triển mạnh mẽ trong
tương lai. Việc phát triển đồng bộ các yếu tố của lực lượng sản xuất, bao gồm nguồn nhân
lực, khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng, sẽ là chìa khóa giúp Việt Nam chuyển mình
mạnh mẽ trong quá trình hội nhập và phát triển bền vững.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Hữu Dũng (2016), "Lực lượng sản xuất và vai trò trong phát triển kinh tế",
NXB Khoa học Xã hội.
2. Nguyễn Mạnh Hùng (2017), "Phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức:
Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 6, trang 12-20.
3. Đặng Đình Tùng (2019), "Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất và phát
triển kinh tế", NXB Chính trị Quốc gia.
4. Nguyễn Thị Lan Anh (2020), "Khoa học công nghệ và phát triển nền kinh tế tri
thức: Cơ hội và thách thức", Tạp chí Khoa học Công nghệ và Xã hội, số 12, trang
45-52.
5. World Bank (2021), "Vietnam Economic Update: Science, Technology and
Innovation for Sustainable Development", Tập đoàn Ngân hàng Thế giới.
lOMoARcPSD| 53331727
6. Chính phủ Việt Nam (2022), "Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến
năm 2030", NXB Chính trị Quốc gia.
7. Trần Bá Duy (2020), "Cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Việt Nam, số 5, trang 8-15.
8. Nguyễn Minh Tuấn (2018), "Vai trò của khoa học công nghệ trong phát triển lực
lượng sản xuất", NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Lê Quang Trung (2021), "Phát triển lực lượng sản xuất trong bối cảnh nền kinh tế
tri thức ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 10, trang 50-59.
10.Đại học Kinh tế Quốc dân (2019), "Đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri
thức: Thực trạng và giải pháp", NXB Kinh tế.
11.Bộ Khoa học và Công nghệ (2021), "Sách trắng về khoa học và công nghệ Việt
Nam", NXB Khoa học và Công nghệ.
12.Viện Nghiên cứu Quản Kinh tế Trung ương (2020), "Đổi mới sáng tạo phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Việt Nam, số 12, trang 3644.
13.Minh Tuấn (2020), "Phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao vai
trò trong nền kinh tế tri thức", Tạp chí Công nghiệp Công nghệ, số 8, trang 7280.
14.Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2020), "Digital Economy
Outlook 2020", OECD Publishing.
15.Lê Thanh Hòa (2022), "Lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức và phát triển
bền vững", NXB Tài chính.
Danh mục tài liệu tham khảo trên đây là các nguồn tài liệu khoa học, báo cáo nghiên cứu
và các ấn phẩm chính thức đã được công bố, đóng góp vào việc nghiên cứu và phát triển
các yếu tố cấu thành nền kinh tế tri thức tại Việt Nam, từ đó giúp nâng cao hiểu biết về
vai trò của lực lượng sản xuất trong bối cảnh hiện nay.
lOMoARcPSD| 53331727

Preview text:

lOMoAR cPSD| 53331727
Trường đại học Mở Hà Nội Khoa công nghệ thông tin
Môn : Triết học Mác-Lênin
Đề tài: Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
Họ và tên: Giáp Văn Mạnh Mã sinh viên: 24A1001D0280 Lớp: 2410A05 Khóa: 2024-2029 lOMoAR cPSD| 53331727
Giảng viên : Phạm Thị Thùy MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và cấu trúc của lực lượng sản xuất
2. Khái niệm và đặc điểm của kinh tế tri thức
3. Vai trò của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế tri thức
a. Vai trò của nguồn lực con người
b. Vai trò của khoa học công nghệ II. Vận dụng
1 . Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước ta
a. Thực trạng đội ngũ người lao động
b. Thực trạng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong sản xuất
2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A.LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập kỷ gần đây, thế giới đã chứng kiến sự chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, nơi mà tri thức, sáng tạo và công nghệ trở thành
các nguồn lực chính tạo ra giá trị và sức cạnh tranh. Đối với Việt Nam, nền kinh tế tri
thức không chỉ là một hướng đi tất yếu để bắt kịp sự phát triển của thế giới, mà còn là con
đường khả dĩ giúp đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nâng cao đời sống người
dân và khẳng định vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh đó, lực lượng
sản xuất đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tri thức, là nền tảng cơ bản cho mọi hoạt động kinh tế, tạo tiền đề để khai thác, phát huy
các yếu tố tri thức và công nghệ.
Lực lượng sản xuất, bao gồm lao động, công cụ sản xuất, và tri thức, là yếu tố then chốt
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, với nền kinh tế tri thức, lực lượng sản xuất cần
được hiểu rộng hơn và phải gắn kết chặt chẽ với tri thức, kỹ năng, công nghệ và khả năng lOMoAR cPSD| 53331727
sáng tạo. Lao động không còn đơn thuần là lao động phổ thông, mà cần được trang bị tri
thức, kỹ năng chuyên môn và tư duy đổi mới. Công nghệ sản xuất không chỉ dừng lại ở
máy móc cơ bản mà phải bao gồm các công nghệ cao, các công cụ sản xuất hiện đại, và
các hệ thống tự động hóa tiên tiến. Tri thức trong lực lượng sản xuất không chỉ dừng lại ở
kiến thức khoa học mà còn bao gồm khả năng quản lý, sáng tạo và linh hoạt ứng phó với các thay đổi.
Với những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt là sự trỗi dậy của các
nền công nghiệp 4.0 và các mô hình kinh tế số, Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức
lớn trong việc nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất để phát triển nền kinh tế tri
thức. Việc phát triển và tận dụng tối đa vai trò của lực lượng sản xuất không chỉ giúp tăng
cường hiệu quả sản xuất mà còn tạo ra động lực cho các doanh nghiệp đổi mới, nâng cao
năng suất, và cải thiện khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế. Bên cạnh đó, một lực
lượng sản xuất hiện đại sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, tối ưu hóa
nguồn lực và phát triển các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, như công nghệ thông tin, tài chính - ngân hàng, và y tế.
Tiểu luận này sẽ tập trung phân tích vai trò quan trọng của lực lượng sản xuất trong việc
phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp, đề
xuất cụ thể nhằm tối ưu hóa tiềm năng của lực lượng này. Bằng cách nhìn nhận đúng vai
trò và khai thác tối đa hiệu quả của lực lượng sản xuất, Việt Nam có thể tiến xa hơn trong
hành trình xây dựng nền kinh tế tri thức, tạo ra bước phát triển bền vững và toàn diện cho đất nước. B.NỘI DUNG I.Cơ sở lý luận
1 .Khái niệm và cấu trúc của lực lượng sản xuất
a.Khái niệm lực lượng sản xuất
Khái niệm: là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất
và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu
cầu nhất định của con người và xã hội. b.Cấu trúc của lực lượng sản xuất
Cấu trúc: Lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố người lao động và tư liệu
sản xuất cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp) tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản
xuất) để cải biến giới tự nhiên sáng tạo tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con
người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất năng lực hoạt động sản xuất
vật chất của con người và được xem xét trên hai mặt: lOMoAR cPSD| 53331727
Kinh tế - xã hội (đối tượng lao động): Người lao động là những yếu tố vật chất của sản
xuất là con người dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù
hợp với mục đích sử dụng của con người.
+ Con người có tri thức kinh nghiệm kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất
định trong quá trình sản xuất của xã hội người lao động là chủ thể sáng tạo đồng
thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản vô
tận và đặc biệt của sản xuất.
+ Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội tỉnh trọng lao động cơ bắp đang có xu thế
giảm trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên. -Kinh tế -
kỹ thuật (tư liệu sản xuất): là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
bao gồm tư liệu và đối tượng lao động.
+ Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư
liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.
+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào
đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành
sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.đổi đối tượng lao động thành
sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.
- Tư liệu lao động gồm :
+ Phương tiện lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất cùng với công cụ
lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá
trình sản xuất vật chất.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng tạo ra các của cải vật
chất phục vụ yêu nhu cầu của con người và xã hội. lOMoAR cPSD| 53331727
+ Là cầu nối giữa người lao động và đối tượng lao động => Giữ vai trò quyết định
trực tiếp đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; Ngày nay công cụ lao
động được tin học hoá, tự động hoá và trí tuệ hoá…
+ Là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân
sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử; cải biến tự nhiên của môi
trường => Là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2 .Khái niệm
và đặc điểm của kinh tế tri thức a.Khái niệm
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế tri thức. Có nhà
nghiên cứu đã đồng nhất nền kinh tế sử dụng công nghệ cao với kinh tế tri thức. Định
nghĩa này không chính xác vì tri thức không thể chỉ có công nghệ cao (bao gồm các công
nghệ trụ cột là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ năng lượng mới và năng lượng tái sinh, công nghệ không gian vũ trụ, và khoa học
kỹ thuật hải dương). Đây là một cách hiểu hẹp vì nó đã tách rời tri thức về khoa học, công
nghệ ra khỏi tri thức rộng lớn hơn nhiều của con người cũng như tách rời khoa học, công
nghệ ra khỏi môi trường kinh tế – văn hóa – xã hội nói chung.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thành: “Kinh tế tri thức là hình thái phát triển cao
nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hóa tư bản, trong đó, công thức hoạt động cơ bản Tiền
– Hàng – Tiền’ được thay thế bằng công thức Tiền -Tri thức - Tiền”
Định nghĩa này đã chỉ ra được tầm quan trọng của tri thức trong nền kinh tế mới, tuy
nhiên, nó mới chỉ đề cập đến t r i thức trong môi trường kinh tế, kinh doanh, k h i tri thức
thay thế vị trí của hàng hóa trong công thức cũ, có nghĩa là t r i thức là một dạng hàng hóa
cao cấp, có thổ dùng tiên mua được và việc sử dụng tri thức mua được ấy mang lại lợi
nhuận lớn hơn số tiền bỏ ra ban đầu. Tuy nhiên, tri thức không chỉ tác động đến môi
trường kinh tế mà còn tác động đến nhiều môi trường khác trong nền kinh tế tri thức như
môi trường văn hóa, môi trường xã hội , môi trường giáo dục… Do đó, định nghĩa này
cũng chí là một định nghĩa hẹp, chưa bao quát được lổng thổ vấn đổ.
Cho đến nay, hầu hết các tài liệu quốc tế khi đề cập đến kinh tế tri thức đều sử dụng định
nghĩa đơn giản nhưng bao quát của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra
trong báo cáo “Kinh tế dựa trên tri thức” năm 1996. Theo báo cáo đó, “Kinh tế tri thức là
một nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức” hoặc
“Kinh tế tri thức là kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển
kinh tế, xã hội loài người”. Đây là những định nghĩa có tính khái quát cao, tuy nhiên trong
hai định nghĩa đó, theo chúng tôi, định nghĩa thứ nhất chuẩn hơn. Bởi vì, định nghĩa này
đã chỉ ra được những thuộc tính cơ bản quy định nội hàm của khái niệm kinh tế tri thức,
đó là: nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Đây cũng lOMoAR cPSD| 53331727
chính là những thuộc tính phản ánh bản chất của nền kinh tế tri thức, thiếu những thuộc
tính này nền kinh tế không được gọi là nền kinh tế tri thức. Và với một nền kinh tế mang
bản chất như vậy, thì yếu tố tri thức có vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế – xã
hội của loài người là điều đương nhiên, nó chính là hệ quả của nền kinh tế trực tiếp dựa
vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Trong khi đó, định nghĩa thứ hai mới chí
khẳng định trong nền kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đóng vai trò then chốt đốt với sự phát
triển kinh tế – xã hội của loài người. Nhưng tính chất then chốt đó thể hiện như thế nào và
tại sao nó lại đóng vai trò then chốt, những câu hỏi cơ bản và quan trọng này chưa được
định nghĩa chỉ ra, và do đó, bản chất của nền kinh tế tri thức chưa được định nghĩa làm sáng tỏ.
b. Đặc điểm của kinh tế tri thức
+ Nền kinh tế dựa trên tri thức và vốn con người: Một hệ thống kinh tế không dựa trên tri
thức được coi là không thể tưởng tượng được. Nó mô tả quá trình tiêu dùng và các hoạt
động sản xuất được thoả mãn từ việc áp dụng chuyên môn của người lao động – vốn tri
thức và thường thể hiện mức độ đáng kể của các hoạt động kinh tế cá thể trong các nền
kinh tế phát triển hiện đại thông qua việc xây dựng một nền kinh tế toàn cầu tiên tiến và
kết nối với nhau, nơi các nguồn tri thức là những người đóng góp quan trọng.
Khái niệm hiện tại cho “kiến thức” có nguồn gốc từ các nghiên cứu lịch sử và triết học
của Gilbert Ryle và Israel Scheffler, những người đã tiến hành kiến thức đến các thuật
ngữ “kiến thức thủ tục” và “kiến thức khái niệm” và xác định hai loại kỹ năng: “năng lực
hoặc cơ sở thường xuyên” và “kỹ năng quan trọng” đó là hiệu suất thông minh; và nó
được xây dựng thêm bởi Lundvall và Johnson, người đã định nghĩa “kiến thức” về mặt
kinh tế làm nổi bật bốn phạm trù lớn:
+ Lực lượng lao động có trình độ và kỹ năng: Sự hình thành của nền kinh tế tri thức
mạnh mẽ đòi hỏi người lao động phải có khả năng liên tục học hỏi và áp dụng các kỹ
năng của họ để xây dựng và thực hành kiến thức một cách hiệu quả.
+ Cơ sở hạ tầng thông tin dày đặc và hiện đại: là khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn
lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) nhằm vượt qua rào cản về chi phí giao dịch
cao và tạo điều kiện hiệu quả trong việc tương tác, phổ biến và xử lý các nguồn thông tin và tri thức.
+ Hệ thống đổi mới hiệu quả: mức độ đổi mới lớn trong các công ty, ngành và quốc gia
để theo kịp với công nghệ toàn cầu mới nhất và trí tuệ con người để sử dụng nó cho nền kinh tế trong nước.
+ Chế độ thể chế hỗ trợ khuyến khích tinh thần kinh doanh và sử dụng tri thức: Một hệ
thống nền kinh tế cần cung cấp các biện pháp khuyến khích để cho phép huy động và
phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích tinh thần kinh doanh.
+ Sự tiến bộ của nền kinh tế dựa trên tri thức xảy ra khi các nền kinh tế toàn cầu thúc đẩy
những thay đổi trong sản xuất vật chất, cùng với sự ra đời của các cơ chế lý thuyết kinh tế lOMoAR cPSD| 53331727
phong phú sau chiến tranh thế giới thứ hai có xu hướng tích hợp khoa học, công nghệ và kinh tế.
Peter Drucker đã thảo luận về nền kinh tế tri thức trong cuốn sách – Người điều hành hiệu
quả năm 1966, nơi ông mô tả sự khác biệt giữa người lao động chân tay và người lao
động tri thức. Người lao động chân tay là người lao động bằng chính đôi tay của họ và
sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Ngược lại, nhân viên tri thức làm việc bằng đầu chứ
không phải bằng tay và tạo ra ý tưởng, kiến thức cũng như thông tin.
Các định nghĩa xung quanh “tri thức” được coi là mơ hồ trong điều kiện chính thức hóa
và mô hình hóa nền kinh tế tri thức, vì nó là một khái niệm tương đối. Ví dụ, không có đủ
bằng chứng và cân nhắc về việc liệu “xã hội thông tin” có thể phục vụ hoặc hoạt động
như một “xã hội tri thức” thay thế cho nhau hay không. Thông tin nói chung, không tương
đương với kiến thức. Việc sử dụng chúng phụ thuộc vào sở thích cá nhân và nhóm “phụ
thuộc vào nền kinh tế”. Thông tin và kiến thức cùng là nguồn lực sản xuất có thể tồn tại
mà không cần tương tác với các nguồn khác. Các tài nguyên có tính độc lập cao với nhau
theo nghĩa là nếu chúng kết nối với các nguồn lực có thể sử dụng được, chúng chuyển
thành các yếu tố sản xuất ngay lập tức; và các yếu tố sản xuất hiện diện chỉ để tương tác
với các yếu tố khác. Khi đó, tri thức gắn liền với thông tin trí tuệ được cho là một yếu tố
sản xuất trong nền kinh tế mới được phân biệt với các yếu tố sản xuất truyền thống. 3. Vai
trò của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế tri thức

a. Vai trò của nguồn lực con người
Nguồn lực con người đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức. Trong
nền kinh tế này, tri thức, sáng tạo và khả năng đổi mới của con người là các yếu tố chính
tạo ra giá trị. Dưới đây là một số vai trò chủ đạo của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế tri thức:
1. Tạo ra và truyền tải tri thức: Nguồn lực con người không chỉ là người sáng tạo ra
tri thức mới mà còn truyền tải tri thức qua các hoạt động đào tạo, giáo dục và
nghiên cứu. Tri thức tích lũy và chia sẻ giúp cải thiện năng suất lao động và hiệu quả sản xuất.
2. Đổi mới và sáng tạo: Khả năng đổi mới và sáng tạo của con người giúp phát triển
sản phẩm và dịch vụ mới, đồng thời cải tiến các quy trình sản xuất hiện có. Điều
này tạo ra động lực cạnh tranh, giúp doanh nghiệp và quốc gia duy trì lợi thế trong
bối cảnh toàn cầu hóa và công nghệ thay đổi nhanh chóng.
3. Thúc đẩy ứng dụng công nghệ: Con người là trung tâm của việc nghiên cứu và áp
dụng công nghệ mới. Đội ngũ lao động có kỹ năng cao có khả năng làm chủ công
nghệ, triển khai các giải pháp tự động hóa và cải tiến quy trình, từ đó nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm.
4. Thích ứng với thay đổi và phát triển bền vững: Nhờ có tri thức và kỹ năng, nguồn
lực con người có thể nhanh chóng thích ứng với những thay đổi trong thị trường và lOMoAR cPSD| 53331727
công nghệ, giúp doanh nghiệp và nền kinh tế duy trì sự bền vững. Con người có tư
duy sáng tạo và học hỏi suốt đời sẽ đảm bảo quá trình chuyển đổi diễn ra liên tục và hiệu quả.
5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế: Con người là yếu tố quyết định trong các hoạt động
hợp tác quốc tế về nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ. Đội ngũ nhân
lực có kiến thức và năng lực cao giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, học
hỏi kinh nghiệm và tận dụng tri thức toàn cầu cho phát triển kinh tế tri thức trong nước.
Tóm lại, nguồn lực con người là nhân tố quyết định trong nền kinh tế tri thức, không chỉ
thúc đẩy sáng tạo và công nghệ mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao năng
lực cạnh tranh của quốc gia.
b. Vai trò của khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ (KHCN) đóng vai trò then chốt trong sự phát triển của nền kinh tế tri
thức, nơi tri thức, sáng tạo và công nghệ là những yếu tố cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Trong nền kinh tế tri thức, giá trị không còn dựa vào tài nguyên thiên nhiên hay lao
động phổ thông, mà vào tri thức, thông tin và đổi mới sáng tạo. KHCN giúp tăng cường
hiệu quả sản xuất, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc
sống. Dưới đây là các vai trò quan trọng của KHCN trong nền kinh tế tri thức:
1. Tăng cường năng suất và hiệu quả sản xuất
KHCN giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất và nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng
dụng các công nghệ tiên tiến như tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI), và robot. Nhờ có các
tiến bộ công nghệ, nhiều quy trình sản xuất có thể tự động hóa hoàn toàn, giảm thiểu sai
sót, giảm chi phí sản xuất, và gia tăng sản lượng. Điều này giúp doanh nghiệp cạnh tranh
hiệu quả hơn trên thị trường, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển sản phẩm mới
KHCN đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra các sản phẩm
và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. Các phát minh,
sáng chế trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sinh học, và vật liệu mới đã thay đổi căn bản
cách sản xuất và tiêu dùng, mang lại nhiều giá trị mới cho nền kinh tế. Các sản phẩm như
điện thoại thông minh, phương tiện tự lái, công nghệ sinh học trong y tế đều là những
thành quả của đổi mới KHCN và đã tạo ra những ngành kinh tế mới đầy tiềm năng.
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thúc đẩy tri thức
Sự phát triển của KHCN giúp nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực,
thông qua các nền tảng học tập trực tuyến, hệ thống đào tạo thông minh và các công cụ
công nghệ hỗ trợ giáo dục. Nhờ có KHCN, kiến thức và kỹ năng mới được truyền đạt
nhanh chóng và hiệu quả, góp phần xây dựng lực lượng lao động có trình độ cao, sẵn sàng lOMoAR cPSD| 53331727
tham gia vào nền kinh tế tri thức. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực mà còn thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời, đảm bảo lực lượng lao động có khả năng
thích nghi và đổi mới liên tục.
4. Thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghệ cao
KHCN là động lực để hình thành và phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano, và công nghệ vũ trụ. Các ngành công
nghệ cao này không chỉ tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới mà còn tạo ra giá trị gia tăng lớn
cho nền kinh tế. Đồng thời, các ngành công nghệ cao giúp nâng cao năng lực cạnh tranh
của quốc gia trên thị trường quốc tế và mở rộng thị trường cho các sản phẩm tri thức của Việt Nam.
5. Thúc đẩy chuyển đổi số và tối ưu hóa quản lý
KHCN là công cụ nền tảng cho chuyển đổi số, giúp doanh nghiệp, chính phủ và các tổ
chức tối ưu hóa quy trình quản lý, nâng cao hiệu quả và giảm thiểu chi phí. Chuyển đổi số
không chỉ đơn thuần là áp dụng công nghệ vào các quy trình, mà còn thay đổi cách thức
vận hành, từ đó tạo ra giá trị mới, cải thiện trải nghiệm của khách hàng và tối ưu hóa
nguồn lực. Các công nghệ như điện toán đám mây, dữ liệu lớn (Big Data), và trí tuệ nhân
tạo đã giúp nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam cải thiện đáng kể khả năng quản lý và phân
tích thị trường, đưa ra các quyết định kinh doanh sáng suốt hơn.
6. Tạo ra nền tảng cho sự hợp tác và chia sẻ tri thức
KHCN giúp kết nối mọi người và tổ chức trên toàn cầu, tạo điều kiện cho việc chia sẻ tri
thức, hợp tác nghiên cứu và phát triển. Với các công cụ kết nối hiện đại, các doanh
nghiệp, trường đại học và các tổ chức nghiên cứu có thể hợp tác với nhau trên phạm vi
toàn cầu. Điều này thúc đẩy việc chia sẻ kiến thức, kỹ thuật mới, và các phát minh, từ đó
thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức một cách nhanh chóng và bền vững hơn.
7. Góp phần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
KHCN đóng vai trò nền tảng trong việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo điều
kiện thuận lợi cho các cá nhân và doanh nghiệp phát triển ý tưởng, sản phẩm, và công
nghệ mới. Một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ bao gồm các viện nghiên cứu,
trường đại học, trung tâm ươm tạo, và các quỹ đầu tư mạo hiểm. KHCN giúp thúc đẩy sự
kết nối và hợp tác giữa các thành phần này, tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển
và thương mại hóa các ý tưởng sáng tạo, từ đó đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế tri thức.
Khoa học công nghệ là yếu tố nền tảng và động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
tri thức, từ việc nâng cao năng suất lao động, tối ưu hóa quy trình sản xuất, cho đến việc
thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Để tận dụng tối đa vai trò của KHCN, Việt
Nam cần đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong doanh
nghiệp và tạo điều kiện cho sự phát triển của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Điều này sẽ lOMoAR cPSD| 53331727
giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế tri thức hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh
và thúc đẩy tăng trưởng bền vững trong tương lai. II. Vận dụng
1 . Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước ta
a. Thực trạng đội ngũ người lao động
Trong nền kinh tế tri thức, người lao động đóng vai trò chủ chốt, không chỉ với tư cách là
lực lượng sản xuất trực tiếp mà còn là nhân tố sáng tạo, đổi mới và quản lý tri thức. Tại
Việt Nam, lực lượng lao động đang ngày càng được chú trọng đào tạo để đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ lao động vẫn còn nhiều hạn chế và
thách thức cần khắc phục để nâng cao hiệu quả và năng suất lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
1. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chưa đồng đều •
Thiếu hụt nhân lực trình độ cao: Dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào,
nhưng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn cao vẫn còn hạn chế. Đội ngũ lao
động có trình độ đại học và sau đại học còn thấp, trong khi đó, các ngành nghề đòi
hỏi kỹ thuật cao như công nghệ thông tin, kỹ thuật số, y sinh học, tài chính và quản
trị tri thức lại đang thiếu nhân lực nghiêm trọng. •
Đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tế: Hệ thống giáo dục của Việt Nam chủ yếu
vẫn thiên về lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành và khả năng ứng dụng. Nhiều sinh
viên sau khi ra trường gặp khó khăn trong việc thích nghi với môi trường công
việc thực tế, đặc biệt trong các ngành đòi hỏi kỹ năng công nghệ cao, sáng tạo và đổi mới.
2. Thiếu kỹ năng mềm và kỹ năng số •
Thiếu kỹ năng mềm: Một trong những yếu tố quan trọng của nền kinh tế tri thức là
kỹ năng giao tiếp, tư duy phản biện, khả năng làm việc nhóm và kỹ năng giải quyết
vấn đề. Tuy nhiên, các kỹ năng này vẫn chưa được chú trọng trong chương trình
đào tạo tại Việt Nam. Điều này gây ra hạn chế cho người lao động khi làm việc
trong môi trường quốc tế hoặc các dự án đa quốc gia, ảnh hưởng đến hiệu quả và năng lực cạnh tranh. •
Thiếu kỹ năng số: Trong bối cảnh chuyển đổi số, kỹ năng số là yêu cầu thiết yếu
cho lực lượng lao động, nhưng tại Việt Nam, nhiều lao động chưa được trang bị
đầy đủ kỹ năng này. Đặc biệt, những kỹ năng như sử dụng công nghệ thông tin,
phân tích dữ liệu và xử lý các hệ thống phần mềm hiện đại vẫn còn thiếu hụt.
3. Đội ngũ lao động chất lượng cao phân bổ không đồng đều •
Tập trung ở các thành phố lớn: Lực lượng lao động có trình độ cao, đặc biệt là
trong các ngành công nghệ cao, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, lOMoAR cPSD| 53331727
TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Ở các khu vực nông thôn và các tỉnh miền núi,
nguồn nhân lực chất lượng cao rất khan hiếm. Điều này dẫn đến sự chênh lệch
trong phát triển kinh tế giữa các khu vực và gây khó khăn cho việc phát triển kinh
tế tri thức một cách đồng đều trên toàn quốc. •
Di chuyển nhân lực sang nước ngoài: Một số lượng không nhỏ người lao động chất
lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công
nghệ, lựa chọn làm việc tại các nước phát triển. Tình trạng chảy máu chất xám này
khiến cho Việt Nam gặp khó khăn trong việc giữ chân và phát triển nhân lực chất
lượng cao, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế tri thức trong nước.
4. Tư duy sáng tạo và khả năng tự học của người lao động còn hạn chế •
Thiếu tư duy sáng tạo và đổi mới: Mặc dù có tiềm năng, nhưng phần lớn lao động
Việt Nam chưa phát triển được tư duy sáng tạo và khả năng đổi mới. Điều này một
phần do chương trình giáo dục truyền thống còn hạn chế khả năng phát triển các
kỹ năng này. Người lao động thường thiếu sự tự tin và kém thích nghi trong việc
sáng tạo, thử nghiệm các phương pháp mới, trong khi đó đây lại là yêu cầu thiết
yếu trong nền kinh tế tri thức. •
Khả năng tự học còn yếu: Văn hóa học tập suốt đời và kỹ năng tự học, cập nhật
kiến thức chưa phổ biến. Nhiều người lao động vẫn phụ thuộc vào các kiến thức cơ
bản từ đào tạo ban đầu mà thiếu ý thức chủ động nâng cao kỹ năng và tri thức mới.
Điều này khiến người lao động khó thích nghi và phát triển trong môi trường công
nghệ thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế tri thức.
5. Các chương trình và chính sách hỗ trợ phát triển nhân lực chưa đủ mạnh •
Chính sách phát triển nguồn nhân lực chưa hiệu quả: Chính phủ đã đưa ra nhiều
chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức, tuy nhiên,
việc triển khai các chính sách này còn hạn chế và chưa thực sự hiệu quả. Các
chương trình đào tạo kỹ năng số, nâng cao kỹ năng cho người lao động vẫn còn
chậm trễ và chưa đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp. •
Thiếu hợp tác giữa trường học và doanh nghiệp: Mối liên kết giữa các trường đại
học và doanh nghiệp còn yếu, dẫn đến thiếu sự liên kết trong việc đào tạo và đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động. Do đó, sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng tốt
các yêu cầu từ thực tiễn công việc, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tìm
kiếm và phát triển nhân lực phù hợp với nền kinh tế tri thức.
Thực trạng đội ngũ người lao động ở Việt Nam trong nền kinh tế tri thức hiện nay vẫn
còn nhiều thách thức về chất lượng, kỹ năng, tư duy sáng tạo và chính sách hỗ trợ. Mặc
dù Việt Nam có lực lượng lao động đông đảo và tiềm năng phát triển, nhưng còn thiếu
những yếu tố cần thiết để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Để phát triển đội ngũ
lao động hiệu quả, cần có các chính sách đột phá trong giáo dục, đào tạo kỹ năng mềm, kỹ
năng số, và xây dựng một môi trường khuyến khích sáng tạo, học tập suốt đời. Điều này lOMoAR cPSD| 53331727
sẽ giúp Việt Nam tạo ra lực lượng lao động chất lượng cao, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
tri thức phát triển bền vững trong tương lai
b. Thực trạng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong sản xuất
Việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ (KHCN) trong sản xuất là một yếu tố quan
trọng để nâng cao năng suất lao động, tăng cường sức cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế tri thức. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến
trong việc áp dụng KHCN vào các lĩnh vực sản xuất, đặc biệt trong các ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo, nông nghiệp và các lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, thực trạng ứng
dụng khoa học công nghệ trong sản xuất tại Việt Nam vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần giải quyết.
1. Ứng dụng công nghệ trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những nỗ
lực đáng kể trong việc đầu tư vào công nghệ mới, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất
thép, điện tử, dệt may và chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp vẫn
chưa chú trọng đến việc đổi mới công nghệ trong quy trình sản xuất của mình. Các công
nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) đã
được áp dụng ở một số doanh nghiệp lớn, nhưng lại còn khá hạn chế ở các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Một số lý do chính dẫn đến tình trạng này bao gồm: •
Thiếu đầu tư vào công nghệ mới: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu
nguồn lực tài chính để đầu tư vào các công nghệ mới và hiện đại. Việc đầu tư vào
công nghệ đòi hỏi vốn lớn, trong khi khả năng tiếp cận vốn vay cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn. •
Tính bảo thủ trong việc áp dụng công nghệ: Nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn
còn giữ thói quen sản xuất theo cách truyền thống, ít quan tâm đến việc đổi mới
công nghệ. Điều này tạo ra rào cản lớn trong việc tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ
công nghệ vào sản xuất.
2. Ứng dụng công nghệ trong ngành nông nghiệp
Trong nông nghiệp, việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ đã có những bước tiến
lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ tưới tiêu
thông minh, phân bón hữu cơ, và các phương pháp sản xuất nông nghiệp sạch. Tuy nhiên,
việc áp dụng các công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở
các vùng đồng bằng, còn ở các khu vực miền núi và vùng sâu vùng xa, ứng dụng công
nghệ trong sản xuất vẫn rất yếu.
Một số khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp Việt Nam bao gồm: lOMoAR cPSD| 53331727 •
Chi phí đầu tư cao: Công nghệ cao trong nông nghiệp đòi hỏi chi phí đầu tư ban
đầu rất lớn, điều này khiến nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ.
Đặc biệt, các giống cây trồng, vật nuôi hiện đại hay các thiết bị tự động hóa trong
nông nghiệp đòi hỏi mức vốn đầu tư lớn mà không phải ai cũng có khả năng chi trả. •
Thiếu kiến thức và kỹ năng: Một phần lớn nông dân Việt Nam thiếu kiến thức và
kỹ năng để ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất. Các khóa đào tạo và hướng
dẫn ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp chưa phổ biến và hiệu quả. •
Chưa tận dụng tối đa công nghệ số: Mặc dù các công nghệ như Internet vạn vật
(IoT), trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn đã bắt đầu xuất hiện trong nông nghiệp,
nhưng việc ứng dụng các công nghệ số này trong sản xuất nông nghiệp ở Việt
Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu và chưa rộng rãi.
3. Ứng dụng công nghệ trong các dịch vụ và lĩnh vực khác
Trong các lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế và giao thông, ứng dụng công
nghệ đã có những bước tiến đáng kể. Đặc biệt là các dịch vụ tài chính số, ngân hàng điện
tử, và thương mại điện tử, đã trở thành các lĩnh vực tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam. •
Chuyển đổi số trong ngành tài chính - ngân hàng: Ngành ngân hàng đã triển khai
nhiều sản phẩm và dịch vụ mới sử dụng công nghệ thông tin, như ngân hàng trực
tuyến, thanh toán qua di động, và các dịch vụ tài chính số. Tuy nhiên, vẫn còn một
bộ phận người dân chưa hoàn toàn quen thuộc với các dịch vụ ngân hàng điện tử,
gây khó khăn trong việc triển khai rộng rãi các công nghệ này. •
Ứng dụng công nghệ trong y tế: Các công nghệ tiên tiến như y học từ xa, ứng dụng
phần mềm quản lý bệnh nhân, hay các thiết bị chẩn đoán hiện đại đã được áp dụng
trong một số bệnh viện, nhưng nhìn chung, việc ứng dụng công nghệ trong y tế còn
hạn chế và không đồng đều ở các vùng miền. •
Giao thông và vận tải: Công nghệ thông minh đã được ứng dụng trong một số lĩnh
vực như quản lý giao thông, hệ thống thanh toán điện tử trong giao thông công
cộng, nhưng công nghệ này vẫn còn chưa phổ biến rộng rãi.
4. Khó khăn và thách thức trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất •
Hạn chế về cơ sở hạ tầng công nghệ: Hạ tầng công nghệ tại Việt Nam, đặc biệt là
mạng internet, điện toán đám mây và các công nghệ hỗ trợ sản xuất thông minh,
vẫn còn thiếu đồng bộ và chưa đạt mức độ hiện đại để hỗ trợ sản xuất. Đặc biệt là
ở các khu vực nông thôn và các doanh nghiệp nhỏ, việc triển khai hạ tầng công
nghệ thông tin vẫn còn khó khăn. •
Thiếu đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao: Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến
trong sản xuất đòi hỏi một đội ngũ nhân lực có trình độ cao và kỹ năng chuyên lOMoAR cPSD| 53331727
môn vững vàng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề
cao trong các lĩnh vực công nghệ cao như AI, tự động hóa, công nghệ thông tin, và kỹ thuật số. •
Thiếu cơ chế hỗ trợ chuyển giao công nghệ: Việc chuyển giao công nghệ từ các
viện nghiên cứu, trường đại học đến các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn.
Các doanh nghiệp thiếu các kênh tiếp cận và ứng dụng các nghiên cứu khoa học
vào thực tiễn sản xuất.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất ở Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt
trong nhiều lĩnh vực, tuy nhiên còn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức. Để tăng cường
ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
đầu tư vào công nghệ mới, cải thiện cơ sở hạ tầng công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao và thúc đẩy hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp.
Chỉ khi các yếu tố này được cải thiện, Việt Nam mới có thể tận dụng được đầy đủ tiềm
năng của khoa học công nghệ, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong tương lai.
2 . Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
Để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức, Việt
Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động, tăng
cường ứng dụng khoa học công nghệ và thúc đẩy sự sáng tạo trong các lĩnh vực sản xuất.
Dưới đây là một số giải pháp quan trọng:
1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực •
Đào tạo và phát triển kỹ năng cho lao động: Một trong những yếu tố quan trọng
nhất trong việc phát triển lực lượng sản xuất là nguồn nhân lực. Để xây dựng đội
ngũ lao động chất lượng cao, cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao trình
độ chuyên môn và kỹ năng nghề cho lao động. Các cơ sở đào tạo cần gắn kết với
nhu cầu thực tế của thị trường lao động và yêu cầu của nền kinh tế tri thức, đặc biệt
trong các lĩnh vực công nghệ cao, kỹ thuật số và các ngành nghề sáng tạo. •
Phát triển giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học: Để đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế tri thức, cần tăng cường đầu tư vào hệ thống giáo dục đại học, sau đại học,
đặc biệt trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin, tự động hóa,
trí tuệ nhân tạo (AI), và các ngành nghề liên quan đến sáng tạo và đổi mới sáng
tạo. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ giúp tạo ra đội ngũ lao động
có khả năng sáng tạo và phát triển các công nghệ mới, từ đó đóng góp vào sự phát
triển của lực lượng sản xuất. •
Khuyến khích học tập suốt đời: Trong nền kinh tế tri thức, sự học không chỉ dừng
lại ở bậc học chính thức mà còn cần được duy trì suốt đời. Nhà nước và các doanh
nghiệp cần tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia các khóa đào tạo
bổ sung, các chương trình học trực tuyến, đào tạo tại chỗ để cải thiện kỹ năng và lOMoAR cPSD| 53331727
nâng cao khả năng cạnh tranh trong môi trường công nghệ ngày càng thay đổi nhanh chóng.
2. Thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất •
Khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D): Để tăng cường sức
mạnh của lực lượng sản xuất, cần đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu và phát triển
khoa học công nghệ. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, trong việc đầu tư vào R&D sẽ tạo động lực mạnh mẽ để cải tiến công
nghệ, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, các cơ sở
nghiên cứu, viện nghiên cứu cần hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp trong việc
chuyển giao và ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất. •
Tăng cường ứng dụng công nghệ số và tự động hóa: Công nghệ số, trí tuệ nhân tạo
(AI), Internet vạn vật (IoT) và tự động hóa đang trở thành yếu tố quan trọng trong
việc nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất. Chính phủ cần có các chính sách hỗ
trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp
cận và ứng dụng các công nghệ mới này. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng
suất lao động mà còn giúp cải thiện chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí và tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. •
Phát triển các ngành công nghệ cao: Việt Nam cần chú trọng phát triển các ngành
công nghệ cao, như công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa, công nghệ sinh học
và công nghệ môi trường. Việc tạo ra các khu công nghiệp, các trung tâm nghiên
cứu phát triển và các khu công nghệ cao sẽ thúc đẩy sự sáng tạo, ứng dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất, đồng thời thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực này.
3. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho đổi mới sáng tạo •
Cải cách thể chế và giảm bớt thủ tục hành chính: Một trong những yếu tố quan
trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất là tạo ra một môi trường kinh doanh
thuận lợi. Nhà nước cần thực hiện các cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn lực tài chính, công nghệ và
các cơ hội hợp tác quốc tế. Môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và cởi mở
sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào đổi mới sáng tạo, nghiên cứu
phát triển và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. •
Khuyến khích các mô hình doanh nghiệp sáng tạo: Nhà nước cần có chính sách
khuyến khích các mô hình doanh nghiệp sáng tạo, như các startup, doanh nghiệp
khoa học công nghệ, và các mô hình kinh doanh đổi mới. Các chính sách hỗ trợ
này có thể bao gồm giảm thuế, hỗ trợ tài chính, tạo điều kiện cho việc bảo vệ sở
hữu trí tuệ, từ đó thúc đẩy sự sáng tạo và phát triển lực lượng sản xuất dựa trên tri thức và công nghệ.
4. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ và mạng lưới kết nối lOMoAR cPSD| 53331727 •
Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại: Để thúc đẩy ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, cần phải xây dựng một cơ sở hạ tầng công nghệ mạnh mẽ, bao
gồm mạng internet tốc độ cao, hạ tầng điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn và các
nền tảng công nghệ khác. Việc cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ giúp các doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, dễ dàng tiếp cận công nghệ và thực hiện
quá trình chuyển đổi số, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động. •
Thúc đẩy hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp: Việc
tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học và
doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng trong phát triển lực lượng
sản xuất. Các viện nghiên cứu cần chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học
thành các công nghệ ứng dụng thực tế trong sản xuất, đồng thời, các doanh nghiệp
cần chủ động tham gia vào quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng công nghệ mới.
5. Khuyến khích đầu tư vào phát triển hạ tầng giáo dục, nghiên cứu và đào tạo nghề •
Tăng cường đầu tư vào hệ thống giáo dục và đào tạo nghề: Để phát triển lực lượng
sản xuất trong nền kinh tế tri thức, cần tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo nghề. Đầu tư vào cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên
và các chương trình giáo dục nghề nghiệp sẽ giúp phát triển đội ngũ lao động có
tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tri thức. Các chương trình đào tạo
nghề nên được liên kết chặt chẽ với nhu cầu của thị trường lao động và yêu cầu
của các ngành công nghiệp, công nghệ cao. •
Khuyến khích nghiên cứu và sáng tạo: Cần có các chính sách hỗ trợ và khuyến
khích nghiên cứu khoa học, sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học công nghệ và sản
xuất. Các tổ chức nghiên cứu cần được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các
nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất, góp phần cải
tiến công nghệ và nâng cao năng suất lao động.
Để phát triển lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức, Việt Nam cần triển khai đồng
bộ các giải pháp, từ việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy ứng dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, đến việc phát triển cơ
sở hạ tầng công nghệ và hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Chỉ khi giải quyết được các yếu tố này,
Việt Nam mới có thể tạo ra một lực lượng sản xuất mạnh mẽ, đủ khả năng cạnh tranh
trong bối cảnh nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển. C.KẾT LUẬN
Lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu và chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Các yếu tố chủ yếu của lực lượng sản
xuất như nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ tiên tiến, và cơ sở hạ tầng
hiện đại đều có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, khả năng cạnh tranh, và sự
sáng tạo trong mọi lĩnh vực sản xuất. lOMoAR cPSD| 53331727
Đầu tiên, nguồn nhân lực là yếu tố then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế
tri thức. Một đội ngũ lao động có trình độ, tay nghề cao và khả năng tiếp cận và ứng dụng
công nghệ mới sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và tạo ra
giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Để phát triển lực lượng lao động chất lượng, việc đầu tư
vào giáo dục, đào tạo nghề và phát triển kỹ năng là cần thiết, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho học tập suốt đời và nâng cao năng lực sáng tạo.
Thứ hai, khoa học công nghệ (KHCN) là động lực chính thúc đẩy sự chuyển đổi trong lực
lượng sản xuất. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất không chỉ giúp
cải thiện năng suất lao động mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường và
gia tăng giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Đặc biệt, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, và tự
động hóa đang trở thành xu hướng chủ đạo trong việc nâng cao năng lực sản xuất và đổi
mới sáng tạo. Tuy nhiên, để tận dụng được các thành tựu này, Việt Nam cần tiếp tục cải
cách các chính sách, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, cũng như xây dựng
cơ sở hạ tầng công nghệ mạnh mẽ hơn.
Cuối cùng, môi trường kinh doanh và cơ sở hạ tầng công nghệ cũng đóng một vai trò
quan trọng không kém trong việc phát triển lực lượng sản xuất. Các chính sách khuyến
khích đầu tư, giảm bớt thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sẽ
giúp tạo ra một hệ sinh thái sản xuất hiệu quả, nơi mà sáng tạo và đổi mới công nghệ có
thể được triển khai rộng rãi.
Nhìn chung, lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay đang đối
mặt với nhiều thách thức, nhưng cũng có những cơ hội lớn để phát triển mạnh mẽ trong
tương lai. Việc phát triển đồng bộ các yếu tố của lực lượng sản xuất, bao gồm nguồn nhân
lực, khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng, sẽ là chìa khóa giúp Việt Nam chuyển mình
mạnh mẽ trong quá trình hội nhập và phát triển bền vững.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Hữu Dũng (2016), "Lực lượng sản xuất và vai trò trong phát triển kinh tế", NXB Khoa học Xã hội.
2. Nguyễn Mạnh Hùng (2017), "Phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức:
Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 6, trang 12-20.
3. Đặng Đình Tùng (2019), "Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất và phát
triển kinh tế", NXB Chính trị Quốc gia.
4. Nguyễn Thị Lan Anh (2020), "Khoa học công nghệ và phát triển nền kinh tế tri
thức: Cơ hội và thách thức", Tạp chí Khoa học Công nghệ và Xã hội, số 12, trang 45-52.
5. World Bank (2021), "Vietnam Economic Update: Science, Technology and
Innovation for Sustainable Development", Tập đoàn Ngân hàng Thế giới. lOMoAR cPSD| 53331727
6. Chính phủ Việt Nam (2022), "Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến
năm 2030", NXB Chính trị Quốc gia.
7. Trần Bá Duy (2020), "Cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Việt Nam, số 5, trang 8-15.
8. Nguyễn Minh Tuấn (2018), "Vai trò của khoa học công nghệ trong phát triển lực
lượng sản xuất", NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Lê Quang Trung (2021), "Phát triển lực lượng sản xuất trong bối cảnh nền kinh tế
tri thức ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 10, trang 50-59.
10.Đại học Kinh tế Quốc dân (2019), "Đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri
thức: Thực trạng và giải pháp", NXB Kinh tế.
11.Bộ Khoa học và Công nghệ (2021), "Sách trắng về khoa học và công nghệ Việt
Nam", NXB Khoa học và Công nghệ.
12.Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2020), "Đổi mới sáng tạo và phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Việt Nam, số 12, trang 3644.
13.Vũ Minh Tuấn (2020), "Phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao và vai
trò trong nền kinh tế tri thức", Tạp chí Công nghiệp và Công nghệ, số 8, trang 7280.
14.Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2020), "Digital Economy
Outlook 2020", OECD Publishing.
15.Lê Thanh Hòa (2022), "Lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức và phát triển
bền vững", NXB Tài chính.
Danh mục tài liệu tham khảo trên đây là các nguồn tài liệu khoa học, báo cáo nghiên cứu
và các ấn phẩm chính thức đã được công bố, đóng góp vào việc nghiên cứu và phát triển
các yếu tố cấu thành nền kinh tế tri thức tại Việt Nam, từ đó giúp nâng cao hiểu biết về
vai trò của lực lượng sản xuất trong bối cảnh hiện nay. lOMoAR cPSD| 53331727