


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60851861 * Lịch sử:
Theo thần tích từ thời Lê do Lễ bộ Thượng Thư Đông Các Đại học sĩ
Nguyễn Bính biên soạn năm 1572, Thành Hoàng làng Vạn Phúc là bà Ả Lã hiệu là
Thị Nương (Còn có tài liệu nói rằng bà là Lã Thị Nga được vua phong là Nga Hoàng Đại Vương).
Bà sinh năm Ất Tỵ vào thế kỷ thứ 9 khoảng năm 825, con ông Hùng Thuỵ và
bà Phạm Khương quê ở Châu Tụ Long Đạo Tuyên Quang (khi đó nước ta thuộc nhà
Đường Trung Quốc gọi là An Nam đô hộ phủ)
Năm 865, Cao Biền, một tướng nhà Đường được cử sang làm tiết độ sứ cai trị
nước ta, xưng là Nam Việt quốc vương thiên tử. Cao Biền xây đắp thành Đại La (Hà
Nội) làm bản doanh, lập lại chế độ cai trị nhà Đường trên cương vực nước Nam.
Một lần du ngoạn cõi phương Nam để nhìn thế sông, thế núi ổn định. Khi đến
châu Tự Long vào thăm nhà Hùng Thuỵ thấy Nương Thị là người dung nhan tuyệt
thế, am tường cả văn chương nên ngỏ ý xin Ả Lã làm tri kỷ. Chọn giờ lành tháng tốt
làm lễ kết duyên rồi đưa Nương Thị về thành Đại La phong làm “Đệ nhị cung phi”.
Sau khi về cung, hai vợ chồng tiếp tục việc công du thiên hạ, xe ra ngoại thành
mươi dặm hướng đạo Sơn Nam. Thấy một vùng núi sông bao quanh liền cho xe vào
trang Vạn Bảo (làng Vạn Phúc ngày nay). Khi ngắm cảnh quan, đến cửa Am thấy
hai vòng giếng trong xanh, Cao Biền đã thốt lên “Đất rồng chầu hổ phục, tú khí
dưỡng thanh long” (khí thiêng nuôi Rồng xanh). Cao Biền cho đây là vùng đất lập
nghiệp, còn bà Ả Lã, người từ tâm tri thức, lại thấy phong cảnh hữu tình, nhân dân
no đủ, thuận hoà. Bà đã xin với Cao Biền cho ở lại để tĩnh tâm và khi Cao Biền về
thì cũng được cảnh thanh nhàn.
Năm 868, Cao Biền phải về nước, con nuôi Cao Tầm thay Cao Biền làm tiết
độ sứ. Ở Vạn Bảo, quyền uy của Nương Thị như Vương Phi nhưng bà sống nhân
hậu, bình dị. Bà khuyên dạy dân làm điều phải, bỏ điều trái, coi sự ăn ở hoà thuận
với nhau là thuần phong mỹ tục. Công lao của bà là dồn hết tâm lực vào việc khuyến
học, khuyến nghệ, khuyến nông.
Năm 869, bà A Lã mất, thọ 44 tuổi – không có con, Cao Tầm bèn phong cho
bà duệ hiệu: Đương cảnh Thành Hoàng quốc vương Thiên tử A – Lã Đê Nương Nga
Hoàng Đại Vương, và phong thêm 2 mỹ tự: trinh thục, từ hoà (quốc vương thiên tử
là lấy tước hiệu của chồng – Cao Biền) lOMoAR cPSD| 60851861
Phường Vạn Phúc nằm phía Đông Bắc quận Hà Đông, có địa giới hành chính:
Phía Bắc giáp phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội; Phía Nam giáp phường
Yết Kiêu; Phía Đông giáp phường Mộ Lao; Phía Tây giáp phường La Khê, phường
Quang Trung. Theo thống kê năm 2014, phường Vạn Phúc có diện tích tự nhiên là
143,97 ha, 2887 hộ dân, với trên 14.620 nhân khẩu. Năm 2019, số dân 18.979 người
= 5.175 hộ, chia thành 12 Tổ dân phố. Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên khoảng 1%. Mật
độ dân số của Vạn Phúc tương đối lớn, khoảng 8.453người/ km2. Năm 2023, dân số
4924 hộ với 18.990 nhân khẩu. * Văn hóa
Trong không gian phát triển du lịch của Thủ đô Hà Nội, làng nghề dệt lụa Vạn
Phúc nằm trong cụm du lịch Hà Đông và phụ cận (Quy hoạch phát triển du lịch Hà
Nội đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030) là khu vực tập trung nhiều làng
nghề nổi tiếng của Hà Nội như mây tre đan Phú Vinh, mộc Thượng Mạo, rèn Đa Sỹ
… cùng nhiều di tích lịch sử như Chùa Trầm, chùa Trăm Gian…
Vạn Phúc có 10 cơ quan, doanh nghiệp, trường học đóng trên địa bàn. Trong
đó có 8 cơ quan đơn vị, doanh nghiệp đủ điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ
thuật, bộ máy tổ chức để tham gia xây dựng cơ quan, đơn vị văn hóa.
Sơ đồ tổ chức UBND Phường Vạn Phúc
Trên địa bàn Phường có 6 di tích: Đình, Chùa, Miếu, Đền phường cửi và
Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó có 01 di tích cấp Quốc gia (Nhà lưu
niệm Bác Hồ - là nơi Bác viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào ngày
19/12/1946), 02 di tích Đình, Chùa được xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa và 03 di
tích chưa được xếp hạng (di tích Miếu và Đền phường cửi, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí lOMoAR cPSD| 60851861
Minh và các anh hùng liệt sỹ). Các di tích trên vừa là nơi sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng của nhân dân, vừa là địa điểm thăm quan cho khách du lịch khi đến với làng
nghề dệt lụa cổ truyền Vạn Phúc.
Những công trình cổ kính có giá trị về văn hoá và lịch sử cao giúp cho Vạn
Phúc không những có điều kiện phát triển văn hoá một cách rực rỡ, mà còn có giá
trị thương mại dịch vụ lớn nhất trong việc thu hút khách du lịch, tạo đà cho du lịch làng nghề phát triển.
1. Làng nghề - sản phẩm của làng nghề Vạn Phúc
Nghề dệt lụa ở Việt Nam có ở nhiều nơi, nhưng không thể không nhắc tới làng
lụa Vạn Phúc – Hà Đông. Sản phẩm làng nghề được hiểu là sản phẩm sản xuất ra tại
các làng nghề, mang đậm nét giá trị văn hoá tinh thần của người sản xuất cũng như
đặc trưng của làng nghề.
Với bàn tay khéo léo cùng kinh nghiệm lâu đời, những người nghệ nhân và
người làng nghề Vạn Phúc đã mang đến những sản phẩm rất đa dạng về mẫu mã,
cũng như chất lượng cao. Lụa Vạn Phúc có nhiều loại như: lụa, gấm, vóc, vân, the,
lĩnh, bằng, sa, đũi… Khổ vải thường là 90 – 97cm. Hiện nay, cùng với công nghệ
tiên tiến, các khổ vải cũng đã được cải tiến, có thể lên khoảng 1,15m- 1,5m.
Để tạo nên những mẫu hoa văn độc đáo trên, công đoạn thiết kế mẫu- đây là
quy trình hết sức quan trọng, người thợ (nghệ nhân) sẽ vẽ lại các mẫu hoa truyền
thống lên tấm giấy ô ly. Dựa theo bản vẽ này, nghệ nhân đục lỗ trên các tấm bìa.
Nhiều tấm bìa được nối với nhau để thành bộ mẫu hoa. Thời gian tạo ra một bộ mẫu
hoa cần ít nhất từ 10-20 ngày, phụ thuộc vào độ phúc tạp của mỗi loại hoa văn. Ngày
nay, thay vì vẽ tay, nghệ nhân Đỗ Văn Hiển sử dụng máy tính để thiết kế hoa lụa.
Phần mềm đục lỗ của Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt may cũng hỗ trợ ông trong việc tạo
bộ mẫu. Khâu thiết kế và làm bộ mẫu hoa được rút ngắn xuống còn 5 ngày.’
Lụa Vân, một loại lụa tưởng như đã thất truyền, nhưng rất may mắn khi nghệ
nhân Triệu Văn Mão cùng các nghệ nhân khác của làng đã kì công khôi phục lại.
Lụa Vân có một điểm vô cùng đặc biệt, đó là có mây trên lụa – nhìn lụa như thấy có
mây. Đây là một kĩ thuật tinh tế mà trước kia chỉ có làng Vạn Phúc mới dệt được.
Để dệt lụa vân, phải lắp thêm go võng để 2 sợi dọc bắt được với nhau. Lại có bộ mẫu
hoa để điều khiển sợi vào vắt chéo với nhau. Các sợi vặn với nhau tạo nên "lỗ", sợi
không vặn thị sắp xếp cạnh nhau bình thường. Mây trên lụa (lụa vân) được tạo nên
nhờ sự sắp xếp các điểm vặn và không vặn" - nghệ nhân Đỗ Văn Hiển. Lụa mượt
mà là thế, ấy vậy mà lại có đường vân nổi lên. Nét độc đáo nổi bật là lụa Vân được lOMoAR cPSD| 60851861
thiết kế theo lối dệt mới, dùng bộ go võng kết hợp các mẫu hoa văn, vặn bắt chéo
sợi dọc, khóa chặt sợi ngang làm cho quá trình sử dụng không bị co giạt, ko bị trôi.
Cũng là một điều đặc biệt nữa, đó là sự ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè
khi khoác lên người chiếc áo lụa. Đồng thời, hoa văn trang trí trên vải lụa cũng vô
cùng đa dạng như mẫu Song hạc, Tứ quý v…v khiến cho các bộ trang phục trở nên
sống động và duyên dáng.
Lụa Sa tanh - có chất lấp lánh như thuỷ tinh. Trên mặt lụa được triện các hình
hoa văn như hoa hướng dương, hoa tròn, hoa vuông, hoa mây, hoa sóng v… càng
làm cho lụa sa tanh trở thành quý phẩm. Chính bởi những ưu điểm ấy mà lụa Vạn
Phúc đã tạo cho mình một thương hiệu lụa truyền thống nổi tiếng cả trong và ngoài nước.
Lụa se - đây là loại lục được hình thành trong quá trình đúc rút kinh nghiệm
và đáp ứng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Lụa se là mặt hàng lụa sang trọng nhất,
cao cấp nhất. Để sản xuất ra những tấm lụa se chất lượng cao, người thợ thủ công
Vạn Phúc phải tiến hành nhuộm tơ rồi se những sợ tơ mảnh thành những sợ tơ từ 3
đến 6 sợi (gọi là se 3, se 6). Lụa se có chất lượng rất cao, dày dặn, bền, đẹp và không phai.
Ngoài các loại Lụa, làng nghề dệt lụa vạn Phúc còn sản xuất vải Đũi từ những
sợ tơ tằm thô - đây cũng là một sản phẩm truyền thống mới được đội ngũ nghệ nhân,
thợ giỏi của phường Vạn Phúc phục dựng lại trong những năm gần đây. Quy trình
sản xuất vải đũi được thực hiện theo những công đoạn truyền thống. Vải đũi được
dệt trực tiếp từ đũi tằm, còn được gọi là lụa thô. Lụa thô được tạo nên từ kén của tằm
dâu giống như lụa, tuy nhiên sợi đũi sẽ to hơn. Sợi đũi tằm hay còn gọi là lụa thô
được làm từ chất liệu đặc biệt được nấu từ các kén tằm nấu kỹ, sao cho sợi kén mềm
ra. Sau khi sợi đũi được nấu kỹ, thợ dệt sẽ dùng tay để kéo thành sợi vải trong một
chậu nước và công đoạn này gọi là kéo cũi, cũng là công đoạn quan trọng nhất trong
quy trình sản xuất vải đũi. Sau khi kéo xong sợi, đũi được kéo guồng lại từng vun
sợi (sợi dài) sau đó được đem phơi khô. Đến khi sợi đũi khô hoàn toàn người thợ dệt
sẽ mang sợi vào và tiến hành công đoạn tiếp theo. Sau khi phơi, thợ dệt dùng vun
đũi để dệt thành vải đũi. Từ vải đũi họ chế tạo thành những chiếc khăn đũi hoặc các
sản phẩm khác từ đũi rất được ưa chuộng trên thị trường hiện nay. lOMoAR cPSD| 60851861 2. Lễ hội
Theo thần tích thì đình là nơi bà Thành Hoàng sống và là nơi thờ cúng sau khi
bà hoá, còn miếu là nơi bà hoá. Trong một năm có nhiều tiết lễ hội tại đình và miếu
có 2 lần hội, đó là đình “Rằm tháng giêng và tháng tám”.
Theo thống kê, có khoảng 63 lễ hội trong một năm tại Vạn Phúc. Trong luận
văn, xin được nói chi tiết về lần hội tại Đình.
Lễ đản mùa xuân: là lễ quan trọng nhất trong năm, tổ chức tại đình từ 11 đến 13 tháng Giêng âm lịch.
Trước ngày vào đám, giáp đăng cai đủ phải ra đình lau chùi đồ lễ chuẩn bị cho
đám rước tiến hành vào chiếu 11.
Sáng ngày 10, giáo đăng cai tổ chức rước nước từ giếng ở chùa về đình để lấy
nước cúng trong các ngày đám.
Rước nước thì đơn giản, một choé to bằng sứ, do 4 người khiêng có một cái
lọng cho choé, 1 trống khẩu, 5 lá cờ. Bờ giếng có xây 1 bệ thờ, cụ thủ từ đình đặt
cây trâm lên bệ thắp hương, làm lễ khấn, đốt pháo rồi cụ từ xuống giếng múc nước
lên đổ vào choé qua mảnh vải trắng mới lọc nước. Cả làng chỉ ăn nước giếng ở chùa,
dưới tỉnh Hà Đông, các quan cũng cho xe lên lấy nước về tỉnh ăn nên suốt ngày
không lúc nào ngớt người gánh nước. vì vậy làng phải cấm gánh nước một ngày để
đến sáng ngày 10 rước sớm để dân còn gánh nước, như thế thì nước ở giếng mới
trong sạch. Khi choé đủ đầy nước thì rước choé về đình.
Trước ngày vào đám một ngày, các cụ làm lễ nghênh thần kính thỉnh hoan giá về đình lễ.
Đình đám tháng giêng bắt đầu từ việc rước Thành Hoàng từ miếu về đình vào chiều ngày 11.
Từ sáng đến chiều ngày 11, cả làng nhộn nhịp sôi nổi chuẩn bị cho đám rước
mời Thành Hoàng về đình để nhân dân được thờ phụng trong 3 ngày từ 11 đến 13,
tỏ lòng biết ơn ngài. Giáp đăng cai thịt lợn đem xuống miếu tế cùng với một số đồ
dùng cho dân tế, xong đem lợn về làm cỗ để việc làng thượng hạ ở đình cho giai
rước ăn uống xong đi rước. Giáp đăng cai vì bận nhiều việc nên được miễn cử giai
đi rước, nhưng phải chuẩn bị để đồ thờ đem đi rước, đồ thờ Thành Hoàng ở đình rất
nhiều, rất đẹp và rất đắt tiền vì làng có nghề khác với làng thuần tuý nông nghiệp.
Những năm đắt hàng, thu nhập cao, các gia đình khá giả đua nhau cung tiến cá nhân lOMoAR cPSD| 60851861
và tập thể, đồ thờ quý mua tại thủ đô mà họ thường xuyên ra bán hàng nên họ chọn
toàn đồ đẹp được sản xuất tại đó. Giáp đăng cai phải tháo kiệu, long đình đem ra
phương đình lắp sẵn lõng tán, cờ… phải chôn cột cờ kéo ở ruộng trước đình, lá cờ
kéo rất to bằng 6 chiếc chiếu trang trí rất đẹp, được kéo lên ngọn 1 cột lim cao chôn
thật chặt, phấp phới tung bay trước gió, từ xa đã nhìn thấy biết được làng có hội. họ
phải chuẩn bị đủ thứ cho đám rước đêm như nến hương trầm, pháo tràng, pháo thăng
thiên, ống linh, chuẩn bị 20 đình liên (5 cây nứa để cả cây đập rập, bó làm một) để
soi sáng đám rước tối.
Đồ thờ đem đi rước rất nhiều, phải huy động tới 140 giai rước tuổi dưới 30.
Lý trưởng phân cho 14 giáp (trừ gíap đăng cai) tuỳ theo giáp đông hay ít người, phải
huy động cho đủ số, nhưng năm nào cũng đủ người. Hôm 11 giai rước phải tắm gội
sạch sẽ, quần áo mới sắm được đem ra dùng. Giai rước đồng bộ khăn xếp, mặc áo
the thâm, quần chúc bâu, đi giày chí long. Chuẩn bị ra đình từ sáng để việc làng
thượng hạ ăn cỗ rồi đi rước.
Các ông quan viên được cử đi rước, các cụ già đi cùng cũng phải tắm gội, ăn
mặc chỉnh tề như giai rước, các cụ 70 tuổi đội mũ ni đen viền xanh, các cụ 80 tuổi
mặc áo thụng đỏ, quần đỏ và đội mũ ni đỏ. Những người khác trong làng tuy không
tham gia rước nhưng phụ nữ, trẻ em … thì cũng nô nức mặc quần áo đẹp đi xem rước.
Đến khoảng 3h chiều, tất cả những người đi rước đã tề tựu chật ních cả sân
đình, ông Lý chọn 32 giai sàn sàn bằng nhau đi khiêng kiệu, long đình, nhang án
tiền, nhang án hậu, 8 người khiêng kiệu (phải chọn 16 để thay đổi nhau khiêng vì
suốt thời gian rước khoảng 4h liền không được hạ kiệu xuống đường). 4 người
khiêng long đình (phải chọn 8 vì long đình cũng không được hạ xuống đường mặc
dầu 4 chân của long đình dài gần sát đất khi khiêng). 4 người khiêng nhang án tiền,
4 người khiêng nhang án hậu, 32 giai rước này mặc áo nỉ đỏ ra ngoài áo the. Trước
kia, 32 giai này phải ăn ở tập trung tại nhà 2 ông tổng cờ để hàng ngày ra tập khiêng
kiệu, long đình hương án sao cho thật cân, đi đứng theo đúng hiệu lệnh của tổng cờ
để khi rước kiệu được nghiêm túc.
Phân công mọi việc đâu vào đó, tuy chưa phải là rước nhưng họ đi xuống miếu
mang theo đồ rước rất trật tự. Chiều, cụ thủ từ đình mặc áo thụng xanh thắp một nén
hương to, dài và cắm lên bình hương trên bệ thờ lộ thiên ở miếu để lễ khấn mời
Thành Hoàng làng về đình. Xong, cụ trịnh trọng bưng thẻ hương to vừa đốt dở lên
ngang mặt và thận trọng đi thong thả ra cắm vào bình hương ở kiệu, 2 bên ông quan
viên cầm 2 quạt đoàn che nén hương. Nhìn thấy cụ từ cắm xong hương vào kiệu, lOMoAR cPSD| 60851861
ông cầm cờ mặc áo đỏ, chẽn thắt lưng xanh, bỏ múi cạnh sườn, chân quấn xà cạp, đi
giầy vải, đầu đội mũ chóp có cắm lông gà dài oai nghiêm cầm cờ tiến ra cửa miếu,
múa cờ vẽ lên không theo hình chứ “linh” và hô thật to “thiên hành”. Tất cả trăm
người đi rước và nghìn người xem đều đồng thanh “dạ” thật to, vang cả vùng miếu và khúc sông Nhuệ.
Đi đầu đám rước là 2 lá cờ dẫn cao đi hàng ngang, tiếp đến 5 lá cờ ngũ phương
đi hàng 1, liền sau là trống cái to 2 người khiêng, rồi đến nhang án tiền do 4 người
khiêng trên bày ở giữa 1 cây vàng, 1 đỉnh hương đồng đốt trầm nghi ngút khói. 2 lọ
lộc bình bày ở 2 góc trong, 2 góc ngoài là 2 cây đèn đồng. Sau nhang án tiền là 2
người khiêng chiêng, rồi đến 2 tàn tầu đi hàng ngang trước nhang án, hậu có 2 quạt
cò che 2 bên nhang án, hậu có tàn to che đằng sau. Trên nhang án hậu có bày 2 chậu
hoa giấy, 1 giá hương, 1 lọ lộc bình, 1 mặt trời bằng thuỷ tinh có tia xanh đỏ, 2 hạc
đồng. 1 nồi trầm cắm cả cây trầm to bằng cổ tay. Liền sau nhang án, hậu là cờ vía do
ông cầm cờ đi rất nghiêm chỉnh, dựa cán cờ vào bụng, 2 tay đưa thẳng ra đỡ cán cờ,
có một lọng vàng che đằng sau cờ vía. Phường trống đi hàng đôi sau cờ vía, rồi đến
2 tàn tầu, 2 đèn bóng đi trước long đình, 1 ông quan viên mặc áo thụng cầm trống
khẩu đi giật lùi trước long đình để điều khiển giai khiêng long đình. Ông gõ 1 tiếng,
giai mới được bước 1 bước rồi dừng lại. Long đình có 2 quạt đoàn do 2 ông quan
viên thắt lưng xanh bỏ múi che 2 bên.
Sau long đình, đi trước kiệu là phường bát âm. 4 ông quan viên, 2 ông cầm
roi, 2 ông cầm kiếm đi hàng đôi, rồi đến 1 giai bưng 1 hòm kính đựng đôi hài cánh
tiên đi b1 bên, bên kia 1 đến 2 người đội hòm quần áo, đi liền trước kiệu là 2 người
cầm 2 đèn lồng, 1 người cầm lồng xông đi ở đầu kiệu đỡ lồng xông ra trước kiệu.
Kiệu rất đẹp, sơn son thiếp vàng để trên hai đòn rồng.
Quãng đường rước từ miếu về đình kể cả đi vòng quanh ao đình dài độ ½ km
mà đám rước bắt đầu khởi hành lúc 5giờ chiều đến 9 giờ tối kiệu mới vào sân đình.
Như vậy, đám rước phải đi sâu vào tối nhiều nên đã có 20 đình liên đốt sáng trưng
soi cho đám rước. Đám rước đi qua nhiều ao trên quãng đường ngắn (2 ao hai bên
cổng sau, 2 bên nách đình, 2 ao trước). Đó là trước kia, còn giờ thì ko còn nhiều ao như thế nữa.
Có thể nói gần như cả làng đi xem rước, nhưng an ninh trong làng vẫn được
giữ vững, vì làng đã phân công giai rước có tang không được đi rước mà phải đi
trong làng và ngoài luỹ tre để đề phòng trộm cướp. lOMoAR cPSD| 60851861
Đám rước đi vòng quanh ao đình rồi rẽ vào đình. Suốt thời gian rước, kèn trống và
phường bát âm đánh trống cử nhạc không lúc nào ngớt.
Khi kiệu về đến sát tường đình, cụ Lý lại ra 2 tay bưng thẻ hương to rước từ
miếu đi vào trong đình. 2 bên có quạt đoàn che nén hương, đem cắm vào bát hương
trên cung (gác) để thờ thành Hoàng suốt thời gian vào đám, chờ đến ngày 16 lại rước về miếu.
Đình đám tháng Giêng bắt đầu từ đám rước tối 11 từ miếu về đình và từ ngày
12 đến 13, trưa nào cũng có chầu tế lớn, còn sớm và tối nào cũng có tế trà đơn giản
hơn. Đặc biệt, trong ngày 12, nhân dân các Tổ dân phố sẽ lần lượt tổ chức dâng lễ
Đình, vào lễ Thánh và dâng hương tại Đền phường cửi, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí
Minh và các anh hùng liệt sĩ (khu đền nằm trong khuôn viên của Đền phường cửi).
Trên ban thượng chỉ bày oản quả, chè kho và 1 đĩa thịt (không bao giờ bày thịt trâu
bò). Còn lợn thịt cả con thì bày ở bàn thờ dưới gác, giáp đăng cai đánh 3 hồi chiêng
trống động hiên sắp tế. Phường trống ra đứng góc phải đình, phường bát âm đứng
góc trái. Ban hành lễ, mũ áo chỉnh tề, đầu đội mũ tế, quần áo thụng xanh, chân đi hia
tế tiễn từ đình hậu vào phương đình, tiến hành lễ: Châu tế bắt đầu, Đông xướng hô -
Khởi trình: (đánh chiêng trống)
Đánh thong thả 3 hồi chiêng, rồi 3 hồi trống -
Nhạc âm cử nhạc (phường bát âm cử nhạc). Đánh cả trống và nhạc -
Cử soát tế phẩm (kiểm tra đồ lễ)
Một viên quan đi lên ban thượng để kiểm tra xem đồ lễ đã đủ chưa. -
Ê mao huyết (vứt bỏ lông và huyết), 1 ông quan viên cầm gói lá
chuối bọc1 ít tiền và một số lông lợn khi làm thịt đặt trên đĩa đem ra ngoài vứt
bỏ, tượng trưng là sau khi cử soát tế phẩm đã trừ bỏ hết tạp chất, chỉ còn vật tinh để tế thần. -
Quán tẩy sở: chủ tế và các chấp sự ra chỗ giá để chậu đựng nước
rửa tayrồi lau khô vào khăn tay.
Trước hương án trải 4 chiếu từ trên xuống. -
Chiếu gần hương án nhất: chiếu thâm lOMoAR cPSD| 60851861 -
Chiếu thủ tộ ẩm phước (thần ban) cho dân qua chủ tế lên chiếu này nhận -
Chiếu thứ 3: chiếu thủ tế -
Chiếu thứ 4: chiếu các bồi tế -
Tế quan tựu vị: chủ tế vào chiều thứ 3 -
Thượng hương: dâng hương, hai tay chắp sư bưng, lư hương và
hộp trầmgiao chủ tế quỳ vái xong đốt hương, 2 nội tán, một cầm cây nến con
đi trước chủ tế, chủ tế đi giữa, 1 quan viên bưng hương lên ban thượng. Trong
thời gian tế thì phường bát âm cử nhạc liên tục. Khi chủ tế dâng hương thì 1
bên trống đi theo và đánh trống, 1 bên thì phường bát âm nhạc đi theo đến cửa
bước vào hậu cung dừng lại. Khi chủ tế quay ra chỗ cũ thì cả 2 phường này
cũng đi theo đến khi chủ tế vào chiếu mới quay về chỗ cũ.
Hành sơ hiến lễ: (dâng rượu tuần đầu )
Chủ tế đến án để rượu 1 chấp sư mở đài rượu, mở khăn đỏ đậy bình rượu sau chủ tế rót rượu -
Nghệ đại vương vị tiền: chủ tế và 2 nội tán lên chiều- Tiến trước:
Một nội tán dâng đài rượu. -
Hiến tước: tế chủ vái rồi 2 nội tán đi hai bên nâng cao đài rượu
đưa vào nộiđiện có phường bát âm và phường trống đi theo như lúc dâng hương. -
Đọc chúc: chuẩn bị đọc chúc. -
Nghe đọc chúc vị: Tế chủ lên chiếu 1 -
Chấp sự bâng văn tế dán lên 1 giá chúc sơn son thiếp vàng. -
Giai Quỵ (đều quỳ xuống). -
Chuyển chúc: người chuyển chúc đưa chủ tế văn tế, chủ tế vái
xong vái 1 vái rồi chuyển cho người đọc. -
Đọc chúc: Người đọc sau khi đọc xong đưa cho chủ tế vái 1 vái
rồi trao trảngười chuyển chúc. -
Phủ phục: Cúi lạy (hưng bái 2 lần) lOMoAR cPSD| 60851861
Hành á hiến lễ (lễ hiến rượu lần thứ 2) cũng như lần 1. Hành chung hiến lễ (lễ
dâng rượu lần cuối cùng) cũng như lần 2 trước.
Cuối buổi tế được ban ẩm phước tượng trưng thần ban phước lộc cho chủ tế,
thay mặt toàn dân nhận phước, người chủ tế lên chiếu thứ 2 (chiếu thủ tổ âm phước)
Nhận lộc (tạ lễ cung bái lạy 4 lần); Phần chúc (đốt bài văn tế); Lễ tất (đốt xong);
Triết trinh cổ (chiêng, trống, bát âm ngưng đáng); Thế là xong buổi lễ tế lớn.
Ở trong đình có hát nhà tổ, hát thờ, các cô đầu này không phải là cô đầu hát Ả
Đào chuyên nghiệp, mà họ là nông dân, ngày thường thì làm ruộng, họ chỉ đi hát thờ
ở cả đình trong mùa đám. Trong những buổi tế lế lớn, 2 hoặc 4 đầu có ra múa khi tế
trông rất khéo mà đẹp. Tuyệt đối ở trong sân đình không bao giờ hát chèo, chỉ hát
chèo ở ruộng cửa đình, giáp đăng cai đi khuyên giáo tre, về làm rạp cao để mọi người
đều xem được. Ban đêm xem chèo rất đông nhưng không bao giờ mất trật tự, đánh
cãi nhau, cả trẻ con cũng thế. Ở sân đình có đánh cờ bỏi (cờ tướng), quân cờ có cán
cắm xuống các lỗ ở sân đình theo mô hình bàn cờ. Có đánh trống khẩu để thúc dục
đánh cờ, ông nào bí nghĩ lâu quá không đi được, người cầm trống khẩu đến đánh
vào sau lưng để giục ông đi cờ. Làng có treo giải thưởng cho người thắng cuộc, có
cả người làng khác sang xem đánh cờ và chơi cờ. Có năm làng còn tổ chức đánh cờ
người. Quân cờ là nam thanh niên một bên, bên kia là thanh nữ. Quân cờ nam nữ
được mặc đồng phục trông rất đẹp, 2 tướng 2 bên có lọng che.
Đến chiều 13 là ngày giã đám, lại tổ chức rước từ Đình về Miếu để mời loan
giá ngự hồi long cung. Thế là đình đám tháng Giêng đã xong.
Ngoài ra, trong những ngày diễn ra Lễ hội sẽ diễn ra nhiều hoạt động văn hóa-
văn nghệ - trò chơi dân gian tạo không khí vui tươi, phục vụ nhu cầu thưởng thức
văn hóa của nhân dân và phát triển hoạt động văn hóa nghệ thuật quần chúng của địa phương.
3. Lễ đản mùa thu
Lễ thánh đản, kỉ niệm sinh nhật Thành Hoàng vào ngày 9, 10 và 11 tháng 8
âm lịch, đây là lễ lớn thứ 2 trong năm tại đình và miếu, chiều mùng 9 tổ chức rước
từ miếu vào đình và ngày 11 lại rước từ đình về miếu. Đám rước cũng như rước của
tháng Giêng nhưng không rước riêng, mà chỉ rước long đình, còn tế lế cũng giống
như vào đám tháng Giêng.
Trong thời gian làng vào đám tháng Giêng hay tháng 8, mọi người đi qua cửa
đình sát cột trụ đều cúi đầu kính cẩn. Cũng có người khi không có đình đám đi qua lOMoAR cPSD| 60851861
đình vẫn cúi đầu lễ phép. Đường cái lớn đi qua cửa đình có ghi chữ “Hạ mã” ở 2 cột
trụ. Trong thời gian đình đám, ai đi xe kéo, xe đạp, đều phải xuống xe, người lạ
không biết bị người làng bắt.
Trong khi có đình đám chẳng may cụ nào qua đời thì không được đưa ma ra
cửa đình, mà phải vạch trổ để đưa ma ra đồng, nếu không phải đợi hết đình đám mới
được đưa. Kèn trống đám ma không được đánh khi đi qua cửa đình, áo quan phải hạ
xuống khiêng tay, qua cửa rồi mới đưa lên vai và kèn trống mới tiếp tục đánh.
Về vấn đề thờ Thành Hoàng làng, Vạn Phúc kiêng không nói đến 2 từ là Lã
và Nga. Vạn phúc không nói nước lã, mà nói nước Giếng vì cả làng ăn nước ở Giếng
chùa. Lã là tên huý Thành Hoàng, Nga là tên hiệu của Ngài.
Lễ hội của làng nghề Vạn Phúc diễn ra hàng năm, theo tục lệ và quy định, cứ
5 năm một lần đại đám, dân làng lại tổ chức rước đại đám từ Đình xuống Miếu nhằm
tưởng nhớ công ơn Thành Hoàng Ả Lã Đê Nương.
4. Hoạt động tưởng niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hoạt động tưởng niệm về lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng là một trong những hoạt động
quan trọng và được diễn ra vào các ngày lễ lớn trong năm như: Kỷ niệm ngày sinh
nhật Bác ngày 19/5, Chào mừng Quốc Khánh 2/9 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 19/8 …
Mỗi khi đến những ngày này, lễ báo công dâng Bác đều được thực hiện một cách
trang nghiêm và thành kính. Các đồng chí trong Đoàn đại biểu các cấp, các ban
ngành đều về dự và thắp hương tưởng niệm. Các hoạt động như “Về nguồn”, “khơi
dòng lịch sử” dành cho thanh thiếu niên được Đoàn Thanh niên tổ chức nhằm tăng
cường sự hiểu biết về lịch sử nói chung cũng như lịch sử Nhà lưu niệm Bác Hồ nói
riêng, qua đó khơi dậy tình yêu quê hương đất nước trong lòng mỗi thanh thiếu niên.
Ngoài ra, để tưởng nhớ công ơn của Người lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam và
tưởng nhớ công ơn của những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì nền độc lập của dân
tộc, vào những ngày Lễ hội truyền thống của địa phương (11-13 tháng Giêng), nhân
dân Vạn Phúc còn tổ chức dâng lễ tại Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các anh hùng liệt sĩ. * Kinh tế:
Nghề dệt lụa ở Vạn Phúc (quận Hà Đông, Hà Nội) từ lâu đã nổi tiếng bởi nét
tài hoa của những nghệ nhân làng nghề. Với những ai yêu lụa Vạn Phúc khi về nơi lOMoAR cPSD| 60851861
đây như được trở lại cội nguồn với nhiều nét xưa cũ. Bao đời nay, lụa Vạn Phúc chỉ
sử dụng chất liệu tơ tằm truyền thống, do bàn tay của người lao động tạo nên. Điều
đáng quý là các sản phẩm ở đây được làm từ nguyên liệu tự nhiên, có nhiều ưu điểm
khác hẳn với các sản phẩm trôi nổi trên thị trường.
Có những thời điểm, lụa Vạn Phúc rơi vào cảnh thăng trầm, sản phẩm làm ra
khó tiêu thụ. Song những năm trở lại đây, làng lụa Vạn Phúc đã có thị trường mạnh
mẽ, thu hút rất đông khách du lịch tới tham quan, mua sắm. Có được điều này chính
là nhờ chính quyền và nhân dân trên địa bàn đã chủ động đổi mới cách làm.
Hiện làng lụa Vạn Phúc có khoảng 300 hộ dệt, kinh doanh mặt hàng lụa tơ
tằm. Để phục vụ khách du lịch, các gian hàng trong khu phố Lụa được sắp xếp gọn
gàng, đẹp mắt. Các gian hàng trưng bày nhiều sản phẩm mới, các mẫu thiết kế thời
trang, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ làm từ lụa đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách.
Không chỉ tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh mà làng lụa Vạn Phúc
còn gắn kết với du lịch, dịch vụ. Ngày nay, ngoài việc kinh doanh các sản phẩm làm
từ lụa, các cơ sở sản xuất còn kết hợp mô hình cho du khách tới tham quan, trải
nghiệm quy trình làm ra sản phẩm, giúp khách hàng thấy được giá trị chất lượng của
sản phẩm lụa nơi đây để yên tâm lựa chọn mua sắm.
Đặc biệt nhận thức rõ về việc nếu không duy trì được nét độc đáo và sự khác
biệt riêng của lụa Vạn Phúc sẽ khiến làng nghề bị mai một, các nghệ nhân của làng
đã dần khôi phục cách dệt truyền thống, đưa ra thị trường những sản phẩm chất
lượng cao, phục vụ xuất khẩu tại những thị trường quốc tế.
Bà Nguyễn Thị Huệ, người đã có thâm niên hơn 30 năm gắn bó với nghề dệt
lụa cho biết: “Thương hiệu lụa của làng nổi tiếng bởi chất liệu từ 100% sợi tơ tự
nhiên vừa óng ánh, vừa mềm mại, khác xa các sản phẩm khác trên thị trường. Trải
qua bao thăng trầm đổi thay, ngày nay làng lụa Vạn Phúc vẫn giữ được nguyên vẹn
những giá trị cổ truyền trên từng tấm lụa. Lụa Vạn Phúc ngày nay được biến tấu trở
nên đa dạng hơn về chủng loại, mẫu mã, cùng với những tên gọi khác nhau”.
Để phục vụ du khách trong mùa du lịch năm nay cũng như dịp SEA Games
31, các cơ sở kinh doanh tại làng lụa Vạn Phúc đã sản xuất đa dạng các sản phẩm
làm quà tặng như: Khăn, cà vạt, áo dài nhằm giới thiệu, quảng bá với du khách sản
phẩm làng nghề. Nghệ nhân Nguyễn Thị Tâm, chủ cơ sở sản xuất lụa Triệu Văn Mão
cho biết: “Cơ sở sản xuất của tôi được chọn 3 - 4 sản phẩm làm quà tặng cho Lễ hội
quà tặng của thành phố Hà Nội. Hiện nay, chúng tôi đã ra mắt đa dạng các sản phẩm lOMoAR cPSD| 60851861
để khách hàng có thể lựa chọn làm quà tặng như khăn, áo dài, cà vạt, túi xách, quần
áo các loại… phục vụ theo nhu cầu của từng khách hàng”.
Phát triển du lịch tại làng lụa Vạn Phúc không chỉ bảo tồn nét văn hóa truyền
thống mà còn giải quyết được công ăn việc làm, cải thiện thu nhập cho người dân
địa phương. Đồng thời, giúp phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường hội nhập, thu hút
đông đảo khách du lịch ghé thăm. Để phát triển du lịch bền vững, quảng bá sản
phẩm, phường Vạn Phúc đã xây dựng các tuyến phố Lụa kết hợp với các ngành nghề
phụ trợ để phục vụ khách du lịch như: Khu phố ẩm thực, phố sinh vật cảnh, trung
tâm giao lưu văn hóa đồ cổ, phát triển loại hình lưu trú, mua sắm. Ngoài ra, nơi đây
đã thành lập Hợp tác xã Vụn Art, mang lại thu nhập cho người khuyết tật bằng việc
sử dụng các vải lụa vụn để ghép tranh lụa xuất khẩu ra nước ngoài.
Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc Phạm Khắc Hà cho biết, để phát triển
du lịch bền vững, ngoài việc phát triển các sản phẩm, làng nghề cũng đã đẩy mạnh
việc tạo cảnh quan du lịch hấp dẫn, việc làm này đã mang đến một không gian xanh,
thoáng mát, thân thiện với môi trường. Các hộ dân mở cửa hàng trên tuyến phố Lụa
phải đăng ký gian hàng đạt chuẩn với Sở Du lịch Thành phố về giá cả và nguồn gốc
xuất xứ của sản phẩm, bảo đảm chất lượng về hàng hóa cho người sử dụng.
Ngoài ra, người dân Vạn Phúc luôn ý thức và tự giác trong việc giữ gìn và tạo
cảnh quan trên các tuyến phố, công tác bảo vệ môi trường được chú trọng để tạo một
không gian du lịch xanh, sạch, đẹp thân thiện cho du khách. Nhằm phát huy thế mạnh
vốn có của làng nghề, địa phương đã tuyên truyền cho các hộ hoạt động kinh doanh,
sản xuất lụa về cách ứng xử văn minh, lịch sự, không chèo kéo làm ảnh hưởng đến
hình ảnh của làng nghề và thực hiện các quy tắc ứng xử nơi công cộng văn minh, lịch thiệp.
Nghệ nhân Nghiêm Thị Thu Hương vừa có xưởng may, vừa có cửa hàng ở
phố Lụa cho biết, các hộ sản xuất tại làng thường xuyên, chủ động học hỏi, tiếp cận
với công nghệ 4.0 để quảng bá, giới thiệu các sản phẩm đến với khách hàng trong
và ngoài nước. Hiệp hội làng nghề và chính quyền phường đã có các chương trình
quảng bá sản phẩm cho làng nghề, các cửa hàng cũng bố trí, sắp xếp sản phẩm ngăn nắp, đẹp mắt hơn.
Hiện nay, để tạo được dấu ấn trong khách hàng, các cơ sở thiết kế đa dạng các
sản phẩm, với những mẫu mã mới, phù hợp với xu hướng, nhằm thu hút khách tới
tham quan, mua sắm. Đặc biệt, các cơ sở, xưởng sản xuất cam kết thực hiện nghiêm lOMoAR cPSD| 60851861
các quy định về môi trường, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. *Kiến trúc: 1. Đình Vạn Phúc
Vạn Phúc là một làng cổ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nơi vẫn lưu giữ
được nhiều các công trình văn hoá vật thể như: Đình làng thờ Thành hoàng làng Ả
Lã Đê Nương, giếng làng, chùa làng … Các công trình đều đã được tu sửa và phục
hồi, bảo tồn, làm nơi tham quan và giáo dục văn hoá cho nhân dân trong làng.
Đình Vạn Phúc là một Di tích lịch sử văn hoá được UBND tỉnh Hà Tây công
nhận tại Quyết định 91/QĐ-UBND Ngày 28/01/2005.
Đình Vạn Phúc toạ lạc trên một dải đất cao giữa làng, xây dựng theo hình chữ
“Quốc” nên rất bề thế, hoành tráng. Đình là nơi thờ Thành Hoàng làng A Lã Đê
Nương người có công truyền dạy nghề dệt cho dân làng Vạn Phúc. Ngoài ra, Đình
còn là nơi họp hành của các chức sắc và là địa điểm thường xuyên hội tụ của nhân dân trong làng.
Tuy rằng Đình làng có trên 1000 năm tuổi nhưng trước thời Tự Đức - Triều
Nguyễn không có tài liệu nào để lại cho ta biết kiểu dáng kiến trúc của ngôi Đình
ngoài câu đối cổ ở cột trụ cửa Đình: “Đình hồ lưỡng đại chi gian vi dân lập cực”,
nghĩa là Đình có hai gian lớn làm cho dân quần tụ định cư. Ngoài ra, trong Đình
còn có hơn 50 đôi câu đối, có khoảng 30 đôi sơn son thếp vàng treo ở các cột, 20 đôi
khác khắc vào tường, nhưng đến nay chỉ còn lại 6 đôi, trong đó có một đôi có nội
dung: “Thần uy hiển hóa vầng chính khí truyền lưu Vạn Phúc- Tiếng thơm còn đó,
lòng giúp dân ghi tạc ngàn năm”. Bức hoành phi treo trước bàn thờ có 4 chữ “Đức
hợp vô cương” có nghĩa là “Đức hợp muôn đời”. Năm tháng phôi pha bào mòn
những công trình kiến trúc, chắc chắn dân làng Vạn Bảo phải trùng tu tôn tạo ngôi Đình nhiều lần.
Cuộc đại trùng tu gần đây nhất vào thời Tự Đức - Triều Nguyễn (1877) hầu
như xây dựng mới hoàn toàn theo kiến trúc Triều Nguyễn, như diện mạo ngày nay của ngôi Đình.
Điều đặc biệt là Đình Vạn Phúc không giống ngôi Đình nào trong các vùng
thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Bố cục ngôi Đình theo chiều sâu. Đi từ cổng làng vào ta
thấy án ngữ một hồ nước, chia lối vào Đình thành hai cánh cung, từ đó có các nhánh
toả đi các xóm. Đình gồm: Hậu cung, Trung Đình, Phương Đình, Nhà Quan Cư phía lOMoAR cPSD| 60851861
sau và hai dãy tả - hữu mạc hai bên; cảnh quan được tôn lên bởi sân Đình rộng, bức
tường phía trước được đắp voi chấn, tướng gác uy nghi; hai trụ cổng chính đắp rồng
phượng cách điệu vươn cao, phân cách chính môn và tả hữu môn, tạo dáng nghiêm
trang, quý phái, vẻ uy nghi mà vẫn dễ hoà nhập với tâm hồn con người và cảnh vật xung quanh.
Kiến trúc ngôi Đình đẹp, bề thế mà trang nhã. Hậu cung và Trung Đình xây
theo thể khối vững chắc. Hậu cung dành làm nơi thờ tự, Trung Đình là phần chuyển
tiếp giữa Hậu cung và Phương Đình, Trung Đình có mái tựa trên và kèo mai rùa rất
đặc biệt. Kế liền Trung Đình là Phương Đình, không gian lớn nhất và là “hồn” của
ngôi Đình. Phương Đình có mặt bằng hình vuông, diện tích 100m2 gồm bốn hàng
cột chia Phương Đình thành ba dòng: dòng giữa dành cho tiên chỉ, thái chỉ, quan lại
về hưu và những người có khoa bảng; bên tả là các chức sắc đương nhiệm và mãn
nhiệm; bên hữu là dòng dành cho các vị bô lão trong làng.
Nghệ thuật kiến trúc ngôi Đình tập trung nhiều nhất ở Phương Đình. Kiểu
dáng Phương Đình thanh tao tráng lệ, tám mái gấp khúc tạo nên những hình đầu đao
uốn cong, kẻ đắp những rồng chầu cánh phượng tinh xảo. Mái Phương Đình được
nâng cao thành hai tầng nên khi đứng giữa Phương Đình nhìn lên nóc cao hun hút
cho ta cái cảm giác mênh mông của vũ trụ. Toàn bộ hệ thống mái Phương Đình được
đặt trên hệ thống cột kèo vững chắc, đường nét tinh xảo. Liền kề ngay với Phương
Đình là hai dãy Tảo Mạc dài mỗi bên 10 gian, cả thảy là 20 gian; 14 gian phía trong
(mỗi bên 7 gian) để dành cho 14 giáp hội họp mỗi khi có việc làng, có một cặp câu
đối 7 chữ dành cho 14 giáp là:
Phúc hữu lộc tài lợi thái hợp (tả)
An khang thọ khánh mỹ thiện hoà (hữu)
Theo đó, mỗi giáp lấy một chữ gắn với chữ Vạn như: Vạn Phúc, vạn lộc, vạn khang, vạn hoà…
Những ý tứ, ngôn từ để lại đều toát lên tư tưởng hướng tâm hồn con người về
cội nguồn, hun đúc nên sự an lạc, hoà hợp, đoàn kết của cộng đồng dân cư làng Vạn Phúc.
Hậu cung của Đình là nơi có không gian lớn thứ hai sau Phương Đình. Hậu
cung được chia thành hai tầng; gác trên làm bằng gỗ là nơi thờ tự và để các di vật
của vị nữ Thành Hoàng nhan sắc, tài hoa, đức hạnh và giàu lòng nhân ái như: gương,
lược, dao vạch, thước đo… Hai bên gác có cầu thang lên xuống bằng gỗ. Hậu cung lOMoAR cPSD| 60851861
có sáu mái, hai tầng giao nhau, nhờ có sự chênh lệnh mái nên trong Hậu cung có đủ
ánh sáng và thông thoáng. Hậu cung được phân chia với không gian bên ngoài bằng
tường gạch xây vững chắc.
Toàn bộ sân Đình được lát bằng gạch đỏ Bát Tràng kết hợp cây có bóng mát
như: cây bàng, muỗm và các bồn hoa cảnh. Mái Đình soi bóng xuống mặt hồ, tường
bao quanh hồ được xây bằng đá, hoa văn tinh tế, liền với hai đường vòng cung nối
với các trục đường nhánh toả đi các xóm.
Đình làng Vạn Phúc đặc sắc ở chỗ với khoảng hai mẫu đất Bắc Bộ mà quy
hoạch tổng thể vẫn cho ta cảm nhận được không gian thoáng đạt, trữ tình. Tính cân
đối cao ở đây tạo nên cảm giác vững chãi, tâm linh thanh thản, hoà hợp.
Đình làng Vạn Phúc là công trình văn hóa ngàn năm hội tụ gắn bó mật thiết
với nhân dân. Đặc biệt, rạng sáng ngày 17 tháng 8 năm 1945, ngọn cờ đỏ sao vàng
tại Đình đã chứng kiến sự kiện lịch sử hào hùng giành chính quyền về với nhân dân quê hương Vạn Phúc. 2. Chùa Vạn Phúc
Căn cứ vào các di vật còn lại trong chùa. Di tích lịch sử chùa Vạn Phúc được
xây dựng vào thời Nguyễn thế kỷ XIX. Chùa Vạn Phúc, thần phả ghi rõ: “Ngôi chùa
ở bên ngoài khu dân cư, hai bên hai giếng nước nuôi dưỡng tú khí rồng xanh”. Chùa
Vạn Phúc nhìn về hướng Nam, các hạng mục công trình như gác chuông, nhà ngoài,
chùa chính kết cấu theo kiểu chữ Đinh. Trong thời kỳ cách mạng dân chủ (1936-
1939), ở Vạn Phúc đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh công khai đầu tiên thắng lợi vào
ngày 6/2/1937 với 2 cuộc biểu tình hàng trăm thợ thủ công và hàng năm, sáu trăm
quần chúng của cả vùng phía nam Hoài Đức (vùng La, Mỗ, Yên, Canh) đòi cải thiện
đời sống cho nhân dân lao động tố cáo tội ác của bọn thống trị.
Trong chín năm kháng chiến chống pháp, chùa Vạn Phúc là nơi hoạt động cán
bộ Việt Minh, là nơi sinh hoạt và hội họp của UBND xã. Trong kháng chiến chống
Mỹ nhiều cơ quan trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh về sơ tán.
Trong suốt thời gian tồn tại, Chùa Vạn Phúc đã góp phần đáng kể trong việc
bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và di dưỡng lòng nhân ái,
tình yêu quê hương, đồng loại, cho nhân dân đại phương. Trong cuộc sống hiện tại,
vai trò của di tích vẫn được bảo tồn.
Tháng 1/2005, Chùa Vạn Phúc đã được UBND Tỉnh Hà Tây công nhận và xếp
hạng di tích lịch sử văn hoá theo Quyết định số 91/QĐ-UBND ngày 28/1/2005 của lOMoAR cPSD| 60851861
UBND tỉnh Hà Tây (cũ) và tiếp tục được UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết
định số 3952/QĐ-UBND ngày 24/7/2014 về việc gắn biển di tích lịch sử cách mạng
kháng chiến. Được sự quan tâm của thành phố Hà Nội, quận Hà Đông, năm 2014,
Chùa Vạn Phúc đã được xây dựng công trình gắn biển di tích cách mạng kháng
chiến. Đây không chỉ là tài sản tinh thần quý báu của địa phương mà còn là của Thủ
đô và cả nước. Di tích lịch sử văn hóa Chùa Vạn Phúc không chỉ là nơi phục vụ tín
ngưỡng của nhân dân địa phương mà còn là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, lao
động của các thế hệ cư dân.
Miếu Vạn Phúc thuộc tổ dân phố Hồng Phong, phường Vạn Phúc, quận Hà
Đông. Miếu Vạn Phúc cách UBND phường Vạn Phúc khoảng 500m. Đường đi đến
di tích thuận lợi cho mọi phương tiện giao thông đường bộ.
Miếu Vạn Phúc có trước ngôi Đình. Đình và Miếu đều thờ Thành hoàng làng
là bà A lã hiệu Đê Nương (Sinh năm Ất Tỵ 825- Mất năm Kỷ Sửu 869) có công dạy
nghề, dạy đức tạo lập nơi quần cư ấm áp cho cư dân Vạn Bảo thời kỳ nghìn năm Bắc
thuộc. Miếu Vạn Phúc là nơi hóa thân của Thành Hoàng làng. Sau khi Ngài mất, để
tưởng nhớ công ơn của Ngài, nhân dân đã lập Miếu thờ.
Miếu Vạn Phúc cũng là nơi kết nạp các thanh niên cứu quốc, địa điểm tiếp
đón các cán bộ cấp cao của Xứ ủy Bắc Kỳ về Vạn Phúc hoạt động, đặc biệt tại miếu
có cây đa thân già để cất giấu tài liệu rất an toàn và bí mật. Căn cứ vào các tiêu chí
xếp hạng di tích tại điều 28 Luật Di sản văn hoá và điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ
- CP ngày 21/9/2010 hướng dẫn một số điều của Luật Di sản văn hoá, địa điểm lưu
niệm sự kiện cách mạng kháng chiến, miếu Vạn Phúc xếp vào loại hình di tích lịch
sử - lưu niệm sự kiện. Năm 2017, UBND thành phố Hà Nội đã tổ chức gắn biển di
tích lịch sử cách mạng kháng chiến tại Miếu Vạn Phúc.
Cổng Miếu được liến thiết theo kiểu thức truyền thống với các trụ biểu tạo
thành một lối đi dẫn vào – ra di tích. Trụ biểu lớn và trụ nhỏ được xây dựng giống
nhau về kiểu thức và bố cục, gồm các phần: đỉnh trụ là trái dành, ô lồng đèn và thân
tạo vuông vức trang trí hoa văn, đế dạng thắt cổ bồng.
Trụ biểu lớn nối với trụ biểu nhỏ bởi bức tường lửng, để trơn không đắp hoa
văn hoạt tiết trang trí.
Trong Miếu còn có Nhà quan cư, ngôi nhà được phục dựng và khánh thành
dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội. lOMoAR cPSD| 60851861
Nhà quản cư kiến dựng kiểu truyền thống với 3 gian 2 chái với bốn mái đao
cong, lợp ngói ri. Bờ nóc trang trí dải hoa chanh, hai bên trang trí kìm nóc, khúc
ngủy gắn đôi nghê, đao uốn cong tạo đầu rồng. Ứng với các gian là các bộ vì trên
mặt bằng 4 hàng chân cột, theo kiểu thức: “Thượng giá chiêng, hạ kẻ, bảy hiên”.
Phía trước và sau nhà quản cư để trống và khá thông thoáng.
Bàn thờ lộ thiên tại Miếu được xây theo kiểu bành thờ hình chữ nhật với 2 tay
ngai, trên bành đắp nổi hình “Lưỡng long chầu nguyệt”, phía trước bài trí bệ thờ với
các đồ thờ như bát hương, chân nến …
3. Đền thờ Tổ nghề (Đền Phường Cửi)
Cụ khởi tổ của nghề dệt lụa là bà Ả Lã – hiệu là Đê Nương - Thần hiệu sắc phong:
Quốc Vương Thiên Tử, Nga Hoàng Đại Vương.
Một trong những người giúp việc cho Thành Hoàng truyền dạy nghề trồng
dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa cho nhân dân Vạn Bảo là một người ở La Thành (không
rõ danh tính) được Thành Hoàng mời về truyền dạy nghề cho nhân dân tại khuôn
viên đền Phường Cửi ngày nay.
Sau khi Thành Hoàng về trời ngày 25 tháng Chạp năm trước thì ngày mồng 9
tháng giêng năm sau Bà cũng xin về vài ngày. Sau 2-3 năm sau không thấy Bà trở
lại nhân dân cho rằng Bà đi theo Thành Hoàng. Để nhớ công ơn của Bà nhân dân đó
lập đền thờ Bà ngay tại nơi Bà đã truyền nghề và đền thờ có tên là đền Phường Cửi
(hay còn gọi là Đền thờ Tổ nghề).
Đền Phường cửi có diện tích: 391 m2 . Nhà Đền chính xây dựng theo kiến trúc
truyền thống và hai dãy tả hữu mạc hai bên, có tường rào và tiểu cảnh trang trí.
Trong những năm kháng chiến, đền Phường cửi là nơi trường chính trị Tỉnh
(Tủy ủy Hà Đông) mở lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Các đồng chí; Trường Chinh,
Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Khánh Toàn... thường lui tới để bồi dưỡng
chính trị lý luận cho cán bộ.
4. Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh
Cuối năm 1946, trong những ngày khẩn trương chuẩn bị bước vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến ở và làm việc
tại ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Dương, từ ngày 3/12 đến ngày 19/12/1946.
Trong thời gian ở đây, Người đã cùng các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Chính
phủ giải quyết các nhiệm vụ cách mạng quan trọng. Tại ngôi nhà này, trong hai ngày lOMoAR cPSD| 60851861
18 và 19/12/1946, Người đã chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng,
phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đường lối, phương
châm cơ bản của cuộc kháng chiến được vạch ra tại hội nghị này đã được thể hiện
trong Chỉ thị “Toàn quốc kháng chiến” của Đảng. Hội nghị cũng thông qua “Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến” do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo.
Tối ngày 19/12/1946, Bác Hồ rời Vạn Phúc về ở và làm việc tại Xuyên Dương,
một làng ven sông Đáy thuộc huyện Thanh Oai.
Ngôi nhà Bác sống và làm việc trong thời gian ở Vạn Phúc nay trở thành Nhà
lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (hay còn gọi là Nhà lưu niệm Bác Hồ).
Ngôi nhà ba gian, hai tầng xây dựng năm 1941-1942 được giữ gìn nguyên
trạng làm khu vực chính Nhà lưu niệm Bác Hồ. Bên phải và bên trái ngôi nhà chính
là hai dãy nhà ngang, mỗi dãy ba gian, trước đây đặt khung cửi, đồ dùng của gia
đình, nay được sửa chữa, nâng cấp trần và nền; Dãy bên phải là phòng khách thường
xuyên đón tiếp nhân dân, khách trong nước và ngoài nước tới thăm; Dãy bên trái là
phòng trưng bày truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Vạn Phúc.
Ngôi nhà chính hai tầng: Tầng một trưng bày một số hình ảnh hiện vật của
Bác trong thời gian Người ở và làm việc tại Vạn Phúc. Hai bức tranh sơn mài thể
hiện hai sự kiện quan trọng: sự kiện Bác Hồ chủ trì Hội nghị Ban thường vụ Trung
ương mở rộng bàn, quyết định toàn quốc kháng chiến và sự kiện Bác viết “Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến”. Một số hiện vật Bác dùng trong sinh hoạt, luyện tập sức
khỏe như chiếc chậu thau đồng nhỏ, đôi tạ tay… Phần trưng bày bổ sung là những
bức ảnh, hiện vật, sách báo, tài liệu… phản ánh khái quát cuộc kháng chiến anh dũng
chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chỉ tịch Hồ Chí Minh.
Tầng hai, trưng bầy phục nguyên như khi Bác ở và làm việc. Căn phòng nhỏ
bên trái có diện tích chưa đầy 12m2 vẫn còn đó chiếc giường gỗ dẻ quạt đơn sơ Bác
nằm, chiếc gối gỗ sơn màu huyết dụ. Kề bên giường là bàn làm việc, đó là một án
thư cao chừng 75cm, chân con tiện, trên bàn là chiếc đèn dầu hỏa, trang bản thảo
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Quanh bàn còn bốn chiếc gỗ chân con tiện là hiện vật gốc.
Trải qua những biến động lịch sử, căn phòng nơi Bác viết “Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến” vẫn còn được giữ gìn, bảo vệ tốt các di vật. Hiện di tích đã được
xếp hạng là di tích Quốc gia.