



Preview text:
lOMoAR cPSD| 60851861
CÁC NỘI DUNG QUẢN LÝ
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
CHƯƠNG III: BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
1. Các nội dung quy định có liên quan chính đến vấn đề quản lý di tích lịch sử - văn hóa bao gồm:
*Mục 1: Di tích lịch sử - văn hóa, Danh lam thắng cảnh.
Điều 23: Kiểm kê di tích và Danh mục kiểm kê di tích.
Tại điều này của Luật Di sản văn hóa năm 2024 có quy định về các loại hình di tích như "các
công trình, địa điểm, quần thể kiến trúc đô thị, nông thôn, khu vực đô thị và nông thôn…” đáp
ứng đủ tiêu chí tại Điều 22 đều cần phải được kiểm kê và đưa vào Danh mục kiểm kê di tích
của tỉnh, thành phố cụ thể. Danh mục kiểm kê này phải được rà soát và cập nhật hàng năm.
Dựa vào việc các di tích được kiểm kê và đưa vào Danh mục kiểm kê một cách đầy đủ, công
tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích cũng sẽ được nắm bắt rõ ràng và chặt chẽ
hơn. Nhờ đó mà các di tích được kiểm kê có thể được bảo tồn, bảo vệ được sát dao, hiệu quả hơn.
Việc quy định các loại hình di tích cần được kiểm kê và đưa vào Danh mục kiểm kê tại điều
này là một trong những điểm mới mà trong Luật Di sản văn hóa cũ năm 2009 chưa được đề cập tới.
Điều 24: Xếp hạng và hủy bỏ xếp hạng di tích.
Đối với việc quy định về xếp hạng cho di tích, trong Luật Di sản văn hóa 2024 đã điều chỉnh lại
nội dung của từng cấp bậc xếp hạng quy định của di tích. Tuy không thay đổi về tên gọi gồm:
Di tích cấp tỉnh, di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt. Nhưng nội dung quy định tại luật
mới ngắn gọn và dễ nằm bắt hơn so với nội dung trong luật cũ.
Đặc biệt tại điều này trong Luật Di sản văn hóa 2024 đã bổ sung thêm phần quy định về việc
hủy bỏ xếp hạng đối với di tích mà trước đây trong luật cũ không có đề cập.
Sự quy định như vậy trong luật mới sẽ giúp cho việc quản lý đối với các di tích lịch sử văn hóa
được chi tiết hơn. Các di tích nào không còn đáo ứng đủ các tiêu chí đề xếp hạng thì sẽ bị loại
bỏ danh hiệu xếp hạng. Từ đó có thể đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp hơn đối với từng di tích cụ thể.
Điều 31: Đưa thêm, di dời, thay đổi hiện vật trong di tích. lOMoAR cPSD| 60851861
Đối với các di tích lịch sử - văn hóa, không chỉ cần quan tâm đúng mức đối với các công trình
xây dựng, mà trong di tích còn có những hiện vật, di vật trong di tích. Các hiện vật, di vật trong
di tích cũng là một trong những yếu tố cấu thành nên di tích, đó là những yếu tố không thể tách rời với di tích.
Những hiện vật, di vật gắn với di tích còn góp phần tạo nên những giá trị lịch sử, văn hóa,
thẩm mỹ,…đối với di tích. Do đó việc quản lý đối với các hiện vật, di vật gắn với di tích là hết
sức quan trọng. Để ngăn ngừa nguy cơ là thay đổi yếu tố cấu thành, làm sai lệch đi nội dung,
giá trị của di tích, Luật Di sản văn hóa 2024 đã bổ sung điều quy định về việc đưa thêm, di dởi
hay thay đổi hiện vật trong di tích mà bộ luật năm 2009 chưa đề cập tới.
Điều quy định về quản lý hiện vật gắn với di tích này của Luật Di sản văn hóa 2024 là một điểm
mới rất quan trọng, có ý nghĩa trong công tác quản lý đối với các di tích hiện nay để có thể giữ
gìn được những giá trị văn hóa riêng có của di tích.
Điều 32: Tổ chức, người đại diện được giao quản lý, sử dụng di tích.
Tại điều này trong Luật Di sản văn hóa 2024 đã quy định rất rõ ràng và cụ thể về vai trò quản
lý di tích của từng đối tượng phân loại theo hình thức sở hữu di tích như:
- "Di tích sở hữu toàn dân phải có tổ chức được giao quản lý, sử dụng và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích”.
- “Di tích không thuộc sở hữu toàn dân phải có tổ chức hoặc người đại diện được giao
quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động quản lý, bảo vệ
và phát huy giá trị di tích. Người đại diện được giao quản lý, sử dụng di tích phải là
công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy
tín trong cộng đồng dân cư”.
Điều này còn quy định rõ về các cơ quan có thẩm quyền quyết định việc thành lập cũng như
giao trách nhiệm cho tổ chức được giao quản lý, sử dụng một hoặc nhiều di tích.
Tổ chức, người đại diện được giao quản lý, sử dụng di tích được quy định cụ thể đối với từng
hình thức sở hữu di tích và các cơ quan có thẩm quyền giao quản lý, sử dụng đối với tổ chức,
cá nhân đại diện. Việc quy định như vậy sẽ giúp cho việc quản lý các tổ chức, người đại diện
được giao quản lý, sử dụng di tích có thể được rõ ràng, bớt khó khăn phức tạp hơn trong việc
xác minh trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đại diện đối với di tích.
Điều 33: Nhiệm vụ của tổ chức được giao quản lý, sử dụng di tích.
Đối với nhiệm vụ của tổ chức được giao quản lý, sử dụng di tích tại điều này của Luật Di sản
văn hóa 2024 được phân thành hai cấp là nhiệm vụ quản lý Nhà nước và nhiệm vụ quản lý hoạt động.
Tổ chức được giao quản lý, sử dụng di tích cần phải thực hiện nhiệm vụ theo quy định của
Luật và và quy định khác của pháp luật có liên quan. Còn nhiệm vụ của quản lý Nhà nước là
đối với Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Bộ trưởng, người đứng đầu ngành, cơ quan, tổ chức trung
ương được giao quản lý di tích. lOMoAR cPSD| 60851861
Việc quy định nhiệm vụ đối với quản lý di tích thành hai cấp như vậy sẽ làm rõ trách nhiệm
của từng cấp quản lý, tránh trồng tréo nhiệm vụ, khó phân định trách nhiệm của từng bên
trong bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Điều này còn góp phần giúp cho công tác quản lý
di tích của từng cấp được rõ ràng hơn.
Điều 38: Quản lý, bảo vệ địa điểm, khu vực khảo cổ.
Tại điều này quy định cụ thể về nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa ở địa
phương phải kịp thời xử lý những trường hợp đang thi công, xây dựng công trình, thực hiện
dự án mà phát hiện có dấu hiệu phát hiện di tích, di vật hoặc phát hiện di tích, di vật.
Trong những trường hợp này các cơ quan quản lý cần phải có trách nhiệm can thiệp kịp thời
để tạm ngừng quá trình thi công nhằm bảo vệ địa điểm, khu vực phát hiện di tích, di vật tránh
không để việc thi công xây dụng phá hủy di sản văn hóa.
*Mục 2: Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Điều 45: Quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và xử lý di vật, cổ vật, được phát hiện, giao nộp.
Bởi di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cũng có thể là một trong những yếu tố cấu thành, gắn liền
không thể tách rời với di tích nên tại điều này Luật Di sản văn hóa 2024 cũng đã có quy định
về quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tồn tại ở di tích:
“Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân phải được quản lý trong bảo tàng công
lập, di tích và cơ quan, tổ chức của Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ phù hợp và không được
kinh doanh, mua bán, trao đổi, tặng cho, thực hiện hình thức chuyển quyền sở hữu khác hoặc
để thực hiện biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự”.
Với sự quy định về việc quản lý các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia có trong di tích như trên đã
khiến cho những tổ chức, cá nhân quản lý di tích cũng phải có sự quan tâm, để ý đứng mức
đối với các di vật, hiện vật có trong di tích. Để từ đó có biện pháp bảo vệ, giữ gìn, phòng tránh
việc tráo đổi, trộm cắp cổ vật trong di tích.
Điều 46: Yêu cầu bảo vệ, bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Nội dung của điều này quy định về việc bảo vệ các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và cũng là
nhiệm vụ của những người làm công tác quản lý tại các di tích. Đưa ra yêu cầu về sự đảm bảo
an toàn, phòng ngừa nguy cơ hư hại, hư hỏng của các di vật cổ vật, bảo vật quốc gia.
2. Các nội dung quy định có liên quan khác đến vấn đề quản lý di tích lịch sử - văn hóa bao gồm:
Điều 27: Khu vực bảo vệ di tích, nguyên tắc xác định và cắm mốc các khu vực bảo vệ di tích,
điều chỉnh khu vực bảo vệ di tích, di sản thế giới.
Điều này quy định về việc xác định các khu vực bảo vệ của di tích trong việc bảo tồn, bảo vệ
cũng như đối với công tác quản lý di tích. Trong đó có việc quy định các nguyên tắc xác định
và cắm mốc giới các khu vực bảo vệ di tích, xác định vùng có yếu tố cấu thành di tích phải
được bảo vệ nguyên trạng về mặt bằng và không gian của các yếu tố gốc cấu thành di tích. lOMoAR cPSD| 60851861
Bên cạnh đó còn có việc xác định khu vực bao quanh của di tích để bảo vệ cảnh quan của di tích.
Những quy định trên đều có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý và bảo vệ, phát huy giá trị
của di tích. Việc xác định rõ các khu vực bảo vệ của di tích sẽ giúp ngăn chặn được các hành
vi xâm lấn, lấn chiếm khuôn viên di tích của người dân sinh sống xung quanh di tích.
Điều 36: Bảo quản thường xuyên, sửa chữa nhỏ, tu sửa cấp thiết di tích.
Về công tác bảo quản, sửa chữa nhỏ và tu sửa cấp thiết cho di tích được quy định là nhiệm vụ
và là trách nhiệm của người đại diện, tổ chức được giao quản lý, sử dụng di tích. Công tác này
cần phải đảm bảo về các yêu cầu quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, nhân lực có chuyên môn,
nghiệp vụ, ưu tiên sử dụng vật liệu, kỹ thuật truyền thống và đảm bảo sự bền vững và ổn định của di tích.