lOMoARcPSD| 60851861
I - Truyền thuyết về Đức Thánh Tản (Tản Viên Sơn Thánh)
1. Giới thiệu đôi nét về Tản Vn Sơn Thánh
Tản Viên Sơn Thánh (chữ Hán: 傘圓山聖), còn gọi là Sơn Tinh (山精),
là một nhân vật trong truyền thuyết Việt Nam, theo quan niệm dân gian, ông là vị
thần cai quản dãy núi Ba (tức núi Tản Viên), ông một trong bốn vthánh bất
tử của tín ngưỡng dân gian người Việt, gọi Tứ bất tử. Ông được xem hàng
đệ nhất trong 4 vị thánh thần này.
Các sự tích, truyền thuyết về Đức thánh Tản, đặc biệt là truyền thuyết
Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết trong văn hoá người Việt
hiện đại. Những truyền thuyết khiến ông trở nên bất tử, không chỉ trong tín
ngưỡng mà còn trở thành một biểu tượng văn hóa.
Ra đời từ xã hội bộ tộc nguyên thuỷ, lúc đầu Tản Viên chỉ đơn giản là thần
núi được thờ để che chở cho con người. Đến thời Nhà nước Văn Lang, Tản Vn
Sơn Thánh trở thành vị anh hùng truyền thuyết của cả cộng đồng, được rất nhiều
làng người Mường, người Kinh ở Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ thờ phụng cùng
với Cao Sơn, Quý Minh, theo truyền thuyết hai người em con chú của Ngài.
Từ khi bốn cung thờ Tây, Vĩnh Phúc, Tản Viên đã trở thành Thượng đẳng
Tối linh Thần của người Việt. Đến giai đoạn Đại Việt, công trạng tài đức của Thần
Tản Viên được bồi đắp thêm để Thần càng ngày ng lai lịch người hơn
Thánh hơn, trở thành một trong "Tứ bất tử" của người Việt, gồm Tản Viên Sơn
Thánh, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh.
Nguồn: Nguyễn Năng Lực - Tuổi trẻ ham học thành tài của Tản Viên Sơn Thánh
qua truyền thuyết.
2. Nguồn gốc hình thành - xuất thân
Liên quan tới nguồn gốc xuất thân của vị Thánh này, theo các nhà nghiên
cứu, vẫn có nhiều quan niệm và cách giải thích khác nhau.
a) Tản Vn Sơn Thánh là ba anh em:
Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Tản Viên Sơn Thánh tín
ngưỡng thần núi (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện
tượng tự nhiên, các học giả khẳng định rằng, nói tới Tản Viên Sơn Thánh nói
tới cả ba anh em thần núi (còn được gọi Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng
đẳng thần), gồm: Sơn Tinh hai người em thúc Cao Sơn (Sùng công)
Quý Minh (Hiển công) - chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi, tức núi Ba
Vì ngày này - núi tổ của nước ta, có ba ngọn cao chót vót (Nguyễn Trãi - Dư địa
chí).
lOMoARcPSD| 60851861
Minh chứng cho giải thích này là hiện nay, trên địa bàn hai xã Minh
Quang Ba Vì (thuộc huyện Ba Vì) khu đền thờ Tản Viên Sơn Thánh, gồm
3 đền Thượng, đền Trung và đền Hạ - nơi thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn
Thánh huyền thoại. Theo đó, xâu chuỗi các sự kiện thấy rõ, công chúa Ngọc Hoa,
vợ của Thánh Tản (người anh cả), không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản
Viên Sơn Thánh, dù rằng một số làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú
Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa. Chưa kể, văn tế, sự sắp xếp các ngai
thờ, nghi lễ, tự khí... các học giả khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản
vùng xung quanh núi Ba Vì ng góp phần làm sáng tcho những nhận định
trên.
Trích nguồn: baotanglichsu.vn
Tiêu đề bài viết: “Gốc tích” của Tản Vn Sơn Thánh vẫn là ẩn số?
Truyện kể lại rằng, ngày xưa ở vùng đất Lăng xương có một cặp vợ chồng
nọ, tuổi đã ngoại ngũ tuần chưa con. Một ngày, người chồng vào rừng kiếm
củi và gặp một vị thần hiện lên rằng “Nhà ngươi phải chăm lo tu nhân tích
đức, gắng làm việc thiện và đem di cốt của Tổ phụ mà an tang trên sườn núi Tản,
không bao lâu sẽ sinh được quý tử và làm rạng danh gia tộc”. Sau khi nghe thần
núi mách bảo, về nhàvợ có thai. Sau 14 tháng mang thai, bà hạ sinh được một
con trai, đặt tên là Nguyễn Tuấn. Năm Nguyễn Tuấn lên 6 thì cha là ông Nguyễn
Cao Hành qua đời; đến năm Tuấn lên 12 thì mẹ là bà Đinh Thị Đen cũng qua đời.
Cùng năm đó người chú và thím ruột của Tuấn cũng qua đời để lại hai người con
trai còn nhỏ tên là Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển. Hàng ngày ba anh em vẫn bơi
qua sông, lên núi Tản Viên kiếm củi. Đến mùa nước lên, ba anh em không thể qua
sông kiếm ăn, vì thế họ quyết định chuyển hẳn nhà sang chân sườn núi Tản để ở.
Trên nền đất của Động lăng Xương - nơi thần Sơn Tinh được sinh ra, nhân dân
trong vùng đã lập điện thờ cha mẹ ngài để tưởng nhớ công ơn sinh thành nên một
người con kiệt xuất, có công giúp dân trừ nạn giặc nước, đó là đền Lăng Xương.
Trở lại với câu chuyện truyền thuyết, sau khi ba anh em đức thánh Tản lập nhà
dưới chân sườn núi, thì hàng ngày đều lên núi kiếm củi, khai hoang. Một ngày,
ba anh em được một người phụ nữ trên núi nhận làm mẹ nuôi – bà tên là Ma Thị
Cao Sơn. Bà đã truyền dạy cho 3 anh em họ các chú thuật và phép thiền định. Ba
anh em tiếp thu rất nhanh, không chỉ giỏi các chú thuật mà ba anh em còn được
học các môn như Binh pháp, y pháp các nghề thủ công, đặc biệt việc trị thủy,
trồng lúa nước nuôi tằm dệt lụa. Dấu vết của nghề dệt lụa vẫn còn được lưu
giữ tại làng Cổ Đô dưới chân núi Ba vì... Trải qua 6 năm học tập chuyên cn, ba
anh em họ Nguyễn đã tới lúc trưởng thành. Một hôm Ma Thị cho gọi ba anh
em lên dặn rằng: Nay các con đã trưởng thành, các pháp ta cũng đã dậy
lOMoARcPSD| 60851861
xong, núi này thuộc Kim Sơn, nguồn dương khí chốn trời Nam, rất thích hợp cho
các con cư trú. Còn ta sẽ về Hương sơn để khai tràng thuyết pháp. Nay các con
đệ tử của ta, phải khuông phù đạo ta, chăm lo cho dân, giữ cho dân chúng trời
Nam được hưởng thái bình.” Nói rồi bà bay đi. Kể từ đó, ba anh em chuyên tâm
chăm lo, dạy dỗ dân chúng, chữa bệnh dạy học cho dân. Kể từ đó, nhân dân kính
trọng và tôn 3 anh em ngài lên làm Thủ Lĩnh, cai quản dãy núi Ba Vì.
Trích nguồn: honguyenvietnam.org
Tiêu đề bài viết: Núi Tản Viên và Truyền thuyết Sơn Tinh - vị thánh bất tử.
b) Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân - Âu Cơ:
Trong Lĩnh Nam chích quái, các học giả, sử gia cho rằng, Tản Viên là một
trong 50 người con của Lạc Long Quân, Âu Cơ theo cha xuống biển (Đúng ra thì
phải là chắt khoảng đời thứ 19). Chuyện rằng, chàng tbiển đi vào, qua cửa Thần
Phù, ngược ng Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô,
đến Phúc Lộc giang. Từ đấy, nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm
phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình, nên chàng đã làm một con đường
thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên, tới động
An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi.
Tương tự, các tác giả Lịch triều Hiến chương (Phan Huy Chú) Việt sử
Thông giám cương mục ... cũng quan niệm Tản Viên Sơn Thánh con của
Lạc Long Quân, Âu Cơ.
Trích nguồn: baotanglichsu.vn
Tiêu đề bài viết: “Gốc tích” của Tản Viên Sơn Thánh vẫn là ẩn số?
Sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, người đời Trần truyện về
núi Tản Viên (Tản Viên sơn truyện), cho biết: Núi Tản Viên nằmphía Tây kinh
đô nước Nam Việt. Núi y cao chót vót, đỉnh tròn như lọng nên tên nthế.
Vương con của Lạc Long Quân Âu Cơ, một trong số 50 người con theo
cha xuống biển. Sau, vương từ biển theo cửa biển Thần Phù ngược lên, đến Long
Đỗ, thành Long Biên, định lại nhưng vẫn chưa thấy thực vừa ý, lại ngược lên
theo dòng sông Lô, thấy núi Tản Viên “sừng sững tráng lệ, ba đỉnh đứng dàn hàng,
cao vút như trong bức hoạ”, liền “lên tận đầu ngọn Vân Mộng mới lấy đó làm nơi
cư ngụ”. Vương từng đi du ngoạn ở sông Tiêu Tích để xem đánh cá, qua thôn ấp
nào cũng dựng điện áp làm chỗ nghỉ ngơi. “Người đời sau nhân các di tích ấy bèn
lập đền thờ phụng, khi hạn hán thì cầu đảo, mưa lũ thì cúng, để ngăn ngừa những
tai hoạ lớn, để chống đỡ những hoạn nạn to, hiệu nghiệm thấy ngay, hết sức linh
ứng”. Đời Đường, Cao Biền từng dùng thuật trấn yểm xong chỉ thấy vương “cưỡi
ngựa trắng lên chỏm mây, phỉ nhổ rồi bỏ đi”. Cao Biền thế than rằng: “Khí
lOMoARcPSD| 60851861
thiêng của phương Nam thật khôn lường. Vượng khí của đất này làm sao tuyệt
diệt được”. Cuối truyện ghi truyền thuyết vương Thuỷ Tinh đua tài lấy vợ,
tương đối giống với ghi chép trong Việt điện u linh.
Về xuất thân của thần, Lĩnh Nam chích quái cho thần là con của Lạc Long
Quân Âu Cơ, một trong số 50 người con theo cha xuống biển, tức một
trong số một trăm con ra đời từ trăm quả trứng, là một sự xuất thân đầy màu sắc
mẫu hệ và “lộ dáng con người” , chính vì thế, ngay ở thế kỉ XV, khi tiến hành tu
chỉnh Lĩnh Nam chích quái, Kiều Phú (1446-?) từng viện dẫn đến quan niệm về
“khí hạo nhiên” của Mạnh Tử để giải thích, ý muốn dịch chuyển vị thần này về
dạng thiên thần, với tính chất là tinh anh của núi, là thứ khí thiêng của non sông
như Việt điện u linh đã ghi chép. Theo lẽ thường, nếu thần một trong những
người con theo cha về biển, mang đầy yếu tố “nước”, sao còn ngược dòng lên
núi? thể vì truyền thuyết về cuộc chiến giữa Sơn Tinh - ThuTinh được lưu
truyền lâu dài nên chính vị thần núi Sơn Tinh cũng ít nhiều bị “thấm nước”?
Những “sự thấm” ấy không triệt để, bởi chính Lĩnh Nam chích quái khi nhắc việc
Cao Biền trấn yểm bất thành (chi tiết này khá giống với việc họ Cao từng trấn
yểm thần sông Tô Lịch), từng than thở, coi thần là “khí thiêng của phương Nam”
(Nam phương linh khí), rồi cuối truyện, sách này rốt cục trở lại với câu chuyện
về truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, hoàn nguyên vị thần núi Tản Viên trở lại
là tinh anh của núi, đối lập với Thuỷ Tinh là của nước. Do Âu Cơ dẫn 50 con lên
núi, Sơn Tinh một trong số 50 con theo cha về miền biển, nhưng rồi lại người
dòng lên non, nên đó cũng có thể hiểu là một kiểu hồi quy “nguyên lí mẹ” - một
nguyên lí đặc biệt quan trọng trong cội nguồn văn hoá Việt.
Trích nguồn: dsvh.gov.vn
Tiêu đề bài viết: Núi Tản Viên Tản Viên Sơn Thánh qua thư tịch cổ - Ths.Phạm
Văn Ánh
c) Tản Viên Sơn Thánh là hư cấu:
Thần núi Tản cũng như hàng loạt nhiên thần được ra đời từ thời nguyên
thuỷ của tổ tiên ta lúc họ đã bắt đầu biết nhận thức về thế giới khách quan và với
khả năng tư duy trừu tượng của buổi đầu, con người chưa thật sự phân biệt được
giữa mình với giới tự nhiên mà mình đang cùng sống, đang phải phụ thuộc. Khi
ấy con người đã đồng nhất giữa mình với các vật thể của thiên nhiên. Người ta đã
nhân cách hóa các lực lượng tự nhiên làm nảy sinh các vị thần đầu tiên đó thần
siêu nhiên, thần vũ trụ.
Vào thời kỳ hội nguyên thuỷ, Tản Viên Thánh chắc chắn chỉ được tôn
vinh với cách vị nhiên thần nhưng nhờ là thần núi cao nên uy linh hơn các
thần tự nhiên khác. Lúc đầu, Tản Viên chỉ đơn giản được thờ để che chở cho con
lOMoARcPSD| 60851861
người. Đến khi xã hội thị tộc nguyên thủy tan rã, ra đời các liên minh bộ lạc hay
liên minh bộ tộc với sở của nền văn hóa a nước văn minh sông Hồng phát
triển rực rỡ, đồng thời với nghề kim thuộc đúc đồng đã trình độ tinh xảo. Ý thức
về đoàn kết cộng đồng về quốc gia dân tộc đã phát triển cao thì truyện về các thần
tự nhiên, đặc biệt là thần Tản Viên mới được nâng lên thành một thần thoại điển
hình do được nhân hóa và lịch sử hóa.
Cụ thể, bước vào nhà nước Văn Lang thời cổ đại, Tản Viên trở thành vị anh
hùng truyền thuyết của cả cộng đồng quốc gia dân tộc. Lúc đầu thần được người
Mường ở làng Cổ Pháp chân núi Ba Vì lập đền thờ. Rồi các làng vùng Mường ở
Tây, Phú Thọ lan rộng ra các làng người Kinh ở Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ
đã có rất nhiều làng thờ thần Tản Viên cùng với thờ Cao Sơn, Quý Minh...
thể nói, qua văn minh Đại Việt, mỗi ngày lịch của thần Tản Viên lại
được bồi đắp thêm công trạng tài đức để thần càng ngày càng vẻ người hơn
thánh hơn.
Trích nguồn: baotanglichsu.vn
Tiêu đề bài viết: “Gốc tích” của Tản Viên Sơn Thánh vẫn là ẩn số?
d) Tản Viên Sơn Thánh là người thực:
Theo quan niệm của mọi người được thể hiện qua các bản thần tích thần
phả các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội,
Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người thực, xuất thân từ tầng lớp nghèo
khổ trong dân chúng.
Theo Ngọc phả Đền Lăng Xương do TS Nguyễn Hữu Công, quan Đô Đốc
Thượng Thư cùng với Nguyễn Công Chính và Nguyễn Minh Khai lập vào ngày
15 tháng 11 năm 1011 đời Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên thứ III, Thánh Tản
Viên - Sơn Tinh tên thật là Nguyễn Tuấn, con trưởng ông Nguyễn
Cao Hành Đinh Thị Đen (còn gọi là Thái Vĩ), sinh sống Động Lăng
Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây (nay Trung Nghĩa,
huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Tương truyền mt hôm bà vào rừng kiếm củi,
đến Thạch Bàn bỗng thấy mây lành bao phủ, rồng vàng bay xuống phun nước
như mưa, khí thiêng lan tỏa. Sau khi rồng bay đi, thấy hương bay ngào ngạt,
nước giếng trong như ngọc, liền xuống tắm rồi mang thai từ đấy. Mười bốn
tháng sau, đúng ngày rằm tháng giêng năm Đinh Tỵ, giữa giờ thìn bà trở dạ sinh
hạ được một cậu con trai tướng mạo khôi ngô, tuấn khác thường đặt tên
Nguyễn Tuấn. Lớn lên, Nguyễn Tuấn trở thành người cứu độ, tài cao, văn song
toàn, phép thần thông biến hóa, “hô phong hoán vũ” và trở thành vị thần
(Thánh) của núi Tản Viên Thần Sơn Tinh. Ông được Hùng Vương kén làm rể,
gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem
lOMoARcPSD| 60851861
binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Rốt cuộc, Thủy
Tinh luôn là kẻ bại trận...
Một truyền thuyết tương truyền rằng, Thánh Tản Viên tên thật Nguyễn
Tuấn, con một vị trưởng lão họ Nguyễn ở Sơn Tây. Năm 6 tuổi thì cha qua đời,
2 mẹ con đến nhờ nhà Ma Thị Cao (con thần núi Tản Viên). Một hôm,
Nguyễn Tuấn lên núi đốn củi gặp thần Thái Bạch, thấy cậu bé khôi ngô, tuấn tú,
thần đã trao cho cây gậy thần và dạy câu thần chú để cứu đời. Sau này chàng
công cứu con Long Vương thoát chết được Long Vương đền ơn biếu cuốn sách
có thể hiểu mọi lẽ huyền vi của trời đất. Biết chàng là người có tài, có hiếu, trước
khi qua đời, mẹ nuôi đã trao cho chàng cai quản muôn vật núi Tản Viên. Khi
Vua Hùng kén rể cho công chúa Mị Nương, Nguyễn Tuấn nhờ sách quý gậy
thần đã kiếm được sính lmang đến trước Thủy Tinh cưới được Mị ơng.
Sau chiến thắng Thủy Tinh quân Thục, biết chàng người tài, Hùng Vương
đã trao quyền trị nước cho Nguyễn Tuấn, nhưng chàng từ chối và xin vua cha cho
đi du ngoạn khắp nơi giúp dân. Khi đi qua vùng Tam Hồng, thấy cảnh sơn thủy
hữu tình, Ngài đã dừng chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá, sản xuất nông nghiệp.
Ghi nhớ công đức của Ngài, nhân dân Tam Hồng dựng một ngôi đền thờ gọi
đến Thính, xây phía Bắc núi Ba châu thổ sông Hồng nên tên đền
Bắc Cung (một trong “Tứ cung” thờ Đức thánh Tản Viên). Thần núi Tản Viên hết
sức linh ứng, khi nào nhân dân cầu mưa, cầu nắng cho mùa màng đều được ứng
nghiệm. Mỗi khi lạnh trời, thánh Tản Viên thường hiện hình các khe suối, lại
đem theo cây gậy thần cứu chữa bệnh cho người nghèo khổ, đi đến đâu, Ngài cho
hiện ra đền đài để nghỉ ngơi.
Trích nguồn: honguyenvietnam.org
Tiêu đề bài viết: Núi Tản Viên và Truyền thuyết Sơn Tinh - vị thánh bất tử.
3. Các truyền thuyết liên quan
Truyền thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh nhiều phiên bản khác nhau
một số chi tiết, dưới đây là mt struyền thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh qua các
ghi chép được để lại.
Hùng Vương thứ 18 một người con gái tên Mỵ Nương, người đẹp như
hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một
người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên
tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây
mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng Sơn Tinh. Một người miền
biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; mưa, mưa về. Người ta gọi
chàng Thủy Tinh. Một người chúa vùng non cao, một người chúa vùng
lOMoARcPSD| 60851861
nước thẳm. Cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. Vua Hùng băn khoăn không
biết nhận lời ai, từ chối ai, bèn cho mời các Lạc hầu vào bàn bạc. Xong, vua phán:
"Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ một người con gái, biết gả cho
người nào? Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới con gái
ta".
Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, vua bảo: "Một trăm ván
cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, chín cựa, ngựa chín hồng
mao, mỗi thứ một đôi”.
Hôm sau, mới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến rước Mỵ
Nương về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem
quân đuổi theo đòi cướp lấy Mỵ Nương. Thần mưa, gọi gió, làm thành dông
bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước
ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành
Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.
Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng
dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao
nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối
cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt. Thần Nước đành rút
quân. Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm Thủy Tinh làm mưa làm gió, bão lụt
dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, Thần Nước đánh mệt mỏi,
chán chê không thắng nổi Thần Núi để cướp Mỵ Nương, đành rút quân về.
Nguồn: Huỳnh - SGK Ngữ Văn lớp 6 tập một (bản cũ), Nhà xuất bản Giáo
Dục,1994, tr7-9.
Ngoài ra, còn có phiên bản truyền thuyết về “Sơn Tinh - Thuỷ Tinh” trong
Việt điện u linh tập” với nhan đề ‘Tản Viên Hựu Thánh Khuông Quốc Hiển Linh
Ứng vương”, gọn lại Hựu Thánh Viện Ứng vương”. Quyển sách này được ước
tính ra đời vào nhà Trần.
Xét Giao Châu ký của Tăng Côn chép rằng: Vương Sơn Tinh cùng với
Thủy Tinh làm bạn rất thân thiết, ẩn tại động Gia Ninh, Phong Châu. Hùng
vương một con gái được gọi Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt diễm khuynh
thành. Thục vương Phán sai sứ sang cầu hôn, vua muốn gả. Quan Đại thần là Lạc
hầu cản rằng: "Ông ấy muốn dòm dỏ nước ta đó".
Hùng vương sợ sinh ra hiềm khích. Lạc hầu tâu: "Đại vương đất rộng dân
đông, tìm kẻ nào có kỳ tài dị thuật mà gả cho làm rể, rồi thiết lập quân kỵ thì sợ
gì?".
lOMoARcPSD| 60851861
Vương nghe phải mới tuyệt giao với Thục vương rồi tìm khắp trong nước
những người dị thuật. Vương nói Sơn Tinh) cùng với Thủy Tinh đều đến
ứng tuyển. Hùng Vương bảo đem ra thi tài. Vương thuật xem suốt ngọc đá;
Thủy Tinh thuật nhập vào nước lửa; người nào cũng tài linh thông. Hùng
Vương cả mừng, bảo Lạc hầu rằng: "Xem tài của hai chàng thì ta thấy đều nên
gả con cho cả hai, duy ta chỉ có một người con gái mà đến hai người thì tính làm
sao?".
Lạc hầu tâu: "Vua nên hẹn với hai chàng hễ ai cưới trước thời được".
Hùng Vương cho là phải; vua bảo với hai chàng về chuẩn bị lễ vật. Vương
về bản hộ, suốt đêm biện gấp thổ vật như là: vàng, bạc, ngọc báu, giác, ngà voi,
với lại chim quý, thú lạ, mỗi thứ một trăm. Hôm sau, sáng tinh sương, Vương đệ
đến dâng hiến Hùng Vương. Hùng Vương mừng lắm, gả Mỵ Nương cho Vương;
Vương rước vợ về đem lên núi Lôi Sơn. Đến chiều tối, Thủy Tinh cũng đem
thủy vật đến, như là trân châu, đồi mồi, san hô, hphách, với lại kình, nghê,
các thứ ngon mỗi thứ một trăm, đem đến bày ra để dâng vua, nhưng Mỵ Nương
đã theo Vương về mất rồi!
Thủy Tinh đại nộ đem quân đuổi theo, toan muốn nghiền nát núi Lôi Sơn.
Vương dời lên ở trên chóp núi Tản Viên, đời đời cùng với Thủy Tinh là kẻ thù.
Cứ mỗi năm đến a thu, Thủy Tinh dâng nước lên đánh núi Tản Viên, dân chúng
đem nhau đắp đê để giúp Vương. Thủy Tinh không thể phạm đến được. Linh tích
của Vương rất nhiều, kể không xiết.
Trích: chuyện Tản Viên Hựu Thánh Khuông Quốc Hiển Linh Ứng vương
trong Việt điện u linh tập.
Bên cạnh “Việt điện u linh tập”, tác phẩm Lĩnh Nam chích quái” cũng ghi
lại truyền thuyết này với tựa đề Tản Viên sơn truyện (傘圓山傳; tạm hiểu là
Câu chuyện về thần núi Tản Viên).
Núi Tản Viên phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao
một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm vạn. Ba
núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy.
Theo sách Ai giao châu tự” của Đường Tăng thì Đại vương núi này là Sơn
Tinh, họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai
trừ hoạn lập tức ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Thường thường,
vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong hang núi. Dân
trong vùng nói rằng đó Sơn thần hiển hiện. Khi Cao Biền nhà Đường An Nam
muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi,
vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng
lOMoARcPSD| 60851861
trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các
thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy
Vương cưỡi ngựa trắng trên mây nhổ nước bọt vào bỏ đi. Biền than rằng:
"Linh khí phương Nam không thể lường được, cái vượng khí đời nào hết được!".
Sự linh ứng đã hiển hiện ra như vậy đó.
Xưa kia, Đại vương trông thấy phong cảnh núi Tản Viên đẹp đẽ bèn làm
một con đường từ bến Bạch Phiên đi lên phía nam núi Tản Viên, qua động An Vệ,
tới các ngọn nguồn lạch suối đều dựng điện để nghỉ ngơi. Rồi lại đi qua rìa núi
đến chỏm núi mây che thì định đó. Đôi lúc rong chơi trên sông Tiểu Hoàng
Giang xem đánh cá, phàm đi qua các làng xóm đều dựng điện để nghỉ ngơi. Về
sau, nhân dân theo dấu vết các điện đó mà lập đền miếu để thờ cúng.
Lại theo truyện cũ sách Giao Châu của Lỗ Công, tương truyền rằng
Đại Vương sơn tinh hNguyễn, cùng vui với loài thủy tộc đất Gia Ninh,
huyện Phong Châu. Thời vua Chu Noãn vương, Hùng Vương th18 đến đất
Việt Trì, Châu Phong, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Vua có người con gái tên M
Nương (cháu 18 đời của Thần Nông), có sắc đẹp; Thục vương Phán cầu hôn, nhà
vua không bằng lòng, muốn chọn rể hiền. Mấy hôm sau, bỗng thấy hai người,
một người xưng là Sơn Tinh, một người xưng Thủy Tinh đến để cầu hôn. Hùng
Vương truyền tỉ tpháp thuật. Sơn Tinh chỉ núi, núi lở, ra vào trong đá không
trở ngại. Thủy Tinh lấy nước phun lên không biến thành mây mưa. Vua nói:
"Hai vị đều phép thần, nhưng ta chỉ một con gái, vậy ai mang sính lễ tới
trước, ta khắc gả cho".
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang ngọc quý, vàng bạc sơn cầm, thú... các
lễ vật đến tiến, vua y cho. Thủy Tinh đến sau, không thấy Mỵ Nương, cả giận đem
loài thủy tộc định đánh đcướp lại. Vương lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện
Từ Liêm. Thủy Tinh bèn mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát
Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên. Lại mở ngách sông
Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, đi qua Cam Giá, Xa Lâu, Cổ Hào,
Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt thành cái vũng lớn để mlối đi cho quân thủy
tộc. Thường làm mưa gió mịt mù, dâng nước lên đánh Vương. Dân chân núi
thấy thế bèn cắm một hàng rào thưa để đón đỡ, đánh trống gõ cối, hò reo để cứu
viện. Thấy rơm rác trôi bên ngoài hàng rào bèn bắn, thủy tộc chết biến thành thây
ba ba thuồng luồng trôi tắc cả khu sông. Hàng năm vào khoảng tháng bảy tháng
tám vẫn thường như vậy. Dân vùng chân núi hay bị gió to nước lớn, lúa má thiệt
hại cả. Người đời tương truyền rằng đó là Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau lấy
Mỵ Nương.
lOMoARcPSD| 60851861
Đại Vương được bí quyết trường sinh của thần tiên nên rất hiển linh, đó là
vị đệ nhất phúc thần của nước Đại Việt vậy. Hàn Lâm học Nguyễn Cố đời
Trần đến phía Tây bái yết, có làm thơ rằng:
Sơn tự thiên cao thần tối linh, tâm
quynh tài khấu dĩ văn thanh.
Mỵ Nương diệc hữu hiển linh thuật, thả
vi thư sinh bảo thử hành.
Trích từ Tản Viên sơn truyện trong Lĩnh Nam chích quái.
Truyền thuyết này vốn không được ghi trong những cuốn sử biên niên n
Đại Việt sử ký, Đại Việt sử lược, nhưng đến Đại Việt sử ký Toàn thư thời Hậu
thì lại chép vào, phần ngoại kỷ thời Hồng Bàng Thị - Hùng vương.
Cuối thời Hùng vương, vua con gái gọi Mỵ Nương, nhan sắc xinh
đẹp. Thục vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can
rằng: "Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ thôi". Thục
vương vì chuyện ấy để bụng oán giận.
Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo các bề tôi rằng: "Đứa con gái
này là giống tiên, người nào có đủ tài đức mới cho m rể". Bấy giờ hai người
từ ngoài đến, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng một
người là Sơn Tinh, một người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua
thánh nữ, đánh bạo đến xin lĩnh mệnh.
Vua nói: "Ta một người con gái, lnào lại được cả hai rhiền?". Bèn
hẹn đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ đến trước thì gả cho người ấy. Hai người
vâng lời, lạy tạ ra về.
Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng đến
dâng. Vua y hẹn gả con cho. Sơn Tinh đón vợ về ngọn núi cao trên núi Tản
Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến sau, giận tiếc không kịp, bèn kéo mây
làm mưa, dâng nước tràn ngập, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn
Tinh lấy lưới sắt chắn ngang thượng lưu sông Từ Liêm để chặn lại. Thủy Tinh
theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi theo dọc bờ lên cửa sông
Hát, ra sông lớn mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực
thành chằm, chứa nước để mưu đánh úp. Sơn Tinh phép thần biến hóa, gọi
người Man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài vảy và vỏ
trúng tên đều chạy trốn cả. Rốt cuộc Thủy Tinh không thể m phạm được i
Tản Viên. Tục truyền Sơn Tinh và Thủy Tinh từ đấy về sau đời đời thù oán, mỗi
năm mùa nước to thường vẫn đánh nhau.
lOMoARcPSD| 60851861
Núi Tản Viên dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm.
Mỵ Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục vương tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn
Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy
nước.
Trích từ Ngoại kỷ thời Hồng Bàng Thị trong Đại Việt sử ký Toàn thư.
4. Câu chuyện về Thánh tại Sơn Tây
Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) một nhân thần thực chứ không
cấu. Đức Thánh Tản Viên được sinh ra trong một gia đình của hai ông cụ lớn
tuổi, ông cụ đã 70 tuổi cụ đã 50 tuổi. Hai ông bà sống phúc thiện nhưng
chưa có con được Tản Viên Sơn Thánh giáng thế đầu thai vào gia đình. Với
bối cảnh đó khi Đức Thánh Tản Viên sinh ra đã sớm mồ côi cha mẹ, vì lẽ đó ngài
đã được thần núi Ba Vì nuôi dưỡng tiên ông Thái Bạch Kim Tinh truyền dạy
phép thuật và ngài đã hiển thánh. Khi ngài hiển thánh, tiên ông ban cho ngài một
tiên trượng, tiên ông dặn ngài dùng tiên trượng này để đi cứu dân độ thế, riêng
một điều cấm kỵ là không được chỉ lên trời, vì sẽ làm kinh thiên động địa, bởi vì
tiên trượng có một đầu sinh bà một đầu tử.
Đức Thánh Tản dùng tiên trượng để đi cứu dân độ thế khắp đất nước. Trong
một lần đi cứu dân độ thế, ngài đã cứu được thái tử- con của Long Vương, ngài
được Long Vương thái tử mời xuống thuỷ cung, trả ơn ngài bằng cách
ban cho ngài một quyển sách ước, đó báu vật duy nhất của thuỷ cung. Như vậy,
Tản Viên Sơn Thánh có hai báu vật trong tay, ngài tiếp tục đi cứu dân độ thế, nhờ
quyển sách ước thì Đức Thánh Tản đã đáp ứng được lời thách cưới của Vua
Hùng thứ 18, đó một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín
ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao lấy được công chúa Ngọc Hoa. Thuỷ
Tinh không có báu vật và đến sau Sơn Tinh nên vua cha đã trao công chúa Ngọc
Hoa cho Sơn Tinh.
Đức Thánh Tản được Vua Hùng rất tin yêu ngài vừa thánh linh, vừa
con rể nên ngài đã giúp Vua Hùng trị đất nước. Đến cuối đời thì Vua Hùng
muốn trao ngôi cho ngài, nhưng Đức Thánh Tản thánh linh, ngài nể Vua
Hùng nên nhận lời. Sau đó ngài khuyên Vua Hùng là đi theo ngài đi tu để trường
sinh, nhường ngôi cho Thục Phán, trong thời gian trước khi nhường ngôi cho
Thục Phán thì Đức Thánh Tản đã từng làm vua và trị vì đất nước Việt Nam, ngài
lý giải hai điều để Vua Hùng trao ngôi cho Thục Phán.
Điều đầu tiên là thiên vận của triều Hùng không còn nữa, Vua Hùng th18
là vị vua cuối cùng của triều Hùng, Vua Hùng có 20 hoàng tnhưng đều mất hết,
lOMoARcPSD| 60851861
vậy thiên vận không còn nữa, không còn ai để truyền ngôi. Điều lý giải thứ hai,
đức thánh tản nói là nhường ngôi cho Thục Phán không phải là nhường ngôi cho
ngoại bang thực ra Thục Phán hậu duệ của Lạc Long Quân, một trong
100 bộ tộc người Việt cư trú trên đất nước Văn Lang thời đó.
Với hai lẽ đó, Vua Hùng nghe theo Đức Thánh Tản Viên và nhường ngôi
cho Thục Phán, Thục Phán khi lên ngôi xưng là An Dương Vương, hứa là sẽ thờ
phụng triều Hùng thờ phụng Đức Thánh Tản, chính vậy, tục lệ thờ vua Hùng
và Đức Thánh Tản Viên có từ thời đó. Đức Thánh Tản Viên đưa Vua
Hùng đi tu đtrường sinh nhưng ngài vẫn luôn luôn giúp cho các triều vua Việt
Nam trị đất nước nước ta luôn luôn giặc ngoại xâm. Khi giặc ngoại
xâm, khó khăn trong xây dựng đất nước hay khó khăn trong ứng xử nội tình
đất nước thì các triều vua Việt Nam đều kêu Đức Thánh Tản Viên, Vua nào kêu
Đức Thánh Tản Viên cũng đều được linh ứng.
Kết luận:
Truyền thuyết về Sơn Tinh Tản Viên Sơn Thánh tuy có nhiều câu chuyện
những chi tiết khác nhau nhưng chúng ta đều thể thấy được Sơn Tinh có
một vị trí, ý nghĩa to lớn trong tâm thức người Việt, ảnh hưởng rất lớn với triều
đình Hùng Vương thứ 18, với hội Văn Lang thuở khai. Ngài vừa là anh
hùng văn hoá, vị thần trị thủy chiến thắng lũ lụt, thần tổ dạy cho dân nhiều nghề;
vừa thủ nh quân sự kiệt xuất, vị thần chiến tranh chống Thục. Ngài niềm
tin, niềm hy vọng về sức mạnh to lớn và vĩ đại của dân tộc ta. Sơn
Tinh người anh hùng tài năng dũng cảm, để lại một dấu ấn mạnh mẽ trong
truyền thuyết, thể hiện lòng kiên định, đoàn kết, biểu tượng về trí tuệ và ý chí bất
khuất của người Việt.
Sơn Tinh đại diện của người nông dân Việt Nam, luôn đối diện với những
thách thức từ thiên nhiên, không ngừng đấu tranh để bảo vệ đất đai, bảo vệ mọi
người xung quanh và bảo vệ gia đình của mình. Mỗi cơn lũ lụt, mỗi trận bão táp
đều là những thách thức họ phải đối mặt, nhưng họ không bao giờ chịu bại
trận. Như Sơn Tinh, họ luôn tìm cách vượt qua mọi khó khăn, không bao giờ chùn
bước trước thử thách. Điều đó đã làm nên một vị thần lẫy lừng mà nhân dân Việt
Nam ta luôn tự hào.
II - Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh
1. Sự hình thành và ý nghĩa
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh (hay Sơn Tinh) tại Đền Và, Sơn Tây,
một trong những biểu hiện đậm nét của đời sống văn hóa, lịch sử và tâm linh
lOMoARcPSD| 60851861
của người Việt, đặc biệt tại khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Xuất phát từ
các huyền thoại cổ xưa gắn liền với nhu cầu thích nghi, chế ngự thiên nhiên
của dân nông nghiệp, tín ngưỡng này không chỉ ý nghĩa tâm linh sâu sắc
mà còn phản ánh các giá trị văn hóa và xã hội của cộng đồng.
Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh bắt nguồn từ các truyền
thuyết dân gian, trong đó nhân vật trung tâm Nguyễn Tuấn một con người
phi thường, đại diện cho sức mạnh trí tuệ của người Việt cổ. Theo truyền
thuyết, Nguyễn Tuấn xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở vùng núi Ba Vì. Tuy
nhiên, ông được thần tiên truyền dạy, trở thành một con người xuất chúng với sức
mạnh siêu phàm và lòng nhân ái sâu sắc.
Điển hình trong truyền thuyết này câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh,
một cuộc tranh giành công chúa Mỵ Nương, con gái vua Hùng thứ 18. Sơn Tinh,
với tài năng điều khiển thiên nhiên, đã chiến thắng Thủy Tinh, một biểu tượng
của lụt. Câu chuyện này không đơn thuần một truyền thuyết còn sự
phản ánh sinh động về cuộc đấu tranh lâu đời của dân nông nghiệp lúa nước
trước các thiên tai, đặc biệt là lũ lụt – một mối đe dọa thường xuyên ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Từ đó, Tản Viên Sơn Thánh không chỉ được xem người bảo hộ
vùng núi Tản Viên còn vị thần mang lại sự bình yên cho người dân trong
cuộc sống hàng ngày. Trong bối cảnh nông nghiệp lúa nước, người dân phụ thuộc
rất nhiều vào thiên nhiên từ nguồn nước, đất đai đến thời tiết. Tín ngưỡng th
Tản Viên Sơn Thánh xuất phát từ nhu cầu bảo vệ mùa màng trước những bất trắc
của tự nhiên.
Người dân tin rằng Sơn Tinh khả năng điều hòa thiên nhiên, bảo vệ họ
trước lũ lụt và mang lại những mùa vụ bội thu. Vai trò này càng được khẳng định
nét qua các nghi lễ tôn thờ tại Đền Và, nơi tổ chức các lễ cầu an, cầu mùa
lễ hội Đả Ngư với ý nghĩa biểu trưng cho sự gắn giữa con người với môi trường
tự nhiên. Vùng núi Tản Viên – nơi Sơn Tinh được cho là ngự trị có vị trí chiến
lược quan trọng và được xem biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên. Đền Và,
một trong những địa điểm thờ tự quan trọng của Sơn Tinh, trở thành nơi kết tinh
niềm tin của người dân vào sbảo hộ của vị thần này, đồng thời minh chứng
cho việc huyền thoại hóa các yếu tố tự nhiên nhằm giải thích và tìm kiếm sự bảo
trợ trước thiên tai. Tản Viên Sơn Thánh vừa vị thần cai quản núi Tản Viên
biểu tượng của sự trường tồn và vững chắc, vừa được gắn kết với các dòng sông
lớn như sông Hồng, sông Đà. Điều này phản ánh duy của người Việt trong việc
thờ cúng các yếu tố tự nhiên, nơi núi và sông không chỉ mang ý nghĩa địa
còn đại diện cho sức mạnh và sự bảo trợ thần linh. Sự kết hợp này đặc biệt ý nghĩa
tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi núi Tản Viên các con sông lớn đóng vai trò
lOMoARcPSD| 60851861
quan trọng trong việc điều hòa nguồn nước và bảo vệ đất đai trước thiên tai. Tín
ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh, do đó, vừa phản ánh snhận thức sâu sắc của
người dân về vai trò của môi trường, vừa là sự tri ân đối với thiên nhiên.
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh tại Đền phản ánh nét nỗ lực
chinh phục thiên nhiên của người Việt. Việc gắn câu chuyện Sơn Tinh Thủy
Tinh với hiện thực thiên tai lụt thể hiện tinh thần vượt khó sự sáng tạo của
con người trong việc thích nghi với môi trường khắc nghiệt. Đền không chỉ
nơi tưởng nhớ công lao của Sơn Tinh mà còn là điểm tựa tinh thần để người dân
gửi gắm hy vọng về một cuộc sống bình yên, mùa màng bội thu. dân nông
nghiệp lúa nước Việt Nam luôn phải đối mặt với những thách thức từ thiên nhiên.
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh, với các nghi lễ lễ hội, minh chứng cho
mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa tâm linh và đời sống thực tiễn. Các nghi thức
dâng lễ tại Đền Và, như lễ cầu mùa, lễ cầu mưa thuận gió hòa, đều phản ánh ước
nguyện của người dân về một cuộc sống sung túc, no đủ.
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh tại Đền Và là sự kết tinh của các g
trị văn hóa, lịch sử và tâm linh của người Việt. Với nguồn gốc từ các huyền thoại
cổ xưa vai trò đặc biệt trong hệ tín ngưỡng dân gian, Tản Viên Sơn Thánh
không chỉ biểu tượng của sức mạnh chinh phục thiên nhiên còn cầu nối
giữa con người với thần linh, giữa quá khứ hiện tại. Đền Và, với vai trò trung
tâm thờ tự, đã đang giữ gìn những giá trị truyền thống, góp phần bảo tồn
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong đời sống đương đại.
2. Sự phát triển
a) Thời kỳ phong kiến:
Trong thời kỳ phong kiến, Đền là một trung tâm tôn giáo và tín ngưỡng
quan trọng, phản ánh sâu sắc tinh thần sùng bái các vị thần, anh hùng dân tộc
trong văn hóa Việt. Ở thời kỳ này, Đền Và nhận được sự quan tâm bảo trợ từ
các triều đại phong kiến. Vua chúa thường ban sắc phong, bổng lộc để duy trì và
phát triển ngôi đền, đồng thời xác nhận vai tquan trọng của Đền Và trong đời
sống tôn giáo chính trị của đất nước. Tín ngưỡng tại Đền Và không chỉ dừng
lại việc thờ cúng các vị thần còn gắn liền với các giá trị đạo nhân sinh.
Những câu chuyện về Tản Viên Sơn Thánh thường chứa đựng bài học về lòng
trung thành, sự kiên định và tinh thần bảo vệ dân tộc. Trong thời kỳ phong kiến,
Đền Và là một biểu tượng quan trọng của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, nơi kết
hợp giữa tôn giáo, văn hóa và chính trị, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc
qua nhiều thế kỷ.
lOMoARcPSD| 60851861
Thời Đinh:
Dưới triều Đinh, tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh đã được coi trọng
phát triển. Trong thời nhà Đinh (968–980), stín ngưỡng tại Đền phản ánh
sâu sắc niềm tin của người dân vào các vị thần linh bảo hcho cuộc sống
hội. Vua Đinh Tiên Hoàng đã phong Tản Viên là "Thượng đẳng thần" để thể hiện
sự tôn kính mong muốn thần linh bảo hộ cho đất nước mới thống nhất. Tại
Đền Và, các nghi lễ thờ cúng được tchức trang trọng vào những dịp lễ quan
trọng như lễ hội làng, lễ Tản Viên Sơn Thánh. Người dân dâng hương, cúng phẩm
vật và cầu nguyện để bày tỏ lòng kính trọng mong ước được thần linh che chở.
Trong thời nhà Đinh, tín ngưỡng tại Đền không chỉ là một hình thức thờ cúng
tôn giáo, còn đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng. Các lễ hội
nghi thức tại đền dịp để người dân gặp gỡ, trao đổi củng cố tình đoàn kết.
Sự tín ngưỡng tại Đền Và thời nhà Đinh là minh chứng cho sự phát triển của tín
ngưỡng dân gian và vai trò của tôn giáo trong việc duy trì sổn định thịnh
vượng cho cộng đồng.
Thời Lý:
Vào thời nhà Lý (1009-1225), tín ngưỡng tại Đền Và có sphát triển mạnh
mẽ, đặc biệt là việc thờ cúng các vị thần núi, trong đó Đức Thánh Tản Viên được
tôn kính như một biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên và bảo hộ dân làng. Nhà
Lý, với sự phát triển của Phật giáo làm quốc đạo, cũng đã dung hòa các tín ngưỡng
dân gian với đạo Phật. Do đó, việc thờ cúng tại Đền Và trong thời kỳ này không
chỉ mang tính chất tôn giáo mà còn là sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và ảnh
hưởng của Phật giáo. Lễ hội tại Đền Và, đặc biệt vào dịp đầu năm, thu hút rất
nhiều người dân trong vùng đến cầu nguyện, xin lộc mong được bảo vệ. Các
lễ nghi cúng bái, hiến tế được tổ chức trang trọng, nhằm tôn vinh công đức của
Đức Thánh Tản Viên cũng như cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu. Trong
thời kỳ này, Đền còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân
dân, nơi mà họ tìm đến để cầu xin sự che chở của thần linh trước thiên tai, bệnh
tật, cũng như cầu cho sự bình an phồn thịnh. Triều đại nhà đặc biệt coi trọng
Phật giáo, nhưng cũng không bỏ qua tín ngưỡng dân gian. Vua Thái Tổ đã cho
tu bổ và mở rộng Đền Và, đồng thời tổ chức các lễ hội lớn để tôn vinh Tản Viên
Sơn Thánh, nhằm củng cố lòng tin của nhân dân và tạo sự đoàn kết trong xã hội.
Thời Trần:
Trong thời nhà Trần (1225-1400), tín ngưỡng thờ thần Tản Viên nói chung
và tại Đền Và nói riêng đã được hoàng gia và dân chúng coi trọng. Nhà Trần nổi
lOMoARcPSD| 60851861
tiếng với tinh thần yêu nước, tôn trọng đạo Phật và các tín ngưỡng dân gian. Việc
thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh tại Đền trong thời kỳ này không chỉ thể hiện
lòng tôn kính đối với thần linh mà còn là sự đề cao các giá trị dân tộc, bảo vệ đất
nước. Nhà Trần cũng thường tổ chức các lhội nghi thức cúng tế để cầu mong
sự bảo trợ của thần linh, đặc biệt trong các dịp quan trọng hoặc khi đất nước gặp
khó khăn. Những lễ hội này không chỉ mang tính tôn giáo mà còn là dịp để củng
cố tinh thần đoàn kết của nhân dân. Trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với
nhiều cuộc xâm lược tphía Bắc, tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh càng được
đề cao. Vua Trần Nhân Tông thường xuyên tổ chức lễ tế tại Đền Và, cầu mong sự
phù hộ của thần linh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Nhiều
anh hùng dân tộc cũng đến đây cầu nguyện trước khi ra trận.
Thời Lê:
Trong thời nhà Lê, đặc biệt giai đoạn Hậu Lê, tín ngưỡng tại Đền
không chỉ mang tính chất tôn giáo mà còn vai trò trong việc củng cố quyền lực
của triều đại. Việc cúng tế và tổ chức các lễ hội tại đây thường được tổ chức long
trọng, thu hút sự tham gia của đông đảo quan lại nhân dân. Đền Và trở thành
nơi cầu nguyện cho quốc thái dân an, đồng thời cũng là biểu tượng của sự kết nối
giữa nhà vua thần linh. Các lhội tại Đền thường diễn ra vào mùa xuân,
với các hoạt động như rước kiệu, cúng bái, và các trò chơi dân gian.
Những nghi thức này thể hiện lòng thành kính của người dân đối với Đức Thánh
Tản Viên, đồng thời cũng phản ánh sự hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian quyền
lực phong kiến. Dưới triều Lê, Đền Và tiếp tục được duy trì và phát triển. Vua Lê
Thánh Tông đã ban sắc phong cho Tản Viên Sơn Thánh với nhiều danh hiệu cao
quý, đồng thời cho xây dựng thêm các công trình phụ trợ tại đền. Lễ hội Đền Và
trở thành một trong những skiện văn hóa quan trọng, thu hút đông đảo người
dân tham gia. Tín ngưỡng tại Đền Và dưới thời nhà không chỉ mang ý nghĩa
tôn giáo mà còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng và duy trì bản sắc văn
hóa dân tộc, đồng thời thể hiện sự tôn kính đối với các vị thần bảo hộ quốc gia.
Thời Nguyễn:
Trong thời knhà Nguyễn, Đền vai trò quan trọng trong đời sống
tinh thần tín ngưỡng của người dân địa phương, đặc biệt trong việc thờ cúng
Tản Viên Sơn Thánh, vị thần được coi biểu tượng của sự bất khuất sức mạnh
tự nhiên.
lOMoARcPSD| 60851861
Dưới thời nhà Nguyễn, Đền tín ngưỡng thờ cúng Tản Viên Sơn
Thánh được triều đình coi trọng. Các vua chúa nhà Nguyễn thường xuyên
những sắc phong, cúng tế tại đây để cầu mong sbảo hộ của thần linh. Đền
cũng được tu sửa và mở rộng dưới sự bảo trợ của nhà Nguyễn, nhằm phục vụ cho
các hoạt động tôn giáo và tín ngưỡng.
Ngoài Tản Viên Sơn Thánh, Đền còn thờ một số vị thần khác, liên quan
đến núi Tản Viên và sông Đà. Điều này thể hiện sự đa dạng trong tín ngưỡng dân
gian Việt Nam, nơi các yếu tố tự nhiên như núi non, sông ngòi đều được thiêng
liêng hóa. Triều Nguyễn chú trọng đến việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống. Vua Minh Mạng Tự Đức đã cho tu sửa Đền nhiều lần, đảm bảo ngôi
đền luôn trong tình trạng tốt nhất. Các lễ hội và nghi lễ tại đền được quy chuẩn
hóa, trở thành nét văn hóa đặc sắc của vùng Sơn Tây. thời nhà Nguyễn, Đền
không chỉ là một trung tâm tín ngưỡng quan trọng còn là một địa điểm lịch sử
văn hóa, gắn liền với các hoạt động tôn giáo nghi lcủa triều đình cũng như
của người dân địa phương.
b) Thời hiện đại:
Sau Cách mạng tháng Tám, Đền được chính quyền người dân địa
phương quan tâm bảo tồn như một di sản văn hóa quan trọng. Lễ hội Đền diễn
ra vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hàng năm, thu hút hàng ngàn du khách trong
và ngoài nước, góp phần duy trì và phát huy tín ngưỡng truyền thống. Trong thời
đại ngày nay, tục thờ cúng Sơn Tinh vẫn được duy trì, nhưng đã những thay
đổi rõ rệt.
Lễ hội đền Tản Viên và các hoạt động liên quan chủ yếu tập trung vào việc
bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch. Các nghi lễ được đơn giản hóa, nội dung
mang tính chất lễ hội, giao lưu văn hóa nhiều hơn các nghi thức tâm linh như
trước. Trong bối cảnh hiện đại, tục thờ cúng Sơn Tinh không chỉ mang ý nghĩa
tâm linh mà còn được xem như một di sản văn hóa phi vật thể, thu hút du khách
và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Xưa, Lễ hội và tục thờ ng Sơn Tinh
mang đậm màu sắc tâm linh, là nơi để người dân thể hiện lòng kính trọng và cầu
nguyện cho sự bảo trợ của thần linh.
Lễ hội chỉ diễn ra trong phạm vi làng xã, với quy nhỏ nghi thức phức
tạp, mang tính truyền thống sâu sắc. Mặc dù ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị tâm
linh, nhưng lễ hội đã chuyển hướng nhiều hơn sang các hoạt động văn hóa, giải
trí du lịch, giảm bớt phần nào tính chất tín ngưỡng thuần túy. Lễ hội được tổ
lOMoARcPSD| 60851861
chức quy lớn hơn, mang tính quốc gia hoặc vùng miền, với nhiều hoạt động
hiện đại và thu hút sự tham gia của du khách từ nhiều nơi.
Tuy nhiên ta vẫn thể thấy được những thay đổi tích cực của ngày nay,
Tục thờ cúng Sơn Tinh, dù đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn được bảo tồn và phát
triển trong bối cảnh hiện đại. Các lễ hội văn hóa gắn liền với Sơn Tinh đã giúp
nâng cao nhận thức về giá trị di sản và thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ. Sự kết
hợp giữa tín ngưỡng du lịch đã mang lại nguồn thu nhập kinh tế cho địa
phương, giúp cải thiện đời sống của người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã
hội.
Bên cạnh đó vẫn còn những thay đổi tiêu cực cần được khắc phục, Sự
thương mại hóa hiện đại hóa thể làm giảm đi giá trị tâm linh nguyên thủy
của tục thờ cúng. Cần có các biện pháp để giữ gìn và truyền đạt đúng đắn các giá
trị này cho thế hệ sau. Trong quá trình hiện đại hóa, các nghi lễ truyền thống
nguy bị giản lược quá mức hoặc biến tướng, không còn giữ được sự thiêng
liêng vốn có. Cần tăng cường giáo dục về giá trị văn hóa, lịch sử của tục thờ cúng
Sơn Tinh trong cộng đồng, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, giúp họ hiểu tự hào
về di sản dân tộc; Kết hợp bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch bền vững, hạn
chế tác động tiêu cực của thương mại hóa đến tín ngưỡng, đồng thời mang lại lợi
ích kinh tế cho cộng đồng.
Nhìn chung, sự phát triển của tục thờ cúng Sơn Tinh qua các thời kỳ đã
phản ánh sự thay đổi trong nhận thức cách thức thực hành tín ngưỡng của
người Việt, từ việc thờ cúng tự nhiên đến việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
trong bối cảnh hiện đại.
3. Quy mô và các lễ nghi thờ cúng
a) Quy mô
Trải qua nhiều thế kỷ, hệ thống thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh đã phát triển
với quy lớn, tập trung tại các địa điểm chính như cm di tích núi Ba đền
Và, nơi lưu giữ nhiều giá trị lịch sử và tâm linh sâu sắc. Trung tâm thờ cúng Tản
Viên Sơn Thánh nằm tại cụm di tích núi Ba Vì, Nội, nơi gắn liền với truyền
thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh. Đây là khu vực được coi chốn ngự trị của ngài,
với ba ngôi đền chính mang tên Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ. Đền Thượng
nằm trên đỉnh núi Ba Vì, ở độ cao hơn 1.200m, là nơi thiêng liêng nhất trong hệ
thống thờ phụng. Với kiến trúc đơn giản nhưng đầy chất tâm linh, ngôi đền không
chỉ nổi bật bởi sự tôn nghiêm mà còn bởi khung cảnh núi non hùng bao quanh,
tạo nên không gian thiêng liêng, giao hòa giữa đất trời. Đây được coi là nơi Sơn
lOMoARcPSD| 60851861
Tinh ngự trị sau khi chiến thắng Thủy Tinh, tượng trưng cho sức mạnh con người
trước thiên nhiên khắc nghiệt.
Đền Trung, tọa lạc ở độ cao 600m, là nơi lưu giữ một dấu mốc quan trọng
trong truyền thuyết, nơi Sơn Tinh gặp vua Hùng để cầu hôn Mỵ Nương. Ngôi đền
được bao bọc bởi rừng xanh và dòng suối, mang đến cảm giác thanh tịnh và gần
gũi với thiên nhiên. Trong đền, tượng thờ Tản Viên Sơn Thánh cùng bài vị vua
Hùng được bố trí trang nghiêm, nhắc nhở du khách về mối liên kết giữa thần
thánh và lịch sử dân tộc. Ở chân núi Ba Vì, Đền Hạ nằm gần khu dân cư, là điểm
dừng chân đầu tiên trong hành trình lên núi. Đền Hạ tuy nhỏ nhưng vẫn mang nét
tôn kính và là nơi thuận tiện để mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động tín
ngưỡng.
Ngoài cụm di tích núi Ba Vì, đền ở Sơn Tây, Hà Nội, cũng là một trong
những địa điểm quan trọng thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh. Nằm cách trung tâm
Nội khoảng 50km, ngôi đền này được xây dựng từ thế kỷ 17 với kiến trúc
truyền thống gồm tiền đường, hậu cung sân rộng. Không gian đền rộng lớn,
trang nghiêm, nổi bật với các tượng thờ Thánh Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh và
bài vị vua Hùng. Đền là trung tâm của nhiều lễ hội, đặc biệt là lễ hội tháng Giêng
âm lịch với nghi thức rước kiệu long trọng và các hoạt động dân gian. Đây không
chỉ là nơi tôn vinh vị thần núi mà còn là một không gian văn hóa cộng đồng, kết
nối con người với tín ngưỡng truyền thống.
Hệ thống thờ ng Tản Viên Sơn Thánh được tổ chức chặt chẽ với các cung
và gian thờ mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Tiền đường là khu vực đón nhận lễ
vật và diễn ra các nghi lễ cộng đồng, được trang trí với các đồ tế khí như hương
án, bát hương lớn và các kiệu thờ khắc họa hoa văn rồng phượng. Trung đường
hay chính điện nơi linh thiêng nhất, tập trung các tượng thờ chính. Tượng Thánh
Tản Viên thường được khắc họa uy nghiêm, thể hiện vai trò vừa là thần núi, vừa
anh hùng dân tộc. Các tượng phụ như Cao Sơn, Quý Minh, Mỵ Nương bổ
sung cho hệ thống thờ cúng, nhấn mạnh sự gắn kết giữa thần thánh đời sống
con người. Hậu cung, khu vực sâu nhất trong đền, nơi giữ những tượng lớn hơn
của Thánh Tản Viên, thường được trang trí với hình ảnh núi non, biểu thị sự
trường tồn của ngài trong tâm thức người Việt.
Hệ thống tượng thờ trong các đền được chế tác công phu, mang đậm tính
nghệ thuật và giá trị tâm linh. Tượng Thánh Tản Viên thường làm từ gỗ mít hoặc
đá, sơn son thếp vàng, thể hiện sự trường cửu. Tượng Cao Sơn, Quý Minh được
khắc họa trong thế mạnh mẽ, tượng trưng cho sự hỗ trợ bảo vệ. Trong khi
đó, tượng Mỵ Nương được tạc với nét dịu dàng, nhân hậu, đại diện cho sự hòa
lOMoARcPSD| 60851861
quyện giữa con người và thần thánh. Sự sắp xếp tượng thờ và các cung, gian tạo
nên không gian linh thiêng, nơi giao hòa giữa thế giới trần tục và tâm linh.
Tản Viên Sơn Thánh không chỉ là biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên
còn cầu nối giữa văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng của người Việt. Các địa điểm
thờ cúng ngài như cụm di tích núi Ba Vì hay đền Và không chỉ phản ánh lòng tôn
kính của nhân dân còn là minh chứng cho shòa quyện giữa con người với
thiên nhiên lịch sử. Qua các đền thờ, các lhội hệ thống tượng thờ, tín
ngưỡng Tản Viên Sơn Thánh đã góp phần gigìn phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam.
b) Lễ nghi
Tản Viên Sơn Thánh, một trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt
Nam, biểu tượng cho sức mạnh của thiên nhiên sbảo trợ thần thánh đối
với con người. Việc thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh không chỉ đơn thuần một
nghi lễ tôn giáo còn chứa đựng ý nghĩa văn hóa, tâm linh sâu sắc, thể hiện
lòng thành kính của người dân đối với các giá trị truyền thống. Lễ nghi thờ cúng
này được thực hiện theo một quy trình trang nghiêm bài bản, với từng giai
đoạn mang ý nghĩa tượng trưng riêng biệt.
Trong nghi lễ thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh, bước chuẩn bị lễ vật là một
phần quan trọng, thể hiện sự chu đáo lòng thành của người hành lễ. Lễ vật
được chọn lựa klưỡng với những yếu tố vừa mang tính thực tế, vừa mang ý
nghĩa tâm linh. Hoa tươi quả ngọt như chuối, cam, quýt biểu trưng cho sự
thanh khiết và tròn đầy, thể hiện ước nguyện về một cuộc sống sung túc, hài hòa.
Trầu cau, rượu trắng và trà là những lễ phẩm truyền thống, thể hiện sự tôn trọng
giao hòa âm dương. Bên cạnh đó, xôi, thịt các loại bánh chưng, bánh dày
đại diện cho sự no đủ và sự gắn bó với truyền thống lâu đời. Hương, nến và tiền
vàng mã là những vật phẩm kết nối thế giới con người với thần linh, giúp chuyển
tải tâm nguyện của người sống đến các đấng tối cao. Việc chuẩn bị lvật không
chỉ đảm bảo sự đầy đủ, sạch sẽ còn nhấn mạnh tinh thần cẩn trọng, tôn nghiêm.
Khi lvật đã được chuẩn bị chu đáo, người hành lễ tiến hành các nghi thức
dâng hương khấn bái. Quá trình này được thực hiện trong không khí trang
nghiêm, với sự tôn kính tối đa dành cho thần linh. Khi bước vào đền, người hành
lễ ăn mặc chỉnh tề, tránh những trang phục quá sặc sỡ hay thiếu kín đáo, thể hiện
thái độ kính cẩn và tôn trọng. Lễ vật sau đó được đặt lên ban thờ chính, nơi thờ
Đức Thánh Tản Viên, với sự sắp xếp gọn gàng và theo đúng thứ tự. Thắp hương
là mt phần không thể thiếu, thường là ba hoặc năm nén, tượng trưng cho sự giao

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60851861
I - Truyền thuyết về Đức Thánh Tản (Tản Viên Sơn Thánh)
1. Giới thiệu đôi nét về Tản Viên Sơn Thánh
Tản Viên Sơn Thánh (chữ Hán: 傘圓山聖), còn gọi là Sơn Tinh (山精),
là một nhân vật trong truyền thuyết Việt Nam, theo quan niệm dân gian, ông là vị
thần cai quản dãy núi Ba Vì (tức núi Tản Viên), ông là một trong bốn vị thánh bất
tử của tín ngưỡng dân gian người Việt, gọi là Tứ bất tử. Ông được xem là hàng
đệ nhất trong 4 vị thánh thần này.
Các sự tích, truyền thuyết về Đức thánh Tản, đặc biệt là truyền thuyết
Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết trong văn hoá người Việt
hiện đại. Những truyền thuyết khiến ông trở nên bất tử, không chỉ trong tín
ngưỡng mà còn trở thành một biểu tượng văn hóa.
Ra đời từ xã hội bộ tộc nguyên thuỷ, lúc đầu Tản Viên chỉ đơn giản là thần
núi được thờ để che chở cho con người. Đến thời Nhà nước Văn Lang, Tản Viên
Sơn Thánh trở thành vị anh hùng truyền thuyết của cả cộng đồng, được rất nhiều
làng người Mường, người Kinh ở Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ thờ phụng cùng
với Cao Sơn, Quý Minh, theo truyền thuyết là hai người em con chú của Ngài.
Từ khi có bốn cung thờ ở Hà Tây, Vĩnh Phúc, Tản Viên đã trở thành Thượng đẳng
Tối linh Thần của người Việt. Đến giai đoạn Đại Việt, công trạng tài đức của Thần
Tản Viên được bồi đắp thêm để Thần càng ngày càng có lai lịch người hơn và
Thánh hơn, trở thành một trong "Tứ bất tử" của người Việt, gồm Tản Viên Sơn
Thánh, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh.
Nguồn: Nguyễn Năng Lực - Tuổi trẻ ham học thành tài của Tản Viên Sơn Thánh qua truyền thuyết.
2. Nguồn gốc hình thành - xuất thân
Liên quan tới nguồn gốc xuất thân của vị Thánh này, theo các nhà nghiên
cứu, vẫn có nhiều quan niệm và cách giải thích khác nhau.
a) Tản Viên Sơn Thánh là ba anh em:
Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Tản Viên Sơn Thánh là tín
ngưỡng thần núi (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện
tượng tự nhiên, các học giả khẳng định rằng, nói tới Tản Viên Sơn Thánh là nói
tới cả ba anh em thần núi (còn được gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng
đẳng thần), gồm: Sơn Tinh và hai người em thúc bá là Cao Sơn (Sùng công) và
Quý Minh (Hiển công) - chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi, tức núi Ba
Vì ngày này - núi tổ của nước ta, có ba ngọn cao chót vót (Nguyễn Trãi - Dư địa chí). lOMoAR cPSD| 60851861
Minh chứng cho giải thích này là hiện nay, trên địa bàn hai xã Minh
Quang và Ba Vì (thuộc huyện Ba Vì) có khu đền thờ Tản Viên Sơn Thánh, gồm
3 đền Thượng, đền Trung và đền Hạ - nơi thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn
Thánh huyền thoại. Theo đó, xâu chuỗi các sự kiện thấy rõ, công chúa Ngọc Hoa,
vợ của Thánh Tản (người anh cả), không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản
Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một số làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú
Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa. Chưa kể, văn tế, sự sắp xếp các ngai
thờ, nghi lễ, tự khí... mà các học giả khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản
ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên.
Trích nguồn: baotanglichsu.vn
Tiêu đề bài viết: “Gốc tích” của Tản Viên Sơn Thánh vẫn là ẩn số?
Truyện kể lại rằng, ngày xưa ở vùng đất Lăng xương có một cặp vợ chồng
nọ, tuổi đã ngoại ngũ tuần mà chưa có con. Một ngày, người chồng vào rừng kiếm
củi và gặp một vị thần hiện lên mà rằng “Nhà ngươi phải chăm lo tu nhân tích
đức, gắng làm việc thiện và đem di cốt của Tổ phụ mà an tang trên sườn núi Tản,
không bao lâu sẽ sinh được quý tử và làm rạng danh gia tộc”. Sau khi nghe thần
núi mách bảo, về nhà bà vợ có thai. Sau 14 tháng mang thai, bà hạ sinh được một
con trai, đặt tên là Nguyễn Tuấn. Năm Nguyễn Tuấn lên 6 thì cha là ông Nguyễn
Cao Hành qua đời; đến năm Tuấn lên 12 thì mẹ là bà Đinh Thị Đen cũng qua đời.
Cùng năm đó người chú và thím ruột của Tuấn cũng qua đời để lại hai người con
trai còn nhỏ tên là Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển. Hàng ngày ba anh em vẫn bơi
qua sông, lên núi Tản Viên kiếm củi. Đến mùa nước lên, ba anh em không thể qua
sông kiếm ăn, vì thế họ quyết định chuyển hẳn nhà sang chân sườn núi Tản để ở.
Trên nền đất của Động lăng Xương - nơi thần Sơn Tinh được sinh ra, nhân dân
trong vùng đã lập điện thờ cha mẹ ngài để tưởng nhớ công ơn sinh thành nên một
người con kiệt xuất, có công giúp dân trừ nạn giặc nước, đó là đền Lăng Xương.
Trở lại với câu chuyện truyền thuyết, sau khi ba anh em đức thánh Tản lập nhà
dưới chân sườn núi, thì hàng ngày đều lên núi kiếm củi, khai hoang. Một ngày,
ba anh em được một người phụ nữ trên núi nhận làm mẹ nuôi – bà tên là Ma Thị
Cao Sơn. Bà đã truyền dạy cho 3 anh em họ các chú thuật và phép thiền định. Ba
anh em tiếp thu rất nhanh, không chỉ giỏi các chú thuật mà ba anh em còn được
học các môn như Binh pháp, y pháp và các nghề thủ công, đặc biệt là việc trị thủy,
trồng lúa nước và nuôi tằm dệt lụa. Dấu vết của nghề dệt lụa vẫn còn được lưu
giữ tại làng Cổ Đô dưới chân núi Ba vì... Trải qua 6 năm học tập chuyên cần, ba
anh em họ Nguyễn đã tới lúc trưởng thành. Một hôm bà Ma Thị cho gọi ba anh
em lên mà dặn rằng: “ Nay các con đã trưởng thành, các pháp ta cũng đã dậy lOMoAR cPSD| 60851861
xong, núi này thuộc Kim Sơn, nguồn dương khí chốn trời Nam, rất thích hợp cho
các con cư trú. Còn ta sẽ về Hương sơn để khai tràng thuyết pháp. Nay các con là
đệ tử của ta, phải khuông phù đạo ta, chăm lo cho dân, giữ cho dân chúng trời
Nam được hưởng thái bình.” Nói rồi bà bay đi. Kể từ đó, ba anh em chuyên tâm
chăm lo, dạy dỗ dân chúng, chữa bệnh dạy học cho dân. Kể từ đó, nhân dân kính
trọng và tôn 3 anh em ngài lên làm Thủ Lĩnh, cai quản dãy núi Ba Vì.
Trích nguồn: honguyenvietnam.org
Tiêu đề bài viết: Núi Tản Viên và Truyền thuyết Sơn Tinh - vị thánh bất tử.
b) Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân - Âu Cơ:
Trong Lĩnh Nam chích quái, các học giả, sử gia cho rằng, Tản Viên là một
trong 50 người con của Lạc Long Quân, Âu Cơ theo cha xuống biển (Đúng ra thì
phải là chắt khoảng đời thứ 19). Chuyện rằng, chàng từ biển đi vào, qua cửa Thần
Phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô,
đến Phúc Lộc giang. Từ đấy, nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm
phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình, nên chàng đã làm một con đường
thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên, tới động
An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi.
Tương tự, các tác giả Lịch triều Hiến chương (Phan Huy Chú) và Việt sử
Thông giám cương mục ... cũng có quan niệm Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân, Âu Cơ.
Trích nguồn: baotanglichsu.vn
Tiêu đề bài viết: “Gốc tích” của Tản Viên Sơn Thánh vẫn là ẩn số?
Sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, người đời Trần có truyện về
núi Tản Viên (Tản Viên sơn truyện), cho biết: Núi Tản Viên nằm ở phía Tây kinh
đô nước Nam Việt. Núi ấy cao chót vót, đỉnh tròn như lọng nên có tên như thế.
Vương là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, là một trong số 50 người con theo
cha xuống biển. Sau, vương từ biển theo cửa biển Thần Phù ngược lên, đến Long
Đỗ, thành Long Biên, định ở lại nhưng vẫn chưa thấy thực vừa ý, lại ngược lên
theo dòng sông Lô, thấy núi Tản Viên “sừng sững tráng lệ, ba đỉnh đứng dàn hàng,
cao vút như trong bức hoạ”, liền “lên tận đầu ngọn Vân Mộng mới lấy đó làm nơi
cư ngụ”. Vương từng đi du ngoạn ở sông Tiêu Tích để xem đánh cá, qua thôn ấp
nào cũng dựng điện áp làm chỗ nghỉ ngơi. “Người đời sau nhân các di tích ấy bèn
lập đền thờ phụng, khi hạn hán thì cầu đảo, mưa lũ thì cúng, để ngăn ngừa những
tai hoạ lớn, để chống đỡ những hoạn nạn to, hiệu nghiệm thấy ngay, hết sức linh
ứng”. Đời Đường, Cao Biền từng dùng thuật trấn yểm xong chỉ thấy vương “cưỡi
ngựa trắng lên chỏm mây, phỉ nhổ rồi bỏ đi”. Cao Biền vì thế than rằng: “Khí lOMoAR cPSD| 60851861
thiêng của phương Nam thật khôn lường. Vượng khí của đất này làm sao mà tuyệt
diệt được”. Cuối truyện ghi truyền thuyết vương và Thuỷ Tinh đua tài lấy vợ,
tương đối giống với ghi chép trong Việt điện u linh.
Về xuất thân của thần, Lĩnh Nam chích quái cho thần là con của Lạc Long
Quân và Âu Cơ, là một trong số 50 người con theo cha xuống biển, tức là một
trong số một trăm con ra đời từ trăm quả trứng, là một sự xuất thân đầy màu sắc
mẫu hệ và “lộ dáng con người” , chính vì thế, ngay ở thế kỉ XV, khi tiến hành tu
chỉnh Lĩnh Nam chích quái, Kiều Phú (1446-?) từng viện dẫn đến quan niệm về
“khí hạo nhiên” của Mạnh Tử để giải thích, ý muốn dịch chuyển vị thần này về
dạng thiên thần, với tính chất là tinh anh của núi, là thứ khí thiêng của non sông
như Việt điện u linh đã ghi chép. Theo lẽ thường, nếu thần là một trong những
người con theo cha về biển, mang đầy yếu tố “nước”, sao còn ngược dòng lên
núi? Có thể vì truyền thuyết về cuộc chiến giữa Sơn Tinh - Thuỷ Tinh được lưu
truyền lâu dài nên chính vị thần núi Sơn Tinh cũng ít nhiều bị “thấm nước”?
Những “sự thấm” ấy không triệt để, bởi chính Lĩnh Nam chích quái khi nhắc việc
Cao Biền trấn yểm bất thành (chi tiết này khá giống với việc họ Cao từng trấn
yểm thần sông Tô Lịch), từng than thở, coi thần là “khí thiêng của phương Nam”
(Nam phương linh khí), rồi cuối truyện, sách này rốt cục trở lại với câu chuyện
về truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, hoàn nguyên vị thần núi Tản Viên trở lại
là tinh anh của núi, đối lập với Thuỷ Tinh là của nước. Do Âu Cơ dẫn 50 con lên
núi, Sơn Tinh là một trong số 50 con theo cha về miền biển, nhưng rồi lại người
dòng lên non, nên đó cũng có thể hiểu là một kiểu hồi quy “nguyên lí mẹ” - một
nguyên lí đặc biệt quan trọng trong cội nguồn văn hoá Việt. Trích nguồn: dsvh.gov.vn
Tiêu đề bài viết: Núi Tản Viên và Tản Viên Sơn Thánh qua thư tịch cổ - Ths.Phạm Văn Ánh
c) Tản Viên Sơn Thánh là hư cấu:
Thần núi Tản cũng như hàng loạt nhiên thần được ra đời từ thời nguyên
thuỷ của tổ tiên ta lúc họ đã bắt đầu biết nhận thức về thế giới khách quan và với
khả năng tư duy trừu tượng của buổi đầu, con người chưa thật sự phân biệt được
giữa mình với giới tự nhiên mà mình đang cùng sống, đang phải phụ thuộc. Khi
ấy con người đã đồng nhất giữa mình với các vật thể của thiên nhiên. Người ta đã
nhân cách hóa các lực lượng tự nhiên làm nảy sinh các vị thần đầu tiên đó là thần
siêu nhiên, thần vũ trụ.
Vào thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, Tản Viên Thánh chắc chắn chỉ được tôn
vinh với tư cách là vị nhiên thần nhưng nhờ là thần núi cao nên uy linh hơn các
thần tự nhiên khác. Lúc đầu, Tản Viên chỉ đơn giản được thờ để che chở cho con lOMoAR cPSD| 60851861
người. Đến khi xã hội thị tộc nguyên thủy tan rã, ra đời các liên minh bộ lạc hay
liên minh bộ tộc với cơ sở của nền văn hóa lúa nước và văn minh sông Hồng phát
triển rực rỡ, đồng thời với nghề kim thuộc đúc đồng đã ở trình độ tinh xảo. Ý thức
về đoàn kết cộng đồng về quốc gia dân tộc đã phát triển cao thì truyện về các thần
tự nhiên, đặc biệt là thần Tản Viên mới được nâng lên thành một thần thoại điển
hình do được nhân hóa và lịch sử hóa.
Cụ thể, bước vào nhà nước Văn Lang thời cổ đại, Tản Viên trở thành vị anh
hùng truyền thuyết của cả cộng đồng quốc gia dân tộc. Lúc đầu thần được người
Mường ở làng Cổ Pháp chân núi Ba Vì lập đền thờ. Rồi các làng vùng Mường ở
Hà Tây, Phú Thọ lan rộng ra các làng người Kinh ở Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ
đã có rất nhiều làng thờ thần Tản Viên cùng với thờ Cao Sơn, Quý Minh...
Có thể nói, qua văn minh Đại Việt, mỗi ngày lí lịch của thần Tản Viên lại
được bồi đắp thêm công trạng tài đức để thần càng ngày càng có vẻ người hơn và thánh hơn.
Trích nguồn: baotanglichsu.vn
Tiêu đề bài viết: “Gốc tích” của Tản Viên Sơn Thánh vẫn là ẩn số?
d) Tản Viên Sơn Thánh là người thực:
Theo quan niệm của mọi người được thể hiện qua các bản thần tích thần
phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội,
Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ trong dân chúng.
Theo Ngọc phả Đền Lăng Xương do TS Nguyễn Hữu Công, quan Đô Đốc
Thượng Thư cùng với Nguyễn Công Chính và Nguyễn Minh Khai lập vào ngày
15 tháng 11 năm 1011 đời Lý Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên thứ III, Thánh Tản
Viên - Sơn Tinh tên thật là Nguyễn Tuấn, con trưởng ông Nguyễn
Cao Hành và bà Đinh Thị Đen (còn gọi là Bà Thái Vĩ), sinh sống ở Động Lăng
Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây (nay là xã Trung Nghĩa,
huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Tương truyền một hôm bà vào rừng kiếm củi,
đến Thạch Bàn bỗng thấy mây lành bao phủ, rồng vàng bay xuống phun nước
như mưa, khí thiêng lan tỏa. Sau khi rồng bay đi, bà thấy hương bay ngào ngạt,
nước giếng trong như ngọc, bà liền xuống tắm rồi mang thai từ đấy. Mười bốn
tháng sau, đúng ngày rằm tháng giêng năm Đinh Tỵ, giữa giờ thìn bà trở dạ sinh
hạ được một cậu con trai tướng mạo khôi ngô, tuấn tú khác thường đặt tên là
Nguyễn Tuấn. Lớn lên, Nguyễn Tuấn trở thành người cứu độ, tài cao, văn võ song
toàn, có phép thần thông biến hóa, “hô phong hoán vũ” và trở thành vị thần
(Thánh) của núi Tản Viên – Thần Sơn Tinh. Ông được Hùng Vương kén làm rể,
gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem lOMoAR cPSD| 60851861
binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Rốt cuộc, Thủy
Tinh luôn là kẻ bại trận...
Một truyền thuyết tương truyền rằng, Thánh Tản Viên tên thật là Nguyễn
Tuấn, con một vị trưởng lão họ Nguyễn ở Sơn Tây. Năm 6 tuổi thì cha qua đời,
2 mẹ con đến ở nhờ nhà bà Ma Thị Cao (con thần núi Tản Viên). Một hôm,
Nguyễn Tuấn lên núi đốn củi gặp thần Thái Bạch, thấy cậu bé khôi ngô, tuấn tú,
thần đã trao cho cây gậy thần và dạy câu thần chú để cứu đời. Sau này chàng có
công cứu con Long Vương thoát chết và được Long Vương đền ơn biếu cuốn sách
có thể hiểu mọi lẽ huyền vi của trời đất. Biết chàng là người có tài, có hiếu, trước
khi qua đời, mẹ nuôi đã trao cho chàng cai quản muôn vật ở núi Tản Viên. Khi
Vua Hùng kén rể cho công chúa Mị Nương, Nguyễn Tuấn nhờ có sách quý và gậy
thần đã kiếm được sính lễ mang đến trước Thủy Tinh và cưới được Mị Nương.
Sau chiến thắng Thủy Tinh và quân Thục, biết chàng là người có tài, Hùng Vương
đã trao quyền trị nước cho Nguyễn Tuấn, nhưng chàng từ chối và xin vua cha cho
đi du ngoạn khắp nơi giúp dân. Khi đi qua vùng Tam Hồng, thấy cảnh sơn thủy
hữu tình, Ngài đã dừng chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá, sản xuất nông nghiệp.
Ghi nhớ công đức của Ngài, nhân dân Tam Hồng dựng một ngôi đền thờ gọi là
đến Thính, xây ở phía Bắc núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng nên có tên là đền
Bắc Cung (một trong “Tứ cung” thờ Đức thánh Tản Viên). Thần núi Tản Viên hết
sức linh ứng, khi nào nhân dân cầu mưa, cầu nắng cho mùa màng đều được ứng
nghiệm. Mỗi khi lạnh trời, thánh Tản Viên thường hiện hình ở các khe suối, lại
đem theo cây gậy thần cứu chữa bệnh cho người nghèo khổ, đi đến đâu, Ngài cho
hiện ra đền đài để nghỉ ngơi.
Trích nguồn: honguyenvietnam.org
Tiêu đề bài viết: Núi Tản Viên và Truyền thuyết Sơn Tinh - vị thánh bất tử.
3. Các truyền thuyết liên quan
Truyền thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh có nhiều phiên bản khác nhau ở
một số chi tiết, dưới đây là một số truyền thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh qua các
ghi chép được để lại.
Hùng Vương thứ 18 có một người con gái tên là Mỵ Nương, người đẹp như
hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một
người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có
tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây
mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền
biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Người ta gọi
chàng là Thủy Tinh. Một người là chúa vùng non cao, một người là chúa vùng lOMoAR cPSD| 60851861
nước thẳm. Cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. Vua Hùng băn khoăn không
biết nhận lời ai, từ chối ai, bèn cho mời các Lạc hầu vào bàn bạc. Xong, vua phán:
"Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho
người nào? Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới con gái ta".
Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, vua bảo: "Một trăm ván
cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng
mao, mỗi thứ một đôi”
.
Hôm sau, mới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến rước Mỵ
Nương về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem
quân đuổi theo đòi cướp lấy Mỵ Nương. Thần hô mưa, gọi gió, làm thành dông
bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước
ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành
Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.
Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng
dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao
nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối
cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt. Thần Nước đành rút
quân. Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm Thủy Tinh làm mưa làm gió, bão lụt
dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, Thần Nước đánh mệt mỏi,
chán chê không thắng nổi Thần Núi để cướp Mỵ Nương, đành rút quân về.
Nguồn: Huỳnh Lý - SGK Ngữ Văn lớp 6 tập một (bản cũ), Nhà xuất bản Giáo Dục,1994, tr7-9.
Ngoài ra, còn có phiên bản truyền thuyết về “Sơn Tinh - Thuỷ Tinh” trong
Việt điện u linh tập” với nhan đề ‘Tản Viên Hựu Thánh Khuông Quốc Hiển Linh
Ứng vương”,
gọn lại là “Hựu Thánh Viện Ứng vương”. Quyển sách này được ước
tính ra đời vào nhà Trần.
Xét Giao Châu ký của Tăng Côn chép rằng: Vương là Sơn Tinh cùng với
Thủy Tinh làm bạn rất thân thiết, ở ẩn tại động Gia Ninh, Phong Châu. Hùng
vương có một cô con gái được gọi là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt diễm khuynh
thành. Thục vương Phán sai sứ sang cầu hôn, vua muốn gả. Quan Đại thần là Lạc
hầu cản rằng: "Ông ấy muốn dòm dỏ nước ta đó".
Hùng vương sợ sinh ra hiềm khích. Lạc hầu tâu: "Đại vương đất rộng dân
đông, tìm kẻ nào có kỳ tài dị thuật mà gả cho làm rể, rồi thiết lập quân kỵ thì sợ gì?". lOMoAR cPSD| 60851861
Vương nghe phải mới tuyệt giao với Thục vương rồi tìm khắp trong nước
những người có dị thuật. Vương (ý nói Sơn Tinh) cùng với Thủy Tinh đều đến
ứng tuyển. Hùng Vương bảo đem ra thi tài. Vương có thuật xem suốt ngọc đá;
Thủy Tinh có thuật nhập vào nước lửa; người nào cũng có tài linh thông. Hùng
Vương cả mừng, bảo Lạc hầu rằng: "Xem tài của hai chàng thì ta thấy đều nên
gả con cho cả hai, duy ta chỉ có một người con gái mà đến hai người thì tính làm sao?"
.
Lạc hầu tâu: "Vua nên hẹn với hai chàng hễ ai cưới trước thời được".
Hùng Vương cho là phải; vua bảo với hai chàng về chuẩn bị lễ vật. Vương
về bản hộ, suốt đêm biện gấp thổ vật như là: vàng, bạc, ngọc báu, tê giác, ngà voi,
với lại chim quý, thú lạ, mỗi thứ một trăm. Hôm sau, sáng tinh sương, Vương đệ
đến dâng hiến Hùng Vương. Hùng Vương mừng lắm, gả Mỵ Nương cho Vương;
Vương rước vợ về đem lên ở núi Lôi Sơn. Đến chiều tối, Thủy Tinh cũng đem
thủy vật đến, như là trân châu, đồi mồi, san hô, hổ phách, với lại cá kình, cá nghê,
các thứ cá ngon mỗi thứ một trăm, đem đến bày ra để dâng vua, nhưng Mỵ Nương
đã theo Vương về mất rồi!
Thủy Tinh đại nộ đem quân đuổi theo, toan muốn nghiền nát núi Lôi Sơn.
Vương dời lên ở trên chóp núi Tản Viên, đời đời cùng với Thủy Tinh là kẻ thù.
Cứ mỗi năm đến mùa thu, Thủy Tinh dâng nước lên đánh núi Tản Viên, dân chúng
đem nhau đắp đê để giúp Vương. Thủy Tinh không thể phạm đến được. Linh tích
của Vương rất nhiều, kể không xiết.
Trích: chuyện Tản Viên Hựu Thánh Khuông Quốc Hiển Linh Ứng vương
trong Việt điện u linh tập.
Bên cạnh “Việt điện u linh tập”, tác phẩm “Lĩnh Nam chích quái” cũng ghi
lại truyền thuyết này với tựa đề là Tản Viên sơn truyện (傘圓山傳; tạm hiểu là
Câu chuyện về thần núi Tản Viên).
Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao
một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm vạn. Ba
núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy.
Theo sách “Ai giao châu tự” của Đường Tăng thì Đại vương núi này là Sơn
Tinh, họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai
trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Thường thường,
vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong hang núi. Dân
trong vùng nói rằng đó là Sơn thần hiển hiện. Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam
muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi,
vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng lOMoAR cPSD| 60851861
trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các
thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy
Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng:
"Linh khí ở phương Nam không thể lường được, cái vượng khí đời nào hết được!".
Sự linh ứng đã hiển hiện ra như vậy đó.
Xưa kia, Đại vương trông thấy phong cảnh núi Tản Viên đẹp đẽ bèn làm
một con đường từ bến Bạch Phiên đi lên phía nam núi Tản Viên, qua động An Vệ,
tới các ngọn nguồn lạch suối đều dựng điện để nghỉ ngơi. Rồi lại đi qua rìa núi
đến chỏm núi có mây che thì định cư ở đó. Đôi lúc rong chơi trên sông Tiểu Hoàng
Giang xem đánh cá, phàm đi qua các làng xóm đều dựng điện để nghỉ ngơi. Về
sau, nhân dân theo dấu vết các điện đó mà lập đền miếu để thờ cúng.
Lại theo truyện cũ ở sách Giao Châu ký của Lỗ Công, tương truyền rằng
Đại Vương sơn tinh họ Nguyễn, cùng vui ở với loài thủy tộc ở đất Gia Ninh,
huyện Phong Châu. Thời vua Chu Noãn vương, Hùng Vương thứ 18 đến ở đất
Việt Trì, Châu Phong, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Vua có người con gái tên là Mỵ
Nương (cháu 18 đời của Thần Nông), có sắc đẹp; Thục vương Phán cầu hôn, nhà
vua không bằng lòng, muốn chọn rể hiền. Mấy hôm sau, bỗng thấy hai người,
một người xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thủy Tinh đến để cầu hôn. Hùng
Vương truyền tỉ thí pháp thuật. Sơn Tinh chỉ núi, núi lở, ra vào trong đá không có
gì trở ngại. Thủy Tinh lấy nước phun lên không biến thành mây mưa. Vua nói:
"Hai vị đều có phép thần, nhưng ta chỉ có một con gái, vậy ai mang sính lễ tới
trước, ta khắc gả cho"
.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang ngọc quý, vàng bạc sơn cầm, dã thú... các
lễ vật đến tiến, vua y cho. Thủy Tinh đến sau, không thấy Mỵ Nương, cả giận đem
loài thủy tộc định đánh để cướp lại. Vương lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện
Từ Liêm. Thủy Tinh bèn mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát
Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên. Lại mở ngách sông
Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, đi qua Cam Giá, Xa Lâu, Cổ Hào,
Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt thành cái vũng lớn để mở lối đi cho quân thủy
tộc. Thường làm mưa gió mịt mù, dâng nước lên đánh Vương. Dân ở chân núi
thấy thế bèn cắm một hàng rào thưa để đón đỡ, đánh trống gõ cối, hò reo để cứu
viện. Thấy rơm rác trôi bên ngoài hàng rào bèn bắn, thủy tộc chết biến thành thây
ba ba thuồng luồng trôi tắc cả khu sông. Hàng năm vào khoảng tháng bảy tháng
tám vẫn thường như vậy. Dân vùng chân núi hay bị gió to nước lớn, lúa má thiệt
hại cả. Người đời tương truyền rằng đó là Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau lấy Mỵ Nương. lOMoAR cPSD| 60851861
Đại Vương được bí quyết trường sinh của thần tiên nên rất hiển linh, đó là
vị đệ nhất phúc thần của nước Đại Việt vậy. Hàn Lâm học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đời
Trần đến phía Tây bái yết, có làm thơ rằng:
Sơn tự thiên cao thần tối linh, tâm
quynh tài khấu dĩ văn thanh.
Mỵ Nương diệc hữu hiển linh thuật, thả
vi thư sinh bảo thử hành.
Trích từ Tản Viên sơn truyện trong Lĩnh Nam chích quái.
Truyền thuyết này vốn không được ghi trong những cuốn sử biên niên như
Đại Việt sử ký, Đại Việt sử lược, nhưng đến Đại Việt sử ký Toàn thư thời Hậu Lê
thì lại chép vào, phần ngoại kỷ thời Hồng Bàng Thị - Hùng vương.
Cuối thời Hùng vương, vua có con gái gọi là Mỵ Nương, nhan sắc xinh
đẹp. Thục vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can
rằng: "Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi". Thục
vương vì chuyện ấy để bụng oán giận.
Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo các bề tôi rằng: "Đứa con gái
này là giống tiên, người nào có đủ tài đức mới cho làm rể". Bấy giờ có hai người
từ ngoài đến, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng một
người là Sơn Tinh, một người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua có
thánh nữ, đánh bạo đến xin lĩnh mệnh.
Vua nói: "Ta có một người con gái, lẽ nào lại được cả hai rể hiền?". Bèn
hẹn đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ đến trước thì gả cho người ấy. Hai người
vâng lời, lạy tạ ra về.
Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng đến
dâng. Vua y hẹn gả con cho. Sơn Tinh đón vợ về ở ngọn núi cao trên núi Tản
Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến sau, giận tiếc là không kịp, bèn kéo mây
làm mưa, dâng nước tràn ngập, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn
Tinh lấy lưới sắt chắn ngang thượng lưu sông Từ Liêm để chặn lại. Thủy Tinh
theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi theo dọc bờ lên cửa sông
Hát, ra sông lớn mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực
thành chằm, chứa nước để mưu đánh úp. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi
người Man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có vảy và có vỏ
trúng tên đều chạy trốn cả. Rốt cuộc Thủy Tinh không thể xâm phạm được núi
Tản Viên. Tục truyền Sơn Tinh và Thủy Tinh từ đấy về sau đời đời thù oán, mỗi
năm mùa nước to thường vẫn đánh nhau. lOMoAR cPSD| 60851861
Núi Tản Viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm.
Mỵ Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục vương tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn
Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy nước.
Trích từ Ngoại kỷ thời Hồng Bàng Thị trong Đại Việt sử ký Toàn thư.
4. Câu chuyện về Thánh tại Sơn Tây
Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) là một nhân thần có thực chứ không hư
cấu. Đức Thánh Tản Viên được sinh ra trong một gia đình của hai ông bà cụ lớn
tuổi, ông cụ đã 70 tuổi và bà cụ đã 50 tuổi. Hai ông bà sống phúc thiện nhưng
chưa có con và được Tản Viên Sơn Thánh giáng thế đầu thai vào gia đình. Với
bối cảnh đó khi Đức Thánh Tản Viên sinh ra đã sớm mồ côi cha mẹ, vì lẽ đó ngài
đã được thần núi Ba Vì nuôi dưỡng và tiên ông Thái Bạch Kim Tinh truyền dạy
phép thuật và ngài đã hiển thánh. Khi ngài hiển thánh, tiên ông ban cho ngài một
tiên trượng, tiên ông dặn ngài dùng tiên trượng này để đi cứu dân độ thế, riêng
một điều cấm kỵ là không được chỉ lên trời, vì sẽ làm kinh thiên động địa, bởi vì
tiên trượng có một đầu sinh bà một đầu tử.
Đức Thánh Tản dùng tiên trượng để đi cứu dân độ thế khắp đất nước. Trong
một lần đi cứu dân độ thế, ngài đã cứu được thái tử- con của Long Vương, ngài
được Long Vương và thái tử mời xuống thuỷ cung, và trả ơn ngài bằng cách là
ban cho ngài một quyển sách ước, đó là báu vật duy nhất của thuỷ cung. Như vậy,
Tản Viên Sơn Thánh có hai báu vật trong tay, ngài tiếp tục đi cứu dân độ thế, nhờ
có quyển sách ước thì Đức Thánh Tản đã đáp ứng được lời thách cưới của Vua
Hùng thứ 18, đó là một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín
ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao và lấy được công chúa Ngọc Hoa. Thuỷ
Tinh không có báu vật và đến sau Sơn Tinh nên vua cha đã trao công chúa Ngọc Hoa cho Sơn Tinh.
Đức Thánh Tản được Vua Hùng rất tin yêu vì ngài vừa là thánh linh, vừa
là con rể nên ngài đã giúp Vua Hùng trị vì đất nước. Đến cuối đời thì Vua Hùng
muốn trao ngôi cho ngài, nhưng vì Đức Thánh Tản là thánh linh, ngài nể Vua
Hùng nên nhận lời. Sau đó ngài khuyên Vua Hùng là đi theo ngài đi tu để trường
sinh, nhường ngôi cho Thục Phán, trong thời gian trước khi nhường ngôi cho
Thục Phán thì Đức Thánh Tản đã từng làm vua và trị vì đất nước Việt Nam, ngài
lý giải hai điều để Vua Hùng trao ngôi cho Thục Phán.
Điều đầu tiên là thiên vận của triều Hùng không còn nữa, Vua Hùng thứ 18
là vị vua cuối cùng của triều Hùng, Vua Hùng có 20 hoàng tử nhưng đều mất hết, lOMoAR cPSD| 60851861
vì vậy thiên vận không còn nữa, không còn ai để truyền ngôi. Điều lý giải thứ hai,
đức thánh tản nói là nhường ngôi cho Thục Phán không phải là nhường ngôi cho
ngoại bang mà thực ra Thục Phán là hậu duệ của Lạc Long Quân, là một trong
100 bộ tộc người Việt cư trú trên đất nước Văn Lang thời đó.
Với hai lẽ đó, Vua Hùng nghe theo Đức Thánh Tản Viên và nhường ngôi
cho Thục Phán, Thục Phán khi lên ngôi xưng là An Dương Vương, hứa là sẽ thờ
phụng triều Hùng và thờ phụng Đức Thánh Tản, chính vì vậy, tục lệ thờ vua Hùng
và Đức Thánh Tản Viên có từ thời đó. Đức Thánh Tản Viên đưa Vua
Hùng đi tu để trường sinh nhưng ngài vẫn luôn luôn giúp cho các triều vua Việt
Nam trị vì đất nước vì nước ta luôn luôn có giặc ngoại xâm. Khi có giặc ngoại
xâm, có khó khăn trong xây dựng đất nước hay khó khăn trong ứng xử nội tình
đất nước thì các triều vua Việt Nam đều kêu Đức Thánh Tản Viên, Vua nào kêu
Đức Thánh Tản Viên cũng đều được linh ứng. Kết luận:
Truyền thuyết về Sơn Tinh – Tản Viên Sơn Thánh tuy có nhiều câu chuyện
có những chi tiết khác nhau nhưng chúng ta đều có thể thấy được Sơn Tinh có
một vị trí, ý nghĩa to lớn trong tâm thức người Việt, có ảnh hưởng rất lớn với triều
đình Hùng Vương thứ 18, với xã hội Văn Lang thuở sơ khai. Ngài vừa là anh
hùng văn hoá, vị thần trị thủy chiến thắng lũ lụt, thần tổ dạy cho dân nhiều nghề;
vừa là thủ lĩnh quân sự kiệt xuất, vị thần chiến tranh chống Thục. Ngài là niềm
tin, niềm hy vọng về sức mạnh to lớn và vĩ đại của dân tộc ta. Sơn
Tinh là người anh hùng tài năng và dũng cảm, để lại một dấu ấn mạnh mẽ trong
truyền thuyết, thể hiện lòng kiên định, đoàn kết, biểu tượng về trí tuệ và ý chí bất
khuất của người Việt.
Sơn Tinh là đại diện của người nông dân Việt Nam, luôn đối diện với những
thách thức từ thiên nhiên, không ngừng đấu tranh để bảo vệ đất đai, bảo vệ mọi
người xung quanh và bảo vệ gia đình của mình. Mỗi cơn lũ lụt, mỗi trận bão táp
đều là những thách thức mà họ phải đối mặt, nhưng họ không bao giờ chịu bại
trận. Như Sơn Tinh, họ luôn tìm cách vượt qua mọi khó khăn, không bao giờ chùn
bước trước thử thách. Điều đó đã làm nên một vị thần lẫy lừng mà nhân dân Việt Nam ta luôn tự hào.
II - Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh
1. Sự hình thành và ý nghĩa
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh (hay Sơn Tinh) tại Đền Và, Sơn Tây,
là một trong những biểu hiện đậm nét của đời sống văn hóa, lịch sử và tâm linh lOMoAR cPSD| 60851861
của người Việt, đặc biệt tại khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Xuất phát từ
các huyền thoại cổ xưa và gắn liền với nhu cầu thích nghi, chế ngự thiên nhiên
của cư dân nông nghiệp, tín ngưỡng này không chỉ có ý nghĩa tâm linh sâu sắc
mà còn phản ánh các giá trị văn hóa và xã hội của cộng đồng.
Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh bắt nguồn từ các truyền
thuyết dân gian, trong đó nhân vật trung tâm là Nguyễn Tuấn – một con người
phi thường, đại diện cho sức mạnh và trí tuệ của người Việt cổ. Theo truyền
thuyết, Nguyễn Tuấn xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở vùng núi Ba Vì. Tuy
nhiên, ông được thần tiên truyền dạy, trở thành một con người xuất chúng với sức
mạnh siêu phàm và lòng nhân ái sâu sắc.
Điển hình trong truyền thuyết này là câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh,
một cuộc tranh giành công chúa Mỵ Nương, con gái vua Hùng thứ 18. Sơn Tinh,
với tài năng điều khiển thiên nhiên, đã chiến thắng Thủy Tinh, một biểu tượng
của lũ lụt. Câu chuyện này không đơn thuần là một truyền thuyết mà còn là sự
phản ánh sinh động về cuộc đấu tranh lâu đời của cư dân nông nghiệp lúa nước
trước các thiên tai, đặc biệt là lũ lụt – một mối đe dọa thường xuyên ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Từ đó, Tản Viên Sơn Thánh không chỉ được xem là người bảo hộ
vùng núi Tản Viên mà còn là vị thần mang lại sự bình yên cho người dân trong
cuộc sống hàng ngày. Trong bối cảnh nông nghiệp lúa nước, người dân phụ thuộc
rất nhiều vào thiên nhiên – từ nguồn nước, đất đai đến thời tiết. Tín ngưỡng thờ
Tản Viên Sơn Thánh xuất phát từ nhu cầu bảo vệ mùa màng trước những bất trắc của tự nhiên.
Người dân tin rằng Sơn Tinh có khả năng điều hòa thiên nhiên, bảo vệ họ
trước lũ lụt và mang lại những mùa vụ bội thu. Vai trò này càng được khẳng định
rõ nét qua các nghi lễ tôn thờ tại Đền Và, nơi tổ chức các lễ cầu an, cầu mùa và
lễ hội Đả Ngư với ý nghĩa biểu trưng cho sự gắn bó giữa con người với môi trường
tự nhiên. Vùng núi Tản Viên – nơi Sơn Tinh được cho là ngự trị – có vị trí chiến
lược quan trọng và được xem là biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên. Đền Và,
một trong những địa điểm thờ tự quan trọng của Sơn Tinh, trở thành nơi kết tinh
niềm tin của người dân vào sự bảo hộ của vị thần này, đồng thời là minh chứng
cho việc huyền thoại hóa các yếu tố tự nhiên nhằm giải thích và tìm kiếm sự bảo
trợ trước thiên tai. Tản Viên Sơn Thánh vừa là vị thần cai quản núi Tản Viên –
biểu tượng của sự trường tồn và vững chắc, vừa được gắn kết với các dòng sông
lớn như sông Hồng, sông Đà. Điều này phản ánh tư duy của người Việt trong việc
thờ cúng các yếu tố tự nhiên, nơi núi và sông không chỉ mang ý nghĩa địa lý mà
còn đại diện cho sức mạnh và sự bảo trợ thần linh. Sự kết hợp này đặc biệt ý nghĩa
tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi núi Tản Viên và các con sông lớn đóng vai trò lOMoAR cPSD| 60851861
quan trọng trong việc điều hòa nguồn nước và bảo vệ đất đai trước thiên tai. Tín
ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh, do đó, vừa phản ánh sự nhận thức sâu sắc của
người dân về vai trò của môi trường, vừa là sự tri ân đối với thiên nhiên.
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh tại Đền Và phản ánh rõ nét nỗ lực
chinh phục thiên nhiên của người Việt. Việc gắn câu chuyện Sơn Tinh – Thủy
Tinh với hiện thực thiên tai lũ lụt thể hiện tinh thần vượt khó và sự sáng tạo của
con người trong việc thích nghi với môi trường khắc nghiệt. Đền Và không chỉ là
nơi tưởng nhớ công lao của Sơn Tinh mà còn là điểm tựa tinh thần để người dân
gửi gắm hy vọng về một cuộc sống bình yên, mùa màng bội thu. Cư dân nông
nghiệp lúa nước Việt Nam luôn phải đối mặt với những thách thức từ thiên nhiên.
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh, với các nghi lễ và lễ hội, là minh chứng cho
mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa tâm linh và đời sống thực tiễn. Các nghi thức
dâng lễ tại Đền Và, như lễ cầu mùa, lễ cầu mưa thuận gió hòa, đều phản ánh ước
nguyện của người dân về một cuộc sống sung túc, no đủ.
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh tại Đền Và là sự kết tinh của các giá
trị văn hóa, lịch sử và tâm linh của người Việt. Với nguồn gốc từ các huyền thoại
cổ xưa và vai trò đặc biệt trong hệ tín ngưỡng dân gian, Tản Viên Sơn Thánh
không chỉ là biểu tượng của sức mạnh chinh phục thiên nhiên mà còn là cầu nối
giữa con người với thần linh, giữa quá khứ và hiện tại. Đền Và, với vai trò là trung
tâm thờ tự, đã và đang giữ gìn những giá trị truyền thống, góp phần bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong đời sống đương đại. 2. Sự phát triển a) Thời kỳ phong kiến:
Trong thời kỳ phong kiến, Đền Và là một trung tâm tôn giáo và tín ngưỡng
quan trọng, phản ánh sâu sắc tinh thần sùng bái các vị thần, anh hùng dân tộc
trong văn hóa Việt. Ở thời kỳ này, Đền Và nhận được sự quan tâm và bảo trợ từ
các triều đại phong kiến. Vua chúa thường ban sắc phong, bổng lộc để duy trì và
phát triển ngôi đền, đồng thời xác nhận vai trò quan trọng của Đền Và trong đời
sống tôn giáo và chính trị của đất nước. Tín ngưỡng tại Đền Và không chỉ dừng
lại ở việc thờ cúng các vị thần mà còn gắn liền với các giá trị đạo lý và nhân sinh.
Những câu chuyện về Tản Viên Sơn Thánh thường chứa đựng bài học về lòng
trung thành, sự kiên định và tinh thần bảo vệ dân tộc. Trong thời kỳ phong kiến,
Đền Và là một biểu tượng quan trọng của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, nơi kết
hợp giữa tôn giáo, văn hóa và chính trị, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc qua nhiều thế kỷ. lOMoAR cPSD| 60851861 Thời Đinh:
Dưới triều Đinh, tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh đã được coi trọng và
phát triển. Trong thời nhà Đinh (968–980), sự tín ngưỡng tại Đền Và phản ánh
sâu sắc niềm tin của người dân vào các vị thần linh bảo hộ cho cuộc sống và xã
hội. Vua Đinh Tiên Hoàng đã phong Tản Viên là "Thượng đẳng thần" để thể hiện
sự tôn kính và mong muốn thần linh bảo hộ cho đất nước mới thống nhất. Tại
Đền Và, các nghi lễ thờ cúng được tổ chức trang trọng vào những dịp lễ quan
trọng như lễ hội làng, lễ Tản Viên Sơn Thánh. Người dân dâng hương, cúng phẩm
vật và cầu nguyện để bày tỏ lòng kính trọng và mong ước được thần linh che chở.
Trong thời nhà Đinh, tín ngưỡng tại Đền Và không chỉ là một hình thức thờ cúng
tôn giáo, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng. Các lễ hội
và nghi thức tại đền là dịp để người dân gặp gỡ, trao đổi và củng cố tình đoàn kết.
Sự tín ngưỡng tại Đền Và thời nhà Đinh là minh chứng cho sự phát triển của tín
ngưỡng dân gian và vai trò của tôn giáo trong việc duy trì sự ổn định và thịnh vượng cho cộng đồng. Thời Lý:
Vào thời nhà Lý (1009-1225), tín ngưỡng tại Đền Và có sự phát triển mạnh
mẽ, đặc biệt là việc thờ cúng các vị thần núi, trong đó Đức Thánh Tản Viên được
tôn kính như một biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên và bảo hộ dân làng. Nhà
Lý, với sự phát triển của Phật giáo làm quốc đạo, cũng đã dung hòa các tín ngưỡng
dân gian với đạo Phật. Do đó, việc thờ cúng tại Đền Và trong thời kỳ này không
chỉ mang tính chất tôn giáo mà còn là sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và ảnh
hưởng của Phật giáo. Lễ hội tại Đền Và, đặc biệt là vào dịp đầu năm, thu hút rất
nhiều người dân trong vùng đến cầu nguyện, xin lộc và mong được bảo vệ. Các
lễ nghi cúng bái, hiến tế được tổ chức trang trọng, nhằm tôn vinh công đức của
Đức Thánh Tản Viên cũng như cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu. Trong
thời kỳ này, Đền Và còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân
dân, nơi mà họ tìm đến để cầu xin sự che chở của thần linh trước thiên tai, bệnh
tật, cũng như cầu cho sự bình an và phồn thịnh. Triều đại nhà Lý đặc biệt coi trọng
Phật giáo, nhưng cũng không bỏ qua tín ngưỡng dân gian. Vua Lý Thái Tổ đã cho
tu bổ và mở rộng Đền Và, đồng thời tổ chức các lễ hội lớn để tôn vinh Tản Viên
Sơn Thánh, nhằm củng cố lòng tin của nhân dân và tạo sự đoàn kết trong xã hội. Thời Trần:
Trong thời nhà Trần (1225-1400), tín ngưỡng thờ thần Tản Viên nói chung
và tại Đền Và nói riêng đã được hoàng gia và dân chúng coi trọng. Nhà Trần nổi lOMoAR cPSD| 60851861
tiếng với tinh thần yêu nước, tôn trọng đạo Phật và các tín ngưỡng dân gian. Việc
thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh tại Đền Và trong thời kỳ này không chỉ thể hiện
lòng tôn kính đối với thần linh mà còn là sự đề cao các giá trị dân tộc, bảo vệ đất
nước. Nhà Trần cũng thường tổ chức các lễ hội và nghi thức cúng tế để cầu mong
sự bảo trợ của thần linh, đặc biệt trong các dịp quan trọng hoặc khi đất nước gặp
khó khăn. Những lễ hội này không chỉ mang tính tôn giáo mà còn là dịp để củng
cố tinh thần đoàn kết của nhân dân. Trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với
nhiều cuộc xâm lược từ phía Bắc, tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh càng được
đề cao. Vua Trần Nhân Tông thường xuyên tổ chức lễ tế tại Đền Và, cầu mong sự
phù hộ của thần linh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Nhiều
anh hùng dân tộc cũng đến đây cầu nguyện trước khi ra trận. Thời Lê:
Trong thời nhà Lê, đặc biệt là giai đoạn Hậu Lê, tín ngưỡng tại Đền Và
không chỉ mang tính chất tôn giáo mà còn có vai trò trong việc củng cố quyền lực
của triều đại. Việc cúng tế và tổ chức các lễ hội tại đây thường được tổ chức long
trọng, thu hút sự tham gia của đông đảo quan lại và nhân dân. Đền Và trở thành
nơi cầu nguyện cho quốc thái dân an, đồng thời cũng là biểu tượng của sự kết nối
giữa nhà vua và thần linh. Các lễ hội tại Đền Và thường diễn ra vào mùa xuân,
với các hoạt động như rước kiệu, cúng bái, và các trò chơi dân gian.
Những nghi thức này thể hiện lòng thành kính của người dân đối với Đức Thánh
Tản Viên, đồng thời cũng phản ánh sự hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian và quyền
lực phong kiến. Dưới triều Lê, Đền Và tiếp tục được duy trì và phát triển. Vua Lê
Thánh Tông đã ban sắc phong cho Tản Viên Sơn Thánh với nhiều danh hiệu cao
quý, đồng thời cho xây dựng thêm các công trình phụ trợ tại đền. Lễ hội Đền Và
trở thành một trong những sự kiện văn hóa quan trọng, thu hút đông đảo người
dân tham gia. Tín ngưỡng tại Đền Và dưới thời nhà Lê không chỉ mang ý nghĩa
tôn giáo mà còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng và duy trì bản sắc văn
hóa dân tộc, đồng thời thể hiện sự tôn kính đối với các vị thần bảo hộ quốc gia. Thời Nguyễn:
Trong thời kỳ nhà Nguyễn, Đền Và có vai trò quan trọng trong đời sống
tinh thần và tín ngưỡng của người dân địa phương, đặc biệt là trong việc thờ cúng
Tản Viên Sơn Thánh, vị thần được coi là biểu tượng của sự bất khuất và sức mạnh tự nhiên. lOMoAR cPSD| 60851861
Dưới thời nhà Nguyễn, Đền Và và tín ngưỡng thờ cúng Tản Viên Sơn
Thánh được triều đình coi trọng. Các vua chúa nhà Nguyễn thường xuyên có
những sắc phong, cúng tế tại đây để cầu mong sự bảo hộ của thần linh. Đền Và
cũng được tu sửa và mở rộng dưới sự bảo trợ của nhà Nguyễn, nhằm phục vụ cho
các hoạt động tôn giáo và tín ngưỡng.
Ngoài Tản Viên Sơn Thánh, Đền Và còn thờ một số vị thần khác, liên quan
đến núi Tản Viên và sông Đà. Điều này thể hiện sự đa dạng trong tín ngưỡng dân
gian Việt Nam, nơi mà các yếu tố tự nhiên như núi non, sông ngòi đều được thiêng
liêng hóa. Triều Nguyễn chú trọng đến việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống. Vua Minh Mạng và Tự Đức đã cho tu sửa Đền Và nhiều lần, đảm bảo ngôi
đền luôn trong tình trạng tốt nhất. Các lễ hội và nghi lễ tại đền được quy chuẩn
hóa, trở thành nét văn hóa đặc sắc của vùng Sơn Tây. Ở thời nhà Nguyễn, Đền Và
không chỉ là một trung tâm tín ngưỡng quan trọng mà còn là một địa điểm lịch sử
văn hóa, gắn liền với các hoạt động tôn giáo và nghi lễ của triều đình cũng như
của người dân địa phương. b) Thời hiện đại:
Sau Cách mạng tháng Tám, Đền Và được chính quyền và người dân địa
phương quan tâm bảo tồn như một di sản văn hóa quan trọng. Lễ hội Đền Và diễn
ra vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hàng năm, thu hút hàng ngàn du khách trong
và ngoài nước, góp phần duy trì và phát huy tín ngưỡng truyền thống. Trong thời
đại ngày nay, tục thờ cúng Sơn Tinh vẫn được duy trì, nhưng đã có những thay đổi rõ rệt.
Lễ hội đền Tản Viên và các hoạt động liên quan chủ yếu tập trung vào việc
bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch. Các nghi lễ được đơn giản hóa, và nội dung
mang tính chất lễ hội, giao lưu văn hóa nhiều hơn là các nghi thức tâm linh như
trước. Trong bối cảnh hiện đại, tục thờ cúng Sơn Tinh không chỉ mang ý nghĩa
tâm linh mà còn được xem như một di sản văn hóa phi vật thể, thu hút du khách
và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Xưa, Lễ hội và tục thờ cúng Sơn Tinh
mang đậm màu sắc tâm linh, là nơi để người dân thể hiện lòng kính trọng và cầu
nguyện cho sự bảo trợ của thần linh.
Lễ hội chỉ diễn ra trong phạm vi làng xã, với quy mô nhỏ và nghi thức phức
tạp, mang tính truyền thống sâu sắc. Mặc dù ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị tâm
linh, nhưng lễ hội đã chuyển hướng nhiều hơn sang các hoạt động văn hóa, giải
trí và du lịch, giảm bớt phần nào tính chất tín ngưỡng thuần túy. Lễ hội được tổ lOMoAR cPSD| 60851861
chức quy mô lớn hơn, mang tính quốc gia hoặc vùng miền, với nhiều hoạt động
hiện đại và thu hút sự tham gia của du khách từ nhiều nơi.
Tuy nhiên ta vẫn có thể thấy được những thay đổi tích cực của ngày nay,
Tục thờ cúng Sơn Tinh, dù đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn được bảo tồn và phát
triển trong bối cảnh hiện đại. Các lễ hội văn hóa gắn liền với Sơn Tinh đã giúp
nâng cao nhận thức về giá trị di sản và thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ. Sự kết
hợp giữa tín ngưỡng và du lịch đã mang lại nguồn thu nhập kinh tế cho địa
phương, giúp cải thiện đời sống của người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Bên cạnh đó vẫn còn những thay đổi tiêu cực cần được khắc phục, Sự
thương mại hóa và hiện đại hóa có thể làm giảm đi giá trị tâm linh nguyên thủy
của tục thờ cúng. Cần có các biện pháp để giữ gìn và truyền đạt đúng đắn các giá
trị này cho thế hệ sau. Trong quá trình hiện đại hóa, các nghi lễ truyền thống có
nguy cơ bị giản lược quá mức hoặc biến tướng, không còn giữ được sự thiêng
liêng vốn có. Cần tăng cường giáo dục về giá trị văn hóa, lịch sử của tục thờ cúng
Sơn Tinh trong cộng đồng, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, giúp họ hiểu rõ và tự hào
về di sản dân tộc; Kết hợp bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch bền vững, hạn
chế tác động tiêu cực của thương mại hóa đến tín ngưỡng, đồng thời mang lại lợi
ích kinh tế cho cộng đồng.
Nhìn chung, sự phát triển của tục thờ cúng Sơn Tinh qua các thời kỳ đã
phản ánh sự thay đổi trong nhận thức và cách thức thực hành tín ngưỡng của
người Việt, từ việc thờ cúng tự nhiên đến việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
trong bối cảnh hiện đại.
3. Quy mô và các lễ nghi thờ cúng a) Quy mô
Trải qua nhiều thế kỷ, hệ thống thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh đã phát triển
với quy mô lớn, tập trung tại các địa điểm chính như cụm di tích núi Ba Vì và đền
Và, nơi lưu giữ nhiều giá trị lịch sử và tâm linh sâu sắc. Trung tâm thờ cúng Tản
Viên Sơn Thánh nằm tại cụm di tích núi Ba Vì, Hà Nội, nơi gắn liền với truyền
thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh. Đây là khu vực được coi là chốn ngự trị của ngài,
với ba ngôi đền chính mang tên Đền Thượng, Đền Trung, và Đền Hạ. Đền Thượng
nằm trên đỉnh núi Ba Vì, ở độ cao hơn 1.200m, là nơi thiêng liêng nhất trong hệ
thống thờ phụng. Với kiến trúc đơn giản nhưng đầy chất tâm linh, ngôi đền không
chỉ nổi bật bởi sự tôn nghiêm mà còn bởi khung cảnh núi non hùng vĩ bao quanh,
tạo nên không gian thiêng liêng, giao hòa giữa đất trời. Đây được coi là nơi Sơn lOMoAR cPSD| 60851861
Tinh ngự trị sau khi chiến thắng Thủy Tinh, tượng trưng cho sức mạnh con người
trước thiên nhiên khắc nghiệt.
Đền Trung, tọa lạc ở độ cao 600m, là nơi lưu giữ một dấu mốc quan trọng
trong truyền thuyết, nơi Sơn Tinh gặp vua Hùng để cầu hôn Mỵ Nương. Ngôi đền
được bao bọc bởi rừng xanh và dòng suối, mang đến cảm giác thanh tịnh và gần
gũi với thiên nhiên. Trong đền, tượng thờ Tản Viên Sơn Thánh cùng bài vị vua
Hùng được bố trí trang nghiêm, nhắc nhở du khách về mối liên kết giữa thần
thánh và lịch sử dân tộc. Ở chân núi Ba Vì, Đền Hạ nằm gần khu dân cư, là điểm
dừng chân đầu tiên trong hành trình lên núi. Đền Hạ tuy nhỏ nhưng vẫn mang nét
tôn kính và là nơi thuận tiện để mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động tín ngưỡng.
Ngoài cụm di tích núi Ba Vì, đền Và ở Sơn Tây, Hà Nội, cũng là một trong
những địa điểm quan trọng thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh. Nằm cách trung tâm
Hà Nội khoảng 50km, ngôi đền này được xây dựng từ thế kỷ 17 với kiến trúc
truyền thống gồm tiền đường, hậu cung và sân rộng. Không gian đền Và rộng lớn,
trang nghiêm, nổi bật với các tượng thờ Thánh Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh và
bài vị vua Hùng. Đền là trung tâm của nhiều lễ hội, đặc biệt là lễ hội tháng Giêng
âm lịch với nghi thức rước kiệu long trọng và các hoạt động dân gian. Đây không
chỉ là nơi tôn vinh vị thần núi mà còn là một không gian văn hóa cộng đồng, kết
nối con người với tín ngưỡng truyền thống.
Hệ thống thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh được tổ chức chặt chẽ với các cung
và gian thờ mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Tiền đường là khu vực đón nhận lễ
vật và diễn ra các nghi lễ cộng đồng, được trang trí với các đồ tế khí như hương
án, bát hương lớn và các kiệu thờ khắc họa hoa văn rồng phượng. Trung đường
hay chính điện là nơi linh thiêng nhất, tập trung các tượng thờ chính. Tượng Thánh
Tản Viên thường được khắc họa uy nghiêm, thể hiện vai trò vừa là thần núi, vừa
là anh hùng dân tộc. Các tượng phụ như Cao Sơn, Quý Minh, và Mỵ Nương bổ
sung cho hệ thống thờ cúng, nhấn mạnh sự gắn kết giữa thần thánh và đời sống
con người. Hậu cung, khu vực sâu nhất trong đền, là nơi giữ những tượng lớn hơn
của Thánh Tản Viên, thường được trang trí với hình ảnh núi non, biểu thị sự
trường tồn của ngài trong tâm thức người Việt.
Hệ thống tượng thờ trong các đền được chế tác công phu, mang đậm tính
nghệ thuật và giá trị tâm linh. Tượng Thánh Tản Viên thường làm từ gỗ mít hoặc
đá, sơn son thếp vàng, thể hiện sự trường cửu. Tượng Cao Sơn, Quý Minh được
khắc họa trong tư thế mạnh mẽ, tượng trưng cho sự hỗ trợ và bảo vệ. Trong khi
đó, tượng Mỵ Nương được tạc với nét dịu dàng, nhân hậu, đại diện cho sự hòa lOMoAR cPSD| 60851861
quyện giữa con người và thần thánh. Sự sắp xếp tượng thờ và các cung, gian tạo
nên không gian linh thiêng, nơi giao hòa giữa thế giới trần tục và tâm linh.
Tản Viên Sơn Thánh không chỉ là biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên mà
còn là cầu nối giữa văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng của người Việt. Các địa điểm
thờ cúng ngài như cụm di tích núi Ba Vì hay đền Và không chỉ phản ánh lòng tôn
kính của nhân dân mà còn là minh chứng cho sự hòa quyện giữa con người với
thiên nhiên và lịch sử. Qua các đền thờ, các lễ hội và hệ thống tượng thờ, tín
ngưỡng Tản Viên Sơn Thánh đã góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. b) Lễ nghi
Tản Viên Sơn Thánh, một trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt
Nam, là biểu tượng cho sức mạnh của thiên nhiên và sự bảo trợ thần thánh đối
với con người. Việc thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh không chỉ đơn thuần là một
nghi lễ tôn giáo mà còn chứa đựng ý nghĩa văn hóa, tâm linh sâu sắc, thể hiện
lòng thành kính của người dân đối với các giá trị truyền thống. Lễ nghi thờ cúng
này được thực hiện theo một quy trình trang nghiêm và bài bản, với từng giai
đoạn mang ý nghĩa tượng trưng riêng biệt.
Trong nghi lễ thờ cúng Tản Viên Sơn Thánh, bước chuẩn bị lễ vật là một
phần quan trọng, thể hiện sự chu đáo và lòng thành của người hành lễ. Lễ vật
được chọn lựa kỹ lưỡng với những yếu tố vừa mang tính thực tế, vừa mang ý
nghĩa tâm linh. Hoa tươi và quả ngọt như chuối, cam, quýt biểu trưng cho sự
thanh khiết và tròn đầy, thể hiện ước nguyện về một cuộc sống sung túc, hài hòa.
Trầu cau, rượu trắng và trà là những lễ phẩm truyền thống, thể hiện sự tôn trọng
và giao hòa âm dương. Bên cạnh đó, xôi, thịt và các loại bánh chưng, bánh dày
đại diện cho sự no đủ và sự gắn bó với truyền thống lâu đời. Hương, nến và tiền
vàng mã là những vật phẩm kết nối thế giới con người với thần linh, giúp chuyển
tải tâm nguyện của người sống đến các đấng tối cao. Việc chuẩn bị lễ vật không
chỉ đảm bảo sự đầy đủ, sạch sẽ mà còn nhấn mạnh tinh thần cẩn trọng, tôn nghiêm.
Khi lễ vật đã được chuẩn bị chu đáo, người hành lễ tiến hành các nghi thức
dâng hương và khấn bái. Quá trình này được thực hiện trong không khí trang
nghiêm, với sự tôn kính tối đa dành cho thần linh. Khi bước vào đền, người hành
lễ ăn mặc chỉnh tề, tránh những trang phục quá sặc sỡ hay thiếu kín đáo, thể hiện
thái độ kính cẩn và tôn trọng. Lễ vật sau đó được đặt lên ban thờ chính, nơi thờ
Đức Thánh Tản Viên, với sự sắp xếp gọn gàng và theo đúng thứ tự. Thắp hương
là một phần không thể thiếu, thường là ba hoặc năm nén, tượng trưng cho sự giao