Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức sản xuất rõ rêt là:sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất ra sản phẩm để thỏa mãn chính nhu cầu của ngườisản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Sản xuất hàng hóa là hình thức tổ chức sản xuất rasản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem
Môn: Triết học Mác-Lenin (THML1)
Trường: Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45764710
Câu 1: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức sản xuất rõ rêt là:
sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất ra sản phẩm để thỏa mãn chính nhu cầu của người
sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Sản xuất hàng hóa là hình thức tổ chức sản xuất ra sản
phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời trong hai điều kiện lịch sử:
Thứ nhất là do sự phân công lao động trong xã hội. Sự phân công lao động trong xã
hội là sự phân chia lao động vào các ngành và mỗi người chỉ sản xuất ra một hoặc một số
loại sản phẩm nhất định. Đây là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, biểu hiện ở
sự chuyên môn hóa sản xuất. Mỗi người thừa sản phẩm do mình sản xuất ra nhưng lại thiếu
sản phẩm khác. Vì vậy, sự trao đổi hàng hóa là điều kiện tất yêu và có lợi đối với mỗi người
sản xuất. Đây là điều kiện cần cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa.
Điều kiện thứ hai là sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Điều này làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, họ làm ra sản phẩm dựa trên tư
liệu của chính họ và có quyền chi phối những sản phẩm đó. Sự tách biệt này xuất hiện là
do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với
nhau. Tuy nhiên, sự phân công lao động trong xã hội lại làm họ phụ thuộc vào nhau. Sản
xuất hàng hóa ra đời chính là để giải quyết mâu thuẫn này. Muốn có sản phẩm khác thì
những người sản xuất phải mua bán hàng hóa với nhau. Đây chính là điều kiện đủ cho sự
ra đời của sản xuất hàng hóa.
Ở Việt Nam, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là do sự
da dạng hóa các hình thức sở hữu, tách quyền sở dụng ra khỏi quyền sở hữu đối với sản
phẩm của nhà nước, thừa nhận sở hữu tư nhân. Theo đó, nhà nước nắm quyền sở hữu còn
trao quyền sử dụng cho doanh nghiệp để doanh nghiệp được độc lập sản xuất và phân phối
hàng hóa, hình thành sự trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc thuận mua vừa bán.
Những hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hóa xuất hiện từ thời kì tan rã của chế độ
nguyên thủy, tồn tại và phát triển tiếp tục ở các phương thức sản xuất tiếp theo. Sản xuất
hàng hóa phát triển nhất ở chế độ tư bản chủ nghĩa và tiếp tục tồn tại, phát triển dưới chủ
nghĩa xã hội vì dưới chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau và sự
phân công lao động xã hội ngày càng phát triển.
Như vậy, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đồng thời có hai điều kiện trên, nếu thiếu
một trong hai thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
Sx tự cấp tự túc và sxhh => 2 điều kiện=>thứ nhất, kết quả của ptr llsx=>1 nsx thừa
sp của mình nhưng thiếu sp khác => trao đổi là tất yếu=> đk cần lOMoAR cPSD| 45764710
Đk2=> nsx độc lập, sx và chi phối sp =>do tư hữu tlsx => vẫn phụ thuộc => điều kiện đủ
VN=>đa dạng hóa hình thức sở hữu, tách sd và sở hữu đối với sp nhà nước, thừa
nhân sở hữu tư nhân => doanh nghiệp độc lập => thuận mua vừa bán
Sxhh xh đầu tiên cxnt tan rã => ptr qua các ptsx => ptr nhất ở tbcn => tồn tại ở
cnxh vì có sự đa dạng sở hữu và phân công lđ ptr
Kết luận: phải có 2 điều kiện => thiếu thì không có sxhh, sản phẩm lao động không
mang hình thái hàng hóa
Câu 2: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa, lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán. Từ khái niệm này, ta có thể thấy ba điểm chính: Hàng hóa
nhất thiết phải là sản phẩm do lao động của con người tạo ra, sản phẩm đó được tạo ra
nhưng phải có ích và phải được tiêu dùng, sử dụng thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau sẽ có bản chất sản xuất hàng hóa khác nhau, song hàng hóa nào cũng đều có 2 thuộc
tính: giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ, giá trị sử dụng của cơm để ăn, áo để mặc, xe để đi,… Chính công dụng của vật phẩm
làm cho nó có giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy định, nên nó là
một phạm trù vĩnh viễn. Hàng hóa càng có nhiều thuộc tính khác nhau thì càng có nhiều
giá trị sử dụng khác nhau. Khi khoa học công nghệ phát triển, người ta ngày càng phát hiện
ra nhiều thuộc tính, lợi ích của vật chất để tạo ra càng nhiều sản phẩm, nhiều giá trị sử
dụng. Ví dụ, than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất đốt nhưng hiện nay được sử dụng
trong một số công nghiệp hóa chất.
Giá trị sử dụng chỉ được thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng nó, nó là nội
dung của của cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như thế nào. Đã là hàng hóa thì
phải có giá trị sử dụng. Tuy nhiên, không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng là hàng
hóa, ví dụ như ánh sáng, không khí,… Một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng
của nó phải được đem ra trao đổi, mua bán, nghĩa là phải có giá trị trao đổi.
Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Thuộc tính thứ hai của hàng hóa là thuộc tính giá trị. Muốn hiểu được thuộc tính này,
trước hết ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỉ lệ
trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau. lOMoAR cPSD| 45764710
Ví dụ: 1m vải = 3 đấu thóc
Khi hàng hóa được đem ra trao đổi, chúng phải có một cơ sở chung với nhau. Cái
chung ấy không phải là giá trị sử dụng vì mỗi hàng hóa có công dụng, giá trị sử dụng khác
nhau. Điểm chung nhất giữa các hàng hóa chính là chúng đều là sản phẩm của lao động.
Thực chất trao đổi hàng hóa cho nhau chính là trao đổi lao động ẩn giấu trong các hàng
hóa đó. Ở ví dụ trên, giả sử một người thợ dệt mất 2 tiếng để tạo ra 1m vải, một người nông
dân sản xuất 3 đấu thóc hết 2 giờ. Trao đổi 1m vải lấy 3 đấu thóc chẳng qua là trao đổi 2
giờ lao động sản xuất vải lấy 2 giờ lao động sản xuất thóc.
Vì thế, cơ sở cho hai hàng hóa khác nhau được đem ra trao đổi chính là hao phí lao
động xã hội sản xuất ra hai hàng hóa đó. Lao động xã hội mà người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa chính là giá trị hàng hóa. Hay nói cách khác, giá trị hàng hóa chính là
hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra hàng hóa. Hao phí lao động xã hội bao gồm hao
phí lao động sống của người lao động sản xuất trực tiếp ra sản phẩm (thể lực, trí lực, thời
gian) và hao phí lao động trong quá khứ để sản xuất ra tư liệu sản xuất.
Giá trị hàng hóa phải phản ánh hao phí lao động trung bình trong ngành. Hao phí lao
động càng nhiều thì giá trị hàng hóa càng cao, giá trị trao đổi càng cao và ngược lại. Khi
khoa học – công nghệ phát triển, ngày càng có nhiều sản phẩm và giá trị hàng hóa có xu
hướng giảm vì hao phí lao động xã hội giảm.
Như vậy, giá trị hàng hóa quyết định giá trị trao đổi, giá trị trao đổi là biểu hiện của
giá trị hàng hóa. Bất cứ hàng hóa nào cũng có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, Giữa
chúng vừa có sự thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn với nhau.
Khái niệm hàng hóa => 3 điểm
2 dạng vật thể, phi vật thể => giá trị sử dụng, giá trị
Giá trị sử dụng => do công dụng => thuộc tính quyết định, phạm trù vĩnh
viễn => nhiều thuộc tính => vật chất của của cải => KHCN => không phải hàng
hóa => phải được trao đổi, mua bán => giá trị trao đổi
Giá trị trao đổi => tỉ lệ giữa gtsd => vd => điểm chung giữa hh => phân
tích ví dụ => giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa => hpld xh cần thiết => gồm hplđ sống và hplđ quá khứ =>
phản ánh hplđ trung bình trong ngành => hplđ cao, gthh cao => KHCN phát triển, hplđ giảm
Kết luận : gthh quyết định gttđ, hh nào cũng có 2 thuộc tính vừa thống nhất vừa mâu thuẫn
Lượng giá trị hàng hóa là lượng hao phí lao động xã hội để tạo ra sản phẩm, do thời
gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường do rất nhiều lOMoAR cPSD| 45764710
người sản xuất ra, mỗi người sản xuất có điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là khác nhau
nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa cũng khác nhau. Tuy nhiên, lượng
giá trị hàng hóa không do hao phí lao động cá biệt xác định mà phải phản ánh hao phí lao
động xã hội trong ngành nên lượng giá trị hàng hóa được đo lường bởi thời gian lao động
xã hội cần thiết (thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trong điều kiện
trình độ, cường độ,.. trung bình của xã hội)
Ví dụ, trong sản xuất công nghiệp có vô số người tham gia sản xuất một sản phẩn, giả
sử có 3 người sản xuất A,B,C ứng với điều kiện sản xuất, hao phí lao động cá biệt và sản lượng tạo ra như sau: Người sản ĐKSX HPLĐ Q (triệu) xuất cb/dvsp A Tốt 2 h 100 B Trung bình 3 h 700 C Xấu 4 h 200
Dựa vào bảng trên, hao phí thời gian trung bình xã hội sẽ là : (200+2100+800)/ (100+700+200)~3,1h
Như vậy, lượng giá trị hàng hóa chịu chi phối bởi hao phí lao động cá biệt của nhóm
cung ứng đại bộ phận sản phẩm ra thị trường và do hao phí lao động cá biệt của nhóm có
điều kiện sản xuất trung bình quyết định.
Lượng hplđ tạo ra sp, tính bằng tglđ => do tglđ cá biệt khác nhau => tglđ xh cần thiết
Ví dụ => chi phối bởi hplđ cb của nhóm cung ứng nhiều sp, hplđ cb của nhóm đksx trung bình
Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hóa: năng suất lao động và mức độ phức tạp của lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất ra sản phẩm của người lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian cần
thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Khi năng suất lao động càng tăng, thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm
càng giảm, vì thế mà sản lượng càng tăng và giá trị một đơn vị sản phẩm giảm. Vì vậy mà
người sản xuất luôn tìm biện pháp tăng năng suất lao động để hao phí lao động cá biệt thấp
hơn hao phí lao động xã hội nhằm thu càng nhiều lợi nhuận. Một số biện pháp tăng năng suất lao động như:
- Ứng dụng những tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất, máy móc, thiết bị, công nghệ lOMoAR cPSD| 45764710
- Nâng cao trình độ người lao động, đào tạo lao động hoặc trả lương cao để
thuê lao động trình độ cao
- Nâng cao trình độ quản lí, tổ chức, sắp xếp, hợp lí hóa các khâu của quá trình sản xuất
- Khai thác những thuận lợi của điều kiện tự nhiên
Cùng tạo ra nhiều sản phẩm hơn nhưng cần phân biệt năng suất lao động và cường
độ lao động. Cường độ lao động chỉ mức hao phí lao động trên một dơn vị thời gian, thể
hiện mức độ khẩn trương, nặng nhọn hay căng thẳng của lao động. Khi tăng cường độ lao
động, trong một đơn vị thời gian thì hao phí lao động và sản phẩm tạo ra tăng tương ứng
nhưng hao phí lao động xét trên một đơn vị sản phẩm là không đổi. Vì việc tăng cường độ
lao động không làm thay đổi chất của quá trình sản xuất, cách thức lao động không đổi,
hao phí lao động không đổi mà chỉ là kéo dài thời gian lao động.
Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là mức độ phức tạp của lao
động. Lao động được chia thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản
đơn là những loại lao động mà người lao động chỉ cần có điều kiện bình thường, không cần
đào tạo mà vẫn có thể làm được. Lao động phức tạp là lao động mà người lao động phải
có trình độ, được đào tạo chuyên môn mới thực hiện được. Ví dụ, người rửa bát không cần
yêu cầu trình độ, độ tuổi, … vẫn có thể làm được nên là lao động sản đơn còn thợ mộc cần
có kĩ năng, trình độ chuyên môn mới có thể đóng bàn, ghế, điêu khắc,… nên là lao động
phức tạp. Vì thế, trong một thời gian lao động, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn
lao động giản đơn. Tuy nhiên, để đảm bảo sự cộng bằng, trong quá trình trao đổi, người ta
quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị hàng
hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
NSLĐ => tăng làm gthh giảm => lợi nhuận => biện pháp tăng nslđ
Cđlđ => tăng không làm tăng gthh => kéo dài tglđ
Mức độ phức tạp => kn=> vd=> quy đổi
Kết luận: lượng gthh đo bằng tglđ xh cần thiết, giản đơn trung bình.
Câu 4: Nội dung và tác động của quy luật giá trị
Theo nội dung của quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên hao
phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất hàng hóa, mỗi người sản xuất khác nhau sẽ có hao phí lao động cá
biệt khác nhau, nhưng giá trị hàng hóa không được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt
của từng người sản xuất mà phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn lOMoAR cPSD| 45764710
bán được hàng hóa, bù đắp chi phí và có lãi thì người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho
hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp vớ mức chi phí xã hội chấp nhận được.
Lưu thông hàng hóa cũng phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là
trao đổi hàng hóa phải dựa trên nguyên tắc ngang giá (giá cả bằng giá trị). Thị trường trao
đổi hàng hóa có vô số người mua, người bán và quá trình trao đổi chỉ diễn ra khi thuận mua
vừa bán (giá cả hàng hóa bằng giá trị hàng hóa). Khi có sự mất cân đối giữa giá cả và giá
trị sẽ dẫn đến trao đổi không ngang giá. Nhưng đây chỉ là hiện tượng tạm thời vì giá cả
luôn có xu hướng quay về giá trị.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá
trị là cơ sở của hàng hóa, nên giá cả trước hết phụ thuộc vào giá trị, Hàng hóa nào có giá
trị càng cao thì giá càng cao.
Trong kinh tế hàng hóa, ngoài giá trị thì giá trị còn bị các nhân tố ngoại sinh như cạnh
tranh, cung cầu, giá trị đồng tiền,… chi phối. Sự tác động của những nhân tố này làm cho
giá cả trên thị trường tách rời với giá trị hàng hóa nhưng vận động lên xuống xung quanh
trục giá trị hàng hóa, đây cũng chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua
sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
Sx và thhh=> sx: không theo hplđ cb, lthh: ngang giá=> quy luật thể hiện thông qua
giá cả hh, giá trị cao => giả cả cao
Nhân tố ah đến giá cả => vđ của giá cả quanh giá trị là cơ chế hoạt động của quy luật
Trên thị trường, quy luật giá trị có 3 tác động chính:
Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đối với sản xuất hàng hóa, quy
luật giá trị giúp phân bổ lại nguồn lực vào các ngành khác nhau một cách hợp lí để thiết
lập một cân đối kinh tế nhất định (cân bằng về giá và cân bằng cung cầu). Giả sử nền kinh
tế đang có sự mất cân đối: một ngành có quá nhiều người sản xuất làm cung lớn hơn cầu,
giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị, từ đó lợi nhuận người sản xuất thu được thấp. Điều này
dẫn đến việc cắt giảm sản xuất, di chuyển nguồn lực sang ngành có ít nguồn lực hơn. Đối
với lưu thông hàng hóa, quy luật giá trị sẽ dẫn tới sự di chuyển hàng hóa từ nơi giá thấp
đến nơi giá cao để cân bằng giá cả giữa các khu vực và cân bằng cung cầu. Ví dụ, thành
phố 1 có cung lớn hơn cầu nên giá p1 thấp hơn giá trị, thành phố 2 có cung nhỏ hơn cầu
nên giá p2 cao hơn giá trị. Sẽ có người vận chuyển hàng hóa từ thành phố 1 sang thành phố
2 làm giá p1 tăng, giá p2 giảm đến khi p1 và p2 bằng nhau.
Thứ hai là kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Mỗi người sản xuất tự quyết định
mức độ hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị hàng hóa xác định bới hao phí lao
động xã hội cần thiết. Người sản xuất nào có điều kiện sản xuất tốt hơn sẽ có hao phí lao
động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết và có nhiều lợi nhuận hơn. Để thu lOMoAR cPSD| 45764710
được nhiều lãi và tránh thua lỗ, người sản xuất phải liên tục cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng
suất lao động, hiểu quả sản xuất để hạ thấp hao phí lao động cá biệt, tối thiểu là bằng hao
phí lao động xã hội cần thiết. Sự cạnh tranh giữa những người sản xuất luôn xảy ra và mang
tính xã hội, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba là bình chọn tự nhiên những người sản xuất. Quá trình cạnh tranh theo đuổi
giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là những người có điều kiện sản xuất tốt hơn, năng suất lao
động cao hơn, hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ giàu
lên nhanh chóng. Ngược lại, những người có hao phí lao động cá biệt cao sẽ thua lỗ, phá
sản và nghèo khó. Như vậy, quy luật giá trị sẽ chọn lọc và giữ lại những người sản xuất có
năng suất lao động cao, hao phí lao động cá biệt thấp và đào thải người sản xuất có năng
suất lao động thấp, hao phí lao động cá biệt cao.
Tác động của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt là chi phối sự lựa chọn tự nhiên,
loại bỏ các nhân tố yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác là phân
hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội.
3 tác động => điều tiết sx, lt: sx (phân bổ nguồn lực vào các ngành hợp lí, cân đối
kinh tế - cb giá, cung cầu: giả sử mất cân đối), lt (di chuyển hh – cân bằng giá, cung cầu):
ví dụ ) => kích thích llsx (tăng nslđ => tính xã hội) => bình chọn tự nhiên những nsx (giữ
hplđ thấp, loại hplđ cao)
Ý nghĩa => chi phối sự lựa chọn tự nhiên, loại bỏ yếu tố kém, kích thích tích cực =>
phân hóa giàu nghèo
Câu 5: Sự chuyển hóa tiền thành tư bản: công thức chung của tư bản và mâu
thuẫn của công thức chung, điều kiện ra đời và hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
Tư bản là tiền vận động theo công thức T – H – T’, T’ là tiền thu về lớn hơn tiền ứng ra T ban đầu.
Có T’ – T = delta T là giá trị thặng dư hay giá trị tăng thêm
Xét trong lưu thông, trao đổi hàng hóa chủ yếu theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,
tức T’=T nên không tạo ra delta T. Trao đổi không ngang giá chỉ là tạm thời và không phổ
biến: Trường hợp giá cả lớn hơn giá trị (lợi thuộc về người sản xuất), người bán giá đắt
hơn nhưng vẫn không tạo ra delta T vì người bán cũng là người mua trong một hoạt động
mua bán hàng hóa khác. Tương tự như vậy, khi giá cả nhỏ hơn giá trị (lợi thuộc về người
mua), việc mua rẻ cũng không tạo ra delta T vì người mua cũng là người bán trong hoạt
động mua bán khác. Một trường hợp có tạo ra delta T là việc mua rẻ, bán đắt. Tuy nhiên
việc này chỉ lí giải trên phạm vi một nhóm người mà không phải phạm vi toàn xã hội vì cái
người này được lợi chính là phần thiệt hại của đối tác. Như vậy, xét trên phạm vi toàn xã lOMoAR cPSD| 45764710
hội, tổng giá trị không đổi và trao đổi không ngang giá cũng không tạo ra delta T. Điều này
có nghĩa là trong lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư trên toàn bộ xã hội.
Xét ngoài lưu thông, tiền ngoài lưu thông không thể tự gia tăng giá trị. Hàng ngoài
lưu thông có hàng cất trữ và hàng tiêu dùng. Hàng cất trữ, tồn kho thường có giá trị bị giảm
theo thời gian. Hàng tiêu dùng bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Trong sản
xuất, tư liệu sau khi sản xuất không làm tăng thêm giá trị. Trong tiêu dùng, tư liệu được sở
hữu cá nhân và tiêu dùng cũng không tăng giá trị. Do đó, ngoài lưu thông hàng hóa cũng
không xuất hiện giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư delta T không được sinh ra trong lưu thông hay ngoài lưu
thông, nhưng thực tế đa số người đầu tư lại thu được giá trị thặng dư. Mẫu thuẫn này chứng
tỏ tư bản phải được tạo ra hoặc trong lưu thông hoặc ngoài lưu thông.
Tư bản => CTC=> trong lưu thông: ngang giá, không ngang giá => ngoài lưu
thông: tiền cất trữ, hàng :cất trữ, tiêu dùng => Kết luận
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của người lao động được sử dụng để sản
xuất, tạo ra sản phẩm. Hàng hóa sức lao động chỉ được ra đời khi có hai điều kiện: thứ nhất,
người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động của mình và có thể bán
sức lao động của mình như một loại hàng hóa. Thứ hai, người lao động phải bị tước đoạt
toàn bộ tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, trở thành vô sản, phải bán sức lao động để tồn tại.
Hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính: giá trị của hàng hóa sức lao động và giá trị
sử dụng hàng hóa sức lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động chính là hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra sức
lao động, tiêu dùng tư liệu sinh hoạt nhất định để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần.
Giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động. Giá
trị hàng hóa sức lao động được cấu thành bởi: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân
người lao động, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người lao động và phí tổn
đào tạo người lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động mang tính tinh thần và tính lịch sử.
Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động chỉ được thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức
lao động. Quá trình đó là quá trình sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó, đồng thời tạo ra
giá trị mới (v+m) lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động (v). Phần lớn hơn đó
(m) chính là giá trị thặng dư bị tư bản chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa
sức lao động có tính chất đặc biệt, là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư. Đó là chìa khóa để
giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Hàng hóa sức lao động là hoàng hóa duy
nhất khi tiêu dùng có thể gia tăng thêm giá trị, là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.
Kn SLĐ=> 2 điều kiện => 2 giá trị lOMoAR cPSD| 45764710
Giá trị hh SLĐ: hplđ xh cần thiết để sx SLĐ = gtri TLSH cần thiết cho NLĐ => cấu
thành: TLSH bản thân, gia đình, phí tổn đào tạo NLĐ
Giá trị sử dụng hh SLD => thể hiện trong tiêu dùng => sx hàng hóa, tạo ra gtri mới
lớn hơn gtri bản thân => GTTD=> nguồn gốc sra GTTD.
Câu 6: Quá trình sản xuất giá trị thặng dư, hai phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư, giá trị thặng dư siêu ngạch
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn. Đó là sự
kết hợp của 3 quá trình: sản xuất giá trị sử dụng, sản xuất giá trị và sản xuất giá trị thặng
dư (mực đích tuyệt đối hóa của chủ nghĩa tư bản)
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất của nhà tư bản và sức
lao động làm thuê, có các đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà
tư bản, giống như những yếu tố sản xuất khác của nhà tư bản được sử dụng sao cho hiệu
quả nhất; hai là sản phẩm người lao động tạo ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không
phải của người làm động.
Giả định nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư là trao đổi ngang giá và điều
kiện sản xuất thuộc mức trung bình trong xã hội.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một
nhà tư bản làm ví dụ. Giả định để sản xuất ra 10kg sợi cần có 20kg bông và giá của 20kg
là 10$. Để chuyển số bông đó thành sợi, một người công nhân cần làm việc trong 6 giờ và
hao mòn máy móc, thiết bị là 2$; giá trị sức lao động trong một ngày là 3$. Như vậy mỗi
giờ người lao động tạo ra một lượng giá trị là 0,5$.
Nếu công nhân lao động trong 6 giờ thì: Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới
- Tiền mua bông: 10$ - Giá trị bông được chuyển vào sợi: - Hao mòn máy móc: 10$ 2$
- Giá trị của hao mòn máy móc được
- Tiền mua SLĐ trong chuyển vào sợi: 2$ 1 ngày: 3$
- Giá trị mới do lao động của công Tổng: 15$ nhân tạo ra: 3$ Tổng: 15
Nếu nhà tư bản thuê lao động làm trong 6h thì không tạo ra delta T.
Nếu công nhân lao động trong 12 giờ thì: Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới lOMoAR cPSD| 45764710
- Tiền mua bông: 20$ - Giá trị bông được chuyển vào sợi: - Hao mòn máy móc: 20$ 4$
- Giá trị của hao mòn máy móc được
- Tiền mua SLĐ trong chuyển vào sợi: 4$ 1 ngày: 3$
- Giá trị mới do lao động của công Tổng: 27$ nhân tạo ra: 6$ Tổng: 30$
Nếu tư bản thuê lao động làm trong 12h thì tạo ra 1 lượng delta T = 3$, đây chính là
giá trị thặng dư mà tư bản thu được.
Giá trị thặng dư chính là một phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, ta có 3 kết luận:
Thứ nhất, giá trị sản phẩm có hai phần: giá trị cũ (c=24$) là phần giá trị của tư liệu
sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,… được bảo tồn chuyển sang sản phẩm và
giá trị mới (v+m=6$) là giá trị cho sức lao động tạo ra. Giá trị sản phẩm bằng tổng giá trị cũ và giá trị mới.
Thứ hai, ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: phần thứ nhất là thời
gian lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị đúng bằng giá trị sức lao động (v)
của mình – thời gian lao động cần thiết và lao động trong thời gian đó được gọi là lao động
cần thiếu. Phần thứ hai là thời gian lao động mà người lao động tạo ra giá trị thặng dư (m)
được gọi là thời gian lao động thặng dư, lao động trong thời gian đó là lao động thặng dư.
Vậy, quá trình sản xuất giá trị thặng dư là quá trình sản xuất được kéo dài quá thời gian lao động cần thiết.
Cuối cùng, sau nghiên cứu quá trình này, ta nhận thấy mâu thuẫn của công thức chung
của tư bản đã được giải quyết. Trong lưu thông, nhà tư bản mua được một loại hàng hóa
đặc biệt là sức lao động. Sau đó nhà tư bản đem hàng hóa đặc biệt vào sản xuất, tức là
ngoài lưu thông, để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó mà tiền của nhà tư
bản chuyển thành tư bản.
Sx tbcn gồm 3 quá trình, kết hợp 2 yếu tố (2 điều kiện)=> giả định nghiên cứu 2 yếu
tố=> ví dụ quá trình sx sợi => kết luận gttd: 1 phần gtri mới dôi ra ngoài giá trị slđ do
nlđ tạo ra nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt
3 kết luận => gttd=gt cũ + gt mới => ngày lao động 2 phần: cần thiết, thặng dư =>
mâu thuẫn được giải quyết: ntb mua được hh slđ trong lưu thông -> đem vào sx, ngoài lưu thông -> gttd
Có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và
sản xuất giá trị thặng dư tương đối. lOMoAR cPSD| 45764710
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư bằng
cách kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động cần thiết trong khi năng suất lao
động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Do thời gian lao
động tăng lên nhưng thời gian lao động tất yếu không đổi nên thời gian lao động thặng dư
tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư (m’=m/v.100%) càng cao, giá trị thặng dư tuyết đối càng
nhiều. Tuy nhiên, trong thực tế, việc kéo dài thời gian lao động vấp phải những giới hạn
nhất định như giới hạn về mặt thể chất và tinh thần của công nhân. Mặt khác, nó còn bị
giới hạn do những phong trào đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm và ngày lao động tự
nhiên chỉ là 24 giờ. Vì vậy, giai cấp tư sản không thể kéo dài ngày lao động một cách vô
hạn. Thay vào đó, nhà tư bản tăng cường độ lao động, tăng mức độ khẩn trương (ví dụ:
thuê người đốc thúc), thực chất đây cũng là việc kéo dài thời gian lao động.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, nhờ đó mà thời gian lao
động thặng dư tăng lên trong điều kiện độ dài ngày lao động như cũ. Muốn rút ngắn thời
gian lao động tất yếu thì phải giảm giá trị sức lao động, nghĩa là phải giảm giá trị tư liệu
sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của người lao động. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng
cách tăng năng suất lao động trong các quá trình tạo ra tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu
dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản
xuất để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu thì đến giai đoạn tiếp theo, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ
thuật thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao tình
độ bóc lộc công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa tư bản, máy móc không phải để làm giảm
cường độ lao động của công nhân mà trái lại để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự
động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên nhưng dưới hình thức căng thẳng
của trí lực mà không phải thể lực.
gttd tuyệt đối – kéo dài ngày lđ quá tglđ cần thiết khi tglđ ct không đổi, nslđ không
đổi => tỉ suất gttd tăng, gttd tăng => hạn chế: thể lực, trí lực nlđ; phong trào; ngày lđ tự
nhiên 24h=>tăng cđlđ:kéo dài tglđ gttd tương đối – rút ngắn tglđ tất yếu => tăng nslđ,
tăng tglđ thặng dư => muốn vậy: giảm gt slđ = giảm gt tlsh trong pvi tiêu dùng của nlđ
=> tăng nslđ trong sx tlsh hay tăng nslđ xs tlsx để sx ra tlsh gđ đầu tbcn => tuyệt đối, gđ
sau pt khcn => tương đối, khcn= tăng cđlđ => 2pp
dùng để bóc lộ slđ => ngày nay, tự động hóa sx làm cđlđ tăng trí lực thay vì thể lực
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao
động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời nhưng xét
toàn bộ xã hội thì giá trị siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá lOMoAR cPSD| 45764710
trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của mọi nhà tư bản và là động lực mạnh nhất để kích
thích nhà tư bản phát triển khoa học kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động cá biệt . K.Mark
gọi đây là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối vì cả hai đều làm tăng năng suất lao
động (mặc dù một cái là tăng nắng suất lao động cá biệt, một cái là tăng năng suất lao động
xã hội). Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể
hiện ở việc giá trị thặng dư tương đối do toàn xã hội thu được. Giá trị thặng dư siêu ngạch
chỉ do một số nhà tư bản có kĩ thuật tiên tiến thu dược. Giá trị thặng dư siêu ngạch không
chỉ thể hiện mối quan hệ bóc lột giữa tư bản và công nhân làm thuê mà còn thể hiện sự
cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Như vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch vừa có tính tạm thời vừa có tính phổ biến, là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào
sản xuất, … để tăng năng suất lao động, giảm giá trị hàng hóa.
Khái niệm: tăng nslđ cb, giảm gthhcb=> tạm thời, phổ biến=> khát vọng của toàn
bộ ntb=> cải tiến kĩ thuật,… => biến tướng của gttd tương đối: nslđ cá biệt, chỉ do những
ntb có kĩ thuật tiên tiến thu được => phản ánh bản chất tư bản – công nhân, sự cạnh tranh
giữa các ntb => kết luận: tính chất, động lực tăng nslđ
Câu 7: Lợi nhuận, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất: lợi nhuận, tỷ suất lợi
nhuận, cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành
Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài
như là kết quả của tài kinh doanh của nhà tư bản và vốn đầu tư của nhà tư bản mang lại.
Lợi nhuận = doanh thu – chi phí sản xuất Hay: p = (c+v+m) – (c+v)=m
Lợi nhuận là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư nhưng nó phản ánh sai
lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm người ta
hiểu lầm rằng lợi nhuận không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra.
Nguyên nhân là vì: thứ nhất, lợi nhuận p được sinh ra bởi bộ phận v nay được thay
thế bằng k=c+v khiến cho p được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. Thứ
hai, nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa với giá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là
có thể thu được lợi nhuận, điều này làm cho lợi nhuận đôi khi khác với giá trị thặng dư.
Nếu nhà tư bản bán giá cả bằng giá trị thì p=m, nếu giá cả lớn hơn giá trị thì p>m và nếu
giá cả nhỏ hơn giá trị thì pgian dài thì tổng giá cả bằng tổng giá trị, tức là tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư.
Sự không nhất trí giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư càng che giấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. lOMoAR cPSD| 45764710
Hình thức biểu hiện gttd => bị hiểu do tài năng, vốn kinh doanh=> công thức=>
nguyên nhân: p sinh ra do v nhưng bị thay bằng k=v+c => con đẻ của tư bản ứng trước
Sự chênh lệch p và m do giá cả # giá trị => che giấu bản chất bóc lột
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ suất tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư
bản ứng trước: p=m/(c+v).100% , phản ánh hiệu quả của việc đầu tư tư bản (mức sinh lời của việc đầu tư)
Tỷ suất lợi nhuận chịu ảnh hưởng của một số nhân tố:
Thứ nhất là tỷ suất giá trị thặng dư: do lợi nhuận p chính là hình thức biểu hiện của
giá trị thặng dư m nên khi tỷ suất giá trị thặng dư m’ càng lớn thì tỷ suất lợi nhuận p’ càng lớn.
Thứ hai là cấu tạo hữu cơ của tư bản c/v: Trong điều kiện giá trị thặng dư không đối,
nếu câu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm.
Thứ ba là tốc độ chu chuyển của tư bản: nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn
thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều, giá trị
thặng dư theo đó tăng lên làm tỷ suất lợi nhuận cũng tăng theo.
Thứ tư là tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện sản xuất giá trị thặng dư và tư bản
khả biến v không đổi, thì tư bản bất biến c càng nhỏ thì tư tỷ suất lợi nhuận càng lớn. c
giảm dẫn tới c+v giảm, theo đó p’=m/(c+v).100% tăng lên.
Phần trăm giữa gttd và tư bản ứng trước=> hiệu quả việc đầu tư tư bản=> nhân tố
ảnh hưởng: tỷ suất gttd, cấu tạo hữu cơ, tốc độ chu chuyển tb, tiết kiệm tư bản bất biến.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa những người sản xuất cùng một
loại hàng hóa để giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để
thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kĩ thuật, nâng cao
năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa sản xuất ra thấp hơn giá trị hàng
hóa. Kết quả của quá trình đối với cá nhân nhà sản xuất là thu được nhiều lợi nhuận hơn,
giá trị thặng dư siêu ngạch tăng. Đối với xã hội, hình thành nên giá trị thị trường (giá trị xã
hội) của từng loại hàng hóa: điều kiện sản xuất trung bình trong ngành tăng do kĩ thuật sản
xuất phảt triển, làm giá trị hàng hóa thị trường giảm.
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa những người sản xuất thuộc các
ngành khác nhau nhằm tìm nơi có đầu tư có lợi nhất (nơi có tỷ suất lợi nhuận cao nhất).
Cùng một lượng tư bản đầu tư nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản khác nhau làm tỷ suất
lợi nhuận khác nhau. Các nhà sản xuất di chuyển tư bản (tư liệu sản xuất, sức lao động)
của mình từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp đến ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Sản phẩm
của ngành có tỷ suất lợi nhuận cao trở nên nhiều hơn, giá cả giảm xuống và tỷ suất lợi
nhuận cũng giảm xuống. Sự tự do di chuyển này làm thay đổi là tỷ suất lợi nhuận cá biệt lOMoAR cPSD| 45764710
vốn có của các ngành và chỉ tạm dừng khi tỷ suất lợi nhuận ở các ngành xấp xỉ bằng nhau.
Từ đó tỷ suất lợi nhuận bình quân xuất hiện.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân p’ là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư
và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nên sản xuất tư bản chủ nghĩa (công thức)
Lợi nhuận bình quân p ngang là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản khác nhau,
đầu tư những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào.
Cạnh tranh nội bộ => đạt thuận lợi sx, tiêu thụ hh thu được lnsn=> biện pháp: thúc
đẩy kh – kt phát triển, tăng nslđ, giản hplđ cb=> tăng gttd sn => cá nhân: thu được nhiều
gttd sn => xh: hình thành giá trị thị trường (giá trị xh):nslđ xh tăng, giá trị hh giảm
Cạnh tranh giữa các ngành => tìm nơi đầu tư có lợi nhất: p’ lớn hơn=> ngành khác
nhau, tư bản như nhau, cấu tạo hữu cơ khác nhau=> p’ khác nhau=> biện pháp: di chuyển
tư bản từ nơi p’ thấp sang nơi p’ cao => p’ giữa các ngành xấp xỉ nhau => tỷ suất lợi
nhuận bình quân => tỷ lệ % tổng m/tổng k => lợi nhuận bình quân: số lợi nhuận thu được
bằng nhau trong các ngành khác nhau dù cấu tạo hữu cơ khác nhau
Câu 8: Nguồn gốc, bản chất lợi nhuận thương nghiệp, cho ví dụ minh họa
Tư bản thương nghiệp là tư bản chuyên môn hóa trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa,
kiếm lời thông qua hoạt động trao đổi, mua bán. Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương
nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp được tách rời ra và phục vụ quá trình lưu
thông hàng hóa của tư bản công nghiệp Ptn= giá bán – giá mua
Trong thời kì phong kiến, lợi nhuận tư bản được coi là do mua rẻ, bán đắt từ lừa đảo,
cân đo đong đếm giả dối, lợi dụng người sản xuất mà có,
Trong thời kì tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp thu được có nguồn
gốc từ một phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất và do nhà tư bản
công nghiệp nhượng lại vì tư bản thương nghiệp đã đảm nhập khâu bán hàng (khâu mua tư
liệu sản xuất) cho tư bản sản xuất.
Tư bản công nghiệp nhượng một phần giá trị thặng dư bằng cách bán hàng hóa cho
tư bản thương nghiệp với giá thấp hơn giá trị hàng hóa, sau đó tư bản thương nghiệp bán
cho người tiêu dùng với giá đúng giá trị của nó.
Như vậy, nguồn tốc lợi nhuận tư bản thương nghiệp thu được là một phần lợi nhuận
do tư bản công nghiệp nhượng lại. Và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp chính là giá
trị thặng dư do người lao động tạo ra trong quá trình sản xuất. lOMoAR cPSD| 45764710
Ví dụ minh họa: một tư bản công nghiệp ứng ra 1000 tư bản để sản xuất hàng hóa,
cấu tạo hữu cơ của tư bản là 4/1, tỷ suất giá trị thặng dư m’=125%. Khi đó, k=800c+200v
Giá trị thặng dư tư bản công nghiệp thu được là m=200.125%=250, tỷ suất lợi công
nghiệp là p=250/1000*100%=25%
Giá trị hàng hóa sẽ là 1000+250=1250.
Giá bán hàng hóa của tư bản công nghiệp là 1250 và thu được lợi nhuận là 250.
Tuy nghiên, khi có tư bản thương nghiệp ứng ra 250 tư bản và tư bản công nghiệp
bán hàng cho tư bản thương nghiệp thì tỷ suất lợi nhuận công nghiệp = tỷ suất lợi nhuận
thương nghiệp = tỷ suất lợi nhuận bình quân = 250/(1000+250).100%=20%.
Lúc này, giá tư bản công nghiệp bán cho tư bản thương nghiệp là
1000+20%.1000=1200 và lợi nhuận công nghiệp là 200
Giá tư bản thương nghiệp bán cho người dùng là giá trị hàng hóa, tức là 1250 và lợi
nhuận thương nghiệp là 1250-1200=50.
Tư bản chuyên môn hóa trong lthh, kiếm lời thông qua trao đổi, mua bán.=> p tn=giá
bán – giá mua=> phong kiến: nguồn gốc từ mua rẻ bán đắt, đo đạc giả dối=> tncb: 1
phần gttd mà tnsx nhượng cho vì tbtn bán hàng(mua tlsx) thay cho tbsx=>tncn bán hh với
giá thấp hơn gthh cho tbtn
Nguồn gốc: 1 phần gttd được tncn nhượng lại
Bản chất: gttd do người lđ tạo ra trong qtsx
Ví dụ: tbcn:1000 tư bản, c/v=4/1, m’=125% => m=250, p=25%, gthh=1250
Tbtn: 250 tư bản => p’=20% => giá tncb bán = 1200, pcn=200, giá tbtn bán=1250, ptn=50