lOMoARcPSD| 60794687
Câu 1
Điu kin ra đi, tn tại của sản xuất hàng hoá
Lịch sử phát triển của nền sản xuất hội đã đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh
tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự c kiểu tchức kinh tế sản phẩm do lao động tạo ra là nhằm
để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất(ví dụ: muốn ăn thì snuôi
muốn mặc quần áo tmay qa......).
Sản xuất hàng hóa kiểu tổ chức kinh tế đó sản phẩm được sản xuất ra để
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của hi
loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội", xóa bỏ nền kinh tế tự
nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất nâng cao hiệu quả kinh tế của
xã hội.
Sản xuất hàng hóa chra đời khi đủ hai điêu kiện sau đây:
a) Phân công lao động xã hội
Phân công lao động hội sphân chia lao động hội thành các ngành, nghề
khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn a lao động, do đó dẫn
đên chuyên môn hóa sản xuất. Do phân công lao động hội nên mỗi người sản xut
chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người
lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, đòi hòi họ phi
mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Tuy nhiên, phân
công lao động hội mới chỉ điều kiện cần nhưng chưa đđể sản xuất hàng hóa
ra đời tồn tại. C.Mác viết: "Trong công Ấn Độ thời cổ đại, lao động đã s
phân công xã hội, nhưng các sản phẩm lao động không trở thành hàng hóa... Chỉ có
sản phẩm của nhũng lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối
diện với nhau như là những hàng hóa". Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn
tại phải có điều kiện thứ hai.
b) Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Sự tách biệt này doc quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy
chế độ hữu nhỏ về liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu liệu sản xuất
là người sở hữu sản phẩm lao động.
Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau vliệu sản xuất đã làm cho những
người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công
lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện
ấy người y muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thông qua việc mua -
bán hàng hóa, tức phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa. Sản xuất hàng hóa
chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện y
thì không sản xuất hàng hóa sản phẩm lao động không mang hình thái hàng
hóa.
Câu 2
Hai thuộc tính của hàng hoá
Trong mỗi hình thái kinh tế hội khác nhau, sản xuất hàng hoá bản chất khác
nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hoá thí đều
hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
lOMoARcPSD| 60794687
Giá trị sử dụng
- Hàng hoá trước hết “là một vật nhờ những thuộc tính của thoả mãn
đượcmột loại nhu cầu nào đó của con người”, không kể nhu cầu đó được thoả mãn
trực tiếp, nếu vật y là một tư liệu sinh hoạt, hay gián tiếp, nếu vật y là một tư liệu
sản xuất.
- Số ợng giá trsử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra
được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của KH-KT - Giá
trsử dụng hay công cụ của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của vật thhàng a
quyết định. Với ý nghĩa nh vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
- Giá trị sử dụng chỉ thhiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung
vật chất của của cải không kể hình thức xã hội của của cai đó như thế nào. → Một
vật khi đã hàng hoá thì nhất thiết phải giá trị sử dụng. Nhưng không phải
bất cứ vật gì có giá trị sử dụng là hàng hoá. Chẳng hạn, không khí rất cần cho cuộc
sống con người, nhưng không phải là hàng hoá. Nước suối, quả dại cũng có giá trị
sử dụng, nhưng cũng không phải hàng hoá. Như vậy, một vật muốn trở thành
hàng hoá thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để n, để trao đổi,
cũng nghĩa vật đó phải giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hoá, giá trsử
dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Giá trị hàng hoá
Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi.
Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
Khái niệm: Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về ợng mà giá trị sử dụng này trao đổi
với giá trị sử dụng khác.
dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. (Điều này nghĩa 1m vải giá trị trao đổi
bằng 5kg thóc)
Vấn đđặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trsử dụng lại trao đổi được cho nhau,
hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
+ Cái chung đó không thgtrị sử dụng hai loại hàng hóa này công dng
hoàn toàn khác nhau (vải để mặc, thóc đăn). sự khác nhau đó chđiều kiện
cần thiết để sự trao đổi xảy ra không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt
nhau về giá trị sử dụng.
+ Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết
tinh trong đó. Nhsở chung đó các hàng hóa thtrao đổi được với nhau.
Vậy, thực chất người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua trao đổi lao động
của mình ẩn dấu trong trong những hàng hóa đó.
Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy là cơ sở chung
cho mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa.
Khái niệm: Giá trị hàng a là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh
trong hàng hóa
Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua gtrị trao đổi. Tức là, giá trị nội dung,
sở của giá trị trao đổi.
Giá trị biểu hiện mối quan hệ hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi
hàng hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa.
Quan hệ giữa người với người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật (hàng
– hàng).
Giá trị hàng hóa một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa,
sản xuất hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa.
Kết luận:
lOMoARcPSD| 60794687
+ Giá trị của hàng hóa do lao động hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sn
phẩm không chứa đựng lao động thì không giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao
động để tạo ra thì giá trcao. Lượng giá trị biểu hiện lượng lao động kết tinh
trong hàng hóa. Lượng lao động kết tinh thay đổi dẫn đến gtrị trao đổi thay đổi. Giá
trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử.
Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng giá trị hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong
một hàng hoá.
– Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng
hóa thì không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể
thấy một vật ích tức giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức
không lao động hội kết tinh trong đó thì không phải hàng hóa, dnhư:
không khí, ánh nắng mặt trời… – Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với cáchlà một gtrị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về
chất vì mỗi hàng hóa một công dụng khác nhau. Ngược lại, với cách là giá trị thì
các hàng hoá đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động
được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trgiá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá
trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau về thời gian và không gian. Cụ th
giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trđược thực hiện
sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Nếu không thực hiện được giá trị hàng hoá (hàng hóa
không bán được) thì không thực hiện được giá trị sử dụng thể dẫn đến khủng
hoảng sản xuất “thừa”.
* Vì sao phải nghiên cứu giá trị bắt đầu từ giá trị trao đổi?
Giá trị là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa nên ta không xác định trực tiếp
được. Ta chỉ có thể xác định, đo lường nó thông qua một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc ►5kg thóc đo gía trị cho 1 m vải
Do đó ta luôn phải xác định tỷ lệ về ợng giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị
sử dụng khác ►hay nói cách khác, chúng ta đang xác định giá trị trao đổi để xác định
giá trị.
Vì sao Hàng hóa có 2 thuộc tính
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do
hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất
hàng hoá tính hai mặt: lao động cụ thlao động trừu tượng. C.Mác ngưi
đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a. Lao động cụ th
Lao động cthlao động ích dưới một hình thức cụ th của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Lao động cụ thtạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thđối tượng lao động,
mục đích riêng, công cụ lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, kết qu
lao động riêng tạo ra những sản phẩm công dụng khác nhau, tức tạo ra
nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa. b. Lao động trừu tượng
lOMoARcPSD| 60794687
Lao động trừu tượng lao động của người sản xuất hàng hóa không kđến hình
thức cụ thcủa nó, đquy về một cái chung nhất, đó chính sự tiêu hao sức lao
động ( tiêu hao bắp thịt, thần kinh, bóc) của người lao động sản xuất hàng hóa nói
chung.
Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị.
+ Chỉ lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng
và tạo ra giá trị hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tất nhiên không phải hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa chỉ lao động
của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.
Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất nhân nh chất hội của
lao động sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá tính tự chủ của mình nên sản
xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ tr
thành việc riêng, mang tính nhân lao đng cụ thcủa họ biểu hiện của lao
động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bphận của lao
động hội trong hệ thống phân công lao động hội. Phân công lao động hội làm
cho lao động của người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó
tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho
nhau, người này làm việc người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc
trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao động cụ thphải quy thành lao động
đồng nhất lao động trừu ợng. Do đó, lao động trừu tượng biểu hiện của lao
động xã hội.
Câu 3
Tiền tmột thước đo giá trị, theo đó tiền tệ được dùng để đo lường
các giá trị về các loại hàng hóa, do mỗi loại hàng hóa hay vật phẩm đều
có giá trị khác nhau nhưng đều được đo lường bằng giá trị tiền tệ.
Như vậy, tiền tệ một trong những yếu tố quan trọng trong sự ảnh hưởng
quyền lợi của con người.
Chức năng của tiền tệ
Theo C.Mác thì tiền tệ có những chức năng như sau:
Chức năng là thước đo giá trị:
+ Do tiền tệ một loại để biểu hiện, đồng thời đo lường các loại hàng hóa
gía trị như thế nào? Cho nên khi dùng tiền tệ để đo được giá trị của
các loại hàng hóa thì bản thân tiền tệ cần phải giá trị trước. Theo đó,
tiền tệ cũng có chức năng để nâng thước đo giá trị phải là tiền vàng.
+ Khi đo lường được giá trị hàng hóa thì không nhất thiết tiền tệ phải
tiền mặt, mà trong đó chỉ cần thực hiện việc so sánh với một lượng vàng
trong ý tưởng nào đó. Bởi vì, giá trị của hàng hóa giá trị của vàng trong
thực tế đã có một mức tỷ lệnhất định. Trong đó, từ cơ sở tỷ lệ chính là
lOMoARcPSD| 60794687
thời gian lao động hội cần thiết để hao phí trong sản xuất ra loại
hàng hóa đó.
+ Giá trị của hàng hóa được thể hiện bằng tiền thì gọi là giá cả của hàng
hóa. Như vậy, chúng ta hiểu rằng giá cả là một hình thức mà giá trị hàng
hóa thể hiện bằng tiền.
Mà ta thấy: giá cả phải chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như sau gồm:
+ Giá trị của tiền
+ Giá trị của hàng hóa
+ Mối quan hệ giữa cung và cầu về hàng hóa
Tuy nhiên, giá trị của hàng hóa một nội dung thuộc giá cả cho nên
đối với 3 yếu tố trên thì giá trị là một nhân tố để quyết định giá cả.
Để tiền làm được với chức năng thước đo giá trị thì tiền tệ cần phải
được quy định một đơn vị tiền tệ nhất định để làm tiêu chuẩn đo lường
về giá hàng hóa. Cụ thể, đơn vị này là một trọng lượng nhất định từ kim
loại làm tiền tệ.
Trong thực tế, đơn vị tiền tệ sẽ tùy thuộc vào mỗi nước, thì loại tiền tệ này
tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ thành phần chia nhỏ của tiền tệ
chính là tiêu chuẩn của giá cả.
dụ: Hoa Kỳ thì tiêu chuẩn giá của 1 đồng đô la hàm lượng vàng:
0,83333 gr
ớc Pháp thì 1 đồng Franc hàm lượng vàng: 0,170000 gr
Khi tiền tệ được dùng là làm tiêu chuẩn giá cả sẽ hoàn toàn không giống
với chức năng của nó khi làm thước đo giá trị, cụ thể là:
+ Khi tiền tệ thước đo giá trị thì dùng để đo lường vgiá trị của hàng
hóa khác
+ Khi tiền tệ tiêu chuẩn của giá cả ttiền tdùng để đo lường bản thân
của kim loại để làm tiền tệ
– Là phương tiện lưu thông
+ Tiền là một phương tiện để môi giới trong khi trao đổi hàng hóa, khi tiền
tệ chức năng này thì tiền tphải tiền mặt. Theo đó, hàng hóa để trao
đổi hàng hóa mà lấy tiền làm môi giới thì gọi là lưu thông hàng hóa.
+ Công thức vlưu thông hàng hóa chính : H T H, cụ thkhi tiền
để làm môi giới trong việc trao đổi hàng hóa sẽ làm cho việc mua bán
được tách rời nhau xét theo không gian thời gian. Như vậy, khi
hoạt động mua và bán có thể là tác nhân của khủng hoảng kinh tế
lOMoARcPSD| 60794687
+ trong một thời kỳ nhất định, việc lưu thông hàng hóa cần phải
ợng tiền cần thiết đảm bảo cho sự lưu thông, quy luật lưu thông tiền tệ
chính là căn cứ để xác định số ợng tiền đó.
Theo C.Mác thì đối với cùng một không gian, cùng một thời gian thì khối
ợng tiền tệ để đảm bảo cho sự lưu thông được tính theo công thức:
T= (Gh * H)/N= G/N
Trong đó: T là số ợng tiền tệ cần để lưu thông
H là số ợng về hàng hóa được lưu thông ở trên thị trường
Gh giá trung bình của một loại hàng hóa nhất định G
là hàng hóa đó có tổng giá cả là bao nhiêu?
N là các đồng tiền cùng loại có số vòng lưu thông?
+ Quá trình để hình thành tiền giấy là: ban đầu tiền tệ tồn thại ở hình thức
bạc nén, vàng thoi, sau đó được thay thế bằng tiền đúc. Dần dân, qua
quá trình lưu thông thì tiền đúc bị mất một phần giá trị do hao mòn. Tuy
vậy, tiền đúc vẫn được xã hội chấp nhận nó đủ giá trị
Tóm lại, tiền có giá trị thực tách rời giá trvới danh nghĩa của chính nó,
bởi tiền làm phương tiện để lưu thông thì chtrong 1 thời gian ngắn
nht định. Con người lấy hàng đổi tiền, sau đó lấy số tiền đó để mua loại
hàng khác mà họ cần, dù vậy tiền không phải nhất thiết cần có đủ giá trị
Dựa vào thực tế trên, nhà nước đã tìm các cách để làm giảm bớt về ợng
kim loại đơn vị tiền tệ trong khi đúc tiền. Ta thấy rằng tiền đúc giá trị
thực bị thấp hơn so với giá trị theo danh nghĩa của chính nó. Từ đó, tin
giấy được hình thành – ra đời, thực tế thì tiền giấy không có giá trị, nó chỉ
là ký hiệu của giá trị theo đúng quy luật lưu thông tiền giấy mà nhà nước
đặt ra. Chức năng tiền tệ là phương tiện cất giữ:
+ Khi tiền được rút khỏi lưu thông và được cất giữ, theo đó tiền cần phải
có đvề chức năng. Do tiền đại biểu của cải xã hội với hình thái giá trị,
như vậy cất giữ tiền cũng là cất giữ của cải.
+ Việc cất giữ sẽ làm cho tự phát sự thích ứng trong lưu thông với nhu
cầu tiền cần thiết. khi sản xuất tăng thì hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ
được bỏ ra để đảm bảo lưu thông và ngược lại.
Là phương tiện trong thanh toán
+ Thực tế, tiền được dùng trong chi trả mua hàng, trả nợ, nộp thuế,… Khi
việc sản xuất, trao đổi hàng hóa được phát triển mức độ nào đó nhất
định thì sẽ hình thành việc mua bán chịu. Theo đó, tiền tệ cũng làm chức
năng để định giá cả hàng hóa, nhưng khi đến kỳ hạn của việc mua bán
lOMoARcPSD| 60794687
chịu thanh toán thì khi đó mới làm phương tiện để thanh toán trong lưu
thông.
Tin tệ thế giới
Khi việc trao đổi hàng hóa được đưa ra khỏi biên giới quốc gia thì tiền tệ
làm chức năng là tiền tệ thế giới. Theo đó, tiền cần đảm bảo đủ giá trị và
hình thái tban đầu vàng, vàng chính phương tiện để mua bán
hàng hóa phương tiện để thanh toán quốc tế, biểu hiện của cải
của xã hội nói chung.
Qua các chức năng của tiền tệ đã nêu trên thì nền kinh tế hàng hóa
mối quan hệ mật thiết với chức năng của tiền tệ. Sự phát triển trong sản
xuất lưu thông hàng hóa chính phản ánh sphát triển của chức
năng tiền tệ.
Câu 4
Nền kinh tế thị trường là gì?
Nền kinh tế thtrường là nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, tập
thể và hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều loại sở hữu cùng tham gia,
vận động và phát triển theo cơ chế bình đẳng và ổn định,…
Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thtrường một hình thức tổ chức sản xuất hội hiệu quả nhất phù hợp với trình
độ phát triển của xã hội hiện nay. Nền kinh tế thị trường có một số đặc điểm chung sau đây:
Các thành phần trong nền kinh tế có nh tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành
phần của nền kinh tế độc lập với nhau, mỗi chủ thtự quyết định lấy hoạt động của
mình.
Tạo ra sự đa dạng về sản phẩm. Do các thành phần kinh tế đều tự quyết định lấy hoạt
động của mình nên bất cứ hàng hoá nào nhu cầu thì sẽ người sản xuất để đáp
ứng. Mặt khác, nhu cầu của con người thì luôn luôn đa dạng phong phú, điều này
tạo nên sự đa dạng của hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh. Khi một mặt hàng nào đó có nguồn cầu
lớn dẫn đến nh trạng càng ngày càng nhiều người sản xuất chúng. Và sđa dạng về
mẫu mã sản phẩm dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường hàng hóa.
Kinh tế thtrường là một hình kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng rãi không
chỉ trong thị trường một nước mà còn có sự giao thương giữa các thị trường trên thế
gii.
lOMoARcPSD| 60794687
Giá cả hình thành dựa trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, không có cá nhân
nào có khả năng quyết định giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi nguồn
cung cầu của thị trường. Ngoài những đặc điểm bản trên, sau đây Inna s
phân ch ưu thế cũng như mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường.
Ưu điểm
Là điều kiện giúp các doanh nghiệp có thể đổi mới sáng tạo
Trong nền kinh tế thtrường, khi lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả lợi
nhuận tăng lên, khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Khi đó, người sản xuất nào có
cơ chế sản xuất hiệu quả thì có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, từ đó, họ tăng quy mô sản xuất.
Và khi đó, các nguồn lực sản xuất sẽ chy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người
sản xuất cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản
xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Nền kinh tế thtrường thúc đy các doanh nghiệp thể đổi mới, phát triển. Bởi khi các
doanh nghiệp đó muốn đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường họ phải đổi mới về công nghệ,
quy trình sản xuất, sản phẩm.
Tạo ra một lực lượng sản xuất đáp ứng nhu cầu của người êu dùng
ới sự tác động của các quy luật thị trường (quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…), nền
kinh tế thtrường sẽ tạo ra được một lực lượng sản xuất lớn nhằm đáp ứng được nhu cầu êu
dùng của xã hội.
Tạo động lực để người lao động ch cực làm việc
Trong điều kiện các doanh nghiệp không ngừng đổi mới, m kiếm nhân lực tài năng, thì mức
lương và chế độ đãi ngộ dành cho người lao động cũng tăng lên đáng kể. Từ đó, tạo động lực
cho người lao động làm việc năng suất hơn, tạo ra nhiều của cải vật chất hơn.
Cung cấp nhiều việc làm hơn, ngăn chặn nh trng thất nghiệp
Cùng với động lực thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nền kinh tế thtrường
còn gián ếp tạo ra nhiều việc làm hơn cho thtrường lao động. Không chỉ vậy, việc đòi hỏi
đổi mới sáng tạo không ngừng còn là ền đề để nâng cao tay nghề, kiến thức chun môn của
bộ phận lao động.
Hạn chế của nền kinh tế thị trường là gì?
lOMoARcPSD| 60794687
Nền kinh tế thtrường có thể dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội
Với cách vận hành của nền kinh tế thtrường, người giàu sẽ ng giàu, còn người nghèo sẽ
càng nghèo. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, cuối cùng sẽ dẫn tới nh trạng phân
chia giai cấp, gây bất bình đẳng xã hội và các tệ nạn khác.
Gây ra mất cân bằng cung cầu, dẫn đến khủng hoảng kinh tế
Cơ chế của nền kinh tế thị trường không phải lúc nào cũng tạo ra sự cân đối về giá cả và hàng
hóa. Thị trường vốn dĩ có sự biến động liên tục, do y việc xảy ra các vấn đề chẳng hạn như
chiến tranh, dịch bệnh, thiện tai, cấm vận… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
kinh tế.
Trong nền kinh tế thtrường thì Nhà nước đóng vai trò định hướng, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch; thực hiện tiến bộ, công bằng trong từng chính sách phát triển đặc biệt phát huy quyền làm chủ của
nhân dân...
Một sđiều cần cần đáp ứng để cơ chế thtrường không tồn tại
những hạn chế như:
- Thị trường có sự cạnh tranh lành mạnh
- Có thông tin minh bạch
- Không bị ảnh hưởng bởi các thông tin ngoại lai
- Không đầu cơ
- Không vi phạm đạo đức kinh doanh
- Không có sự lách luật…
Không chỉ vậy, bởi vì chạy theo lợi nhuận nên các công ty sẽ mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, dẫn đến nguồn cung cao hơn cầu. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm sẽ dẫn đến
hiện tượng khủng hoảng thừa và gây ra khủng hoảng kinh tế.
Có thể dẫn đến việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả
rất nhiều do dẫn đến nh trạng này. Bởi vì giá cả thể không linh hoạt trong các khoảng
thời gian ngắn hạn dẫn đến việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa
tổng cung và tổng cầu. Điều này sẽ gây ra nh trạng lạm phát và thất nghiệp.
Câu 5’
Quy luật giá trị quy luật kinh tế bản của sản xuất trao đổi hàng
hoá, đâu có sản xuất trao đổi hàng hoá tđó có sự tồn tại và phát
huy tác dụng của quy luật giá trị
a) Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
+ Quy luật giá trị quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa
quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, sở của tất ccác
quy luật khác của sản xuất hàng hóa.
+ Nội dung của quy luật giá trị là:
lOMoARcPSD| 60794687
Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là
dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất
phải làm sao cho mức hao phí lao động biệt của mình phù hợp với
mức hao phí lao động hội cần thiết như vậy họ mới thể tồn tại
được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc
ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một
ợng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thc hiện
với giá cả bằng giá trị.
+ chế tác động của quy luật giá trị thhiện cả trong trường hợp
giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá
tr. đây, giá trị như cái trục của giá cả. b) Tác động của quy luật
giá trị
+ Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thhiện trong hai
trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá
trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy
mô sản xuất, đầu
thêm liệu sản xuất sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất
hàng hóa khác cũng thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó,
tư liệu sản xuất
sức lao động ngành này tăng lên, quy sản xuất càng được mở
rộng.
+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó giá cả thấp hơn giá trị,
sẽ blỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất
mặt hàng này hoặc
chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho liệu sản xuất sức lao
động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cbằng giá trị thì người sản xuất
có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
+ Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu
sản xuất
sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của
xã hội.
+ Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thhin
chthu hút hàng hóa tnơi giá cả thấp hơn đến nơi giá c
cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân
bằng nhất định.
lOMoARcPSD| 60794687
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp hoá sản xuất, tăng năng suấtlao
động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau,
do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường
thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động
hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào mức hao phí lao
động thấp hơn mức hao phí lao động hội cần thiết, thì sẽ thu được
nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản
xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản
lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản
xut.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra
mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất o cũng làm như vậy thì cuối cùng
sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi
phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào mức hao phí lao động biệt
thấp hơn mức hao phí lao động hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo
mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi,
giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào mức hao phí
lao động biệt lớn hơn mức hao phí lao động hội cần thiết, khi bán
hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản,
trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính một trong những nguyên nhân làm xuất hiện
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động
tiêu cực.
+ Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển,
nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở ớc ta hiện nay.
Như vậy, quy luật giá trịtác dụng tích cực, vừa tác dụng tiêu
cực
lOMoARcPSD| 60794687
Câu6
1. Quy định chung về cạnh tranh
Cạnh tranh quy luật của kinh tế thtrường. Cạnh tranh không những động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, điều tiết hệ thống thị trường, còn yếu tố quan
trọng làm lành mạnh các quan hhội. Cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh doanh
phải luôn đổi mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng hiệu quả các nguồn
tài nguyên, áp dụng tiến bộ khoa học - thuật trong sản xuất để tăng năng suất lao
động, tìm cách thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của người tiêu dùng và vì vậy mang lại
sự Ÿ tăng trưởng và cải thiện hiệu quả kinh tế.
Cạnh tranh phải được diễn ra trong môi trường pháp tdo bình đẳng cho mọi
chủ thể kinh doanh, nếu không có môi trường pháp lí đó, cạnh tranh có thể đưa đến
những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội.
Cạnh tranh thể biểu hiện bằng các hình thức với những tính chất khác nhau như
cạnh tranh tự do, cạnh tranh sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh không hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
2. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là khái niệm rất rộng, xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, thể thao... và có khá nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về cạnh tranh.
Theo cách hiểu phổ thông thể hiện trong Từ điển ngôn ngtiếng Anh, “competition”
(cạnh tranh) là “một sự kiện hoặc một cuộc đua, theo đó các đối thủ ganh đua để giành phần
hơn hay ưu thế tuyệt đổi về phía mình”.
Theo Tđiển tiếng Việt, “cạnh tranh” cố gắng giành phần hơn, phần thắng về
mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau”.
Trong khoa học kinh tế, đến nay các nhà khoa học dường nchưa thomãn với bất
cứ khái niệm nào về cạnh tranh. Bởi lẽ, cạnh tranh là hiện tượng kinh tế chỉ xuất hin
tồn tại trong nền kinh tế thtrường, ở mọi lĩnh vực, mọi giai đoạn của quá trình kinh
doanh gắn với mọi chủ thkinh doanh đang hoạt động trên thị trường. Do đó, cạnh
tranh được nhìn nhận nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào ý định hướng tiếp
cận nghiên cứu của các nhà khoa học.
Với cách động lực nội tại trong mỗi chủ thkinh doanh, cuốn “Các hoạt động
hạn chế cạnh tranh hoạt động thương mại không lành mạnh” của Tổ chức thống
nhất, tín thác người tiêu dùng (Ấn Độ) đã diễn tả: “Cạnh tranh trên thị trường quá
trình ở đó nhà cung cấp cố gắng ganh đua để giành khách hàng bằng các phương thức, biện
pháp khác nhau”.
lOMoARcPSD| 60794687
Theo Từ điển kinh doanh, xuất bn Anh năm 1992 thì "cạnh tranh" được hiểu là "s
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một
loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình". Từ điển tiếng Việt
Bách khoa tri thức phổ thông cũng giải thích cạnh tranh theo nghĩa kinh tế là: Hoạt
động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà
kinh doanh trong nền kinh tế nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường
có lợi nhất.
Mặc được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau và nhiều định nghĩa khác nhau
về cạnh tranh song nhìn chung theo các cách giải thích trên, trong khoa học kinh tế
cạnh tranh được hiểu sganh đua giữa các chủ thkinh doanh trên thị trường
nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng. Cạnh tranh có thể
xuất hiện giữa những người bán hàng cũng thể xuất hiện giữa những người
mua hàng nhưng cạnh tranh giữa những người bán hàng là phổ biến.
3. Bản chất của cạnh tranh là gì ?
ới giác độ kinh tế, cạnh tranh có bản chất sau:
- Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thkinh doanh trên thị trườngđể giành giật khách
hàng
Trong kinh tế học, thị trường được c định chế ttao đổi đưa người mua
người bán của một loại hàng hoá hay dịch vụ đến với nhau. Đó đơn giản là giao dịch
chứ không phải là địa điểm như mọi người thường nghĩ, hình thành khi người mua
đồng ý trả một mức giá cho sản phẩm mà nhà cung cấp bán ra. Trên thị trường, giữa
khách hàng nhà cung cấp, luôn luôn thể hiện nhu cầu, lợi ích khác nhau. Khách
hàng mong muốn mua được sản phẩm phù hợp nhất với giá rẻ nhất có thể, trong khi
đó, nhà cung cấp mong muốn bạn được sản phẩm càng nhanh càng tốt để đầu
phát triển sản xuất thu được nhiều lợi nhuận. Khuynh hướng này là nguồn gốc tạo ra
sự cạnh tranh, sự ganh đua giữa các chủ thkinh doanh trên thị trường để lôi kéo
khách hàng vphía mình. Để ganh đua với nhau, các chủ thkinh doanh phải sử
dụng các phương thức, thủ đoạn kinh doanh được gọi là các hành vi cạnh tranh của
doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh tranh trôn thị trường làm cho người chiến thắng
mở rộng được thị phần, tăng lợi nhuận, kẻ thua cuộc mất khách hàng phải ròi khỏi
thị trường. Quá trình cạnh tranh, ganh đua buộc các chủ thể kinh doanh phải xem xét
lại mình để làm sao sử dụng tất cả các nguồn lực một cách hiệu quả.
Chthcủa cạnh tranh các tchức, cá nhân kinh doanh có cách pháp lí độc lập.
Cạnh tranh chỉ diễn ra khi có sự ganh đua của ít nhất hai chủ thtrở lên và phần lớn
đối thủ của nhau. Nếu không có đối thủ hay nói cách khác là tồn tại tình trạng độc
quyền thì cạnh ttanh không thể diễn ra.
lOMoARcPSD| 60794687
- Quá trình cạnh tranh giữa các đối thủ diễn ra trên thị trường
Các chủ thkinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua nhau, giành cơ hội
tốt nhất để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh thường chỉ diễn ra giữa c
doanh nghiệp chung lợi ích như cùng tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào giống
nhau hoặc cùng tìm kiếm thị trường để bán những sản phẩm tương tự nhau. Điều đó
làm cho các doanh nghiệp chung lợi ích tranh giành trở thành đối thủ của nhau.
Chúng ta khó có thể thấy có sự cạnh tranh giữa một doanh nghiệp sản xuất xi măng
với một doanh nghiệp kinh doanh đăn uống hoặc cũng khó cạnh tranh giữa hai
nhà sản xuất quần áo hai quốc gia chưa hquan hệ thương mại. Bởi vậy,
thuyết cạnh tranh xác định sự tồn tại của cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh khi
chúng đối thủ của nhau và sự cạnh tranh, ganh đua giữa các đối thủ đó được thể
hiện trên thị trường. Đặc biệt, đối với nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh, để xác định
hành vi này xảy ra hay không thì phải xác định chủ ththực hiện hành vi đó hoạt
động trên thị trường liên quan nào những ai đối thủ cạnh tranh của nó. Theo
pháp luật của các nước trên thế giới theo Luật cạnh tranh của Việt Nam thì thị
trường liên quan thị trường của tất cả các sản phẩm hay dịch vụ thể thay thế
cho nhau trong khu vực địa lí riêng biệt nhất đnh.
- Cạnh tranh chỉ diễn ra trong điều kiện của cơ chế thị trưng
Cạnh tranh hoạt động nhằm tranh giành thtrường, lôi kéo khách hàng về phía mình
của các chủ thể kinh doanh nên cạnh tranh chỉ diễn ra trong cơ chế thị trường khi mà
công dân quyền tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp, tdo tìm kiếm
hội để phát triển sản xuất kinh doanh. Trong thời phong kiến, nhà nước phong
kiến luôn chủ trương hình thành và phát triển các phường, hội, các công nông thôn
mang tính khép kín, tự cung tự cấp, do đó cạnh tranh không điều kiện đphát triển.
Trong nền kinh tể kế hoạch hoá tập trung - nơi mà nhà nước nhà đầu tư duy nhất
nắm quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế nên không thể nói đến kinh tế thị trường,
không thể tồn tại quyền tự do kinh doanh của cá nhân, do đó cạnh tranh cũng không
thtồn tại với tính chất sự ganh đua kinh tế giữa các chủ thkinh doanh trên thị
trường.
Trong khoa học pháp lí, các nhà nghiên cửu cũng rất khó thể đưa ra khải niệm
chuẩn chung cho hiện tượng cạnh tranh với tư cách là mục tiêu điều chỉnh của pp
luật. Trong nền kinh tế thtrường, các chủ thkinh doanh tự do cạnh tranh, tdo sáng
tạo ra các phương thức để ganh đua giành phần thắng về phía mình, do đó khái niệm
cạnh tranh được pháp luật của rất ít nước định nghĩa. Trong cuốn “Tài liệu tham khảo
luật về cạnh tranh chống độc quyền của một sớc vùng lãnh thố trên thế
giới” do BThương mại n hành năm 2001 phục vcho việc xây dựng Luật cạnh
tranh của Việt Nam có giới thiệu luật về cạnh tranh của 9 nước và vùng lãnh thổ trong
lOMoARcPSD| 60794687
đó chỉ Luật cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ Luật thương mại lành mạnh của Đài
Loan đưa ra khái niệm cạnh tranh. Điều 3 Luật cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ quy định:
Cạnh tranh nghĩa là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường ng hoá,
dịch vụ để quyết định các vấn đề kinh tế một cách độc lập. Điều 4 Luật thương mại
lành mạnh của Đài Loan quy định: “Cạnh tranh” từ chỉ những hành động theo đó
hai hay nhiều doanh nghiệp đưa ra thị trường mức giá, số ợng, chất lượng, dịch v
ưu đãi hơn hoặc những điều kiện khác nhằm giành cơ hội kinh doanh. Khái niệm về
cạnh tranh theo quy định tại Luật cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ và Hàn Quốc có thể thy
tương tự cách hiểu về cạnh tranh dưới giác độ kinh tế đã được trình bày ở phần trên.
Luật cạnh tranh năm 2014 (luật hiện hành) cũng nluật về cạnh tranh của nhiều
ớc trên thế giới (Trung Quốc, Hàn Quốc, Bungari, Nhật Bản...), tuy đều không đưa
ra. khái niệm cạnh tranh nhưng bao gồm các quy phạm nhằm tạo lập duy trì môi
trường kinh doanh bình đẳng, đảm bảo sự ganh đua giữa các chủ thkinh doanh diễn
ra theo trật tự và trong khung khổ được pháp luật quy định.
4. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh vai trò đặc biệt không chỉ đối với doanh nghiệp n cả người tiêu
dùng và nền kinh tế
- Đối với doanh nghiệp: Cạnh tranh quyết định sự tồn tại phát triển của mỗi
doanhnghiệp do khả năng cạnh tranh tác động đến kết quả tiêu thụ kết qutiêu
thsản phẩm khâu quyết định trong việc doanh nghiệp nên sản xuất nữa hay
không. Cạnh tranh động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh
nghiệp tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường thông qua thị phần của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
- Đối với người tiêu dùng: Nhờ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp người
tiêudùng có hội nhận được những sản phẩm ngày ng phong phú đa dạng với
chất lượng và giá thành phù hợp với khả năng của họ.
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh động lực phát triển của các doanh nghiệp
thuộcmọi thành phần kinh tế. Cạnh tranh biểu hiện quan trọng để phát triển lực
ợng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Cạnh tranh là điều kiện
giáo dục tính năng động của ndoanh nghiệp bên cạnh đó góp phần gợi mở nhu
cầu mới của hội thông qua sự xuất hiện của các sản phẩm mới. Điều này chứng
tỏ chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên cạnh tranh cũng dẫn
tới sự phân hoá giàu nghèo có thể dẫn tới xu hướng độc quyền trong kinh doanh.
5. Các loại hình cạnh tranh.
lOMoARcPSD| 60794687
Dựa trên các tiêu thức khác nhau người ta phân thành nhiều loại hình cạnh tranh khác
nhau.
5.1 Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường
* Người ta chia cạnh tranh làm ba loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo "luật" mua rẻ bán
đắt. Người mua luôn muốn mua được rẻ, ngược lại người bán lại luôn muốn được bán đắt.
Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá trình mặc cả và cuối cùng giá cđược hình thành
và hành động mua được thực hiện.
* Cạnh tranh giữa người mua với người bán: cuộc cạnh tranh trên sởquy luật cung
cầu. Khi một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó mức cung cấp nhỏ hơn nhu cầu êu dùng thì
cuộc cạnh tranh sẽ trở nên quyết liệt và giá dịch vụ hàng hoá đó sẽ tăng. Kết quả cuối cùng là
người bán sẽ thu được lợi nhuận cao, còn người mua thì mất thêm một số ền. Đây một
cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính mình.
* Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây cuộc cạnh tranh gaygo quyết liệt
nhất, nó có ý nghĩa sống còn đối với bất kì một doanh nghiệp nào. Khi sản xuất hàng hoá phát
triển, số người bán càng tăng lên thì cạnh tranh càng quyết liệt bởi vì doanh nghiệp nào cũng
muốn giành lấy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ và kết quả đánh giá doanh
nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này việc tăng doanh số êu thụ, tăng thị phn
cùng với đó sẽ ng lợi nhuận, tăng đầu chiều sâu mở rộng sản xuất. Trong cuộc
chạy đua này những doanh nghiệp nào không chiến lược cạnh tranh thích hợp thì sẽ lần
lượt bgạt ra khỏi thị trường nhưng đồng thời nó lại mở rộng đường cho những doanh nghiệp
nào nắm chắc được "vũ khí" cạnh tranh và dám chấp nhận luật chơi phát triển.
5.2 Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
Người ta chia cạnh tranh thành hai loại:
- Cạnh tranh trong nội bngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất hoặc êu
thmột loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này sự thôn nh lẫn
nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rng phạm vi hoạt động của mình trên thị
trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh thậm chí phá sản. - Cạnh
tranh giữa các ngành: sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp trong ngành kinh tế khác
nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp
luôn say với những ngành đầu lợi nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận
sang ngành nhiều lơị nhuận. Sự điều ết tự nhiên theo ếng gọi của lợi nhuận này sau một
thời gian nhất định sẽ hình thành nên một sự phân phối hợp giữa các ngành sản xuất, để
rồi kết quả cuối cùng là, các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn như
lOMoARcPSD| 60794687
nhau thì cũng chỉ thu được như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các
ngành.
5.3 Căn cứ vào mức độ, nh chất của cạnh tranh trên thị trường
* Người ta chia cạnh tranh thành 3 loi:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rấtnhiều người bán,
người mua nhỏ, không ai trong số họ đủ lớn để bằng hành động của mình ảnh hưởng đến giá
cả dịch vụ. Điều đó nghĩa không cần biết sản xuất được bao nhiêu, hđều thể bán
được tất cả sản phẩm của mình tại mức giá thị trường hiện hành. Vì vậy một hãng trong thị
trường cạnh tranh hoàn hảo không có lý do gì để bán rẻ hơn mức giá thị trường. Hơn nữa nó
sẽ không tăng giá của mình lên cao hơn giá thị trường vì nếu thế thì hãng schẳng bán được
gì. Nhóm người tham gia vào thtrường này chỉ cách là thích ứng với mức giá bởi cung
cầu trên thị trường được tự do hình thành, giá cả theo thị trường quyết định, tức là ở mức s
cầu thu hút được tất cả số cung thcung cấp. Đối với thtrường cạnh tranh hoàn hảo sẽ
không có hiện tượng cung cầu giả tạo, không bị hạn chế bởi biện pháp hành chính nhà nước.
Vì vậy trong thị trường này giá cả thị trường sẽ dần tới mức chi phí sản xuất.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: Nếu một hãng có thể tác động đáng kđếngiá cả thtrường
đối với đầu ra của hãng thì hãng y được liệt vào "hãng cạnh tranh không hoàn hảo"… Như
vậy cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường không đồng nhất với nhau. Mỗi
loại sản phẩm có thể có nhiều loại nhãn hiệu khác nhau, mỗi loại nhãn hiệu lại có hình ảnh và
uy n khác nhau mặc xem xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản phẩm không
đáng kể. Các điều kiện mua bán cũng rất khác nhau. Những người bán thể cạnh tranh với
nhau nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như: Quảng cáo, khuyến mại,
những ưu đãi về giá và dịch vụ trước, trong và sau khi mua hàng. Đây là loại hình cạnh tranh
rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó một ngườibán một loại sản
phẩm không đồng nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ sản phẩm hay hàng hoá bán ra
thị trường. Thị trường này pha trộn lẫn giữa độc quyền cạnh tranh gọi là thị trường cạnh
tranh độc quyền. ở đây xảy ra cnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện gia nhập hoặc rút
lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền nhiều trở ngại do vốn đầu lớn hoặc do độc
quyn về bí quyết công nghệ, thị trường này không cạnh tranh về giá cả mà một số người
bán toàn quyền quyết định giá cả. Họ thể định giá cao hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm êu
dùng của từng sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối đa. Những nhà doanh
nghiệp nhỏ tham gia vào thị trường này phải chấp nhậnbán hàng theo giá cả của nhà độc
quyn.
lOMoARcPSD| 60794687
Câu 7
II. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế th
trường Tư bản chủ nghĩa
5
Để thu đư]c nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C.Mác đã chỉ
ra
nhà tư bTn s^ d_ng hai phương pháp sTn xuất giá trị thặng sTn xuất giá
trthặng dư tuyệt đối và sTn xuất giá trị thặng dư tương đối.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng tuyệt đối Trong giai đoạn phát
triển đầu ên của sTn xuất tư bTn chủ nghĩa, khi kĩ thuật còn
thấp, Sn bộ chậm chạp thì phương pháp chủ ySu để tăng giá trị thặng dư là
kéo dài ngày lao động của công nhân.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu đư]c do kéo dài ngày lao động
vư]t quá thời gian lao động tất ySu, trong khi năng suất lao động, giá trị
sHc lao động và thời gian lao động tất ySu không thay đổi.
d_: nSu ngày lao động 8 giờ, thời gian lao động tất ySu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 8 đơn vị thì
giá trị thặng tuyệt đối đây sẽ 32. Và tỷ suất giá trị thặng là: m’ = 32/32
* 100% = 100%
GiT định ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ với mọi điều kiện không đổi thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng từ 32 lên 48 thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 48/32 * 100% = 150%
Để nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sHc lao động phTi m mọi
cách để kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động. Tuy nhiên, ngày lao
động chịu giới hn về mặt sinh lý vì công nhân phTi có thời
gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi để ph_c hồi sHc khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp
phTi sJ
phTn kháng của giai cấp công nhân. Do đó, ngày lao động phTi dài hơn thời gian
lao động
tất ySu và cũng không thể vư]t giới hạn thể cht nh thần của người lao động.
(-Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động một đại lư]ng không
cố
định và có nhiều mHc khác nhau. Độ dài c_ thể của ngày lao động do cuộc đấu
tranh giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sTn trên cơ sở tương quan lJc lư]ng quySt định.
Cuc
đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động êu chuẩn, ngày làm 8 giờ
đã kéo dài hàng thS kỷ.)
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Thời lư]ng ny làm việc bị hạn chS về mặt thể cht và tâm lý của người lao
động và ngày càng bị giai cấp công nhân phTn đối. Mặt khác, khi nền sTn xuất tư
bTn chủ nghĩa phát triển đSn giai đoạn mà công nghiệp cơ khí và công nghệ ên
lOMoARcPSD| 60794687
Sn, năng suất lao động ny càng tăng nhanh, thì nhà tư bTn đã chuyển sang
phương thHc bóc lột dJa trên cơ sở tăng năng suất xã hội từ giá cT. STn xuất giá
tr
thặng dư tương đối là phương pháp sTn xuất giá trị thặng đạt đư]c bằng cách
rút ngắn thời gian lao động cần thiSt để kéo dài giá trị thặng dư một cách tương
Hng. Thời gian lao động do năng suất lao động xã hội tăng lên với một ngày lao
Câu 8
Ch nghĩa tư bn ngày nay (hay ch nghĩa tư bn hin đi) là mt nc thang trong
quá trình phát trin ca ch nghĩa tư bn đc quyn. T sau Chiến tranh thế gii th
hai đến nay, nht là vào nhng năm cui thế k XX, trong các nước tư bn ch nghĩa
phát trin đã din ra mt cách sâu rng cuc cách mng khoa hc và công ngh.
arrow_forward_iosĐọc thêm
Pause
01:00
Unmute
Ch nghĩa t b n ngày nay (hay ch nghĩa t b n hi n đ i) là m t n c ư
ư thang trong quá trình phát tri
n c a ch nghĩa t b n đ c quy n. ư
T sau Chi n tranh th gi i th hai đ n nay, nh t là vào nh ng năm cu i ế
ế ế th k XX, trong các nế ước t
b n ch nghĩa phát tri n đã di n ra m tư cách sâu r
ng cu c cách m ng khoa h c và công ngh . Vi c ng d ng
nhũng thành t u c a cách m ng khoa h c công ngh
đã làm cho quanự ủ ạ ọ h s n xu t t b n ch nghĩa có s bi n đ i đ thích ng. T
đó làm n yả ấ ư ủ ự ế ổ ứ ừ ả sinh nh ng bi u hi n m i, đ ng th i làm cho
mâu thu n c b n cớ ồ ơ a chnghĩa t b n càng thêm gay g t.ư
a) S phát trin nhy vt v lc lượng sn xut - Th nht, cách mng công ngh
thông tin và công ngh cao phát trin mnh m. Công ngh thông tin phát trin mnh
m, tr thành ngành ln nht và ngành tăng trưởng nhanh, nht vào na cui thp
k 90 ca thế k XX.
lOMoARcPSD| 60794687
arrow_forward_iosĐọc thêm
Pause
01:00 Unmute
a) S phát tri n nh y v t v l c l ề ự ượng s n xu
t
- Th nh t, cách m ng công ngh thông tin và công ngh cao phát tri nứ ấ ạ ệ
ệ ể m nh m . Công ngh thông tin phát tri n m nh m , tr thành ngành l nạ ẽ ệ
ể ạ ẽ ở nh t và ngành tăng trấ ưởng nhanh, nh t là vào n a cu i th p k 90 c
aố ậ ỷ ủ th k XX. Cùng v i s lan r ng trên toàn c u c a cách m ng công nghế
ớ ự ộạ ệ thông tin, các ngành công ngh cao m i khác nh sinh h c, v
ư t li u m i,ngu n năng lượng m i, hàng không tr ... cùng đang
phát tri n m nhớ ụ ể ạ m . S ti n b và nh ng bẽ ự ế ộ ữ ước đ t phá c a khoa h
c k thu t đã mủ ọ ỹ ậ ra không gian r ng l n m i cho s phát tri n c a s c s
n xu t.ộ ớ ớ ự ể ủ ứ ả ấ
- Th hai, giáo d c - đào t o được tăng cường làm cho t ch t công
nhân được nâng cao, t đó đ t n n móng v ng ch c cho vi c nâng caoừ ặ ề ữ ắ
năng su t lao đ ng và s c c nh tranh.ấ ộ ứ ạ
b) N n kinh t đang có xu hế ướng chuy n t kinh t công nghi p sangế ệ
kinh t tri th cế
Cu c cách m ng khoa h c k thu t l n th nh t di n ra 200 năm trộ ạ ọ ỹ ậ ầ ứ ấ
ước, thúc đ y ch nghĩa t b n chuy n đ i t kinh t nông nghi p sang kinhẩ ủ ư
ổ ừ ế ệ t công nghi p, cách m ng công ngh thông tin hi n nay đang thúc đ
yế ệ ạ ệ ệ ẩ n n kinh t t b n ch nghĩa chuy n t kinh t công nghi p sang kinh t
ế ư ả ủ ể ừ ế ệ ế tri th c.
Trong kinh t tri th c, vai trò c a tri th c (và k thu t) đã cao h n cácế ứ ủ ứ ỹ ậ
ơ y u t nh ngu n tài nguyên t nhiên và v n, tr thành y u t s n xu tế ố ư ồ ự
ở ế ố ả ấ quan tr ng nh t. V n hành c a kinh t tri th c ch y u không còn doọ ấ
ậ ủ ế ứ ủ ế người lao đ ng c b p thao tác máy móc mà ch y u do nh ng ngơ

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60794687 Câu 1
Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh
tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là nhằm
để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất(ví dụ: muốn ăn gà thì sự nuôi gà
muốn mặc quần áo tự may qa......).
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để
trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xà hội
loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội", xóa bỏ nền kinh tế tự
nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điêu kiện sau đây:
a) Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề
khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn
đên chuyên môn hóa sản xuất. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất
chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người
lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, đòi hòi họ phải
có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Tuy nhiên, phân
công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng hóa
ra đời và tồn tại. C.Mác viết: "Trong công xã Ấn Độ thời cổ đại, lao động đã có sự
phân công xã hội, nhưng các sản phẩm lao động không trở thành hàng hóa... Chỉ có
sản phẩm của nhũng lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối
diện với nhau như là những hàng hóa". Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn
tại phải có điều kiện thứ hai.
b) Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy
là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất
là người sở hữu sản phẩm lao động.
Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những
người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công
lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện
ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thông qua việc mua -
bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa. Sản xuất hàng hóa
chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy
thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa. Câu 2
Hai thuộc tính của hàng hoá
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau, sản xuất hàng hoá có bản chất khác
nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hoá thí đều có
hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. lOMoAR cPSD| 60794687 Giá trị sử dụng
- Hàng hoá trước hết “là một vật nhờ có những thuộc tính của nó mà thoả mãn
đượcmột loại nhu cầu nào đó của con người”, không kể nhu cầu đó được thoả mãn
trực tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sinh hoạt, hay gián tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sản xuất.
- Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra
được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của KH-KT - Giá
trị sử dụng hay công cụ của hàng hoá là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa
quyết định. Với ý nghĩa nh vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
- Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung
vật chất của của cải không kể hình thức xã hội của của cai đó như thế nào. → Một
vật khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải
bất cứ vật gì có giá trị sử dụng là hàng hoá. Chẳng hạn, không khí rất cần cho cuộc
sống con người, nhưng không phải là hàng hoá. Nước suối, quả dại cũng có giá trị
sử dụng, nhưng cũng không phải là hàng hoá. Như vậy, một vật muốn trở thành
hàng hoá thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi,
cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử
dụng là cái mang giá trị trao đổi. Giá trị hàng hoá
Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi.
– Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
– Khái niệm: Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi
với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. (Điều này có nghĩa là 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5kg thóc)
– Vấn đề đặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trị sử dụng lại trao đổi được cho nhau,
hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
+ Cái chung đó không thể là giá trị sử dụng vì hai loại hàng hóa này có công dụng
hoàn toàn khác nhau (vải để mặc, thóc để ăn). Và sự khác nhau đó chỉ là điều kiện
cần thiết để sự trao đổi xảy ra vì không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt
nhau về giá trị sử dụng.
+ Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết
tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau.
Vậy, thực chất người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua là trao đổi lao động
của mình ẩn dấu trong trong những hàng hóa đó.
Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy là cơ sở chung
cho mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa.
– Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh trong hàng hóa
Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Tức là, giá trị là nội dung, là cơ
sở của giá trị trao đổi.
– Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi
hàng hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa.
Quan hệ giữa người với người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật (hàng – hàng).
– Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có
sản xuất hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa. – Kết luận: lOMoAR cPSD| 60794687
+ Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sản
phẩm không chứa đựng lao động thì không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao
động để tạo ra thì có giá trị cao. Lượng giá trị là biểu hiện lượng lao động kết tinh
trong hàng hóa. Lượng lao động kết tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá
trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử.
Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong một hàng hoá. – Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng
hóa thì không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể
thấy một vật có ích tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là
không có lao động xã hội kết tinh trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như:
không khí, ánh nắng mặt trời… – Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với tư cáchlà một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về
chất vì mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư cách là giá trị thì
các hàng hoá đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị và giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá
trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau về thời gian và không gian. Cụ thể
là giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện
sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Nếu không thực hiện được giá trị hàng hoá (hàng hóa
không bán được) thì không thực hiện được giá trị sử dụng có thể dẫn đến khủng
hoảng sản xuất “thừa”.
* Vì sao phải nghiên cứu giá trị bắt đầu từ giá trị trao đổi?
Giá trị là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa nên ta không xác định trực tiếp
được. Ta chỉ có thể xác định, đo lường nó thông qua một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc ►5kg thóc đo gía trị cho 1 m vải
Do đó ta luôn phải xác định tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị
sử dụng khác ►hay nói cách khác, chúng ta đang xác định giá trị trao đổi để xác định giá trị.
Vì sao Hàng hóa có 2 thuộc tính
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do
có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất
hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C.Mác là người
đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a. Lao động cụ thể
– Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động,
mục đích riêng, công cụ lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả
lao động riêng ► tạo ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra
nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa. b. Lao động trừu tượng lOMoAR cPSD| 60794687
– Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình
thức cụ thể của nó, để quy về một cái chung nhất, đó chính là sự tiêu hao sức lao
động ( tiêu hao bắp thịt, thần kinh, bộ óc) của người lao động sản xuất hàng hóa nói chung.
– Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị.
+ Chỉ có lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng
và tạo ra giá trị hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tất nhiên không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động
của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.
– Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư nhân và tính chất xã hội của
lao động sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản
xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ trở
thành việc riêng, mang tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ phận của lao
động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm
cho lao động của người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó
tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho
nhau, người này làm việc vì người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc
trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao động cụ thể mà phải quy thành lao động
đồng nhất là lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Câu 3
Tiền tệ là một thước đo giá trị, theo đó tiền tệ được dùng để đo lường
các giá trị về các loại hàng hóa, do mỗi loại hàng hóa hay vật phẩm đều
có giá trị khác nhau nhưng đều được đo lường bằng giá trị tiền tệ.
Như vậy, tiền tệ là một trong những yếu tố quan trọng trong sự ảnh hưởng
quyền lợi của con người.
Chức năng của tiền tệ
Theo C.Mác thì tiền tệ có những chức năng như sau:
Chức năng là thước đo giá trị:
+ Do tiền tệ là một loại để biểu hiện, đồng thời đo lường các loại hàng hóa
có gía trị như thế nào? Cho nên khi dùng tiền tệ để đo được giá trị của
các loại hàng hóa thì bản thân là tiền tệ cần phải có giá trị trước. Theo đó,
tiền tệ cũng có chức năng để nâng thước đo giá trị phải là tiền vàng.
+ Khi đo lường được giá trị hàng hóa thì không nhất thiết tiền tệ phải là
tiền mặt, mà trong đó chỉ cần thực hiện việc so sánh với một lượng vàng
trong ý tưởng nào đó. Bởi vì, giá trị của hàng hóa và giá trị của vàng trong
thực tế đã có một mức tỷ lệ là nhất định. Trong đó, từ cơ sở tỷ lệ chính là lOMoAR cPSD| 60794687
thời gian lao động mà xã hội cần thiết để hao phí trong sản xuất ra loại hàng hóa đó.
+ Giá trị của hàng hóa được thể hiện bằng tiền thì gọi là giá cả của hàng
hóa. Như vậy, chúng ta hiểu rằng giá cả là một hình thức mà giá trị hàng
hóa thể hiện bằng tiền.
Mà ta thấy: giá cả phải chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như sau gồm: + Giá trị của tiền + Giá trị của hàng hóa
+ Mối quan hệ giữa cung và cầu về hàng hóa
Tuy nhiên, vì giá trị của hàng hóa là một nội dung thuộc giá cả cho nên
đối với 3 yếu tố trên thì giá trị là một nhân tố để quyết định giá cả.
Để tiền làm được với chức năng là thước đo giá trị thì tiền tệ cần phải
được quy định là một đơn vị tiền tệ nhất định để làm tiêu chuẩn đo lường
về giá hàng hóa. Cụ thể, đơn vị này là một trọng lượng nhất định từ kim loại làm tiền tệ.
Trong thực tế, đơn vị tiền tệ sẽ tùy thuộc vào mỗi nước, thì loại tiền tệ này
có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và thành phần chia nhỏ của tiền tệ
chính là tiêu chuẩn của giá cả.
Ví dụ: Ở Hoa Kỳ thì tiêu chuẩn giá của 1 đồng đô la là hàm lượng vàng: 0,83333 gr
Ở nước Pháp thì 1 đồng Franc hàm lượng vàng: 0,170000 gr
Khi tiền tệ được dùng là làm tiêu chuẩn giá cả sẽ hoàn toàn không giống
với chức năng của nó khi làm thước đo giá trị, cụ thể là:
+ Khi tiền tệ là thước đo giá trị thì dùng để đo lường về giá trị của hàng hóa khác
+ Khi tiền tệ là tiêu chuẩn của giá cả thì tiền tệ dùng để đo lường bản thân
của kim loại để làm tiền tệ
– Là phương tiện lưu thông
+ Tiền là một phương tiện để môi giới trong khi trao đổi hàng hóa, khi tiền
tệ có chức năng này thì tiền tệ phải là tiền mặt. Theo đó, hàng hóa để trao
đổi hàng hóa mà lấy tiền làm môi giới thì gọi là lưu thông hàng hóa.
+ Công thức về lưu thông hàng hóa chính là : H – T – H, cụ thể khi tiền
để làm môi giới trong việc trao đổi hàng hóa sẽ làm cho việc mua – bán
được tách rời nhau xét theo không gian và thời gian. Như vậy, khi mà
hoạt động mua và bán có thể là tác nhân của khủng hoảng kinh tế lOMoAR cPSD| 60794687
+ Ở trong một thời kỳ nhất định, việc lưu thông hàng hóa cần phải có
lượng tiền cần thiết đảm bảo cho sự lưu thông, quy luật lưu thông tiền tệ
chính là căn cứ để xác định số lượng tiền đó.
Theo C.Mác thì đối với cùng một không gian, cùng một thời gian thì khối
lượng tiền tệ để đảm bảo cho sự lưu thông được tính theo công thức: T= (Gh * H)/N= G/N
Trong đó: T là số lượng tiền tệ cần để lưu thông
H là số lượng về hàng hóa được lưu thông ở trên thị trường
Gh là giá trung bình của một loại hàng hóa nhất định G
là hàng hóa đó có tổng giá cả là bao nhiêu?
N là các đồng tiền cùng loại có số vòng lưu thông?
+ Quá trình để hình thành tiền giấy là: ban đầu tiền tệ tồn thại ở hình thức
bạc nén, vàng thoi, sau đó được thay thế bằng tiền đúc. Dần dân, qua
quá trình lưu thông thì tiền đúc bị mất một phần giá trị do hao mòn. Tuy
vậy, tiền đúc vẫn được xã hội chấp nhận nó đủ giá trị
Tóm lại, tiền có giá trị thực tách rời giá trị với danh nghĩa của chính nó,
bởi vì tiền làm phương tiện để lưu thông thì chỉ trong 1 thời gian ngắn
nhất định. Con người lấy hàng đổi tiền, sau đó lấy số tiền đó để mua loại
hàng khác mà họ cần, dù vậy tiền không phải nhất thiết cần có đủ giá trị
Dựa vào thực tế trên, nhà nước đã tìm các cách để làm giảm bớt về lượng
kim loại đơn vị tiền tệ trong khi đúc tiền. Ta thấy rằng tiền đúc có giá trị
thực bị thấp hơn so với giá trị theo danh nghĩa của chính nó. Từ đó, tiền
giấy được hình thành – ra đời, thực tế thì tiền giấy không có giá trị, nó chỉ
là ký hiệu của giá trị theo đúng quy luật lưu thông tiền giấy mà nhà nước
đặt ra. – Chức năng tiền tệ là phương tiện cất giữ:
+ Khi tiền được rút khỏi lưu thông và được cất giữ, theo đó tiền cần phải
có đủ về chức năng. Do tiền là đại biểu của cải xã hội với hình thái giá trị,
như vậy cất giữ tiền cũng là cất giữ của cải.
+ Việc cất giữ sẽ làm cho tự phát sự thích ứng trong lưu thông với nhu
cầu tiền cần thiết. khi sản xuất tăng thì hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ
được bỏ ra để đảm bảo lưu thông và ngược lại.
– Là phương tiện trong thanh toán
+ Thực tế, tiền được dùng trong chi trả mua hàng, trả nợ, nộp thuế,… Khi
việc sản xuất, trao đổi hàng hóa được phát triển ở mức độ nào đó nhất
định thì sẽ hình thành việc mua bán chịu. Theo đó, tiền tệ cũng làm chức
năng để định giá cả hàng hóa, nhưng khi đến kỳ hạn của việc mua bán lOMoAR cPSD| 60794687
chịu thanh toán thì khi đó mới làm phương tiện để thanh toán trong lưu thông.
– Tiền tệ thế giới
Khi việc trao đổi hàng hóa được đưa ra khỏi biên giới quốc gia thì tiền tệ
làm chức năng là tiền tệ thế giới. Theo đó, tiền cần đảm bảo đủ giá trị và
là hình thái từ ban đầu là vàng, vàng chính là phương tiện để mua bán
hàng hóa và là phương tiện để thanh toán quốc tế, là biểu hiện của cải của xã hội nói chung.
Qua các chức năng của tiền tệ đã nêu trên thì nền kinh tế hàng hóa có
mối quan hệ mật thiết với chức năng của tiền tệ. Sự phát triển trong sản
xuất và lưu thông hàng hóa chính là phản ánh sự phát triển của chức năng tiền tệ. Câu 4
Nền kinh tế thị trường là gì?
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, tập
thể và hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều loại sở hữu cùng tham gia,
vận động và phát triển theo cơ chế bình đẳng và ổn định,…
Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là một hình thức tổ chức sản xuất xã hội hiệu quả nhất phù hợp với trình
độ phát triển của xã hội hiện nay. Nền kinh tế thị trường có một số đặc điểm chung sau đây:
• Các thành phần trong nền kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành
phần của nền kinh tế độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy hoạt động của mình.
• Tạo ra sự đa dạng về sản phẩm. Do các thành phần kinh tế đều tự quyết định lấy hoạt
động của mình nên bất cứ hàng hoá nào có nhu cầu thì sẽ có người sản xuất để đáp
ứng. Mặt khác, nhu cầu của con người thì luôn luôn đa dạng và phong phú, điều này
tạo nên sự đa dạng của hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
• Nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh. Khi một mặt hàng nào đó có nguồn cầu
lớn dẫn đến tình trạng càng ngày càng nhiều người sản xuất chúng. Và sự đa dạng về
mẫu mã sản phẩm dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường hàng hóa.
• Kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng rãi không
chỉ trong thị trường một nước mà còn có sự giao thương giữa các thị trường trên thế giới. lOMoAR cPSD| 60794687
• Giá cả hình thành dựa trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, không có cá nhân
nào có khả năng quyết định giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi nguồn
cung và cầu của thị trường. Ngoài những đặc điểm cơ bản trên, sau đây Infina sẽ
phân tích ưu thế cũng như mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường. Ưu điểm
Là điều kiện giúp các doanh nghiệp có thể đổi mới sáng tạo
Trong nền kinh tế thị trường, khi lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả và lợi
nhuận tăng lên, khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Khi đó, người sản xuất nào có
cơ chế sản xuất hiệu quả thì có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, từ đó, họ tăng quy mô sản xuất.
Và khi đó, các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người
sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản
xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
Nền kinh tế thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát triển. Bởi vì khi các
doanh nghiệp đó muốn đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường họ phải đổi mới về công nghệ,
quy trình sản xuất, sản phẩm.
Tạo ra một lực lượng sản xuất đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
Dưới sự tác động của các quy luật thị trường (quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…), nền
kinh tế thị trường sẽ tạo ra được một lực lượng sản xuất lớn nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Tạo động lực để người lao động tích cực làm việc
Trong điều kiện các doanh nghiệp không ngừng đổi mới, tìm kiếm nhân lực tài năng, thì mức
lương và chế độ đãi ngộ dành cho người lao động cũng tăng lên đáng kể. Từ đó, tạo động lực
cho người lao động làm việc năng suất hơn, tạo ra nhiều của cải vật chất hơn.
Cung cấp nhiều việc làm hơn, ngăn chặn tình trạng thất nghiệp
Cùng với động lực thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nền kinh tế thị trường
còn gián tiếp tạo ra nhiều việc làm hơn cho thị trường lao động. Không chỉ vậy, việc đòi hỏi
đổi mới sáng tạo không ngừng còn là tiền đề để nâng cao tay nghề, kiến thức chuyên môn của bộ phận lao động.
Hạn chế của nền kinh tế thị trường là gì? lOMoAR cPSD| 60794687
Nền kinh tế thị trường có thể dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội
Với cách vận hành của nền kinh tế thị trường, người giàu sẽ càng giàu, còn người nghèo sẽ
càng nghèo. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, cuối cùng sẽ dẫn tới tình trạng phân
chia giai cấp, gây bất bình đẳng xã hội và các tệ nạn khác.
Gây ra mất cân bằng cung cầu, dẫn đến khủng hoảng kinh tế
Cơ chế của nền kinh tế thị trường không phải lúc nào cũng tạo ra sự cân đối về giá cả và hàng
hóa. Thị trường vốn dĩ có sự biến động liên tục, do vây việc xảy ra các vấn đề chẳng hạn như
chiến tranh, dịch bệnh, thiện tai, cấm vận… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đóng vai trò định hướng, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch; thực hiện tiến bộ, công bằng trong từng chính sách phát triển và đặc biệt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân...
Một số điều cần cần đáp ứng để cơ chế thị trường không tồn tại
những hạn chế
như:
- Thị trường có sự cạnh tranh lành mạnh - Có thông tin minh bạch
- Không bị ảnh hưởng bởi các thông tin ngoại lai - Không đầu cơ
- Không vi phạm đạo đức kinh doanh
- Không có sự lách luật…
Không chỉ vậy, bởi vì chạy theo lợi nhuận nên các công ty sẽ mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, dẫn đến nguồn cung cao hơn cầu. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm sẽ dẫn đến
hiện tượng khủng hoảng thừa và gây ra khủng hoảng kinh tế.
Có thể dẫn đến việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả
Có rất nhiều lý do dẫn đến tình trạng này. Bởi vì giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng
thời gian ngắn hạn dẫn đến việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa
tổng cung và tổng cầu. Điều này sẽ gây ra tình trạng lạm phát và thất nghiệp. Câu 5’
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng
hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát
huy tác dụng của quy luật giá trị
a) Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
+ Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa
vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các
quy luật khác của sản xuất hàng hóa.
+ Nội dung của quy luật giá trị là: lOMoAR cPSD| 60794687
Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là
dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất
phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với
mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại
được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc
ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một
lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện
với giá cả bằng giá trị.
+ Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp
giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá
trị. ở đây, giá trị như cái trục của giá cả. b) Tác động của quy luật giá trị
+ Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá
trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu
tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất
hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất
và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị,
sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc
chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao
động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất
có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
+ Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất
và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
+ Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện
ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả
cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. lOMoAR cPSD| 60794687
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suấtlao
động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau,
do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường
thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã
hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao
động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được
nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản
xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản
lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra
mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng
sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi
phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt
thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo
mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi,
giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí
lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán
hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản,
trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực.
+ Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển,
nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Như vậy, quy luật giá trị có tác dụng tích cực, vừa có tác dụng tiêu cực lOMoAR cPSD| 60794687 Câu6
1. Quy định chung về cạnh tranh

Cạnh tranh là quy luật của kinh tế thị trường. Cạnh tranh không những là động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, điều tiết hệ thống thị trường, mà còn là yếu tố quan
trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh doanh
phải luôn đổi mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng hiệu quả các nguồn
tài nguyên, áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật trong sản xuất để tăng năng suất lao
động, tìm cách thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của người tiêu dùng và vì vậy mang lại
sự Ÿ tăng trưởng và cải thiện hiệu quả kinh tế.
Cạnh tranh phải được diễn ra trong môi trường pháp lí tự do và bình đẳng cho mọi
chủ thể kinh doanh, nếu không có môi trường pháp lí đó, cạnh tranh có thể đưa đến
những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội.
Cạnh tranh có thể biểu hiện bằng các hình thức với những tính chất khác nhau như
cạnh tranh tự do, cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh không hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
2. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là khái niệm rất rộng, xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, thể thao... và có khá nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về cạnh tranh.
Theo cách hiểu phổ thông thể hiện trong Từ điển ngôn ngữ tiếng Anh, “competition”
(cạnh tranh) là “một sự kiện hoặc một cuộc đua, theo đó các đối thủ ganh đua để giành phần
hơn hay ưu thế tuyệt đổi về phía mình”
.
Theo Từ điển tiếng Việt, “cạnh tranh” là “ cố gắng giành phần hơn, phần thắng về
mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau”.
Trong khoa học kinh tế, đến nay các nhà khoa học dường như chưa thoả mãn với bất
cứ khái niệm nào về cạnh tranh. Bởi lẽ, cạnh tranh là hiện tượng kinh tế chỉ xuất hiện
và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, ở mọi lĩnh vực, mọi giai đoạn của quá trình kinh
doanh và gắn với mọi chủ thể kinh doanh đang hoạt động trên thị trường. Do đó, cạnh
tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào ý định và hướng tiếp
cận nghiên cứu của các nhà khoa học.
Với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh, cuốn “Các hoạt động
hạn chế cạnh tranh và hoạt động thương mại không lành mạnh” của Tổ chức thống
nhất, tín thác vì người tiêu dùng (Ấn Độ) đã diễn tả: “Cạnh tranh trên thị trường là quá
trình ở đó nhà cung cấp cố gắng ganh đua để giành khách hàng bằng các phương thức, biện pháp khác nhau”. lOMoAR cPSD| 60794687
Theo Từ điển kinh doanh, xuất bản ở Anh năm 1992 thì "cạnh tranh" được hiểu là "sự
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một
loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình". Từ điển tiếng Việt
Bách khoa tri thức phổ thông cũng giải thích cạnh tranh theo nghĩa kinh tế là: Hoạt
động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà
kinh doanh trong nền kinh tế nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Mặc dù được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau và có nhiều định nghĩa khác nhau
về cạnh tranh song nhìn chung theo các cách giải thích trên, trong khoa học kinh tế
cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường
nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng. Cạnh tranh có thể
xuất hiện giữa những người bán hàng và cũng có thể xuất hiện giữa những người
mua hàng nhưng cạnh tranh giữa những người bán hàng là phổ biến.
3. Bản chất của cạnh tranh là gì ?
Dưới giác độ kinh tế, cạnh tranh có bản chất sau:
- Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trườngđể giành giật khách hàng
Trong kinh tế học, thị trường được xác định là cơ chế ttao đổi đưa người mua và
người bán của một loại hàng hoá hay dịch vụ đến với nhau. Đó đơn giản là giao dịch
chứ không phải là địa điểm như mọi người thường nghĩ, nó hình thành khi người mua
đồng ý trả một mức giá cho sản phẩm mà nhà cung cấp bán ra. Trên thị trường, giữa
khách hàng và nhà cung cấp, luôn luôn thể hiện nhu cầu, lợi ích khác nhau. Khách
hàng mong muốn mua được sản phẩm phù hợp nhất với giá rẻ nhất có thể, trong khi
đó, nhà cung cấp mong muốn bạn được sản phẩm càng nhanh càng tốt để đầu tư
phát triển sản xuất thu được nhiều lợi nhuận. Khuynh hướng này là nguồn gốc tạo ra
sự cạnh tranh, sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường để lôi kéo
khách hàng về phía mình. Để ganh đua với nhau, các chủ thể kinh doanh phải sử
dụng các phương thức, thủ đoạn kinh doanh được gọi là các hành vi cạnh tranh của
doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh tranh trôn thị trường làm cho người chiến thắng
mở rộng được thị phần, tăng lợi nhuận, kẻ thua cuộc mất khách hàng và phải ròi khỏi
thị trường. Quá trình cạnh tranh, ganh đua buộc các chủ thể kinh doanh phải xem xét
lại mình để làm sao sử dụng tất cả các nguồn lực một cách hiệu quả.
Chủ thể của cạnh tranh là các tổ chức, cá nhân kinh doanh có tư cách pháp lí độc lập.
Cạnh tranh chỉ diễn ra khi có sự ganh đua của ít nhất hai chủ thể trở lên và phần lớn
là đối thủ của nhau. Nếu không có đối thủ hay nói cách khác là tồn tại tình trạng độc
quyền thì cạnh ttanh không thể diễn ra. lOMoAR cPSD| 60794687
- Quá trình cạnh tranh giữa các đối thủ diễn ra trên thị trường
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua nhau, giành cơ hội
tốt nhất để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh thường chỉ diễn ra giữa các
doanh nghiệp có chung lợi ích như cùng tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào giống
nhau hoặc cùng tìm kiếm thị trường để bán những sản phẩm tương tự nhau. Điều đó
làm cho các doanh nghiệp có chung lợi ích tranh giành trở thành đối thủ của nhau.
Chúng ta khó có thể thấy có sự cạnh tranh giữa một doanh nghiệp sản xuất xi măng
với một doanh nghiệp kinh doanh đồ ăn uống hoặc cũng khó có cạnh tranh giữa hai
nhà sản xuất quần áo ở hai quốc gia chưa hề có quan hệ thương mại. Bởi vậy, lí
thuyết cạnh tranh xác định sự tồn tại của cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh khi
chúng là đối thủ của nhau và sự cạnh tranh, ganh đua giữa các đối thủ đó được thể
hiện trên thị trường. Đặc biệt, đối với nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh, để xác định
có hành vi này xảy ra hay không thì phải xác định chủ thể thực hiện hành vi đó hoạt
động trên thị trường liên quan nào và những ai là đối thủ cạnh tranh của nó. Theo
pháp luật của các nước trên thế giới và theo Luật cạnh tranh của Việt Nam thì thị
trường liên quan là thị trường của tất cả các sản phẩm hay dịch vụ có thể thay thế
cho nhau trong khu vực địa lí riêng biệt nhất định.
- Cạnh tranh chỉ diễn ra trong điều kiện của cơ chế thị trường
Cạnh tranh là hoạt động nhằm tranh giành thị trường, lôi kéo khách hàng về phía mình
của các chủ thể kinh doanh nên cạnh tranh chỉ diễn ra trong cơ chế thị trường khi mà
công dân có quyền tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp, tự do tìm kiếm
cơ hội để phát triển sản xuất kinh doanh. Trong thời kì phong kiến, nhà nước phong
kiến luôn chủ trương hình thành và phát triển các phường, hội, các công xã nông thôn
mang tính khép kín, tự cung tự cấp, do đó cạnh tranh không có điều kiện để phát triển.
Trong nền kinh tể kế hoạch hoá tập trung - nơi mà nhà nước là nhà đầu tư duy nhất
nắm quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế nên không thể nói đến kinh tế thị trường,
không thể tồn tại quyền tự do kinh doanh của cá nhân, do đó cạnh tranh cũng không
thể tồn tại với tính chất là sự ganh đua kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
Trong khoa học pháp lí, các nhà nghiên cửu cũng rất khó có thể đưa ra khải niệm
chuẩn chung cho hiện tượng cạnh tranh với tư cách là mục tiêu điều chỉnh của pháp
luật. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh tự do cạnh tranh, tự do sáng
tạo ra các phương thức để ganh đua giành phần thắng về phía mình, do đó khái niệm
cạnh tranh được pháp luật của rất ít nước định nghĩa. Trong cuốn “Tài liệu tham khảo
luật về cạnh tranh và chống độc quyền của một số nước và vùng lãnh thố trên thế
giới” do Bộ Thương mại ấn hành năm 2001 phục vụ cho việc xây dựng Luật cạnh
tranh của Việt Nam có giới thiệu luật về cạnh tranh của 9 nước và vùng lãnh thổ trong lOMoAR cPSD| 60794687
đó chỉ có Luật cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ và Luật thương mại lành mạnh của Đài
Loan đưa ra khái niệm cạnh tranh. Điều 3 Luật cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ quy định:
Cạnh tranh có nghĩa là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường hàng hoá,
dịch vụ để quyết định các vấn đề kinh tế một cách độc lập. Điều 4 Luật thương mại
lành mạnh của Đài Loan quy định: “Cạnh tranh” là từ chỉ những hành động theo đó
hai hay nhiều doanh nghiệp đưa ra thị trường mức giá, số lượng, chất lượng, dịch vụ
ưu đãi hơn hoặc những điều kiện khác nhằm giành cơ hội kinh doanh. Khái niệm về
cạnh tranh theo quy định tại Luật cạnh tranh của Thổ Nhĩ Kỳ và Hàn Quốc có thể thấy
tương tự cách hiểu về cạnh tranh dưới giác độ kinh tế đã được trình bày ở phần trên.
Luật cạnh tranh năm 2014 (luật hiện hành) cũng như luật về cạnh tranh của nhiều
nước trên thế giới (Trung Quốc, Hàn Quốc, Bungari, Nhật Bản...), tuy đều không đưa
ra. khái niệm cạnh tranh nhưng bao gồm các quy phạm nhằm tạo lập và duy trì môi
trường kinh doanh bình đẳng, đảm bảo sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh diễn
ra theo trật tự và trong khung khổ được pháp luật quy định.
4. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò đặc biệt không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn cả người tiêu dùng và nền kinh tế
- Đối với doanh nghiệp: Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanhnghiệp do khả năng cạnh tranh tác động đến kết quả tiêu thụ mà kết quả tiêu
thụ sản phẩm là khâu quyết định trong việc doanh nghiệp có nên sản xuất nữa hay
không. Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh
nghiệp tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường thông qua thị phần của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
- Đối với người tiêu dùng: Nhờ có cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà người
tiêudùng có cơ hội nhận được những sản phẩm ngày càng phong phú và đa dạng với
chất lượng và giá thành phù hợp với khả năng của họ.
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh là động lực phát triển của các doanh nghiệp
thuộcmọi thành phần kinh tế. Cạnh tranh là biểu hiện quan trọng để phát triển lực
lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Cạnh tranh là điều kiện
giáo dục tính năng động của nhà doanh nghiệp bên cạnh đó góp phần gợi mở nhu
cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của các sản phẩm mới. Điều này chứng
tỏ chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên cạnh tranh cũng dẫn
tới sự phân hoá giàu nghèo có thể dẫn tới xu hướng độc quyền trong kinh doanh.
5. Các loại hình cạnh tranh. lOMoAR cPSD| 60794687
Dựa trên các tiêu thức khác nhau người ta phân thành nhiều loại hình cạnh tranh khác nhau.
5.1 Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường
* Người ta chia cạnh tranh làm ba loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo "luật" mua rẻ bán
đắt. Người mua luôn muốn mua được rẻ, ngược lại người bán lại luôn muốn được bán đắt.
Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá trình mặc cả và cuối cùng giá cả được hình thành
và hành động mua được thực hiện.
* Cạnh tranh giữa người mua với người bán: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sởquy luật cung
cầu. Khi một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó mà mức cung cấp nhỏ hơn nhu cầu tiêu dùng thì
cuộc cạnh tranh sẽ trở nên quyết liệt và giá dịch vụ hàng hoá đó sẽ tăng. Kết quả cuối cùng là
người bán sẽ thu được lợi nhuận cao, còn người mua thì mất thêm một số tiền. Đây là một
cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính mình.
* Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh gaygo và quyết liệt
nhất, nó có ý nghĩa sống còn đối với bất kì một doanh nghiệp nào. Khi sản xuất hàng hoá phát
triển, số người bán càng tăng lên thì cạnh tranh càng quyết liệt bởi vì doanh nghiệp nào cũng
muốn giành lấy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ và kết quả đánh giá doanh
nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này là việc tăng doanh số tiêu thụ, tăng thị phần
và cùng với đó sẽ là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu và mở rộng sản xuất. Trong cuộc
chạy đua này những doanh nghiệp nào không có chiến lược cạnh tranh thích hợp thì sẽ lần
lượt bị gạt ra khỏi thị trường nhưng đồng thời nó lại mở rộng đường cho những doanh nghiệp
nào nắm chắc được "vũ khí" cạnh tranh và dám chấp nhận luật chơi phát triển.
5.2 Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
Người ta chia cạnh tranh thành hai loại:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất hoặc tiêu
thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn
nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị
trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh thậm chí phá sản. - Cạnh
tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp trong ngành kinh tế khác
nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp
luôn say mê với những ngành đầu tư có lợi nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận
sang ngành nhiều lơị nhuận. Sự điều tiết tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau một
thời gian nhất định sẽ hình thành nên một sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất, để
rồi kết quả cuối cùng là, các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn như lOMoAR cPSD| 60794687
nhau thì cũng chỉ thu được như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
5.3 Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường
* Người ta chia cạnh tranh thành 3 loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rấtnhiều người bán,
người mua nhỏ, không ai trong số họ đủ lớn để bằng hành động của mình ảnh hưởng đến giá
cả dịch vụ. Điều đó có nghĩa là không cần biết sản xuất được bao nhiêu, họ đều có thể bán
được tất cả sản phẩm của mình tại mức giá thị trường hiện hành. Vì vậy một hãng trong thị
trường cạnh tranh hoàn hảo không có lý do gì để bán rẻ hơn mức giá thị trường. Hơn nữa nó
sẽ không tăng giá của mình lên cao hơn giá thị trường vì nếu thế thì hãng sẽ chẳng bán được
gì. Nhóm người tham gia vào thị trường này chỉ có cách là thích ứng với mức giá bởi vì cung
cầu trên thị trường được tự do hình thành, giá cả theo thị trường quyết định, tức là ở mức số
cầu thu hút được tất cả số cung có thể cung cấp. Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ
không có hiện tượng cung cầu giả tạo, không bị hạn chế bởi biện pháp hành chính nhà nước.
Vì vậy trong thị trường này giá cả thị trường sẽ dần tới mức chi phí sản xuất.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: Nếu một hãng có thể tác động đáng kể đếngiá cả thị trường
đối với đầu ra của hãng thì hãng ấy được liệt vào "hãng cạnh tranh không hoàn hảo"… Như
vậy cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường không đồng nhất với nhau. Mỗi
loại sản phẩm có thể có nhiều loại nhãn hiệu khác nhau, mỗi loại nhãn hiệu lại có hình ảnh và
uy tín khác nhau mặc dù xem xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản phẩm là không
đáng kể. Các điều kiện mua bán cũng rất khác nhau. Những người bán có thể cạnh tranh với
nhau nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như: Quảng cáo, khuyến mại,
những ưu đãi về giá và dịch vụ trước, trong và sau khi mua hàng. Đây là loại hình cạnh tranh
rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó một ngườibán một loại sản
phẩm không đồng nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ sản phẩm hay hàng hoá bán ra
thị trường. Thị trường này có pha trộn lẫn giữa độc quyền và cạnh tranh gọi là thị trường cạnh
tranh độc quyền. ở đây xảy ra cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện gia nhập hoặc rút
lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc
quyền về bí quyết công nghệ, thị trường này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người
bán toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu
dùng của từng sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối đa. Những nhà doanh
nghiệp nhỏ tham gia vào thị trường này phải chấp nhậnbán hàng theo giá cả của nhà độc quyền. lOMoAR cPSD| 60794687 Câu 7
II. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường Tư bản chủ nghĩa 5
Để thu đư]c nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C.Mác đã chỉ ra
nhà tư bTn s^ d_ng hai phương pháp sTn xuất giá trị thặng dư là sTn xuất giá
trị thặng dư tuyệt đối và sTn xuất giá trị thặng dư tương đối.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối Trong giai đoạn phát
triển đầu tiên của sTn xuất tư bTn chủ nghĩa, khi kĩ thuật còn
thấp, tiSn bộ chậm chạp thì phương pháp chủ ySu để tăng giá trị thặng dư là
kéo dài ngày lao động của công nhân.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu đư]c do kéo dài ngày lao động
vư]t quá thời gian lao động tất ySu, trong khi năng suất lao động, giá trị
sHc lao động và thời gian lao động tất ySu không thay đổi.
Ví d_: nSu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất ySu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 8 đơn vị thì
giá trị thặng dư tuyệt đối ở đây sẽ là 32. Và tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 32/32 * 100% = 100%
GiT định ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ với mọi điều kiện không đổi thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng từ 32 lên 48 thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: m’ = 48/32 * 100% = 150%
Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sHc lao động phTi tìm mọi
cách để kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động. Tuy nhiên, ngày lao
động chịu giới hạn về mặt sinh lý vì công nhân phTi có thời
gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi để ph_c hồi sHc khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phTi sJ
phTn kháng của giai cấp công nhân. Do đó, ngày lao động phTi dài hơn thời gian lao động
tất ySu và cũng không thể vư]t giới hạn thể chất và tinh thần của người lao động.
(-Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lư]ng không cố
định và có nhiều mHc khác nhau. Độ dài c_ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sTn trên cơ sở tương quan lJc lư]ng quySt định. Cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ
đã kéo dài hàng thS kỷ.)
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Thời lư]ng ngày làm việc bị hạn chS về mặt thể chất và tâm lý của người lao
động và ngày càng bị giai cấp công nhân phTn đối. Mặt khác, khi nền sTn xuất tư
bTn chủ nghĩa phát triển đSn giai đoạn mà công nghiệp cơ khí và công nghệ tiên lOMoAR cPSD| 60794687
tiSn, năng suất lao động ngày càng tăng nhanh, thì nhà tư bTn đã chuyển sang
phương thHc bóc lột dJa trên cơ sở tăng năng suất xã hội từ giá cT. STn xuất giá trị
thặng dư tương đối là phương pháp sTn xuất giá trị thặng dư đạt đư]c bằng cách
rút ngắn thời gian lao động cần thiSt để kéo dài giá trị thặng dư một cách tương
Hng. Thời gian lao động do năng suất lao động xã hội tăng lên với một ngày lao Câu 8
Ch nghĩa tư bn ngày nay (hay ch nghĩa tư bn hin đi) là mt nc thang trong
quá trình phát trin ca ch nghĩa tư bn đc quyn. T sau Chiến tranh thế gii th
hai đến nay, nht là vào nhng năm cui thế k XX, trong các nước tư bn ch nghĩa
phát trin đã din ra mt cách sâu rng cuc cách mng khoa hc và công ngh. arrow_forward_iosĐọc thêm Pause 01:00 Unmute
Ch nghĩa t b n ngày nay (hay ch nghĩa t b n hi n đ i) là m t n củ ư ả ủ ư ả ệ ạ ộ
ấ thang trong quá trình phát tri
n c a ch nghĩa t b n đ c quy n.ể ủ ủ ư ả ộ ề
T sau Chi n tranh th gi i th hai đ n nay, nh t là vào nh ng năm cu iừ ế ế ớ ứ ế ấ ữ
ố th k XX, trong các nế ỷ ước t
b n ch nghĩa phát tri n đã di n ra m tư ả ủ ể ễ ộ cách sâu r
ng cu c cách m ng khoa h c và công ngh . Vi c ng d ngộ ộ ạ ọ ệ ệ ứ
ụ nhũng thành t u c a cách m ng khoa h c và công ngh
đã làm cho quanự ủ ạ ọ ệ h s n xu t t b n ch nghĩa có s bi n đ i đ thích ng. T
đó làm n yệ ả ấ ư ả ủ ự ế ổ ể ứ ừ ả sinh nh ng bi u hi n m i, đ ng th i làm cho
mâu thu n c b n cữ ể ệ ớ ồ ờ ẫ ơ ả ủa chủ nghĩa t b n càng thêm gay g t.ư ả ắ
a) S phát trin nhy vt v lc lượng sn xut - Th nht, cách mng công ngh
thông tin và công ngh cao phát trin mnh m. Công ngh thông tin phát trin mnh
m, tr thành ngành ln nht và ngành tăng trưởng nhanh, nht là vào na cui thp
k 90 ca thế k XX. lOMoAR cPSD| 60794687 arrow_forward_iosĐọc thêm Pause 01:00 Unmute
a) S phát tri n nh y v t v l c lự ể ả ọ ề ự ượng s n xu tả ấ
- Th nh t, cách m ng công ngh thông tin và công ngh cao phát tri nứ ấ ạ ệ
ệ ể m nh m . Công ngh thông tin phát tri n m nh m , tr thành ngành l nạ ẽ ệ
ể ạ ẽ ở ớ nh t và ngành tăng trấ ưởng nhanh, nh t là vào n a cu i th p k 90 c
aấ ử ố ậ ỷ ủ th k XX. Cùng v i s lan r ng trên toàn c u c a cách m ng công nghế
ỷ ớ ự ộ ầ ủ ạ ệ thông tin, các ngành công ngh cao m i khác nh sinh h c, vệ ớ
ư ọ ật li u m i,ệ ớ ngu n năng lồ ượng m i, hàng không vũ tr ... cùng đang
phát tri n m nhớ ụ ể ạ m . S ti n b và nh ng bẽ ự ế ộ ữ ước đ t phá c a khoa h
c k thu t đã mộ ủ ọ ỹ ậ ở ra không gian r ng l n m i cho s phát tri n c a s c s
n xu t.ộ ớ ớ ự ể ủ ứ ả ấ
- Th hai, giáo d c - đào t o đứ ụ ạ ược tăng cường làm cho t ch t côngố ấ
nhân được nâng cao, t đó đ t n n móng v ng ch c cho vi c nâng caoừ ặ ề ữ ắ
ệ năng su t lao đ ng và s c c nh tranh.ấ ộ ứ ạ
b) N n kinh t đang có xu hề ế ướng chuy n t kinh t công nghi p sangể ừ ế ệ kinh t tri th cế ứ
Cu c cách m ng khoa h c k thu t l n th nh t di n ra 200 năm trộ ạ ọ ỹ ậ ầ ứ ấ ễ
ước, thúc đ y ch nghĩa t b n chuy n đ i t kinh t nông nghi p sang kinhẩ ủ ư ả
ể ổ ừ ế ệ t công nghi p, cách m ng công ngh thông tin hi n nay đang thúc đ
yế ệ ạ ệ ệ ẩ n n kinh t t b n ch nghĩa chuy n t kinh t công nghi p sang kinh tề
ế ư ả ủ ể ừ ế ệ ế tri th c.ứ
Trong kinh t tri th c, vai trò c a tri th c (và k thu t) đã cao h n cácế ứ ủ ứ ỹ ậ
ơ y u t nh ngu n tài nguyên t nhiên và v n, tr thành y u t s n xu tế ố ư ồ ự ố
ở ế ố ả ấ quan tr ng nh t. V n hành c a kinh t tri th c ch y u không còn doọ ấ
ậ ủ ế ứ ủ ế người lao đ ng c b p thao tác máy móc mà ch y u do nh ng ngộ ơ