Định nghĩa vật chất của v.i.lê nin, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất. Nghiên cứu vấn đề vật chất đối với khoa học hiện nay | Tiểu luận Triết học Mac-Lenin

Định nghĩa vật chất của v.i.lê nin, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất. Nghiên cứu vấn đề vật chất đối với khoa học hiện nay | Tiểu luận Triết học Mac-Lenin. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 25734098
ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI:
ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA V.I.LÊ NIN,
PHƯƠNG THỨC VÀ HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA
VẬT CHẤT. NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VẬT CHẤT
ĐỐI VỚI KHOA HỌC HIỆN NAY
LỚP L14 --- NHÓM 1 --- HK 202
NGÀY NỘP 22/04/2021
Giảng viên hướng dẫn: cô An Thị Ngọc Trinh
Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số
Phạm Ngọc An 1912540 Quốc An
2010818
Nguyễn Tấn An 2012560
Phan Thanh An 2012564
Nguyễn Thanh Tuấn Anh 1912596
Nguyễn Thị Lan Anh 2010123
Thành phố Hồ Chí Minh – 2021
lOMoARcPSD| 25734098
MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ
ĐẦU..................................................................................................1 2. PHẦN
NỘI DUNG..............................................................................................2
CHƯƠNG I. ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA V.I. LÊNIN, PHƯƠNG THỨC HÌNH THỨC
TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT.............................................................................................2
1.1 Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất.............................................2
1.1.1 Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin...........................................................2
1.1.2 Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm triết học Mác- Lênin..............6
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất...............................................7
1.2.1 Vận động..................................................................................................8
1.2.1.1 Vận động là gì ?................................................................................8
1.2.1.2 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất...................................8
1.2.1.3 Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.....................................9
1.2.1.4 Vận dộng và đứng im......................................................................11
1.2.2 Không gian và thời gian.........................................................................12
1.2.2.1 Định nghĩa......................................................................................12
1.2.2.2 Những quan điểm về không gian và thời gian.................................13
1.2.2.3 Các tính chất của không gian và thời gian.......................................14
CHƯƠNG II NGHIÊN CỨU VỀ VẬT CHẤT ĐỐI VỚI ĐỊA CHẤT HỌC NGÀY NAY.............16
2.1 Khái quát sự phát triển của địa chất học ở Việt Nam ngày nay....................16
2.2 Đánh giá thực trạng việc nghiên cứu vấn đề vật chất đối với địa chất học
ngày nay..............................................................................................................19
2.2.1 Những thành tựu nổi bật của ngành địa chất Việt Nam..........................19
2.2.1.1 Thành tựu trong công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản về địa
chất và tài nguyên khoáng sản.................................................................19
2.2.1.2 Thành tựu trong công tác điều tra đánh giá tài nguyên khoáng
sản và phát triển công nghiệp khai khoáng............................................21
2.2.1.3 Thành tựu trong công tác điều tra địa chất đô thị, địa chất môi
trường, tai biến địa chất và di sản địa chất.............................................23
2.2.1.4 Thành tựu trong công tác điều tra địa vật lý..............................24
2.2.1.5 Thành tựu trong công tác lưu trữ, xuất bản, thông tin và bảo
tàng địa chất..............................................................................................25
2.2.1.6 Thành tựu trong hợp tác và thực hiện nghĩa vụ quốc tế...........25
2.2.1.7 Thành tựu trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản......27
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân.............................................................29
2.3 Những giải pháp khắc phục hạn chế.............................................................29
3. KẾT
LUẬN........................................................................................................31 4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................32
lOMoARcPSD| 25734098
1
1. PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, thế giới đang trong đà phát triển của công nghệ 4.0, cuộc sống của con người
cũng vì đó à trở nên tốt hơn. Đi kèm đó vật chất ngày một đổi mới đáp ứng nhu cầu
của mỗi con người. Vật chất vấn đề con người luôn luôn hướng tới, thay đổi để
chất lượng cuộc sống đảm bảo tốt hơn.
Trong lịch sử triết học Mác - Lênin khái niệm vật chất được hiểu là tất cả những
tồn tại khách quan tức những sự tồn tại của không phụ thuộc vào ý thức
của con người, không phụ thuộc vào quan niệm của con người. Theo đó vật chất
cùng tận, là không giới hạn, tồn tại giữa lượng các hình thức
khác nhau, có thể là những tồn tại mà con người đã biết hoặc là những tồn tại
con người chưa biết. Đó là những vật chất tự nhiên hoặc là những tồn tại của vật
chất trong đời sống xã hội. Vật chất tồn tại vô cùng lớn ví dụ: như thiên hà, hoặc
vô cùng bé là những hạt cơ bản. Đó có thể là những tồn tại mà người ta trực tiếp
giác quan được nhưng cũng thể là những tồn tại không thtrực tiếp giác
quan được nhưng nó tồn tại khách quan. Vật chất với tư cách là tồn tại khách
quan thì không tồn tại cảm tính có nghĩa con người không thể dùng giác quan
để nhận biết nhưng vật chất với cách những biểu hiện tồn tại cụ thể dưới
những hình thức nhất định tồn tại cảm tính.Thông qua đó thì con người mới
nhận thức về nó. cũng từ đó ứng dụng vật chất vào trong đời sống của con
người.
Vậy chúng ta sẽ tìm hiểu về “ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin, phương thức
hình thức tồn tại của vật chất ” và “Nghiên cứu vấn đề vật chất đối với khoa học
hiện nay”
2. PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin, phương thức và hình thức tồn tại
của vật chất
1.1 Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất
lOMoARcPSD| 25734098
2
1.1.1 Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
Trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy m, thuyết bất khả tri phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C.Marx và Ph.Ăngghen đã đưa ra những tưởng rất
quan trọng về vật chất.
Theo Ph.Ăngghen, để một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải một sự
phân biệt ràng giữa vật chất với tính cách một phạm trù của triết học với bản thân
các sự vật hiện tượng cụ thể của thế giới vật chất. “Vật chất, với tính cách là vât chất,
một sáng tạo thuần túy của tư duy một sự trừu tượng thuần túy, không sự tồn tại
cảm tính”.
Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng, bản thân phạm trù vật chất cũng không phải sự sáng
tạo tùy tiện của tư duy con người, trái lại, kết quả của con đường trừu tượng hóa
của duy con người vcác sự vật, hiện tượng thể cảm biết được bằng các giác quan.
Các sự vật hiện tượng của thế giới, dù rất phong phú, muôn vẻ nhưng chúng vẫn có một
đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất - tính tồn tại độc lập không lệ thuộc vào ý
thức.
Đặc biệt, Ph.Ăngghen khẳng định rằng, xét về thực chất, nội hàm của phạm trù vật
chất chẳng qua chỉ sự tóm tắt trong chúng ta tập hợp theo những thuộc tính chung của
tính phong phú, muôn vẻ nhưng thể cảm biết được bằng các giác quan của các sự vật,
hiện tượng của thế giới vật chất. “Thực thể, vật chất không phải cái gì khác hơn là tổng
số những vật thể từ đó người ta rút ra được khái niệm ấy bằng con đường trừu tượng
hóa; vận động với tính cách là vận động không phải là cái gì khác hơn là tổng số những
hình thức vận động thể cảm biết được bằng các giác quan; những từ như “vật chất”
và “vận động” chỉ những sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp chúng theo các thuộc
tính chung của chúng, rất nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau có thể cảm biết được bằng
các giác quan. Vì thế chỉ có thể nhận thức được vật chất và vận động bằng cách nghiên
cứu những vật thể riêng biệt và những hình thức riêng lẻ của vận động, và khi chúng ta
nhận thức được những cái ấy thì chúng ta cũng nhận thức được cả vật chất và vận động
với tính cách vật chất và vận động.
lOMoARcPSD| 25734098
3
C.Marx không đưa ra một định nghĩa về vật chất, nhưng đã vận dụng đúng đắn
quan điểm duy vật biện chứng về vật chất trong phân tích những vấn đề chính trị -
hội, đặc biệt trong phân tích quá trình sản xuất vật chất cả hội mở rộng quan
điểm duy vật biện chứng về vật chất để phân tích tồn tại hội và mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. C.Marx và Ph.Ăngghen đã khẳng định quan
điểm duy vật biện chứng của mình trong nghiên cứu lịch sử như sau: Những tiên đề xuất
phát của tôi, “đó là những cá nhân hiện thực, hoạt động của họ, những điều kiện mà họ
thấy sẵn cũng như những điều kiện do chính hoạt động của họ tạo ra…” Như vậy, vật
chất trong hội chính là tồn tại của chính bản thân con người cùng với những điều kiện
sinh hoạt vật chất của con người, hoạt động vật chất những quan hệ vật chất giữa
người với người.
Vladimir Ilyich Lenin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của
khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang nhầm
lẫn hoặc xuyên tạc những thành tựu mới nhất trong nhận thức cụ thể của con người về
vật chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ phát triển quan niệm duy
vật biện chứng về vật chất.
Để đưa ra một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, Vladimir Ilyich Lenin đặc
biệt quan tâm đến tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Kế thừa những
tưởng của C.Marx Ph.Ăngghen, Vladimir Ilyich Lenin đã định nghĩa vật chất với
cách một phạm trù triết học bằng cách đem đối lập với phạm trù ý thức trên
phương diện nhận thức luận bản. Vladimir Ilyich Lenin viết: “Không thể đem lại cho
hai khái niệm nhận thức luận bản này một định nghĩa nào khác ngoài chỉ ràng
trong hai khái niệm đó, cái nào được coi là có trước, cái nào quyết định cái nào? Và cái
kia có tác động trở lại cái còn lại hay không?”
Với phương pháp nêu trên, trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, Vladimir Ilyich Lenin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” đây một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất
cho đến nay được các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.
lOMoARcPSD| 25734098
4
Định nghĩa vật chất của Vladimir Ilyich Lenin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức.
Khi nói vật chất một phạm trù triết học muốn nói phạm trù y sự trừu tượng
hóa, không sự tồn tại cảm tính. Nhưng khác về nguyên tắc với mọi sự trừu tượng hóa
mang tính chất chủ nghĩa duy tâm về phạm tnày,Vladimir Ilyich Lenin nhấn mạnh
rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ “đặc tính duy nhất của vật chất chủ nghĩa
duy vật triết học gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - cái đặc tính tồn tại với tư
cách là hiện thực khách quan, tồn tại ngoài ý thức chúng ta”. Nói cách khác tính trừu
tượng của phạm trù của vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện thực, do đó không tách rời tính
hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất là nói đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu
thực sự bên ngoài ý thức của con người. Vật chất hiện thực chứ không phải
và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải chủ quan. Đây cũng chính là cái
phạm vi hết sức hạn chế mà ở đó theo Vladimir Ilyich Lenin, sự đối lập giữa vật chất và
ý thức tuyệt đối. Tuyệt đối hóa tính trừu tượng của phạm trù y sẽ không thấy vật
chất đâu cả, sẽ rơi vào quan điểm duy tâm, ngược lại nếu tuyệt đối hóa tính cụ thể của
phạm trù sẽ dẫn chúng ta tới quan điểm duy vật.
Thứ hai, vật chất cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho
con người cảm giác.
Trái với quan niệm “khách quan”mang tính chất duy tâm vsự tồn tại của vật chất,
Vladimir Ilyich Lenin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách
quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng
cụ thể. Các thực thể này do những đặc tính bản thể luận vốn của nó, nên khi trược
tiếp hay gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những cảm giác.
Mặc dù, không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới khi tác động lên giác
quan của con người đều được c giác quan của con người nhận biết; cái phải qua
dụng cụ khoa học, thậm chí có cái bằng dụng cụ khoa học nhưng cũng không biết được;
Song, nếu nó tồn tại khách quan, hiện thực ở bên ngoài, độc lập, không phụ thuộc vào ý
thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
lOMoARcPSD| 25734098
5
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không bàn đến vật chất một cách chung chung, mà
bàn đến trong mối quan hệ với ý thức của con người, trong đó xét trên phương tiện
nhận thức thì vật chất cái trước, cái thứ nhất, cuội nguồn của cảm giác
thức); còn cảm giác thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất.
Đó cũng là câu trả lời của lập trường nhất nguyên duy vật của Vladimir Ilyich Lenin đối
với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Chỉ có một
thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật vốn có của nó
đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng - hiện tượng vật chất
hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc
vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức…),
lại luôn luôn nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những được trong các
hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng) chẳng qua cũng là sự chép lại, chụp lại,
bản sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với tính cách hiện thực khách quan.
Như vậy, cảm giác là cơ sở duy nhất của sự hiểu biết, song bản thân nó lại không ngừng
chép lại, chụp lại, phản ánh hiện thực khách quan, nên về nguyên tắc, con người có thể
nhận thức được về thế giới vật chất. Trong cái thế giới vật chất không có cái gì là không
thể biết, chỉ có những cái đã biết và những cái chưa biết, do hạn chế của con người trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định, cùng với sự phát triển của khoa học, các giác quan của
con người ngày càng được “nối dài”, giới hạn nhận thức của các thời đại bị vượt qua, bị
mất đi chứ không phải vật chất mất đi như những người duy tâm quan niệm.
Khẳng định trên đây ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc c bỏ thuyết “bất
khả tri”, đồng thời khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, góp
phần làm giàu kho tàng tri thức của nhân loại. Ngày nay khoa học tự nhiên, khoa học
hội nhân văn ngày càng phát triển với những khám phá mới mẻ khẳng định tính đúng
đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất, chứng tỏ định nghĩa vật chất của
Vladimir Ilyich Lenin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó mà, chủ nghĩa duy vật biện chứng
càng khẳng định vai trò hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn của các
khoa học hiện đại.
lOMoARcPSD| 25734098
6
1.1.2 Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm triết học Mác- Lênin
Khi khẳng định vật chất "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", V.I.Lênin đã thừa nhận rằng, trong
nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức.
Và khi khẳng định vật chất cái "được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh", V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau
(chép lại, chụp lại, phản ánh...) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
- Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề bản
củatriết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó còn cung cấp nguyên
tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để dấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm,
thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình mọi biểu hiện của chúng trong
triết học tư sản hiện đại về phạm trù này.
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin sở khoa học cho việc xác định vật chất
tronglĩnh vực xã hội đó là các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt động vật chất các
quan hệ vật chất xã hội giữa người với người.
- còn tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật
lịchsử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học
cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, trước hết các vấn đề về sự vận động phát triển của phương thức sản xuất vật
chất, về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về mối quan hệ giữa quy luật
khách quan của lịch sử và hoạt động có ý thức của con người…
- Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống hội, định nghĩa vật chất
củaV.I.Lênin đã cho phép xác định cái vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp
các nhà khoa học cơ sở luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của c
biến cố hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất;
trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội
phát triển.
lOMoARcPSD| 25734098
7
- Trong nhận thức thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc
kháchquan – xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan…
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn ý nghĩa định ớng đối với khoa học
cụthể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Tìm hiểu những phương thức tồn tại của vật chất nhằm trả lời cho câu hỏi: “Những dạng
cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng cách nào ?”. Theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cthể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình
bằng: vận động, không gian, thời gian. 1.2.1 Vận động
1.2.1.1 Vận động là gì ?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ sự thay đổi
vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) theo nghĩa
chung nhất, vận động mọi sự biến đổi, sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng,
mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp.
Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình.
1.2.1.2 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Khi định nghĩa vận động sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu
của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất". Điều này có nghĩa vật chất tồn tại
bằng vận động. Trong vận động và thông qua vận động các dạng vật chất biểu hiện
lOMoARcPSD| 25734098
8
sự tồn tại của mình. Một khi chúng ta nhận thức được những hình thức vận động của vật
chất, thì chúng ta nhận thức được bản thân vật chất.
Với tính cách "là thuộc tính cố hữu của vật chất", theo quan điểm của triết học Marx
- Lenin, vận động sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn
nhau của chính các yếu tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm về sự tự thân vận
động của vật chất đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên
càng ngày những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện đại càng khẳng định quan
điểm đó.
Vật chất hạn, tận, không sinh ra, không mất đi vận động một thuộc
tính không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc
sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Marx - Lenin đã được khẳng định bởi định luật
bảo toàn chuyển hóa năng lượng trong vật lý. Theo định luật này, vận động của vật chất
được bảo toàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật
mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận
động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự
tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
lOMoARcPSD| 25734098
9
1.2.1.3 Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận
động thành 5 hình thức cơ bản. Đó là:
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật (vận động của các phân tử, các hạt bản, vận động điện tử, cácquá
trình nhiệt điện, v.v.).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân
giải các chất).
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
- Vận động hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình hội của các hình thái kinhtế -
xã hội).
Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như trên, cần
chú ý về mối quan hệ giữa chúng là:
“Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả
những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả
những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì nay đã trở thành nhất thời, và người
ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần
hoàn vĩnh cửu
.”
Friedrich Engels
lOMoARcPSD| 25734098
10
- Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vậnđộng
xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với
trình độ của các kết cấu vật chất.
- Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, baohàm
trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức vận động
thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy,
mọi sự quy giản các hình thức vận động thấp đều là sai lầm.
- Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật thể gắn liền với nhiều hình thức vận độngkhác
nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một
hình thức vận động cơ bản. Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản,
Friedrich Engels đã đặt sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng
nghiên cứu của chúng chỉ ra sở của khuynh hướng phân ngành hợp ngành của
các khoa học. Ngoài ra, tưởng về sự khác nhau về chất thống nhất của các hình
thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức
là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
1.2.1.4 Vận dộng và đứng im
Khi triết học Mác - Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh
cửu của nó, thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật
chất. Trái lại, triết học Marx - Lenin thừa nhận rằng, quá trình vận động không ngừng
của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ còn bao hàm trong hiện tượng
đứng im. Đứng im, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, là một trạng thái đặc biệt
của vận động - vận động trong cân bằng, nghĩa là những tính chất của vật chất chưa
sự biến đổi về cơ bản.
Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời.
a. Đứng im là tương đối
Tớc hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không
phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
lOMoARcPSD| 25734098
11
Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không
phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Thứ ba, đứng im chbiểu hiện của một trạng thái vận động, đó vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó còn
là nó chưa bị phân hóa thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó sự vật thực
hiện được sự chuyển hóa tiếp theo.
Không đứng im tương đối thì không sự vật nào cả. Do đó, đứng im còn được
biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa
thay đổi.
b. Đứng im là tạm thời
Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, còn vận
động nói chung, tức sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật hiện ợng làm cho
tất cả không ngừng biến đổi.
1.2.2.1 Định nghĩa
Trong lịch sử triết học, xung quanh các phạm trù không gian và thời gian đã có nhiều
quan điểm khác nhau. Những người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan
của không gian và thời gian.
1.2.2
Không gian và thời gian
chuyển thành cân bằng, vận động
toàn bộ phá hoại sự cân bằng
chỉ là tương đối và tạm thời”.
Friedrich Engels
lOMoARcPSD| 25734098
12
Vào thời thế kỷ XVII - XVIII, các nhà duy vật siêu hình tập trung phân tích các khách
thể vận động trong tốc độ thông thường nên đã tách rời không gian thời gian
với vật chất.
Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho
rằng: “Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng chiếm một trí nhất định, một kích
thước nhất định, o một khung cảnh nhất định trong tương quan với những khách
thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của khách thể vật chất được gọi không gian.”
Hay nói cách khác, không gianhình thức tồn tại của vật chất, vì vật chất luôn tồn tại
trong những dạng vật chất cụ thể, kết cấu liên hệ với những dạng khác theo một
trật tự phân bố nhất định.
“Mặt khác, stồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện mức độ lâu
dài hay mau chóng, sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động. Các hình
thức tồn tại như vậy được gọi thời gian.” Hay nói cách khác thời gian hình thức
tồn tại của vật chất, biểu thị sự tồn tại, vận động kế tiếp nhau theo trình tự xuất hiện,
phát triển và mất đi của các sự vật, hiện tượng.
Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật
chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết
cấu; còn thời gian hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự
kế tiếp nhau của qtrình. Không gian thời gian gắn mật thiết với nhau gắn
liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó có nghĩa là không có một
dạng vật chất o tồn tại bên ngoài không gian thời gian. Ngược lại, cũng không
thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
1.2.2.2 Những quan điểm về không gian và thời gian
Những người theo chủ nghĩa duy tâm thường phủ nhận tính khách quan của không
gian và thời gian. Các nhà duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII tách rời không gian
thời gian với vật chất. Issac Newton cho rằng không gian, thời gian vận động
những thực thể nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với nhau.
Khi phê phán quan điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Friedrich Engels cho không
gian thời gian gắn hết sức chặt chẽ với nhau chai đều là thuộc tính cố hữu của
lOMoARcPSD| 25734098
13
vật chất. Chúng hình thức tồn tại của vật chất không thể vật chất nào tồn tại bên
ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian, thời gian nào tồn tại
bên ngoài vật chất.
Quan điểm của triết học duy vật biện chứng như trên đã được xác nhận bởi những
thành tựu của khoa học tự nhiên. Chẳng hạn Lobachevsky, trong hình học phi Euclid
của mình đã bác bỏ tư tưởng của Kant về không gian và thời gian coi như những hình
thức của tri giác cảm tính ngoài kinh nghiệm. Bútlêrốp đã phát hiện ra những đặc tính
không gian lệ thuộc vào bản chất vật lý của các vật thể vật chất. Đầu thế kỷ XX, thuyết
tương đối của A. Anhxtanh ra đời, đã chứng minh một cách hùng hồn luận điểm thiên
tài trên đây của Ph. Ăngghen. Thuyết tương đối cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất
giữa không gian thời gian. Như vậy thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của
không gian, thời gian; chứng minh tính biến đổi của không gian, thời gian cùng với sự
lOMoARcPSD| 25734098
14
vận động của vật chất, một lần nữa khẳng định không gian và thời gian là hình thức tồn
tại của vật chất.
1.2.2.3 Các tính chất của không gian và thời gian
a.Tính khách quan.
Không gian, thời gian thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau gắn liền
với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian thời gian cũng tồn tại
khách quan.
b.Tính vĩnh cửu và vô tận.
Theo Ph.Ăngghen, vật chất nh cửu tận trong không gian thời gian. Vô tận
có nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về
phía trên lẫn phía dưới, cả về bên phải lẫn bên trái. Những thành tựu của vật học vi
mô cũng như những thành tựu của vũ trụ học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính
vô tận của không gian và thời gian.
c. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
Tính ba chiều của không gian chiều dài, chiều rộng chiều cao, tính một chiều
của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian và thời gian là một thực thể
thống nhất: không-thời gian và có số chiều là 4 (3+1)
lOMoARcPSD| 25734098
15
Không gian chúng ta đang nói tới đây không gian hiện thực, không gian ba
chiều. Nên chú ý rằng, trong toán học ngoài phạm trù không gian ba chiều còn có phạm
trù không gian n chiều, v.v… Đó sự trừu tượng hoá toán học, một công cụ toán học
dùng để nghiên cứu các đối tượng đặc thù chứ không để chỉ thời gian thực d . Không
gian và thời gian gắn mật thiết với nhau gắn liền với vật chất hình thức tồn
tại của vật chất.
Theo chủ nghĩa Marx - Lenin thì không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài
không gian thời gian. Ngược lại, cũng không thể thời gian không gian nào
ngoài vật chất.
Các hình thức bản của mọi tồn tại không gian thời gian. Tồn tại ngoài thời
gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian ”
- Engels -
Những khái niệm đang phát triển của chúng ta về không gian thời gian đều phản
ánh thời gian và không gian thực tại khách quan ”
- Lenin -
Chương II Nghiên cứu về vật chất đối với địa chất học ngày nay
2.1 Khái quát sự phát triển của địa chất học ở Việt Nam ngày nay
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhận vai trò quan trọng của ngành
Địa chất, ngày 02/10/1945, Chính phủ đã thành lập Nha Kỹ nghệ trong cấu của Bộ
Quốc dân Kinh tế, sau này là Nha Khoáng chất - Kinh tế thuộc Bộ Kinh tế và Bộ Công
Thương, đánh dấu sự ra đời của ngành Địa chất Việt Nam.
Sau ngày hòa bình lập lại, để phù hợp với tình hình mới, ngày 28/3/1956, Sở Địa chất
thuộc Bộ Công nghiệp đã được thành lập, sau đổi tên thành Cục Địa chất, nhằm thực
hiện các nhiệm vụ chuyên sâu về lĩnh vực địa chất. Trước yêu cầu của phát triển đất
nước, đòi hỏi công tác điều tra, tìm kiếm, thăm dò mỏ phải được tiến hành đồng bộ, gắn
với chức năng nhiệm vụ của môt quan quản nhà nước, ngày 26/7/1960, Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã Sắc lệnh số 18/TCT về việc thành lập Tổng
cục Địa chất trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sự ra đời của Tổng cục Địa chất đã tạo ra
lOMoARcPSD| 25734098
16
những kết quả quan trọng, nhiều công trình nghiên cứu khoa học địa chất giá trị được
hoàn thành, các mỏ cũ đã được điều tra, thăm mở rộng, nhiều mỏ mới đã được phát
hiện, để ngành khai khoáng phát triển. Năm 1995, trước nhu cầu phát triển mới của nền
kinh tế quốc dân, Tổng cục Dầu khí (nay tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam- PVN)
trực thuộc Chính phủ mà tiền thân là Liên đoàn Địa chất 36 đã được thành lập.
Ngay sau ngày miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), Đảng và
Nhà nước ta đã ưu tiên đầu cho công tác điều tra bản về địa chất tìm kiếm thăm
khoáng sản miền Nam. Để tiếp tục đẩy mạnh các công tác này trên phạm vị cả
nước, ngày 1/8/1987, Hội đồng Bộ trưởng đã Quyết định số 166/HĐBT thành lập
Tổng cục Mỏ và Địa chất. Theo Quyết định nêu trên, ngoài các nhiệm vụ chuyên ngành
về địa chất, Tổng cục còn có nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành Mỏ và Địa chất; theo
đó, công tác quản vkhai thác, sử dụng khoáng sản đã được chú trọng. thể nói
đây cũng một trong những giai đoạn phát triển rực rcủa ngành Địa chất Việt Nam.
Nhiều công trình khoa học địa chất tầm cỡ quốc tế đã ra đời, một số mỏ lớn cũng đã
bước đầu đưa vào khai thác, góp phần tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
Thực hiện đường lối đổi mới, sắp xếp lại bộ máy các Bộ, trên cơ sở Tổng cục Mỏ và
Địa chất, năm 1990 đã thành lập Cục Địa chất Việt Nam Cục Quản Tài nguyên
Khoáng sản Nhà nước trực thuộc Bộ Công nghiệp nặng, sau này Bộ Công nghiệp.
Một số đơn vị địa chất cũng đã được tách ra để hình thành các doanh nghiệp Nhà nước
thực hiện nhiệm vụ thăm dò và khai thác khoáng sản.
lOMoARcPSD| 25734098
17
Công đoàn Tổng cục thăm và gắn biển công trình khoan sâu 1.200 m của Liên đoàn
Intergeo thi đua chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Ngành Địa chất Việt
Nam
Nhằm thống nhất, tập trung đầu mối quản lý, ngày 4/12 /1996, Chính phủ đã ra Nghị
định số 79/CP về việc thành lập Cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam trên sở hợp
nhất Cục Địa chất Việt Nam Cục Quản Tài nguyên Khoáng sản Nhà nước thuộc
Bộ Công nghiệp trực thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường từ tháng 11 năm 2002. Đến
năm 2008, một số đơn vị thuộc Cục như Liên đoàn Địa chất Khoáng sản Biển được
chuyển sang trực thuộc Tổng cục Biển Hải đảo Việt Nam; các đơn vị địa chất thủy
văn - địa chất công trình đã được chuyển sang Trung tâm Quy hoạch Điều tra tài
nguyên nước trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, Liên đoàn Trắc địa được chuyển
sang Tổng công ty Tài nguyên và Môi trường Việt Nam.
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 718/QĐ-TTg ngày 21/5/2010 về
việc lấy ngày 02/10 hàng năm là ngày truyền thống ngành Địa chất Việt Nam.
Nhằm tăng ờng công tác quản nhà nước về hoạt động khoáng sản đẩy mạnh
công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản tháng 7/2011, Cục Địa chất và Khoáng
sản Việt Nam được ng cấp thành Tổng cục Địa chất Khoáng sản theo Quyết định
số 26/2011/QĐ-TTg, ngày 4 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ. Đến tháng 02
lOMoARcPSD| 25734098
18
năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 16/2014/QĐ-TTg, ngày 19
tháng 02 năm 2014, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cấu tổ chức của
Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Trong quá trình phát triển, mặc dù những thay đổi về tổ chức nhưng Tổng cục Địa
chất Khoáng sản Việt Nam nói riêng, ngành Địa chất Việt Nam nói chung vẫn luôn
phát huy được truyền thống và tiếp tục đạt được nhiều thành tựu mới. Công tác điều tra
bản về địa chất khoáng sản cũng như đánh giá, thăm khoáng sản ngày càng
được đẩy mạnh. ng tác quản nhà nước về khoáng sản đặc biệt đã hoàn thiện pháp
luật về khoáng sản, tạo hành lang pháp lý để quản lý hoạt động khoáng sản theo hướng
hiệu quả, bền vững, đảm bảo môi trường và an ninh, quốc phòng.
Thi công khoan lấy mẫu đề án Urani
Trải qua 75 năm, ngành Địa chất đã liên tục phát triển về bộ máy tổ chức, năng lực,
công nghệ điều tra đánh giá địa chất - khoáng sản các tài nguyên địa chất khác. Các
đơn vị địa chất ngày càng tinh gọn, hoạt động hiệu quả trên phạm vi cả nước, phối
hợp triển khai các đề án quy lớn với sự điều hành thống nhất, hệ thống từ Tổng
cục. Các viện, các trường đại học đã phối hợp đào tạo nguồn nhân lực chất ợng cao
cho ngành. Các Tập đoàn: Dầu khí Quốc gia, Than - Khoáng sản Việt Nam đã góp phần
quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Các nhà địa chất Việt Nam đã tạo
nên hình ảnh đẹp, tích cực trung thực trong khoa học, đoàn kết, phối hợp với nhau,
lOMoARcPSD| 25734098
19
dưới mái nhà chung của nhiều thế hệ cán bộ, viên chức và người lao động địa chất trên
toàn quốc.
Ngay từ ngày đầu thành lập, ngành Địa chất đã được sự quan tâm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, của Đảng và Chính phủ, đã nhận được sự giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ
và các nhà địa chất: Liên (ngày nay Liên bang Nga), Tiệp Khắc (cũ), Trung Quốc,
Nhật Bản, Ba Lan, Bulgari, Hungari, Rumani....
2.2 Đánh giá thực trạng việc nghiên cứu vấn đề vật chất đối với địa chất học ngày
nay
2.2.1 Những thành tựu nổi bật của ngành địa chất Việt Nam
2.2.1.1 Thành tựu trong công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản về địa chất và tài
nguyên khoáng sản
Kết quả nghiên cứu điều tra bản địa chất: Đến nay ngành Địa chất đã hoàn
thành hệ thống bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:1.000.000, 1:500.000 trên toàn lãnh
thổ. Loạt bản đồ chuyên sâu cùng tỷ lệ cũng được thành lập, bao gồm: địa chất thủy văn,
địa chất công trình, địa mạo, vỏ phong hóa, đệ tứ, kiến tạo, sinh khoáng, các trường địa
vật lý, trọng sa, địa hóaphông bức xạ. Cụm công trình bản đồ địa chất khoáng sản
Việt Nam tỷ lệ 1/500.000 đã được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa
học và Công nghệ m 2005. Các bản đồ địa chất, khoáng sản, địa mạo, vỏ phong hoá
tham gia vào bộ Atlas quốc gia Việt Nam cũng đã được tặng giải thưởng HChí Minh
về Khoa học và Công nghệ năm 2005.
Bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 đã được thành lập trên toàn lãnh thổ
và đã được xuất bản để sử dụng rộng rãi. Một phần lãnh hải đã và đang được điều tra để
thành lập hệ thống bản đồ địa chất các tỷ lệ. Với sự tiếp thu phương pháp luận khoa học
địa chất hiện đại, kết hợp với tổ hợp trang thiết bị hàng đầu về địa vật lý, địa hoá, viễn
thám, phân tích thí nghiệm, đến nay 23.860 km2 đã hoàn thành công tác đo vẽ lập bản
đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 (đạt gần 70% diện tích phần đất liền).
Đây loại bản đồ địa chất khoáng sản bản, ngoài cung cấp những thông tin quan
trọng về khoáng sản còn là cơ sở cho quy hoạch các ngành kinh tế - xã hội khác của đất
nước. Hầu hết các cấu trúc địa chất đã được nghiên cứu, làm rõ dần lịch sử hình thành,
lOMoARcPSD| 25734098
20
phát triển các quá trình địa chất tiềm năng khoáng sản trên nh thổ nước ta. Công
tác nghiên cứu nguồn gốc và quy luật phân bố khoáng sản đã đạt được nhiều thành quả
quan trọng. Kết quả nghiên cứu, điều tra cơ bản này đã đưa Việt Nam trở thành nước có
mức độ điều tra bản về địa chất, khoáng sản đạt mức cao trong khu vực Đông Nam
Á. Qua công tác này, đã hình thành đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật đủ năng lực giải
quyết được những vấn đề khoa học, thực tiễn; nhiều phát hiện mới về nguồn gốc khoáng
sản đã làm thay đổi nhận thức về tiềm năng của một skhoáng sản chiến lược Việt
Nam.
Tại vùng biển, đã hoàn thành điều tra địa chất khoáng sản ven bờ (0-30 m nước)
các tỷ lệ 1:500.000, 1:100.000 1:50.000 tại một số vùng trọng điểm. Hiện nay đang
tiếp tục điều tra ng biển Việt Nam đến 100 m nước. Kết quả đã lập nên hệ thống
bản đồ có nội dung đồng bộ, phong phú và tin cậy về cấu trúc địa chất, trầm tích Đệ tứ,
triển vọng sa khoáng, môi trường đới biển ven bờ Việt Nam. Đã khoanh định các diện
tích có triển vọng phát hiện khoáng sản và cấu trúc có khả năng tích tụ sa khoáng. Hiện
trạng môi trường địa chất biển nông ven bờ, các yếu tố địa chất ảnh hưởng đến độ bền
vững của bờ biển, quá trình phát sinh, hình thành phát triển đường bờ biển đã được
điều tra nghiên cứu. Triển khai đề án bay đo từ - trọng lực tỷ lệ 1:250.000 trên biển
sở quan trọng để thành lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:500.000 các
vùng biển Việt Nam.
Khoan lấy mẫu quặng Cu tại điểm quặng Cu (U) mới được Liên đoàn Bản đồ miền
Nam phát hiện ở Kon - Kon Tum rất có tiềm năng trở thành mỏ Cu ở Tây Nguyên
lOMoARcPSD| 25734098
21
2.2.1.2 Thành tựu trong công tác điều tra đánh giá tài nguyên khoáng sản và phát
triển công nghiệp khai khoáng
Đến nay đã ghi nhận được hơn 60 loại khoáng sản với hàng ngàn điểm mỏ đã được
điều tra, đánh giá và thăm dò ở các mức độ khác nhau trên toàn lãnh thổ.
Nhóm nhiên liệu: Thành tựu xuất sắc của ngành Địa chất Việt Nam là đã phát hiện và
đưa vào thăm dầu khí đồng bằng Bắc Bộ, vịnh Bắc Bộ, dự báo tiềm năng dầu k
các bể trầm tích quan trọng của đất nước. Đây cũng cơ sở để ngành Dầu khí Việt Nam
tiếp tục phát triển. Sau năm 1955, ngành Địa chất đã tập trung vào việc điều tra, thăm
dò mở rộng bể than Quảng Ninh tất cả các cấu trúc chứa than trên toàn quốc. Kết quả
dự báo trữ lượng và tài nguyên than đá của Việt Nam ở bể than Quảng Ninh tạo tiền đề
cho việc hình thành phát triển Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.
Đã tiến hành điều tra, đánh giá tổng thể đã tính được toàn bộ tài nguyên than phần
đất liền bể Sông Hồng các cấp 333+334a+334b 212.676.990 ngàn tấn. Với công
nghệ chuyển hóa than thành khí của đối tác Canada tạo tiền đề để khai thác tài nguyên
than dưới sâu trong tương lai.
Nhiều năm qua, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã điều tra, đánh giá tài
nguyên urani thăm dò xác định trữ lượng urani khu vực bồn trũng Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam, đưa Việt Nam vào nhóm ớc có trữ lượng tài nguyên urani lớn nhất
thế giới, phục vlàm nguyên liệu cho nhà máy điện nguyên tử, đảm bảo an ninh năng
lượng lâu dài cho đất nước.
Nhóm khoáng sản kim loại: Công tác điều tra, đánh giá nhóm khoáng sản kim loại đã
phát hiện nhiều vùng mỏ quy tài nguyên lớn như quặng đồng Sin Quyền, Lào
Cai; quặng chì - kẽm Chợ Đồn - Chợ Điền, Bắc Kạn; quặng sắt Thạch Khê, Tĩnh;
quặng đất hiếm tại Lai Châu, Lào Cai; quặng wolfram đa kim Núi Pháo, Thái Nguyên.
Trong những m gần đây, Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam đã đánh giá
được tổng thể tiềm năng một số khoáng sản kim loại quy lớn như: đã xác định
được tổng thể tài nguyên cấp 333+334a cho bauxit Tây Nguyên 1.873.000 ngàn tấn
tinh quặng, trong đó cấp 333 là 664.000 ngàn tấn (đề án Bauxit sắt laterit Tây Nguyên)
nâng tổng i nguyên trữ lượng toàn miền Nam Việt Nam 3.500 000 ngàn tấn quặng
tinh; tổng thể tiềm năng quặng titan sa khoáng dải ven biển Ninh Thuận - Bình Thuận -
lOMoARcPSD| 25734098
22
Vũng Tàu có quy mô lớn; đã có những phát hiện mới về nguồn gốc dự báo được triển
vọng quặng wolfram (sheelit) quy lớn trên đới Sông Chảy, bước đầu đã xác định
được tài nguyên quặng wolfram + thiếc tại khu vực Suối Ngần, huyện Vị Xuyên,
Giang 61 ngàn tấn và hàng loạt các mỏ, điểm mỏ đang tiếp tục được điều tra, đánh
giá tiềm năng.
Chuyên gia Nga và lãnh đạo Liên đoàn Xạ hiếm khảo sát thực địa ở đề án Urani
Nhóm khoáng sản phi kim loại khoáng chất công nghiệp: Xác định vai trò quan
trọng của khoáng sản phi kim trong sự phát triển của ngành hóa chất, phân bón, ngành
công nghiệp xi măng, gốm sứ vật liệu y dựng, ngay từ khi thành lập, ngành địa
chất đã tập trung điều tra, đánh giá, thăm các loại khoáng sản này. Đến nay đã xác
định được tổng tài nguyên, trữ lượng quặng apatit 2,6 tỉ tấn quặng phân bố tại tỉnh
Lào Cai; công tác đánh giá tiềm năng của đá vôi, đá sét làm nguyên liệu xi măng được
thực hiện tại các khu vực thuộc tỉnh Nam, Ninh Bình, Thanh a, Hòa Bình, Hải
Dương, Quảng Ninh đã xác định được tổng tài nguyên dự tính trên 40 tỷ tấn đá vôi và
trên 7 tỷ tấn đá sét đủ tiêu chuẩn làm nguyên liệu lâu dài cho ngành công nghiệp xi măng
Việt Nam; đã khoanh định, đánh giá tài nguyên hàng trăm mỏ kaolin, đất sét trắng,
felspat, cát trắng, đôlômit, đá ốp lát trên cả nước đảm bảo khả năng cung cấp nguyên
lOMoARcPSD| 25734098
23
liệu ổn định, u dài cho sự phát triển của ngành công nghiệp gốm sứ vật liệu y
dựng.
Nhóm nước khoáng, ớc ngầm: Công tác lập bản đồ ĐCTV-ĐCCT đã hoàn thành
hơn 56.000 km2 tỷ lệ 1:200.000 42.500 km2 ở tỷ lệ 1:50.000, điều tra địa chất công
trình tỷ lệ 1:50.000 với diện tích 36.340 km2. Các công tác này tập trung vào một số
vùng quy hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước như Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ,
đồng bằng Bắc Bộ, các vùng đồng bằng ven biển. Kết quả đã phát hiện xác định
trữ ợng nguồn tài nguyên nước dưới đất quy lớn, đáp ứng các nhu cầu cấp thiết
cho nhu cầu dân sinh, công nghiệp làm sở đquy hoạch, điều tra, thăm khai
thác nước dưới đất.
Ngành Địa chất đã hoàn thành các chương trình điều tra ớc miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên, vùng sâu Nam Bộ các đảo. Các chương trình này đã góp phần quan trọng
vào việc giải quyết khó khăn về nước sinh hoạt cho nhân dân tại những vùng đặc biệt
khó khăn, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế - hội, an ninh quốc phòng.
Các nguồn nước nóng, nước khoáng đã được tổng hợp, cập nhật nghiên cứu. Nhiều
nguồn nước đã đang được khai thác sử dụng hiệu quả, phục vnhiều mục đích
khác nhau.
2.2.1.3 Thành tựu trong công tác điều tra địa chất đô thị, địa chất môi trường, tai
biến địa chất và di sản địa chất
Ngành Địa chất đã phối hợp với Bộ y dựng tiến hành điều tra địa chất đô thị để
phục vụ quy hoạch sử dụng đất theo điều kiện địa chất cho 58 đô thị loại I, loại II loại
III, các khu vực phát triển kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Thành
phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu, Đà Nẵng - Dung Quất với diện tích 12.730
km2. Kết quả này sở khoa học để Nghành Địa chất triển khai nghiên cứu quản
không gian ngầm địa chất phục vụ công tác quy hoạch, quản lý đô thị thông minh.
Đã tiến hành điều tra môi trường phóng xạ ở Quảng Nam, Nghệ An, Lai Châu, Cao
Bằng Phú Thọ; đánh giá chi tiết các diện tích ô nhiễm phóng xạ tự nhiên vùng Tây
Bắc Việt Nam để chuyển giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập kế hoạch và triển khai
lOMoARcPSD| 25734098
24
thực hiện các biện pháp giảm thiểu đến mức thấp nhất tác hại đối với con người; điều
tra tai biến địa chất các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Bắc Bộ, ven biển Nam
Trung Bộ, Bắc Trung Bộ và các tỉnh miền núi phía Bắc; điều tra, đánh giá địa động lực
hiện đại để hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu đề xuất giải pháp thích ứng đồng
bằng sông Cửu Long. Đang tiến hành điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất công
trình, đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng lãnh thổ phục vụ xây dựng và phát triển
hạ tầng dải ven biển Việt Nam. Các kết quả điều tra môi trường, tai biến địa chất đã
được chuyển giao cho Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các tỉnh để sử dụng trong quy
hoạch phát triển bền vững các đô thị và phát triển kinh tế vùng.
Trong nhiều năm qua, đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về các giá trị địa chất
- địa mạo, góp phần quan trọng vào việc xem xét, công nhận các Di sản Thiên nhiên thế
giới đối với vịnh Hạ Long, vùng hang động Phong Nha - Kẻ Bàng, gần đây là Công
viên Địa chất Đồng n - Mèo Vạc, Cao Bằng Đăk Nông. Đang làm hồ công nhận
công viên địa chất toàn cầu ở khu vực Tam Giang - Bạch Mã…
2.2.1.4 Thành tựu trong công tác điều tra địa vật lý
Đã hoàn thành đo vẽ thành lập c bản đồ: từ hàng không, trọng lực, trường phóng
xạ tự nhiên… Kết quả đo vẽ đã vạch ra các cấu trúc địa chất, đặc biệt các cấu trúc
sâu, các trường địa vật lý khu vực. Nhiều dị thường đã được xác định là cơ sở để tìm ra
các mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh), sắt Rụa (Cao Bằng) các vùng sa khoáng titan
ven biển Móng Cái, Tĩnh, Quảng Bình, ..., vùng quặng urani Nông Sơn, các đới biến
đổi nhiệt dịch chứa quặng vàng, thiếc, quặng sắt, magnesit ở Tây Nguyên và
Trung Bộ, quặng đồng ở Kon Rá- Kon Tum…
2.2.1.5 Thành tựu trong công tác lưu trữ, xuất bản, thông tin và bảo tàng địa chất
Lưu trữ Địa chất đang lưu giữ khối lượng tài liệu địa chất lớn vào loại bậc nhất ở khu
vực, với gần 5.000 báo cáo địa chất đang được khai thác phục vụ các ngành kinh tế
khác nhau. Toàn bộ các báo cáo đã được tin học hoá để lưu giữ phục vụ tra cứu thuận
lợi bằng công nghệ tin học. Bảo tàng Địa chất tại Hà Nội Thành phố Hồ Chí Minh đã
được Bộ Văn hóa, Thể thao Du lịch ng nhận Bảo tàng loại I cấp Quốc gia. Các
sưu tập mẫu vật địa chất - khoáng sản đã được bổ sung, chỉnh lý, sắp xếp khoa học, phục
vụ tích cực cho tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho hàng vạn lượt người các nhà
lOMoARcPSD| 25734098
25
nghiên cứu khoa học, sinh viên, học sinh, các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước đến
tham quan học tập nghiên cứu. Chuyển giao các bản đồ đi cùng với 5.000 mẫu bao
gồm các thành tạo magma, trầm tích, biến chất, khoáng sản cho Trường Đại học Mỏ -
Địa chất phục vụ công tác đào tạo.
Tạp chí Địa chất được thành lập từ năm 1961, từ năm 1993 đến nay đã xuất bản
được gần gần 400 số Tạp chí bằng tiếng Việt 50 số bằng tiếng Anh, một tạp chí
chuyên ngành về địa chất khoáng sản, nội dung khoa học phong phú, giới thiệu
các kết quả nghiên cứu, điều tra, thăm khoáng sản, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật - công nghệ rất hữu ích trong thực tiễn cũng như trong nghiên cứu khoa học,
một trong những công cụ tuyên truyền, đào tạo mối liên hệ giữa hoạt động của
ngành Địa chất Việt Nam với hoạt động địa chất quốc tế.
Trong khoảng 5 năm gần đây, khoảng hơn 1.200 lượt tổ chức, nhân đến tham
khảo, thu thập tài liệu địa chất khoáng sản tại Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Tạp chí
địa chất, khoảng gần 1.000.000 lượt truy cập vào Website của Trung tâm Thông tin, u
trữ và Tạp chí địa chất để tra cứu các thông tin liên quan tới các tài liệu địa chất được
lưu trữ.
2.2.1.6 Thành tựu trong hợp tác và thực hiện nghĩa vụ quốc tế
Công tác hợp tác quốc tế trước đây hiện nay luôn được coi trọng đa dạng hoá,
đa phương hóa với nhiều tổ chức khoa học, chính phủ, các công ty trên thế giới như:
Anh, Pháp, Bỉ, Nhật Bản, Đức, Đan Mạch, Lan, Australia, Mỹ, Hàn Quốc, Canada,
Cộng hoà Séc, các nước trong ASEAN, Trung Quốc,... Đặc biệt là sự hợp tác với các tổ
chức quốc tế như: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc UNDP, ESCAP về dự thảo
Luật Khoáng sản, nghiên cứu nước ngầm châu thổ Sông Hồng Kông; Chương
trình khoa học địa chất vùng Đông Đông Nam Á (CCOP); Hội đồng Vành đai Thái
Bình Dương về năng lượng tài nguyên khoáng sản (CPCEMR); Chương trình Khoa
học Địa chất Quốc tế (IGCP), Uỷ ban Bản đồ Địa chất thế giới (CGMW), Tổ chức Kinh
tế, Xã hội và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)...
Tổng cục Địa chất và Khoáng sản đã tích cực tham gia kế hoạch hành động hợp tác
lOMoARcPSD| 25734098
26
ASEAN về khoáng sản (AMCAP) III, giai đoạn 2016-2020 như: hoạt động hợp tác
ASEAN về khoáng sản, tham dự khóa đào tạo kinh nghiệm thai thác đá quý gắn với
tăng cường năng lực trong lĩnh vực khoáng sản; Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về khoáng
sản (AMMin) lần thứ 7; Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN về khoáng sản (ASOMM)
lần thứ 19; Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN và ba nước tham vấn (ASOMM+3) lần
thứ 12, tổ chức vào tháng 12/2019 tại Thái Lan.
Sự kiện ghi dấu ấn quan trọng trong hoạt động hợp tác quốc tế là Đại hội địa chất, tài
nguyên khoáng sản năng lượng Đông Nam Á lần thứ 15 (GEOSEA XV) do Tổng cục
Địa chất Khoáng sản Việt Nam chtrì tổ chức tại Nội. Tham dự Đại hội 500
đại biểu chính thức trong nước quốc tế. Trong đó có 112 đại biểu quốc tế các nhà
địa chất và các nhà quản tài nguyên trái đất đến từ các nước: Nga, Anh, Đức, Úc, Mỹ,
Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung quốc, Ấn độ, Ba Lan, Bỉ, Campuchia, CHDCND
Lào, Mông Cổ, Thái Lan, Philippines, Myanmar, Malaysia, Indonesia. Đại hội tăng
cường hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm về nghiên cứu, điều tra cơ bản địa chất, thăm
khai thác tài nguyên trong cộng đồng các nước ASEAN các tổ chức quốc tế liên
quan.
Hợp tác với các nhà địa chất Liên bang Nga trong việc nghiên cứu, điều tra về nguồn
gốc và triển vọng quặng urani; điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ
địa chất tỉ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế xã
hội... Hợp tác với Cục Địa chất Vương quốc Anh trong đào tạo về xây dựng sở dữ
liệu địa chất, khoáng sản không gian ngầm phục vụ cho việc lập dán "Địa chất đô
thị Hà Nội". Hợp tác với các chuyên gia Mỹ và Canada trong việc nghiên cứu các thông
số bản phục vụ công nghệ khí hóa than nâu vùng đồng bằng sông Hồng… Những kết
quả đạt được thông qua hợp tác quốc tế đã nâng cao vị thế ngành Địa chất Việt Nam trên
trường quốc tế đào tạo, nâng cao tay nghề cho nhiều chuyên gia trong lĩnh vực địa
chất, khoáng sản, tăng cường năng lực công nghệ và thiết bị được trang bị.
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng Nhà nước đối với các nước láng giềng
anh em, các đơn vị địa chất đã thành lập bản đđịa chất Việt Nam Lào - Campuchia
tỷ lệ 1:1.000.000, lập bản đồ địa chất điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 trên 70%
lãnh thổ Lào. Kết quả điều tra đã giúp phát hiện nhiều vùng quặng có quy lớn, như
lOMoARcPSD| 25734098
27
muối mỏ các bồn trũng Viên Chăn Savannakhet, thạch cao Trung Lào, bauxit
Nam Lào, sắt Xiêng Khoảng, than nâu đồng Bắc Lào đã phát hiện hàng trăm
điểm biểu hiện khoáng sản giúp cho Chính phủ có cơ sở khoa học để kêu gọi đầu tư của
các tổ chức kinh tế trong ngoài nước trong lĩnh vực thăm dò và khai thác khoáng sản.
Kết quả đó đã được Chính phủ Lào đánh giá cao, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
nước bạn Lào, góp phần thắt chặt nh đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Nhà nước,
hai dân tộc.
2.2.1.7 Thành tựu trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản đã được Đảng Nhà nước ta quan tâm
ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là nhiệm vụ
trọng tâm hết sức quan trọng của Ngành nhằm quản lý, bảo vệ chặt chẽ, khai thác, sử
dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản phục vụ phát triển kinh tế - hội đất nước
trước mắt cũng như lâu dài.
Ngày 22/01/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 09/SL khẳng định “tất cả
các nguồn khoáng chất Việt Nam đều là của nhà nước”, Sắc lệnh số 10/SL về “Quy
định chế độ khai thác mỏ”, đây có thể nói những văn bản pháp luật đầu tiên về quản
lý khoáng sản. Từ năm 1983, Tổng cục Địa chất (sau này Tổng cục Mỏ Địa chất)
đã xây dựng, trình ban hành Pháp lệnh về Tài nguyên khoáng sản (năm 1989). Đến năm
1996, lần đầu tiên, Luật khoáng sản được ban hành và sau đó được sửa đổi, bổ sung vào
năm 2005. Sau 13 năm thực hiện Luật khoáng sản năm 1996, để tăng ờng hiệu lực,
hiệu quả quản nhà nước về khoáng sản, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XII đã thông
qua Luật khoáng sản năm 2010 để thay thế Luật khoáng sản năm
1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2005). Đến nay, sau gần 10 năm thực hiện Luật khoáng sản
năm 2010, Tổng cục đã chủ trì xây dựng để Bộ Tài nguyên Môi trường ban hành
hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 06 Nghị định; 05 Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ gần 50 Thông tư, Thông liên tịch để hướng dẫn thực hiện.
thể nói, cùng với 75 năm xây dựng trưởng thành của ngành Địa chất Việt Nam,
đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản bản đã hoàn thiện, tạo nên hành
lang pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản nhà nước về khoáng sản,
lOMoARcPSD| 25734098
28
đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững công nghiệp khai khoáng, chế biến khoáng sản;
bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ an ninh quốc phòng.
Từ khi chỉ một số mỏ như thiếc Tĩnh Túc, vàng Bồng Miêu, Chợ Bến, antimon
Chiêm Hóa, photphorit Nghệ An, than Đầm Đùn, Khe Bố v.v.. được khai thác giai
đoạn những năm thập kỷ 60 thế kỷ XX, công tác cấp phép hoạt động thăm dò, khai thác
khoáng sản ngày càng chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật để kịp thời đưa các mỏ
khoáng sản vào khai thác để phát triển đất nước trong từng thời kỳ, đồng thời bảo đảm
an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, cảnh quan, di sản văn hóa - lịch sử, địa chất.
Đến nay đãtrên 3.000 khu vực đang khai thác gần 50 loại khoáng sản khác nhau trên
phạm vi cả nước, như: than, khoáng sản kim loại, phi kim loại, khoáng sản làm vật liệu
xây dựng, nguyên liệu xi măng, nước khoáng... Giá trị sản lượng ngành công nghiệp
khai khoáng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của đất nước; thu ngân sách nhà nước từ thuế
tài nguyên, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, phí bảo vệ môi trường trong khai thác
khoáng sản hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm, đáp ứng cơ bản nhu cầu sử dụng khoáng
sản của các ngành kinh tế trong nước và một phần để xuất khẩu.
Trong quản nhà nước về khoáng sản, thanh tra, kiểm tra hoạt động vai trò
quan trọng luôn được Bộ Tài nguyên Môi trường quan tâm, chđạo. Từ khi chỉ
một phòng thuộc Tổng cục Mỏ Địa chất (trước đây), sau 75 năm, lực lượng cán bộ
thanh tra, kiểm tra về khoáng sản đã có hệ thống từ Tổng cục đến các Sở Tài nguyên và
Môi trường cả nước. Đến nay, Tổng cục đã 03 Cục chuyên trách được giao đầu mối
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành khoáng sản, cùng sự phối hợp của các Cục,
Vụ liên quan, sự tham gia của một số đơn vị địa chất đã giúp Tổng cục thực hiện
thường xuyên và ngày càng hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành khoáng
sản. Theo đó, hàng m, đã ng trăm đợt thanh tra, kiểm tra chuyên đề, định kỳ
được Tổng cục thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Qua đó, đã phát hiện xử nhiều
hành vi vi phạm pháp luật về khoáng sản, góp phần chấn chỉnh đưa hoạt động khoáng
sản của các tổ chức, cá nhân đi vào nền nếp, tuân thủ pháp luật về khoáng sản, đồng thời
thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đã phát hiện những nội dung bất cập, hạn chế
của các quy định pháp luật, đề xuất cấp thẩm quyền sửa đổi, bổ sung ban hành các
văn bản pháp luật về khoáng sản phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi.
lOMoARcPSD| 25734098
29
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Trải qua hơn 70 năm xây dựng phát triển, ngành địa chất thực hiện công tác điều
tra cơ bản địa chất thăm dò khoáng sản đã thu được những thành quả rất to lớn. Đội
ngũ cán bộ kỹ thuật có hội tham gia các khóa đào tạo trong vào ngoài ớc dưới
nhiều hình thức khác nhau, nhiều đề án lớn đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu về trữ ợng,
tài nguyên, phát hiện nhiều mỏ và điểm mỏ có giá trị công nghiệp góp phần không nhỏ
vào kết quả phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Tuy vậy, cho đến nay đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ lĩnh vực địa chất
khoáng sản đã bộc lộ những hạn chế nhất định trong công tác điều tra cơ bản về địa chất
về khoáng sản. Thiếu cán bộ trình độ chuyên sâu về nhiều lĩnh vực: địa vật lý, địa
chất biển, cấu trúc, magma, biến chất, địa tầng, địa hóa...
Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, công tác điều tra bản địa chất về khoáng sản
và thăm khoáng sản đặt ra một số vấn đề cấp thiết cần giải quyết, đó là: điều tra địa
chất khoáng sản biển, nhất là vùng biển sâu; đánh giá khoáng sản ẩn sâu, cấu trúc phức
tạp; khoáng sản phi truyền thống (khí đá phiến, khí hydrate).
2.3 Những giải pháp khắc phục hạn chế
- Nâng cao chất lượng công tác điều tra bản về địa chất khoáng sản, đặc biệt điều
tra địa chất khoáng sản biển, điều tra môi trường địa chất và tai biến địa chất.
- Tiếp tục triển khai thực hiện các đề án Chính phủ. Trong đó, tập trung nhân lực chílực
để triển khai thực hiện tốt đề án: ”Điều tra tổng thể về khoáng sản hoàn thiện nền
bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững
kinh tế xã hội”.
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt các đề án vốn thường xuyên.
- Đào tạo nâng cao nhận thức trình độ cán bộ làm công tác điều tra địa chấtkhoáng
sản Biển.
- Đẩy mạnh công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình điều tra bảnđịa
chất về khoáng sản. Thông qua đề án Tây Bắc: xây dựng hình phối hợp giữa
quan quản lý với các đơn vị các tập thể tác giả thi công từng đề án thành phần; dự
lOMoARcPSD| 25734098
30
kiến thiết lập hthống quản xuyên suốt thông qua mạng Intenet để nắm bắt thông
tin thường xuyên.
- Xây dựng cơ chế khuyến khích cho các cán bộ quản lý và lực lượng kỹ thuật nângcao
trình độ ngoại ngữ.
- Phấn đấu nâng cao chất lượng các phương pháp trong điều tra bản địa chất vềkhoáng
sản, cụ thể:
+ Công c địa chất: nâng cao chất lượng công tác thu thập tài liệu nguyên thủy bằng
cách: tuân thủ qui trình qui phạm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác thu thập tài liệu nguyên thủy. Đảm bảo thu thập tối đa các thông tin về địa chất,
khoáng sản tại thực địa. Tăng cường công tác phân tích nhanh tại thực địa.
+ Công tác phân tích mẫu: soát hoàn chỉnh các qui trình phân tích mẫu, đảm bảo
nâng cao chất lượng công tác phân tích mẫu đối với các loại khoáng sản như: Au, Sn, W
và các nguyên tố quí hiếm khác.
+ Công tác đo địa vật lý và xử lý các tài liệu đo: Khi áp dụng các phương pháp địa vật
lý đúng đối tượng và cần tiến hành đo thử nghiệm chắc chắn trước khi triển khai đại trà;
Tăng cường đầu cho công tác xử lý tài liệu, đảm bảo chất lượng, tiến độ. Đặc biệt,
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ địa chất với địa vật lý trong việc xử lý số liệu.
Đầu tư cho đào tạo các chuyên gia chuyên về xử lý số liệu.
3. Kết luận
Tóm lại ta thấy rằng từ lúc mới xuất hiện, phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu
tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật chnghĩ duy tâm. Phạm trù
vật chất quá trình phát triển gắn liền với con người. Theo quan niệm của Lênin
thì vật chất là một phạm trù rộng lớn, do đó chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất
trong quan hệ với ý thức. Đó chính phạm trù vận động không gian thời gian.
Như vậy ta có thể thấy được rằng vật chất là một phạm trù tồn tại từ rất lâu và luôn
luôn phát triển với yếu tố con người. định nghĩa tiêu chuẩn để phân biệt thế
giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
Vật chất đi kèm với sự hiện đại của con người. Nhờ có vật chất con người nghiên
lOMoARcPSD| 25734098
31
cứu phát minh ra những thành tựu nhất định về khoa học tự nhiên cũng như
khoa học hội. Đặc biết, đối với vấn đề địa chất học Việt Nam chúng em
chọn làm đề tài. Địa chất học đã những thành tựu nhất định, đóng góp một phần
nào đó cho đất nước chúng ta ngày một phát triển hơn. Song, vẫn n hạn chế khá
nhiều nhưng cũng đã cố gắng khắc phục đáng kể để sau đó đưa nước ta thành một
nước giàu mạnh hơn.
Cuối cùng, con người phải có hiểu biết nhất định về vật chất thì mới có thể dựa vào
nó để phát triển sâu rộng các lĩnh vực khác. Đưa con ngưởi vào trong thế giới mới,
hiện đại hơn nữa.
4. Tài liệu tham khảo
http://www.monre.gov.vn/Pages/75-nam-phat-trien-nganh-dia-chat-
vietnam-(1945-2020).aspx http://dgmv.gov.vn/index.php/bai-viet/nang-
cao-chat-luong-cong-tacdieu-tra-co-ban-dia-chat-ve-khoang-san-va-xay-
dung-doi-ngu-0
| 1/33

Preview text:

lOMoAR cPSD| 25734098
ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN ĐỀ TÀI:
ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA V.I.LÊ NIN,
PHƯƠNG THỨC VÀ HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA
VẬT CHẤT. NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VẬT CHẤT
ĐỐI VỚI KHOA HỌC HIỆN NAY
LỚP L14 --- NHÓM 1 --- HK 202 NGÀY NỘP 22/04/2021
Giảng viên hướng dẫn: cô An Thị Ngọc Trinh
Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số Phạm Ngọc An 1912540 Lê Quốc An 2010818 Nguyễn Tấn An 2012560 Phan Thanh An 2012564 Nguyễn Thanh Tuấn Anh 1912596 Nguyễn Thị Lan Anh 2010123
Thành phố Hồ Chí Minh – 2021 lOMoAR cPSD| 25734098 MỤC LỤC 1. PHẦN MỞ
ĐẦU..................................................................................................1 2. PHẦN
NỘI DUNG..............................................................................................2
CHƯƠNG I. ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA V.I. LÊNIN, PHƯƠNG THỨC VÀ HÌNH THỨC
TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT.............................................................................................2
1.1 Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất.............................................2
1.1.1 Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin...........................................................2
1.1.2 Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm triết học Mác- Lênin..............6
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất...............................................7
1.2.1 Vận động..................................................................................................8
1.2.1.1 Vận động là gì ?................................................................................8
1.2.1.2 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất...................................8
1.2.1.3 Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.....................................9
1.2.1.4 Vận dộng và đứng im......................................................................11
1.2.2 Không gian và thời gian.........................................................................12
1.2.2.1 Định nghĩa......................................................................................12
1.2.2.2 Những quan điểm về không gian và thời gian.................................13
1.2.2.3 Các tính chất của không gian và thời gian.......................................14
CHƯƠNG II NGHIÊN CỨU VỀ VẬT CHẤT ĐỐI VỚI ĐỊA CHẤT HỌC NGÀY NAY.............16
2.1 Khái quát sự phát triển của địa chất học ở Việt Nam ngày nay....................16
2.2 Đánh giá thực trạng việc nghiên cứu vấn đề vật chất đối với địa chất học
ngày nay..............................................................................................................19
2.2.1 Những thành tựu nổi bật của ngành địa chất Việt Nam..........................19
2.2.1.1 Thành tựu trong công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản về địa
chất và tài nguyên khoáng sản.................................................................19
2.2.1.2 Thành tựu trong công tác điều tra đánh giá tài nguyên khoáng
sản và phát triển công nghiệp khai khoáng............................................21
2.2.1.3 Thành tựu trong công tác điều tra địa chất đô thị, địa chất môi
trường, tai biến địa chất và di sản địa chất.............................................23
2.2.1.4 Thành tựu trong công tác điều tra địa vật lý..............................24
2.2.1.5 Thành tựu trong công tác lưu trữ, xuất bản, thông tin và bảo
tàng địa chất..............................................................................................25
2.2.1.6 Thành tựu trong hợp tác và thực hiện nghĩa vụ quốc tế...........25
2.2.1.7 Thành tựu trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản......27
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân.............................................................29
2.3 Những giải pháp khắc phục hạn chế.............................................................29 3. KẾT
LUẬN........................................................................................................31 4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................32
lOMoAR cPSD| 25734098 1. PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, thế giới đang trong đà phát triển của công nghệ 4.0, cuộc sống của con người
cũng vì đó à trở nên tốt hơn. Đi kèm đó là vật chất ngày một đổi mới đáp ứng nhu cầu
của mỗi con người. Vật chất là vấn đề mà con người luôn luôn hướng tới, thay đổi để
chất lượng cuộc sống đảm bảo tốt hơn.
Trong lịch sử triết học Mác - Lênin khái niệm vật chất được hiểu là tất cả những
gì tồn tại khách quan tức là những sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức
của con người, không phụ thuộc vào quan niệm của con người. Theo đó vật chất
là vô cùng vô tận, là không có giới hạn, nó tồn tại giữa vô lượng các hình thức
khác nhau, có thể là những tồn tại mà con người đã biết hoặc là những tồn tại mà
con người chưa biết. Đó là những vật chất tự nhiên hoặc là những tồn tại của vật
chất trong đời sống xã hội. Vật chất tồn tại vô cùng lớn ví dụ: như thiên hà, hoặc
vô cùng bé là những hạt cơ bản. Đó có thể là những tồn tại mà người ta trực tiếp
giác quan được nhưng cũng có thể là những tồn tại mà không thể trực tiếp giác
quan được nhưng nó là tồn tại khách quan. Vật chất với tư cách là tồn tại khách
quan thì không tồn tại cảm tính có nghĩa là con người không thể dùng giác quan
để nhận biết nhưng vật chất với tư cách là những biểu hiện tồn tại cụ thể dưới
những hình thức nhất định nó tồn tại cảm tính.Thông qua đó thì con người mới
nhận thức về nó. Và cũng từ đó ứng dụng vật chất vào trong đời sống của con người.
Vậy chúng ta sẽ tìm hiểu về “ Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin, phương thức và
hình thức tồn tại của vật chất ” và “Nghiên cứu vấn đề vật chất đối với khoa học hiện nay” 2. PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
1.1 Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất 1 lOMoAR cPSD| 25734098
1.1.1 Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
Trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C.Marx và Ph.Ăngghen đã đưa ra những tư tưởng rất
quan trọng về vật chất.
Theo Ph.Ăngghen, để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có một sự
phân biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù của triết học với bản thân
các sự vật hiện tượng cụ thể của thế giới vật chất. “Vật chất, với tính cách là vât chất, là
một sáng tạo thuần túy của tư duy và là một sự trừu tượng thuần túy, không có sự tồn tại cảm tính”.
Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng, bản thân phạm trù vật chất cũng không phải là sự sáng
tạo tùy tiện của tư duy con người, mà trái lại, là kết quả của con đường trừu tượng hóa
của tư duy con người về các sự vật, hiện tượng có thể cảm biết được bằng các giác quan.
Các sự vật hiện tượng của thế giới, dù rất phong phú, muôn vẻ nhưng chúng vẫn có một
đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất - tính tồn tại độc lập không lệ thuộc vào ý thức.
Đặc biệt, Ph.Ăngghen khẳng định rằng, xét về thực chất, nội hàm của phạm trù vật
chất chẳng qua chỉ là sự tóm tắt trong chúng ta tập hợp theo những thuộc tính chung của
tính phong phú, muôn vẻ nhưng có thể cảm biết được bằng các giác quan của các sự vật,
hiện tượng của thế giới vật chất. “Thực thể, vật chất không phải cái gì khác hơn là tổng
số những vật thể từ đó người ta rút ra được khái niệm ấy bằng con đường trừu tượng
hóa; vận động với tính cách là vận động không phải là cái gì khác hơn là tổng số những
hình thức vận động có thể cảm biết được bằng các giác quan; những từ như “vật chất”
và “vận động” chỉ là những sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp chúng theo các thuộc
tính chung của chúng, rất nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau có thể cảm biết được bằng
các giác quan. Vì thế chỉ có thể nhận thức được vật chất và vận động bằng cách nghiên
cứu những vật thể riêng biệt và những hình thức riêng lẻ của vận động, và khi chúng ta
nhận thức được những cái ấy thì chúng ta cũng nhận thức được cả vật chất và vận động
với tính cách vật chất và vận động. 2 lOMoAR cPSD| 25734098
C.Marx không đưa ra một định nghĩa về vật chất, nhưng đã vận dụng đúng đắn
quan điểm duy vật biện chứng về vật chất trong phân tích những vấn đề chính trị - xã
hội, đặc biệt là trong phân tích quá trình sản xuất vật chất cả xã hội và mở rộng quan
điểm duy vật biện chứng về vật chất để phân tích tồn tại xã hội và mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. C.Marx và Ph.Ăngghen đã khẳng định quan
điểm duy vật biện chứng của mình trong nghiên cứu lịch sử như sau: Những tiên đề xuất
phát của tôi, “đó là những cá nhân hiện thực, hoạt động của họ, những điều kiện mà họ
thấy có sẵn cũng như những điều kiện do chính hoạt động của họ tạo ra…” Như vậy, vật
chất trong xã hội chính là tồn tại của chính bản thân con người cùng với những điều kiện
sinh hoạt vật chất của con người, hoạt động vật chất và những quan hệ vật chất giữa người với người.
Vladimir Ilyich Lenin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của
khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang nhầm
lẫn hoặc xuyên tạc những thành tựu mới nhất trong nhận thức cụ thể của con người về
vật chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy
vật biện chứng về vật chất.
Để đưa ra một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, Vladimir Ilyich Lenin đặc
biệt quan tâm đến tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Kế thừa những
tư tưởng của C.Marx và Ph.Ăngghen, Vladimir Ilyich Lenin đã định nghĩa vật chất với
tư cách là một phạm trù triết học và bằng cách đem đối lập với phạm trù ý thức trên
phương diện nhận thức luận cơ bản. Vladimir Ilyich Lenin viết: “Không thể đem lại cho
hai khái niệm nhận thức luận cơ bản này một định nghĩa nào khác ngoài chỉ rõ ràng
trong hai khái niệm đó, cái nào được coi là có trước, cái nào quyết định cái nào? Và cái
kia có tác động trở lại cái còn lại hay không?”
Với phương pháp nêu trên, trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”, Vladimir Ilyich Lenin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà
cho đến nay được các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển. 3 lOMoAR cPSD| 25734098
Định nghĩa vật chất của Vladimir Ilyich Lenin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và
không lệ thuộc vào ý thức.
Khi nói vật chất là một phạm trù triết học là muốn nói phạm trù này là sự trừu tượng
hóa, không có sự tồn tại cảm tính. Nhưng khác về nguyên tắc với mọi sự trừu tượng hóa
mang tính chất chủ nghĩa duy tâm về phạm trù này,Vladimir Ilyich Lenin nhấn mạnh
rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ “đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa
duy vật triết học gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư
cách là hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta”. Nói cách khác tính trừu
tượng của phạm trù của vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện thực, do đó không tách rời tính
hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất là nói đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu
thực sự bên ngoài ý thức của con người. Vật chất là hiện thực chứ không phải là hư vô
và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải chủ quan. Đây cũng chính là cái
phạm vi hết sức hạn chế mà ở đó theo Vladimir Ilyich Lenin, sự đối lập giữa vật chất và
ý thức là tuyệt đối. Tuyệt đối hóa tính trừu tượng của phạm trù này sẽ không thấy vật
chất đâu cả, sẽ rơi vào quan điểm duy tâm, ngược lại nếu tuyệt đối hóa tính cụ thể của
phạm trù sẽ dẫn chúng ta tới quan điểm duy vật.
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
Trái với quan niệm “khách quan”mang tính chất duy tâm về sự tồn tại của vật chất,
Vladimir Ilyich Lenin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách
quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng
cụ thể. Các thực thể này do những đặc tính bản thể luận vốn có của nó, nên khi trược
tiếp hay gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những cảm giác.
Mặc dù, không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới khi tác động lên giác
quan của con người đều được các giác quan của con người nhận biết; có cái phải qua
dụng cụ khoa học, thậm chí có cái bằng dụng cụ khoa học nhưng cũng không biết được;
Song, nếu nó tồn tại khách quan, hiện thực ở bên ngoài, độc lập, không phụ thuộc vào ý
thức của con người thì nó vẫn là vật chất. 4 lOMoAR cPSD| 25734098
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không bàn đến vật chất một cách chung chung, mà
bàn đến nó trong mối quan hệ với ý thức của con người, trong đó xét trên phương tiện
nhận thức thì vật chất là cái có trước, là cái thứ nhất, là cuội nguồn của cảm giác (ý
thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất.
Đó cũng là câu trả lời của lập trường nhất nguyên duy vật của Vladimir Ilyich Lenin đối
với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó. Chỉ có một
thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật vốn có của nó mà
đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng - hiện tượng vật chất
và hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc
vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức…),
lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các
hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng) chẳng qua cũng là sự chép lại, chụp lại, là
bản sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan.
Như vậy, cảm giác là cơ sở duy nhất của sự hiểu biết, song bản thân nó lại không ngừng
chép lại, chụp lại, phản ánh hiện thực khách quan, nên về nguyên tắc, con người có thể
nhận thức được về thế giới vật chất. Trong cái thế giới vật chất không có cái gì là không
thể biết, chỉ có những cái đã biết và những cái chưa biết, do hạn chế của con người trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định, cùng với sự phát triển của khoa học, các giác quan của
con người ngày càng được “nối dài”, giới hạn nhận thức của các thời đại bị vượt qua, bị
mất đi chứ không phải vật chất mất đi như những người duy tâm quan niệm.
Khẳng định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất
khả tri”, đồng thời khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, góp
phần làm giàu kho tàng tri thức của nhân loại. Ngày nay khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội và nhân văn ngày càng phát triển với những khám phá mới mẻ khẳng định tính đúng
đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất, chứng tỏ định nghĩa vật chất của
Vladimir Ilyich Lenin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó mà, chủ nghĩa duy vật biện chứng
càng khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn của các khoa học hiện đại. 5 lOMoAR cPSD| 25734098
1.1.2 Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm triết học Mác- Lênin
Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", V.I.Lênin đã thừa nhận rằng, trong
nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức.
Và khi khẳng định vật chất là cái "được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh", V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau
(chép lại, chụp lại, phản ánh...) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. -
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản
củatriết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó còn cung cấp nguyên
tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để dấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm,
thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong
triết học tư sản hiện đại về phạm trù này. -
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất
tronglĩnh vực xã hội – đó là các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt động vật chất và các
quan hệ vật chất xã hội giữa người với người. -
Nó còn tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịchsử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học
cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, trước hết là các vấn đề về sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất vật
chất, về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về mối quan hệ giữa quy luật
khách quan của lịch sử và hoạt động có ý thức của con người… -
Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất
củaV.I.Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp
các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các
biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất;
trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển. 6 lOMoAR cPSD| 25734098 -
Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc
kháchquan – xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan… -
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với khoa học
cụthể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Tìm hiểu những phương thức tồn tại của vật chất nhằm trả lời cho câu hỏi: “Những dạng
cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng cách nào ?”. Theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình
bằng: vận động, không gian, thời gian. 1.2.1 Vận động
1.2.1.1 Vận động là gì ?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự thay đổi
vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa
chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi, là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng,
mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp.
Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình.
1.2.1.2 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu
của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất". Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại
bằng vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện 7 lOMoAR cPSD| 25734098
sự tồn tại của mình. Một khi chúng ta nhận thức được những hình thức vận động của vật
chất, thì chúng ta nhận thức được bản thân vật chất.
Với tính cách "là thuộc tính cố hữu của vật chất", theo quan điểm của triết học Marx
- Lenin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn
nhau của chính các yếu tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm về sự tự thân vận
động của vật chất đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên và
càng ngày những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện đại càng khẳng định quan điểm đó.
Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là một thuộc
tính không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc
sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Marx - Lenin đã được khẳng định bởi định luật
bảo toàn chuyển hóa năng lượng trong vật lý. Theo định luật này, vận động của vật chất
được bảo toàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật
mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận
động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự
tồn tại vĩnh viễn của vật chất. 8 lOMoAR cPSD| 25734098
“Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả
những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả
những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì nay đã trở thành nhất thời, và người
ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu .” Friedrich Engels
1.2.1.3 Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận
động thành 5 hình thức cơ bản. Đó là:
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, cácquá
trình nhiệt điện, v.v.).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất).
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
- Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinhtế - xã hội).
Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như trên, cần
chú ý về mối quan hệ giữa chúng là: 9 lOMoAR cPSD| 25734098
- Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vậnđộng
xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với
trình độ của các kết cấu vật chất.
- Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, baohàm
trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức vận động
thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy,
mọi sự quy giản các hình thức vận động thấp đều là sai lầm.
- Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận độngkhác
nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một
hình thức vận động cơ bản. Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản,
Friedrich Engels đã đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng
nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của
các khoa học. Ngoài ra, tư tưởng về sự khác nhau về chất và thống nhất của các hình
thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức
là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
1.2.1.4 Vận dộng và đứng im
Khi triết học Mác - Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh
cửu của nó, thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật
chất. Trái lại, triết học Marx - Lenin thừa nhận rằng, quá trình vận động không ngừng
của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng
đứng im. Đứng im, theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, là một trạng thái đặc biệt
của vận động - vận động trong cân bằng, nghĩa là những tính chất của vật chất chưa có
sự biến đổi về cơ bản.
Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời.
a. Đứng im là tương đối
Trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không
phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. 10 lOMoAR cPSD| 25734098
Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không
phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó còn
là nó chưa bị phân hóa thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực
hiện được sự chuyển hóa tiếp theo.
Không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả. Do đó, đứng im còn được
biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi.
b. Đứng im là tạm thời
Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó, còn vận
động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho
tất cả không ngừng biến đổi.
“Vận động riêng biệt có xu hướng
chuyển thành cân bằng, vận động
toàn bộ phá hoại sự cân bằng
riêng biệt" và "mọi sự cân bằng
chỉ là tương đối và tạm thời”. Friedrich Engels
1.2.2 Không gian và thời gian 1.2.2.1 Định nghĩa
Trong lịch sử triết học, xung quanh các phạm trù không gian và thời gian đã có nhiều
quan điểm khác nhau. Những người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan
của không gian và thời gian. 11 lOMoAR cPSD| 25734098
Vào thời thế kỷ XVII - XVIII, các nhà duy vật siêu hình tập trung phân tích các khách
thể vĩ mô vận động trong tốc độ thông thường nên đã tách rời không gian và thời gian với vật chất.
Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho
rằng: “Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng chiếm một ví trí nhất định, có một kích
thước nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan với những khách
thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của khách thể vật chất được gọi là không gian.”
Hay nói cách khác, không gian là hình thức tồn tại của vật chất, vì vật chất luôn tồn tại
trong những dạng vật chất cụ thể, có kết cấu và liên hệ với những dạng khác theo một
trật tự phân bố nhất định.
“Mặt khác, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ lâu
dài hay mau chóng, ở sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động. Các hình
thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.” Hay nói cách khác thời gian là hình thức
tồn tại của vật chất, biểu thị sự tồn tại, vận động kế tiếp nhau theo trình tự xuất hiện,
phát triển và mất đi của các sự vật, hiện tượng.
Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật
chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết
cấu; còn thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự
kế tiếp nhau của quá trình. Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn
liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó có nghĩa là không có một
dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian. Ngược lại, cũng không
thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
1.2.2.2 Những quan điểm về không gian và thời gian
Những người theo chủ nghĩa duy tâm thường phủ nhận tính khách quan của không
gian và thời gian. Các nhà duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII - XVIII tách rời không gian
và thời gian với vật chất. Issac Newton cho rằng không gian, thời gian và vận động là
những thực thể nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với nhau.
Khi phê phán quan điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Friedrich Engels cho không
gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính cố hữu của 12 lOMoAR cPSD| 25734098
vật chất. Chúng là hình thức tồn tại của vật chất không thể có vật chất nào tồn tại bên
ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian, thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất.
Quan điểm của triết học duy vật biện chứng như trên đã được xác nhận bởi những
thành tựu của khoa học tự nhiên. Chẳng hạn Lobachevsky, trong hình học phi Euclid
của mình đã bác bỏ tư tưởng của Kant về không gian và thời gian coi như là những hình
thức của tri giác cảm tính ngoài kinh nghiệm. Bútlêrốp đã phát hiện ra những đặc tính
không gian lệ thuộc vào bản chất vật lý của các vật thể vật chất. Đầu thế kỷ XX, thuyết
tương đối của A. Anhxtanh ra đời, đã chứng minh một cách hùng hồn luận điểm thiên
tài trên đây của Ph. Ăngghen. Thuyết tương đối cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất
giữa không gian và thời gian. Như vậy thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của
không gian, thời gian; chứng minh tính biến đổi của không gian, thời gian cùng với sự 13 lOMoAR cPSD| 25734098
vận động của vật chất, một lần nữa khẳng định không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
1.2.2.3 Các tính chất của không gian và thời gian a.Tính khách quan.
Không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền
với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
b.Tính vĩnh cửu và vô tận.
Theo Ph.Ăngghen, vật chất vĩnh cửu và vô tận trong không gian và thời gian. Vô tận
có nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về
phía trên lẫn phía dưới, cả về bên phải lẫn bên trái. Những thành tựu của vật lý học vi
mô cũng như những thành tựu của vũ trụ học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính
vô tận của không gian và thời gian.
c. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
Tính ba chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao, tính một chiều
của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai. Không gian và thời gian là một thực thể
thống nhất: không-thời gian và có số chiều là 4 (3+1) 14 lOMoAR cPSD| 25734098
Không gian mà chúng ta đang nói tới ở đây là không gian hiện thực, không gian ba
chiều. Nên chú ý rằng, trong toán học ngoài phạm trù không gian ba chiều còn có phạm
trù không gian n chiều, v.v… Đó là sự trừu tượng hoá toán học, một công cụ toán học
dùng để nghiên cứu các đối tượng đặc thù chứ không để chỉ thời gian thực d . Không
gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất và là hình thức tồn tại của vật chất.
Theo chủ nghĩa Marx - Lenin thì không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài
không gian và thời gian. Ngược lại, cũng không thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất.
“ Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian. Tồn tại ngoài thời
gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian ” - Engels -
“ Những khái niệm đang phát triển của chúng ta về không gian và thời gian đều phản
ánh thời gian và không gian thực tại khách quan ” - Lenin -
Chương II Nghiên cứu về vật chất đối với địa chất học ngày nay
2.1 Khái quát sự phát triển của địa chất học ở Việt Nam ngày nay
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhận rõ vai trò quan trọng của ngành
Địa chất, ngày 02/10/1945, Chính phủ đã thành lập Nha Kỹ nghệ trong cơ cấu của Bộ
Quốc dân Kinh tế, sau này là Nha Khoáng chất - Kinh tế thuộc Bộ Kinh tế và Bộ Công
Thương, đánh dấu sự ra đời của ngành Địa chất Việt Nam.
Sau ngày hòa bình lập lại, để phù hợp với tình hình mới, ngày 28/3/1956, Sở Địa chất
thuộc Bộ Công nghiệp đã được thành lập, sau đổi tên thành Cục Địa chất, nhằm thực
hiện các nhiệm vụ chuyên sâu về lĩnh vực địa chất. Trước yêu cầu của phát triển đất
nước, đòi hỏi công tác điều tra, tìm kiếm, thăm dò mỏ phải được tiến hành đồng bộ, gắn
với chức năng nhiệm vụ của môt cơ quan quản lý nhà nước, ngày 26/7/1960, Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 18/TCT về việc thành lập Tổng
cục Địa chất trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sự ra đời của Tổng cục Địa chất đã tạo ra 15 lOMoAR cPSD| 25734098
những kết quả quan trọng, nhiều công trình nghiên cứu khoa học địa chất có giá trị được
hoàn thành, các mỏ cũ đã được điều tra, thăm dò mở rộng, nhiều mỏ mới đã được phát
hiện, để ngành khai khoáng phát triển. Năm 1995, trước nhu cầu phát triển mới của nền
kinh tế quốc dân, Tổng cục Dầu khí (nay là tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam- PVN)
trực thuộc Chính phủ mà tiền thân là Liên đoàn Địa chất 36 đã được thành lập.
Ngay sau ngày miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), Đảng và
Nhà nước ta đã ưu tiên đầu tư cho công tác điều tra cơ bản về địa chất và tìm kiếm thăm
dò khoáng sản ở miền Nam. Để tiếp tục đẩy mạnh các công tác này trên phạm vị cả
nước, ngày 1/8/1987, Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định số 166/HĐBT thành lập
Tổng cục Mỏ và Địa chất. Theo Quyết định nêu trên, ngoài các nhiệm vụ chuyên ngành
về địa chất, Tổng cục còn có nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành Mỏ và Địa chất; theo
đó, công tác quản lý về khai thác, sử dụng khoáng sản đã được chú trọng. Có thể nói
đây cũng là một trong những giai đoạn phát triển rực rỡ của ngành Địa chất Việt Nam.
Nhiều công trình khoa học địa chất tầm cỡ quốc tế đã ra đời, một số mỏ lớn cũng đã
bước đầu đưa vào khai thác, góp phần tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
Thực hiện đường lối đổi mới, sắp xếp lại bộ máy các Bộ, trên cơ sở Tổng cục Mỏ và
Địa chất, năm 1990 đã thành lập Cục Địa chất Việt Nam và Cục Quản lý Tài nguyên
Khoáng sản Nhà nước trực thuộc Bộ Công nghiệp nặng, sau này là Bộ Công nghiệp.
Một số đơn vị địa chất cũng đã được tách ra để hình thành các doanh nghiệp Nhà nước
thực hiện nhiệm vụ thăm dò và khai thác khoáng sản. 16 lOMoAR cPSD| 25734098
Công đoàn Tổng cục thăm và gắn biển công trình khoan sâu 1.200 m của Liên đoàn
Intergeo thi đua chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Ngành Địa chất Việt Nam
Nhằm thống nhất, tập trung đầu mối quản lý, ngày 4/12 /1996, Chính phủ đã ra Nghị
định số 79/CP về việc thành lập Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trên cơ sở hợp
nhất Cục Địa chất Việt Nam và Cục Quản lý Tài nguyên Khoáng sản Nhà nước thuộc
Bộ Công nghiệp và trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường từ tháng 11 năm 2002. Đến
năm 2008, một số đơn vị thuộc Cục như Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản Biển được
chuyển sang trực thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam; các đơn vị địa chất thủy
văn - địa chất công trình đã được chuyển sang Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài
nguyên nước trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, Liên đoàn Trắc địa được chuyển
sang Tổng công ty Tài nguyên và Môi trường Việt Nam.
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 718/QĐ-TTg ngày 21/5/2010 về
việc lấy ngày 02/10 hàng năm là ngày truyền thống ngành Địa chất Việt Nam.
Nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản và đẩy mạnh
công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản tháng 7/2011, Cục Địa chất và Khoáng
sản Việt Nam được nâng cấp thành Tổng cục Địa chất và Khoáng sản theo Quyết định
số 26/2011/QĐ-TTg, ngày 4 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ. Đến tháng 02 17 lOMoAR cPSD| 25734098
năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 16/2014/QĐ-TTg, ngày 19
tháng 02 năm 2014, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Trong quá trình phát triển, mặc dù có những thay đổi về tổ chức nhưng Tổng cục Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam nói riêng, ngành Địa chất Việt Nam nói chung vẫn luôn
phát huy được truyền thống và tiếp tục đạt được nhiều thành tựu mới. Công tác điều tra
cơ bản về địa chất và khoáng sản cũng như đánh giá, thăm dò khoáng sản ngày càng
được đẩy mạnh. Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản đặc biệt đã hoàn thiện pháp
luật về khoáng sản, tạo hành lang pháp lý để quản lý hoạt động khoáng sản theo hướng
hiệu quả, bền vững, đảm bảo môi trường và an ninh, quốc phòng.
Thi công khoan lấy mẫu đề án Urani
Trải qua 75 năm, ngành Địa chất đã liên tục phát triển về bộ máy tổ chức, năng lực,
công nghệ điều tra đánh giá địa chất - khoáng sản và các tài nguyên địa chất khác. Các
đơn vị địa chất ngày càng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả trên phạm vi cả nước, phối
hợp triển khai các đề án có quy mô lớn với sự điều hành thống nhất, hệ thống từ Tổng
cục. Các viện, các trường đại học đã phối hợp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho ngành. Các Tập đoàn: Dầu khí Quốc gia, Than - Khoáng sản Việt Nam đã góp phần
quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Các nhà địa chất Việt Nam đã tạo
nên hình ảnh đẹp, tích cực và trung thực trong khoa học, đoàn kết, phối hợp với nhau, 18 lOMoAR cPSD| 25734098
dưới mái nhà chung của nhiều thế hệ cán bộ, viên chức và người lao động địa chất trên toàn quốc.
Ngay từ ngày đầu thành lập, ngành Địa chất đã được sự quan tâm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, của Đảng và Chính phủ, đã nhận được sự giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ
và các nhà địa chất: Liên Xô (ngày nay là Liên bang Nga), Tiệp Khắc (cũ), Trung Quốc,
Nhật Bản, Ba Lan, Bulgari, Hungari, Rumani....
2.2 Đánh giá thực trạng việc nghiên cứu vấn đề vật chất đối với địa chất học ngày nay
2.2.1 Những thành tựu nổi bật của ngành địa chất Việt Nam
2.2.1.1 Thành tựu trong công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản về địa chất và tài nguyên khoáng sản
Kết quả nghiên cứu và điều tra cơ bản địa chất: Đến nay ngành Địa chất đã hoàn
thành hệ thống bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ 1:1.000.000, 1:500.000 trên toàn lãnh
thổ. Loạt bản đồ chuyên sâu cùng tỷ lệ cũng được thành lập, bao gồm: địa chất thủy văn,
địa chất công trình, địa mạo, vỏ phong hóa, đệ tứ, kiến tạo, sinh khoáng, các trường địa
vật lý, trọng sa, địa hóa và phông bức xạ. Cụm công trình bản đồ địa chất và khoáng sản
Việt Nam tỷ lệ 1/500.000 đã được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa
học và Công nghệ năm 2005. Các bản đồ địa chất, khoáng sản, địa mạo, vỏ phong hoá
tham gia vào bộ Atlas quốc gia Việt Nam cũng đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh
về Khoa học và Công nghệ năm 2005.
Bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 đã được thành lập trên toàn lãnh thổ
và đã được xuất bản để sử dụng rộng rãi. Một phần lãnh hải đã và đang được điều tra để
thành lập hệ thống bản đồ địa chất các tỷ lệ. Với sự tiếp thu phương pháp luận khoa học
địa chất hiện đại, kết hợp với tổ hợp trang thiết bị hàng đầu về địa vật lý, địa hoá, viễn
thám, phân tích thí nghiệm, đến nay 23.860 km2 đã hoàn thành công tác đo vẽ lập bản
đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 (đạt gần 70% diện tích phần đất liền).
Đây là loại bản đồ địa chất khoáng sản cơ bản, ngoài cung cấp những thông tin quan
trọng về khoáng sản còn là cơ sở cho quy hoạch các ngành kinh tế - xã hội khác của đất
nước. Hầu hết các cấu trúc địa chất đã được nghiên cứu, làm rõ dần lịch sử hình thành, 19 lOMoAR cPSD| 25734098
phát triển các quá trình địa chất và tiềm năng khoáng sản trên lãnh thổ nước ta. Công
tác nghiên cứu nguồn gốc và quy luật phân bố khoáng sản đã đạt được nhiều thành quả
quan trọng. Kết quả nghiên cứu, điều tra cơ bản này đã đưa Việt Nam trở thành nước có
mức độ điều tra cơ bản về địa chất, khoáng sản đạt mức cao trong khu vực Đông Nam
Á. Qua công tác này, đã hình thành đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật đủ năng lực giải
quyết được những vấn đề khoa học, thực tiễn; nhiều phát hiện mới về nguồn gốc khoáng
sản đã làm thay đổi nhận thức về tiềm năng của một số khoáng sản chiến lược ở Việt Nam.
Tại vùng biển, đã hoàn thành điều tra địa chất khoáng sản ven bờ (0-30 m nước) ở
các tỷ lệ 1:500.000, 1:100.000 và 1:50.000 tại một số vùng trọng điểm. Hiện nay đang
tiếp tục điều tra vùng biển Việt Nam đến 100 m nước. Kết quả là đã lập nên hệ thống
bản đồ có nội dung đồng bộ, phong phú và tin cậy về cấu trúc địa chất, trầm tích Đệ tứ,
triển vọng sa khoáng, môi trường đới biển ven bờ Việt Nam. Đã khoanh định các diện
tích có triển vọng phát hiện khoáng sản và cấu trúc có khả năng tích tụ sa khoáng. Hiện
trạng môi trường địa chất biển nông ven bờ, các yếu tố địa chất ảnh hưởng đến độ bền
vững của bờ biển, quá trình phát sinh, hình thành và phát triển đường bờ biển đã được
điều tra và nghiên cứu. Triển khai đề án bay đo từ - trọng lực tỷ lệ 1:250.000 trên biển
là cơ sở quan trọng để thành lập bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ 1:500.000 ở các vùng biển Việt Nam.
Khoan lấy mẫu quặng Cu tại điểm quặng Cu (U) mới được Liên đoàn Bản đồ miền
Nam phát hiện ở Kon Rá- Kon Tum rất có tiềm năng trở thành mỏ Cu ở Tây Nguyên 20 lOMoAR cPSD| 25734098
2.2.1.2 Thành tựu trong công tác điều tra đánh giá tài nguyên khoáng sản và phát
triển công nghiệp khai khoáng
Đến nay đã ghi nhận được hơn 60 loại khoáng sản với hàng ngàn điểm mỏ đã được
điều tra, đánh giá và thăm dò ở các mức độ khác nhau trên toàn lãnh thổ.
Nhóm nhiên liệu: Thành tựu xuất sắc của ngành Địa chất Việt Nam là đã phát hiện và
đưa vào thăm dò dầu khí ở đồng bằng Bắc Bộ, vịnh Bắc Bộ, dự báo tiềm năng dầu khí
các bể trầm tích quan trọng của đất nước. Đây cũng là cơ sở để ngành Dầu khí Việt Nam
tiếp tục phát triển. Sau năm 1955, ngành Địa chất đã tập trung vào việc điều tra, thăm
dò mở rộng bể than Quảng Ninh và tất cả các cấu trúc chứa than trên toàn quốc. Kết quả
dự báo trữ lượng và tài nguyên than đá của Việt Nam ở bể than Quảng Ninh tạo tiền đề
cho việc hình thành và phát triển Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.
Đã tiến hành điều tra, đánh giá tổng thể và đã tính được toàn bộ tài nguyên than phần
đất liền bể Sông Hồng ở các cấp 333+334a+334b là 212.676.990 ngàn tấn. Với công
nghệ chuyển hóa than thành khí của đối tác Canada tạo tiền đề để khai thác tài nguyên
than dưới sâu trong tương lai.
Nhiều năm qua, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã điều tra, đánh giá tài
nguyên urani và thăm dò xác định trữ lượng urani ở khu vực bồn trũng Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam, đưa Việt Nam vào nhóm nước có trữ lượng và tài nguyên urani lớn nhất
thế giới, phục vụ làm nguyên liệu cho nhà máy điện nguyên tử, đảm bảo an ninh năng
lượng lâu dài cho đất nước.
Nhóm khoáng sản kim loại: Công tác điều tra, đánh giá nhóm khoáng sản kim loại đã
phát hiện nhiều vùng mỏ có quy mô tài nguyên lớn như quặng đồng Sin Quyền, Lào
Cai; quặng chì - kẽm Chợ Đồn - Chợ Điền, Bắc Kạn; quặng sắt Thạch Khê, Hà Tĩnh;
quặng đất hiếm tại Lai Châu, Lào Cai; quặng wolfram đa kim Núi Pháo, Thái Nguyên.
Trong những năm gần đây, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã đánh giá
được tổng thể tiềm năng một số khoáng sản kim loại có quy mô lớn như: đã xác định
được tổng thể tài nguyên cấp 333+334a cho bauxit Tây Nguyên là 1.873.000 ngàn tấn
tinh quặng, trong đó cấp 333 là 664.000 ngàn tấn (đề án Bauxit sắt laterit Tây Nguyên)
nâng tổng tài nguyên và trữ lượng toàn miền Nam Việt Nam là 3.500 000 ngàn tấn quặng
tinh; tổng thể tiềm năng quặng titan sa khoáng dải ven biển Ninh Thuận - Bình Thuận - 21 lOMoAR cPSD| 25734098
Vũng Tàu có quy mô lớn; đã có những phát hiện mới về nguồn gốc và dự báo được triển
vọng quặng wolfram (sheelit) quy mô lớn trên đới Sông Chảy, bước đầu đã xác định
được tài nguyên quặng wolfram + thiếc tại khu vực Suối Ngần, huyện Vị Xuyên, Hà
Giang là 61 ngàn tấn và hàng loạt các mỏ, điểm mỏ đang tiếp tục được điều tra, đánh giá tiềm năng.
Chuyên gia Nga và lãnh đạo Liên đoàn Xạ hiếm khảo sát thực địa ở đề án Urani
Nhóm khoáng sản phi kim loại và khoáng chất công nghiệp: Xác định vai trò quan
trọng của khoáng sản phi kim trong sự phát triển của ngành hóa chất, phân bón, ngành
công nghiệp xi măng, gốm sứ và vật liệu xây dựng, ngay từ khi thành lập, ngành địa
chất đã tập trung điều tra, đánh giá, thăm dò các loại khoáng sản này. Đến nay đã xác
định được tổng tài nguyên, trữ lượng quặng apatit là 2,6 tỉ tấn quặng phân bố tại tỉnh
Lào Cai; công tác đánh giá tiềm năng của đá vôi, đá sét làm nguyên liệu xi măng được
thực hiện tại các khu vực thuộc tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình, Hải
Dương, Quảng Ninh đã xác định được tổng tài nguyên dự tính trên 40 tỷ tấn đá vôi và
trên 7 tỷ tấn đá sét đủ tiêu chuẩn làm nguyên liệu lâu dài cho ngành công nghiệp xi măng
Việt Nam; đã khoanh định, đánh giá tài nguyên hàng trăm mỏ kaolin, đất sét trắng,
felspat, cát trắng, đôlômit, đá ốp lát trên cả nước đảm bảo khả năng cung cấp nguyên 22 lOMoAR cPSD| 25734098
liệu ổn định, lâu dài cho sự phát triển của ngành công nghiệp gốm sứ và vật liệu xây dựng.
Nhóm nước khoáng, nước ngầm: Công tác lập bản đồ ĐCTV-ĐCCT đã hoàn thành
hơn 56.000 km2 ở tỷ lệ 1:200.000 và 42.500 km2 ở tỷ lệ 1:50.000, điều tra địa chất công
trình tỷ lệ 1:50.000 với diện tích 36.340 km2. Các công tác này tập trung vào một số
vùng quy hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước như Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ,
đồng bằng Bắc Bộ, các vùng đồng bằng ven biển. Kết quả là đã phát hiện và xác định
trữ lượng nguồn tài nguyên nước dưới đất quy mô lớn, đáp ứng các nhu cầu cấp thiết
cho nhu cầu dân sinh, công nghiệp và làm cơ sở để quy hoạch, điều tra, thăm dò khai thác nước dưới đất.
Ngành Địa chất đã hoàn thành các chương trình điều tra nước miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên, vùng sâu Nam Bộ và các đảo. Các chương trình này đã góp phần quan trọng
vào việc giải quyết khó khăn về nước sinh hoạt cho nhân dân tại những vùng đặc biệt
khó khăn, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Các nguồn nước nóng, nước khoáng đã được tổng hợp, cập nhật và nghiên cứu. Nhiều
nguồn nước đã và đang được khai thác sử dụng có hiệu quả, phục vụ nhiều mục đích khác nhau.
2.2.1.3 Thành tựu trong công tác điều tra địa chất đô thị, địa chất môi trường, tai
biến địa chất và di sản địa chất
Ngành Địa chất đã phối hợp với Bộ Xây dựng tiến hành điều tra địa chất đô thị để
phục vụ quy hoạch sử dụng đất theo điều kiện địa chất cho 58 đô thị loại I, loại II và loại
III, các khu vực phát triển kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Thành
phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu, Đà Nẵng - Dung Quất với diện tích 12.730
km2. Kết quả này là cơ sở khoa học để Nghành Địa chất triển khai nghiên cứu quản lý
không gian ngầm địa chất phục vụ công tác quy hoạch, quản lý đô thị thông minh.
Đã tiến hành điều tra môi trường phóng xạ ở Quảng Nam, Nghệ An, Lai Châu, Cao
Bằng và Phú Thọ; đánh giá chi tiết các diện tích ô nhiễm phóng xạ tự nhiên vùng Tây
Bắc Việt Nam để chuyển giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập kế hoạch và triển khai 23 lOMoAR cPSD| 25734098
thực hiện các biện pháp giảm thiểu đến mức thấp nhất tác hại đối với con người; điều
tra tai biến địa chất ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Bắc Bộ, ven biển Nam
Trung Bộ, Bắc Trung Bộ và các tỉnh miền núi phía Bắc; điều tra, đánh giá địa động lực
hiện đại để hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu và đề xuất giải pháp thích ứng ở đồng
bằng sông Cửu Long. Đang tiến hành điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất công
trình, đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng lãnh thổ phục vụ xây dựng và phát triển
hạ tầng dải ven biển Việt Nam. Các kết quả điều tra môi trường, tai biến địa chất đã
được chuyển giao cho Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các tỉnh để sử dụng trong quy
hoạch phát triển bền vững các đô thị và phát triển kinh tế vùng.
Trong nhiều năm qua, đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về các giá trị địa chất
- địa mạo, góp phần quan trọng vào việc xem xét, công nhận các Di sản Thiên nhiên thế
giới đối với vịnh Hạ Long, vùng hang động Phong Nha - Kẻ Bàng, và gần đây là Công
viên Địa chất Đồng Văn - Mèo Vạc, Cao Bằng và Đăk Nông. Đang làm hồ sơ công nhận
công viên địa chất toàn cầu ở khu vực Tam Giang - Bạch Mã…
2.2.1.4 Thành tựu trong công tác điều tra địa vật lý
Đã hoàn thành đo vẽ và thành lập các bản đồ: từ hàng không, trọng lực, trường phóng
xạ tự nhiên… Kết quả đo vẽ đã vạch ra các cấu trúc địa chất, đặc biệt là các cấu trúc
sâu, các trường địa vật lý khu vực. Nhiều dị thường đã được xác định là cơ sở để tìm ra
các mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh), sắt Nà Rụa (Cao Bằng) và các vùng sa khoáng titan
ven biển Móng Cái, Hà Tĩnh, Quảng Bình, ..., vùng quặng urani Nông Sơn, các đới biến
đổi nhiệt dịch chứa quặng vàng, thiếc, quặng sắt, magnesit ở Tây Nguyên và
Trung Bộ, quặng đồng ở Kon Rá- Kon Tum…
2.2.1.5 Thành tựu trong công tác lưu trữ, xuất bản, thông tin và bảo tàng địa chất
Lưu trữ Địa chất đang lưu giữ khối lượng tài liệu địa chất lớn vào loại bậc nhất ở khu
vực, với gần 5.000 báo cáo địa chất và đang được khai thác phục vụ các ngành kinh tế
khác nhau. Toàn bộ các báo cáo đã được tin học hoá để lưu giữ và phục vụ tra cứu thuận
lợi bằng công nghệ tin học. Bảo tàng Địa chất tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã
được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Bảo tàng loại I cấp Quốc gia. Các
sưu tập mẫu vật địa chất - khoáng sản đã được bổ sung, chỉnh lý, sắp xếp khoa học, phục
vụ tích cực cho tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho hàng vạn lượt người là các nhà 24 lOMoAR cPSD| 25734098
nghiên cứu khoa học, sinh viên, học sinh, các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước đến
tham quan học tập và nghiên cứu. Chuyển giao các bản đồ đi cùng với 5.000 mẫu bao
gồm các thành tạo magma, trầm tích, biến chất, khoáng sản cho Trường Đại học Mỏ -
Địa chất phục vụ công tác đào tạo.
Tạp chí Địa chất được thành lập từ năm 1961, và từ năm 1993 đến nay đã xuất bản
được gần gần 400 số Tạp chí bằng tiếng Việt và 50 số bằng tiếng Anh, là một tạp chí
chuyên ngành về địa chất và khoáng sản, có nội dung khoa học phong phú, giới thiệu
các kết quả nghiên cứu, điều tra, thăm dò khoáng sản, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật - công nghệ rất hữu ích trong thực tiễn cũng như trong nghiên cứu khoa học, là
một trong những công cụ tuyên truyền, đào tạo và là mối liên hệ giữa hoạt động của
ngành Địa chất Việt Nam với hoạt động địa chất quốc tế.
Trong khoảng 5 năm gần đây, có khoảng hơn 1.200 lượt tổ chức, cá nhân đến tham
khảo, thu thập tài liệu địa chất khoáng sản tại Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Tạp chí
địa chất, khoảng gần 1.000.000 lượt truy cập vào Website của Trung tâm Thông tin, Lưu
trữ và Tạp chí địa chất để tra cứu các thông tin liên quan tới các tài liệu địa chất được lưu trữ.
2.2.1.6 Thành tựu trong hợp tác và thực hiện nghĩa vụ quốc tế
Công tác hợp tác quốc tế trước đây và hiện nay luôn được coi trọng và đa dạng hoá,
đa phương hóa với nhiều tổ chức khoa học, chính phủ, các công ty trên thế giới như:
Anh, Pháp, Bỉ, Nhật Bản, Đức, Đan Mạch, Hà Lan, Australia, Mỹ, Hàn Quốc, Canada,
Cộng hoà Séc, các nước trong ASEAN, Trung Quốc,... Đặc biệt là sự hợp tác với các tổ
chức quốc tế như: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc UNDP, ESCAP về dự thảo
Luật Khoáng sản, nghiên cứu nước ngầm châu thổ Sông Hồng và Mê Kông; Chương
trình khoa học địa chất vùng Đông và Đông Nam Á (CCOP); Hội đồng Vành đai Thái
Bình Dương về năng lượng và tài nguyên khoáng sản (CPCEMR); Chương trình Khoa
học Địa chất Quốc tế (IGCP), Uỷ ban Bản đồ Địa chất thế giới (CGMW), Tổ chức Kinh
tế, Xã hội và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)...
Tổng cục Địa chất và Khoáng sản đã tích cực tham gia kế hoạch hành động hợp tác 25 lOMoAR cPSD| 25734098
ASEAN về khoáng sản (AMCAP) III, giai đoạn 2016-2020 như: hoạt động hợp tác
ASEAN về khoáng sản, tham dự khóa đào tạo kinh nghiệm thai thác đá quý gắn với
tăng cường năng lực trong lĩnh vực khoáng sản; Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về khoáng
sản (AMMin) lần thứ 7; Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN về khoáng sản (ASOMM)
lần thứ 19; Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN và ba nước tham vấn (ASOMM+3) lần
thứ 12, tổ chức vào tháng 12/2019 tại Thái Lan.
Sự kiện ghi dấu ấn quan trọng trong hoạt động hợp tác quốc tế là Đại hội địa chất, tài
nguyên khoáng sản và năng lượng Đông Nam Á lần thứ 15 (GEOSEA XV) do Tổng cục
Địa chất và Khoáng sản Việt Nam chủ trì tổ chức tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 500
đại biểu chính thức trong nước và quốc tế. Trong đó có 112 đại biểu quốc tế là các nhà
địa chất và các nhà quản lý tài nguyên trái đất đến từ các nước: Nga, Anh, Đức, Úc, Mỹ,
Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung quốc, Ấn độ, Ba Lan, Bỉ, Campuchia, CHDCND
Lào, Mông Cổ, Thái Lan, Philippines, Myanmar, Malaysia, Indonesia. Đại hội tăng
cường hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm về nghiên cứu, điều tra cơ bản địa chất, thăm dò
và khai thác tài nguyên trong cộng đồng các nước ASEAN và các tổ chức quốc tế liên quan.
Hợp tác với các nhà địa chất Liên bang Nga trong việc nghiên cứu, điều tra về nguồn
gốc và triển vọng quặng urani; điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ
địa chất tỉ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế xã
hội... Hợp tác với Cục Địa chất Vương quốc Anh trong đào tạo về xây dựng cơ sở dữ
liệu địa chất, khoáng sản và không gian ngầm phục vụ cho việc lập dự án "Địa chất đô
thị Hà Nội". Hợp tác với các chuyên gia Mỹ và Canada trong việc nghiên cứu các thông
số cơ bản phục vụ công nghệ khí hóa than nâu vùng đồng bằng sông Hồng… Những kết
quả đạt được thông qua hợp tác quốc tế đã nâng cao vị thế ngành Địa chất Việt Nam trên
trường quốc tế và đào tạo, nâng cao tay nghề cho nhiều chuyên gia trong lĩnh vực địa
chất, khoáng sản, tăng cường năng lực công nghệ và thiết bị được trang bị.
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước đối với các nước láng giềng
anh em, các đơn vị địa chất đã thành lập bản đồ địa chất Việt Nam – Lào - Campuchia
tỷ lệ 1:1.000.000, lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 trên 70%
lãnh thổ Lào. Kết quả điều tra đã giúp phát hiện nhiều vùng quặng có quy mô lớn, như 26 lOMoAR cPSD| 25734098
muối mỏ ở các bồn trũng Viên Chăn và Savannakhet, thạch cao ở Trung Lào, bauxit ở
Nam Lào, sắt ở Xiêng Khoảng, than nâu và đồng ở Bắc Lào và đã phát hiện hàng trăm
điểm biểu hiện khoáng sản giúp cho Chính phủ có cơ sở khoa học để kêu gọi đầu tư của
các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước trong lĩnh vực thăm dò và khai thác khoáng sản.
Kết quả đó đã được Chính phủ Lào đánh giá cao, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
nước bạn Lào, góp phần thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Nhà nước, hai dân tộc.
2.2.1.7 Thành tựu trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản
Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là nhiệm vụ
trọng tâm và hết sức quan trọng của Ngành nhằm quản lý, bảo vệ chặt chẽ, khai thác, sử
dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước
trước mắt cũng như lâu dài.
Ngày 22/01/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 09/SL khẳng định “tất cả
các nguồn khoáng chất ở Việt Nam đều là của nhà nước”, và Sắc lệnh số 10/SL về “Quy
định chế độ khai thác mỏ”, đây có thể nói là những văn bản pháp luật đầu tiên về quản
lý khoáng sản. Từ năm 1983, Tổng cục Địa chất (sau này là Tổng cục Mỏ và Địa chất)
đã xây dựng, trình ban hành Pháp lệnh về Tài nguyên khoáng sản (năm 1989). Đến năm
1996, lần đầu tiên, Luật khoáng sản được ban hành và sau đó được sửa đổi, bổ sung vào
năm 2005. Sau 13 năm thực hiện Luật khoáng sản năm 1996, để tăng cường hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XII đã thông
qua Luật khoáng sản năm 2010 để thay thế Luật khoáng sản năm
1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2005). Đến nay, sau gần 10 năm thực hiện Luật khoáng sản
năm 2010, Tổng cục đã chủ trì xây dựng để Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 06 Nghị định; 05 Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ và gần 50 Thông tư, Thông tư liên tịch để hướng dẫn thực hiện.
Có thể nói, cùng với 75 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Địa chất Việt Nam,
đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản cơ bản đã hoàn thiện, tạo nên hành
lang pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản, 27 lOMoAR cPSD| 25734098
đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững công nghiệp khai khoáng, chế biến khoáng sản;
bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ an ninh quốc phòng.
Từ khi chỉ có một số mỏ như thiếc Tĩnh Túc, vàng Bồng Miêu, Chợ Bến, antimon
Chiêm Hóa, photphorit Nghệ An, than Đầm Đùn, Khe Bố v.v.. được khai thác ở giai
đoạn những năm thập kỷ 60 thế kỷ XX, công tác cấp phép hoạt động thăm dò, khai thác
khoáng sản ngày càng chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật để kịp thời đưa các mỏ
khoáng sản vào khai thác để phát triển đất nước trong từng thời kỳ, đồng thời bảo đảm
an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, cảnh quan, di sản văn hóa - lịch sử, địa chất.
Đến nay đã có trên 3.000 khu vực đang khai thác gần 50 loại khoáng sản khác nhau trên
phạm vi cả nước, như: than, khoáng sản kim loại, phi kim loại, khoáng sản làm vật liệu
xây dựng, nguyên liệu xi măng, nước khoáng... Giá trị sản lượng ngành công nghiệp
khai khoáng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của đất nước; thu ngân sách nhà nước từ thuế
tài nguyên, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, phí bảo vệ môi trường trong khai thác
khoáng sản hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm, đáp ứng cơ bản nhu cầu sử dụng khoáng
sản của các ngành kinh tế trong nước và một phần để xuất khẩu.
Trong quản lý nhà nước về khoáng sản, thanh tra, kiểm tra là hoạt động có vai trò
quan trọng luôn được Bộ Tài nguyên và Môi trường quan tâm, chỉ đạo. Từ khi chỉ có
một phòng thuộc Tổng cục Mỏ và Địa chất (trước đây), sau 75 năm, lực lượng cán bộ
thanh tra, kiểm tra về khoáng sản đã có hệ thống từ Tổng cục đến các Sở Tài nguyên và
Môi trường cả nước. Đến nay, Tổng cục đã có 03 Cục chuyên trách được giao đầu mối
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành khoáng sản, cùng sự phối hợp của các Cục,
Vụ có liên quan, sự tham gia của một số đơn vị địa chất đã giúp Tổng cục thực hiện
thường xuyên và ngày càng hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành khoáng
sản. Theo đó, hàng năm, đã có hàng trăm đợt thanh tra, kiểm tra chuyên đề, định kỳ
được Tổng cục thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Qua đó, đã phát hiện và xử lý nhiều
hành vi vi phạm pháp luật về khoáng sản, góp phần chấn chỉnh và đưa hoạt động khoáng
sản của các tổ chức, cá nhân đi vào nền nếp, tuân thủ pháp luật về khoáng sản, đồng thời
thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đã phát hiện những nội dung bất cập, hạn chế
của các quy định pháp luật, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung ban hành các
văn bản pháp luật về khoáng sản phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi. 28 lOMoAR cPSD| 25734098
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Trải qua hơn 70 năm xây dựng và phát triển, ngành địa chất thực hiện công tác điều
tra cơ bản địa chất và thăm dò khoáng sản đã thu được những thành quả rất to lớn. Đội
ngũ cán bộ kỹ thuật có cơ hội tham gia các khóa đào tạo trong vào ngoài nước dưới
nhiều hình thức khác nhau, nhiều đề án lớn đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu về trữ lượng,
tài nguyên, phát hiện nhiều mỏ và điểm mỏ có giá trị công nghiệp góp phần không nhỏ
vào kết quả phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Tuy vậy, cho đến nay đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ lĩnh vực địa chất và
khoáng sản đã bộc lộ những hạn chế nhất định trong công tác điều tra cơ bản về địa chất
về khoáng sản. Thiếu cán bộ có trình độ chuyên sâu về nhiều lĩnh vực: địa vật lý, địa
chất biển, cấu trúc, magma, biến chất, địa tầng, địa hóa...
Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản
và thăm dò khoáng sản đặt ra một số vấn đề cấp thiết cần giải quyết, đó là: điều tra địa
chất khoáng sản biển, nhất là vùng biển sâu; đánh giá khoáng sản ẩn sâu, cấu trúc phức
tạp; khoáng sản phi truyền thống (khí đá phiến, khí hydrate).
2.3 Những giải pháp khắc phục hạn chế
- Nâng cao chất lượng công tác điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản, đặc biệt làđiều
tra địa chất khoáng sản biển, điều tra môi trường địa chất và tai biến địa chất.
- Tiếp tục triển khai thực hiện các đề án Chính phủ. Trong đó, tập trung nhân lực chílực
để triển khai thực hiện tốt đề án: ”Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền
bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế xã hội”.
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt các đề án vốn thường xuyên.
- Đào tạo nâng cao nhận thức và trình độ cán bộ làm công tác điều tra địa chấtkhoáng sản Biển.
- Đẩy mạnh công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình điều tra cơ bảnđịa
chất về khoáng sản. Thông qua đề án Tây Bắc: xây dựng mô hình phối hợp giữa cơ
quan quản lý với các đơn vị các và tập thể tác giả thi công từng đề án thành phần; dự 29 lOMoAR cPSD| 25734098
kiến thiết lập hệ thống quản lý xuyên suốt thông qua mạng Intenet để nắm bắt thông tin thường xuyên.
- Xây dựng cơ chế khuyến khích cho các cán bộ quản lý và lực lượng kỹ thuật nângcao trình độ ngoại ngữ.
- Phấn đấu nâng cao chất lượng các phương pháp trong điều tra cơ bản địa chất vềkhoáng sản, cụ thể:
+ Công tác địa chất: nâng cao chất lượng công tác thu thập tài liệu nguyên thủy bằng
cách: tuân thủ qui trình qui phạm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác thu thập tài liệu nguyên thủy. Đảm bảo thu thập tối đa các thông tin về địa chất,
khoáng sản tại thực địa. Tăng cường công tác phân tích nhanh tại thực địa.
+ Công tác phân tích mẫu: rà soát hoàn chỉnh các qui trình phân tích mẫu, đảm bảo
nâng cao chất lượng công tác phân tích mẫu đối với các loại khoáng sản như: Au, Sn, W
và các nguyên tố quí hiếm khác.
+ Công tác đo địa vật lý và xử lý các tài liệu đo: Khi áp dụng các phương pháp địa vật
lý đúng đối tượng và cần tiến hành đo thử nghiệm chắc chắn trước khi triển khai đại trà;
Tăng cường đầu tư cho công tác xử lý tài liệu, đảm bảo chất lượng, tiến độ. Đặc biệt,
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ địa chất với địa vật lý trong việc xử lý số liệu.
Đầu tư cho đào tạo các chuyên gia chuyên về xử lý số liệu. 3. Kết luận
Tóm lại ta thấy rằng từ lúc mới xuất hiện, phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu
tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩ duy tâm. Phạm trù
vật chất có quá trình phát triển gắn liền với con người. Theo quan niệm của Lênin
thì vật chất là một phạm trù rộng lớn, do đó chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất
trong quan hệ với ý thức. Đó chính là phạm trù vận động không gian và thời gian.
Như vậy ta có thể thấy được rằng vật chất là một phạm trù tồn tại từ rất lâu và luôn
luôn phát triển với yếu tố con người. Và định nghĩa là tiêu chuẩn để phân biệt thế
giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
Vật chất đi kèm với sự hiện đại của con người. Nhờ có vật chất con người nghiên 30 lOMoAR cPSD| 25734098
cứu và phát minh ra những thành tựu nhất định về khoa học tự nhiên cũng như là
khoa học xã hội. Đặc biết, đối với vấn đề địa chất học ở Việt Nam mà chúng em
chọn làm đề tài. Địa chất học đã có những thành tựu nhất định, đóng góp một phần
nào đó cho đất nước chúng ta ngày một phát triển hơn. Song, vẫn còn hạn chế khá
nhiều nhưng cũng đã cố gắng khắc phục đáng kể để sau đó đưa nước ta thành một nước giàu mạnh hơn.
Cuối cùng, con người phải có hiểu biết nhất định về vật chất thì mới có thể dựa vào
nó để phát triển sâu rộng các lĩnh vực khác. Đưa con ngưởi vào trong thế giới mới, hiện đại hơn nữa.
4. Tài liệu tham khảo
http://www.monre.gov.vn/Pages/75-nam-phat-trien-nganh-dia-chat-
vietnam-(1945-2020).aspx http://dgmv.gov.vn/index.php/bai-viet/nang-
cao-chat-luong-cong-tacdieu-tra-co-ban-dia-chat-ve-khoang-san-va-xay- dung-doi-ngu-0 31