







Preview text:
Doanh nghiệp tư nhân là gì? Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với chủ trương đổi mới kinh tế chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN thì kinh tế tư nhân lần đầu tiên được thừa nhận theo pháp luật tại Việt Nam.
Cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông
qua vào ngày 21/12/1990 là những văn bản có giá trị pháp lý cao ghi nhận sự tồn tại tích cực, lâu dài, bình
đẳng của kinh tê tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng bên cạnh các thành phần kinh tế
khác. Tiếp theo đó, sự tồn tại về mặt pháp lý của doanh nghiệp tư nhân được ghi nhận tại Luật Doanh
nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và hiện đang áp dụng.
1. Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân
Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về các dấu hiệu nhận diện doanh nghiệp tư nhân như sau:
Điều 188. Doanh nghiệp tư nhân
1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân
không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
4. Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn
góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp (Khái niệm doanh nghiệp, kinh doanh được quy định
tại khoản 7, khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014: Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sàn
xuất đến tiêu thụ sàn phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, so với
các tiêu chí nhận diện doanh nghiệp tại khái niệm trên thi doanh nghiệp tư nhân không đáp ứng tiêu chí về
tài sản) nên giống như những doanh nghiệp kinh doanh khác, doanh nghiệp tư nhân là tổ chức có tên riêng
được nhà nước thừa nhận thông qua việc nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; mục đích
của doanh nghiệp tư nhân là thường xuyên, liên tục thực hiện hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.
2. Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân
Bên cạnh những dấu hiệu chung của một doanh nghiệp kinh doanh thì doanh nghiệp tư nhân còn có những
dấu hiệu (đặc điểm) nhận diện riêng:
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu.
Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân Việt Nam hoặc cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, thành lập và làm chủ
có nghĩa là doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ. Tất cả các cá nhân đều có
quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân trừ những cá nhân không có quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam.
Đặc điểm về chủ sở hữu (doanh nghiệp tư nhân thuộc sở hữu của một chủ) sẽ phân biệt doanh nghiệp tư
nhân với những loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhiều chủ như công ty họp danh, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên.
Với tính chất là doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ nên toàn bộ vốn để thành lập doanh nghiệp tư
nhân chỉ do một cá nhân (chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân) đầu tư. Tài sản được sử dụng vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp, vốn
đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa
vụ đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ số vốn bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do
chuyển đổi, vàng và các tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và
giá trị còn lại của mỗi loại tài sản. Chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký số vốn đầu tư và phải ghi chép
đầy đủ toàn bộ vốn, tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh
nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư và phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán. Trường
hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký thì chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm
vốn sau khi đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Khác với việc góp vốn vào công ty, những người góp vốn vào công ty phải chuyển quyền sở hữu tài sản
góp vốn cho công ty thì tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân không
phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. Như vậy, so với các loại hình công ty là những tổ
chức kinh tế có tài sản riêng thì doanh nghiệp tư nhân không có tài sản riêng. Tài sản của doanh nghiệp tư
nhân vẫn là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Từ tiền đề đó, trên nền tảng lý luận chung về quyền năng của chủ sở hữu đối với vật và tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình thì chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành
doanh nghiệp tư nhân; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp tư nhân sau khi
đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước, với bạn hàng của doanh nghiệp tư nhân; có quyền quyết
định thay đổi số phận pháp lý của doanh nghiệp tư nhân như bán doanh nghiệp, cho thuê doanh nghiệp,
giải thể doanh nghiệp... (nội dung phân tích quyền, nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân được trình bày
cụ thể tại phần 3 của Chương này). Sở dĩ chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân vì chủ doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ quyền năng “định
đoạt, sử dụng” doanh nghiệp tư nhân với bất kì tổ chức, cá nhân nào. Toàn bộ các quyền năng trong khuôn
khổ quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân chỉ do chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định vì chủ
doanh nghiệp tư nhân là cá nhân duy nhất đầu tư toàn bộ vốn để hình thành doanh nghiệp tư nhân. vốn đầu
tư của chủ doanh nghiệp tư nhân có bản chất tương tự như vốn điều lệ của công tỉ. Quyền của chủ doanh
nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp giống như quyền của chủ sở hữu (các thành viên, cổ đông) đối với công ty.
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Theo Điều 74 , một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau:
- Được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan;
- Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như phân tích tại đặc điểm thứ nhất khi nhận diện doanh nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp tư nhân do một
cá nhân đầu tư vốn và làm chủ. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền sở hữu tài sản đầu tư vào doanh
nghiệp tư nhân; doanh nghiệp tư nhân không có tài sản độc lập. Do vậy, doanh nghiệp tư nhân không đủ
điều kiện để được công nhận là pháp nhân.
Thứ ba, Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trách nhiệm tài sản trong kinh doanh thường được đặt ra đối với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh
nghiệp. Trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp để chỉ về khả năng chịu trách nhiệm tài sản
giữa doanh nghiệp với các khách hàng, chủ nợ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm tài
sản bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp
là trách nhiệm của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với doanh nghiệp do mình góp vốn đầu tư.
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, không có tài sản riêng nên trách nhiệm tài sản đối với
đối tác, khách hàng, chủ nợ, những người có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do chủ
doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm. Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm tài sản vô hạn
trong kinh doanh có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của
doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình bao gồm cả tài sản chủ doanh nghiệp tư
nhân đã đầu tư vào doanh nghiệp và tài sản mà chủ doanh nghiệp tư nhân không đàu tư vào doanh nghiệp.
Cụ thể hơn có thể hiểu là chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi số vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà còn
phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình không đầu tư vào doanh nghiệp
trong trường hợp số vốn đầu tư đã đăng ký không đủ để thanh toán các khoản nợ phát sinh từ hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Như vậy, trách nhiệm vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân là một loại trách nhiệm tài sản
không chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn chủ sở hữu đầu tư vào doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản của chủ
doanh nghiệp tư nhân được xác định từ thời điểm doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp và thời điểm bị áp dụng trách nhiệm vô hạn là thời điểm doanh nghiệp tư nhân bị tuyên bố
phá sản. Các văn bản pháp luật doanh nghiệp và pháp luật phá sản đã có sự thống nhất khi quy định về
trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, Luật Phá sản đã mở ra hướng “mềm dẻo”
hơn về trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản. Theo đó,
khoản 1 Điều 110 quy định:
Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản quy định tại các điều 105, 106 và 107
của Luật này không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp
danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán nợ, trừ trường hợp người tham
gia thủ tục phá sản có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Trách nhiệm vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân có điểm tích cực và điểm hạn chế như sau:
Đứng ở góc độ nhà đầu tư thì trách nhiệm vô hạn không phân tán được rủi ro trong kinh doanh cho cá nhân
chủ doanh nghiệp tư nhân. Do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư
nhân cao. Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình mà không có sự
phân tán rủi ro cùng những chủ thể khác như những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Tuy nhiên, chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân lại tạo sự “an toàn” hơn cho chủ nợ vì
chủ nợ có khả năng đòi được nợ không chỉ giới hạn trong số vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân vào
doanh nghiệp đó. Có thể từ ý tưởng bảo vệ lợi ích tài sản cho chủ nợ trong mối quan hệ với doanh nghiệp
tư nhân mà Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định:
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân
không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.
và khoản 3, Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020 vẫn bảo lưu và quy định như trên.
Bàn luận về trách nhiệm tài sản vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân có một số điểm lưu ý sau:
Một là, xác định khối tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản. Ngoài
những tài sản mà chủ doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào doanh nghiệp sẽ còn bao gồm cả khối tài sản của
chủ doanh nghiệp tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp
tư nhân có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân được chia theo quy
định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan. Việc kê biên tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân
được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự và không kê biên những tài sản của chủ
doanh nghiệp tư nhân như: số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của chủ doanh nghiệp tư nhân và gia
đình trong thời gian chưa có thu nhập thu hoạch mới; số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của chủ
doanh nghiệp tư nhân và gia đình; đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; vật dụng
cần thiết của người tàn tật, vật dụng để chăm sóc người ốm... Quy định về một số tài sản không kê biên của
chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản không mâu thuẫn với trách nhiệm vô hạn
của chủ doanh nghiệp tư nhân bởi quy định của pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức, triết lý
nhân văn của dân tộc và được quy định thống nhất trong các quy định của pháp luật.
Hai là, xác định trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi chủ doanh nghiệp tư nhân đã kết
hôn, Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Tài sản chung được đưa vào kinh doanh thì
“trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thi người này
có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản”.
Theo đó, vợ chồng chủ doanh nghiệp tư nhân có thể thông nhất bằng văn bản về việc sử dụng tài sản
chung để một người đầu tư vào kinh doanh nói chung và thành lập doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Một số vấn đề cần lưu ý là:
- Giải quyết trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân trong trường hợp vợ hoặc chồng đưa tài sản
chung vào thành lập doanh nghiệp tư nhân mà chưa có sự đồng ý của người còn lại.
- Vợ hoặc chồng của chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ chịu trách nhiệm tài sản như thế nào khi họ đã thống
nhất bằng văn bản cho chồng/vợ của mình dùng tài sản chung để thành lập doanh nghiệp tư nhân?
- Do chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi doanh nghiệp đã
thực hiện các nghĩa vụ tài chính thì chủ doanh nghiệp tư nhân có thể sử dụng lợi nhuận đó để chi tiêu cho
nhu cầu của gia đình họ. Vậy tài sản đó nếu được xác định là tài sản chung của vợ chồng chủ doanh nghiệp
tư nhân thì chủ nợ có quyền đòi một nửa số tài sản chung hay toàn bộ sô tài sản chung của vợ chồng chủ
doanh nghiệp tư nhân được tạo lập từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp tư nhân?
Thứ tư, Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào.
Quy định trên của pháp luật đã hạn chế quyền huy động vốn để đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh của chủ
doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay, ngoài doanh nghiệp tư nhân còn có công ty hợp danh là hai loại hình
doanh nghiệp không có quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn. Điều đó có nghĩa là nếu các doanh
nghiệp này muốn đầu tư mới, phát triển, mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp mình thì chỉ giới
hạn huy động vốn bằng cách chủ sở hữu doanh nghiệp đầu tư thêm vốn vào doanh nghiệp hoặc đi vay tài
chính và có thể có những khoản thu hút vốn đầu tư khác từ việc được tặng cho, thừa kế tài sản... So với
công ty TNHH được quyền phát hành trái phiếu và Công ty cổ phần được phát hành chứng khoán để huy
động vốn thì rõ ràng doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp dahh khó khăn hơn khi tìm kiếm các nguồn tài
chính cho hoạt động kinh doanh. Bên cạnh quy định doanh nghiệp tư nhân không được phát hành chứng
khoán thì Luật Doanh nghiệp năm 2014 còn xác định rõ doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn
thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần.
Lý giải cơ sở khoa học trong việc xây dựng quy định trên của Luật Doanh nghiệp năm 2014 hiện đang có
những ý kiến trái chiều:
Ý kiến thứ nhất cho rằng sở dĩ doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào,
doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty
hợp danh, công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần là vì để bảo vệ quyền lợi, hạn chế rủi ro cho các đối tác, chủ
nợ trong quan hệ với doanh nghiệp tư nhân.
Ý kiến thứ hai theo hướng “thông thoáng” nhằm tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
tư nhân. Để bảo vệ cho ý kiến thứ hai, các lập luận bắt nguồn từ tương quan so sánh giữa quy định về
quyền phát hành trái phiếu của công ty TNHH sẽ có thể gây rủi ro cho các chủ nợ hơn so với việc cho phép
doanh nghiệp tư nhân được phát hành trái phiếu. Bởi vì chính chế độ ữách nhiệm vô hạn sẽ tạo sự an toàn
hơn cho người mua trái phiếu của doanh nghiệp tư nhân khi cho phép doanh nghiệp tư nhân được phát
hành trái phiếu. Trong khi đó, các thành viên công ty TNHH chỉ chịu TNHH được giới hạn trong phần vốn
cam kết góp vào công ty và do đó người mua trái phiếu của công ty TNHH sẽ bị rủi ro về tài sản hơn.
Những ý kiến trên cần được nghiên cứu, phân tích để hướng tới việc xây dựng điều luật về cách thức huy
động vốn của doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả hơn cho doanh nghiệp và tổng thể nền kinh tế của quốc gia.
3. Người nước ngoài có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân không?
Căn cứ tại Khoản 2 Điều 17 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định về các trường hợp không có quyền
thành lập và quản lý doanh ngheiẹp tại Việt Nam. Theo đó, luật không cấm người nước ngoài thành lập
doanh nghiệp tư nhân, trừ các trường hợp sau:
- Người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử phạt hành chính tại cơ
sở cai nghiện bắt buôc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức
vụ hoặc làm công việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác
theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.
4. Doanh nghiệp tư nhân có bị chấm dứt hoạt động khi chủ doanh nghiệp chết?
Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân chết hoặc mất tích thì doanh nghiệp được xem như một tài
sản được để lại thừa kế. Như vậy, trong trường hợp chủ doanh nghiệp có người thừa kế thì doanh nghiệp
tư nhân không phải chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên, người được thừa kế doanh nghiệp tư nhân phải làm
thủ tục đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân theo quy định. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư
nhân không có người thừa kế thì theo quy định tại Điều 622 Bộ luật Dân sự 2015 doanh nghiệp tư nhân sẽ
thuộc sở hữu nhà nước.
5. Tổ chức có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân hay không?
Khoản 01 Điều 188 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định “doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá
nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Như
vậy, theo quy định nêu trên chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể là cá nhân nên tổ chức không được phép
thành lập doanh nghiệp tư nhân.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập tư các nguồn khác nhau trên internet)
Những câu hỏi thường gặp
Ưu điểm của loại hình doanh nghiệp tư nhân so với các loại hình doanh nghiệp khác là gì?
- Do chỉ có 1 chủ sỡ hữu, nên chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết
định tất cả các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp;
- Chủ doanh nghiệp cũng đồng thời là đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp;
- Chủ sở hữu doanh nghiệp có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác;
- Do chế độ trách nhiệm vô hạn, thành lập doanh nghiệp tư nhân ít bị ràng buộc hơn;
- Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp tư nhân tương đối đơn giản;
- Chế độ trách nhiệm vô hạn được pháp luật quy định giúp doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tạo được
sự tin tưởng từ đối tác, dễ dàng huy động vốn và hợp tác kinh doanh.
Những loại hình doanh nghiệp mà doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi?
- Theo quy định tại Điều 205 Luật doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi sang
các loại hình doanh nghiệp sau:
+ Doanh nghiệp tư nhân chyển đổi thành công ty TNHH: Theo đó, công ty TNHH là công ty có tư cách
pháp nhân, bao gồm công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên. Công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có từ 02 đến 50 thành viên là tổ chức, cá
nhân với các thành viên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Còn công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
+ Doanh nghiệp tư nhân chyển đổi thành công ty hợp danh: Theo đó, công ty hợp danh là loại hình
doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, gồm ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung là thành viên hợp danh, ngoài ra công ty có thể có thêm thành
viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ty; còn thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
+ Doanh nghiệp tư nhân chyển đổi thành công ty cổ phần: Theo đó, công ty cổ phần là công ty có các
cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối
đa và cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.