Đọc hiểu Một bữa no có đáp án | Ngữ văn 11

Nam Cao là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Các đề tài khai thác chính của ông là về tầng lớp người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo. Một trong số các tác phẩm về đề tài người nông dân chính là Một bữa no. Tác phẩm Một bữa no chính là một bức tranh chân thực phản ánh rõ nhất nỗi khổ cùng cực của người nông dân lúc bấy giờ. Dưới đây là tổng hợp các mẫu đề đọc hiểu truyện ngắn Một bữa no của nhà văn Nam Cao sẽ giúp các em hiểu rõ hơn nội dung chính của tác phẩm. 

Chủ đề:

Văn mẫu 11 321 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.2 K tài liệu

Thông tin:
29 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đọc hiểu Một bữa no có đáp án | Ngữ văn 11

Nam Cao là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Các đề tài khai thác chính của ông là về tầng lớp người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo. Một trong số các tác phẩm về đề tài người nông dân chính là Một bữa no. Tác phẩm Một bữa no chính là một bức tranh chân thực phản ánh rõ nhất nỗi khổ cùng cực của người nông dân lúc bấy giờ. Dưới đây là tổng hợp các mẫu đề đọc hiểu truyện ngắn Một bữa no của nhà văn Nam Cao sẽ giúp các em hiểu rõ hơn nội dung chính của tác phẩm. 

323 162 lượt tải Tải xuống
Đọc hiểu Một bữa no đáp án
Đọc văn bản sau thực hiện yêu cầu: (Trắc nghiệm)
phó chẳng nói nửa lời, lấy bát cơm ăn. Mặt vẫn hầm hầm. con gái,
con nuôi, con ở, biệt hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, chửi cho phải
biết! khi hất cả bát cơm vào mặt. lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng
cất bát cơm lên:
- Mời phó…
Nhưng vừa mới mồm ra thì phó đã cau mặt quát:
- Thôi, ăn đi! Đừng mời!
lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi,
mải mốt. Đôi đũa này lên lại đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp
tăm tắp. Tay lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập
cập quá, đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. phó lại cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho ấy!
Một vội làm ngay. Từ đấy, lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng mới ăn
chưa hết hai lượt cơm thì phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau,
mọi nguời khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như mẹ ra hiệu cho họ
vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn ba vực cơm thôi. phải ăn nhanh để
còn làm. Nhưng lão nhà nghèo, đã quen sống tổ chức, làm hiểu trong
những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại sự hạn chế miệng ăn như vậy? đoán rằng
họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng
chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì
cứ ăn. Ăn đến no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi
thì dại chịu đói? ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt
vội mấy miếng cơm còn lại như một con con nuốt nhái. Rồi buông bát đũa.
bảo cháu:
- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát xới cho.
chưa kịp trả lời thì phó đã mắng át đi:
- Mặc nó! không ăn nữa! ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
À! Bây giờ thì lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ còn mình lão ngồi ăn
với phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng lão còn thấy đói. Còn cơm
thôi ăn thì khí tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá làm khách. cứ ăn
như không biết gì. Đến khi đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới
đáy chung quanh nồi. vẫn tiếc. kéo cái nồi vào lòng, nhìn, bảo con
cháu:
- Còn mấy hột để khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Không, mặc kệ nó! ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. không ăn vào
đâu được nũa. Ăn cho nứt bụng ra thì ăn làm gì?
phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì ăn nốt vậy! cạo cái nồi sồn sột. trộn
mắm. rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì no. bỗng nhận ra rằng no quá. Bụng
tưng tức. nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. tựa lưng vào vách để thở
cho thoả thích. Mồ hôi toát ra đầm đìa. nhọc lắm. Ruột gan xộn xạo.
muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ
thật. Đói cũng khổ no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì phần còn
nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…
Xế chiều hôm ấy, lão mới ra về được. bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì
tức bụng, không đi nổi. uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không
đã khát. chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, lăn lóc rất lâu không ngủ
được. vần cái bụng, quay vào lại quay ra. Bụng kêu ong óc như một cái lọ
nước. thẳng căng. thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, thấy hơi đau bụng.
Cơn đau cứ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, đã thấy đau quắn quéo, đau
cuống cuồng. Rồi thổ. Rồi tả. Ôi chao! Ăn thật thì không mửa. tối tăm
mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì lại sinh chứng đi lị. Ruột đau quằn quặn. Ăn
một cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi chết.
phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. dùng ngay cái chết ấy làm một bài
học dạy con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
đủ chết. Chúng mày cứ liệu ăn tộ vào!… (Trích “Một bữa no” -1943 - Tuyển
tập truyện ngắn Nam Cao).
Nam Cao (1917 - 1951) một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
A. Tự sự
B. Miêu tả
C. Nghị luận
D.Thuyết minh
Câu 2: Xác định thể loại của văn bản trên.
A. Tiểu thuyết
B. Kịch
C. Truyện ngắn
D. Truyền kì.
Câu 3: Xác định nhân vật chính trong văn bản.
A. Cái đĩ
B. phó Thụ
C. lão
D. con
Câu 4: Câu văn “Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm
còn lại như một con con nuốt nhái.”có sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?
A. Ẩn dụ
B.Hoán dụ
C.Điệp từ
D.So sánh
Câu 5: Qua đoạn trích, ta thấy hoàn cảnh sống của người nông dân lúc bấy giờ:
A. Sung sướng
B. Đói khổ, khốn cùng.
C. Nhàn nhã
D. Đủ ăn
Câu 6: không ăn vào đâu được nũa. Ăn cho nứt bụng ra thì ăn làm gì?
đây chỉ nhận vật nào?
A. Cái đĩ
B. phó Thụ
C. lão
D. con
Câu 7: Câu nói của sau của phó hàm ý gì?
Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
đủ chết. Chúng mày cứ liệu ăn tộ vào!
A. Khuyên con nên ăn nhiều
B. Cảnh báo con nếu ăn nhiều sẽ bị chết như lão
C.Thể hiện lòng thương xót lão
D.Vui mừng cái chết của lão.
Câu 8: Xác định ngôi kể trong đoạn trích?
Ngôi kể thứ 3.
Câu 9: Qua các lời thoại sau, hãy nhận xét tính cách của phó Thụ?
- Không, mặc kệ nó! ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. không ăn vào đâu
được nữa. Ăn cho nứt bụng ra thì ăn làm gì?
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
đủ chết. Chúng mày cứ liệu ăn tộ vào!…
Qua lời thoại trên ta thấy được phó Thụ một con người lạnh lùng, keo kiệt,
hách dịch. Thông qua đó, tác giả cũng phản ánh sự tàn nhẫn, độc ác của giai cấp
địa chủ phong kiến Việt Nam.
Câu 10: Từ cái chết của lão, tác giả Nam Cao muốn nhắn gửi thông điệp gì?
Từ cái chết của nhân vật lão trong tác phẩm Một bữa no, tác giả thể hiện sự
đồng cảm, xót thương đối với số phận người nông dân Việt Nam trước CMT8. Qua
đó, lên án, tố cáo giai cấp thống trị đã dồn người nông dân vào bước đường cùng.
Đọc hiểu văn bản Một bữa no
Học sinh đọc văn bản sau trả lời các câu hỏi:
MỘT BỮA NO
lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn lại
hờ con. Làm như chính tự con nên bây giờ phải đói. cũng đúng như thế
thật. Chồng chết từ khi mới lọt lòng ra. thắt lưng buộc bụng, nuôi từ tấm
tấm, ti tỉ giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu nhờ. Thế chưa cho mẹ
nhờ được một li, đã lăn cổ ra chết. Công thành công toi.
[...]
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi đã mười hai, cho đi làm con nuôi
người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng
dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. chạy xạc cả gấu
váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng
đâu! Ấy thế ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy
còn bắt ốm một trận thập tử nhất sinh. đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không
chết nhưng lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay đã bắt đầu run rẩy.
Người thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi đứng lên, hai mắt cũng hoa
ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn
bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió đã sợ.
[…] Hơn ba tháng, lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm.
Sau cùng thì một tấm cũng không nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, ra chợ xin
người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu ngày nào cũng cho như
vậy? Lòng thương cũng hạn. Mấy hôm nay nhịn đói. Bởi thế lại đem con ra
hờ. hờ thê thảm lắm. hờ suốt đêm. khóc đến gần mòn hết ra thành nước
mắt. Đến gần sáng, không còn sức khóc nữa. nằm ẹp bụng xuống chiếu,
nghĩ ngợi. người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. lẽ đúng như thế
thật. Bởi lão bỗng tìm ra một kế. ra đi.
Cứ đi được một quãng ngắn, lại phải ngồi xuống nghỉ. Nghỉ một lúc lâu, trống
ngực mới hết đánh, tai bớt lùng bùng, mắt bớt tối tăm, người tàm tạm thôi
quay quắt. nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, mới tới
nhà mình định tới: ấy nhà phó Thụ, nuôi cái đĩ. quen gọi như vậy, ngay từ
khi còn nhỏ; cái đĩ tức đứa con của anh con trai đã cướp công để về với
đất, yên thân mặc tất cả những còn lại. Anh con trai chẳng còn phải khổ sở
như ngày nay.
[...] phó chẳng nói nửa lời, lấy bát cơm ăn. Mặt vẫn hằm hằm. con gái,
con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, chửi cho phải
biết! khi hắt cả bát cơm vào mặt. lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng
cất bát cơm lên:
- Mời phó...
Nhưng vừa mới hả mồm ra thì phó đã cau mặt quát:
- Thôi, ăn đi! Đừng mời!
lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quả. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi,
mải mốt. Đôi đũa này lên lại đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp
tăm tắp. Tay lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập
cập quá, đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. phó lại cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho ấy!
Một vội làm ngay. Từ đấy, lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng mới ăn
chưa hết hai lượt cơm thì phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau,
mọi người khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như mẹ ra hiệu cho họ
vậy.
[…] Chỉ còn mình lão ngồi ăn với phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng
lão còn thấy đói. Còn cơm thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá
làm khách. cứ ăn như không biết gì.
Đến khi đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy chung
quanh nồi. vẫn tiếc. kéo cái nồi vào lòng, nhìn, bảo con cháu:
- Còn mấy hột để khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Khô mặc kệ nó! ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. không ăn vào đâu
được nữa. Ăn cho nứt bụng ra thì ăn làm gì?
phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì ăn nốt vậy! cạo cái nồi sồn sột. trộn
mắm.
rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì no. bỗng nhận ra rằng no quá. Bụng
tưng tức. nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. tựa lưng vào vách để thở cho
thoả thích. Mồ hôi toát ra đầm đìa. nhọc lắm. Ruột gan xộn xạo. muốn
lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật.
Đói cũng khổ no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì phần còn nhọc
hơn chưa ăn. Ôi chao!
Xế chiều hôm ấy, lão mới ra về được. bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì
tức bụng, không đi nổi. uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không
đã khát. chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, lăn lóc rất lâu không ngủ
được. vần cái bụng, quay vào lại quay ra. Bụng kêu ong óc như một cái lọ
nước. thẳng căng. thở ì ạch.
Vào khoảng nửa đêm, thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ thêm, cứ tăng dần. Chỉ
một lúc sau, đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi thổ. Rồi tả. Ôi
chao! Ăn thật thì không mửa. tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì lại
sinh chứng đi lị. Ruột đau quằn quặn. Ăn một cũng đau không chịu được.
Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi chết. phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết
no”. dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
đủ chết. Chúng mày cứ liệu ăn tộ vào! ...
(Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010)
*Chú thích:
Nhà văn Nam Cao tên thật Nguyễn Hữu Tri sinh ngày 20/10/1915, quê Nhân,
Nam. Ông một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) được xem
một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn người
đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn tiểu
thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo
bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư cho
một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã
cho ra đời rất nhiều tác phẩm giá trị cho đến ngày nay.
Tác phẩm “Một bữa no” được trích từ “Tuyển tập Nam Cao” của nhà xuất bản thời
đại, được sáng tác năm 1943. Nhớ lại thời điểm này, đây thời điểm trước cách
mạng, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, không ngừng chịu sự hoành hành của giặc
ngoại xâm ta còn phải chịu nạn giặc đói giặc dốt.
Câu 1: Chỉ ra nhân vật trung tâm trong truyện?
A. cụ.
B. Cái đĩ.
C. phó Thụ.
D. cụ, phó Thụ, cái đĩ.
Câu 2: Tình cảnh nào khiến cụ phải đi ăn chực?
A. cụ sống một mình không ai giúp đỡ.
B. cụ già yếu không sức để đi làm kiếm tiền.
C. cụ nghèo khổ không tiền để mua cái ăn.
D. cụ đã nhịn đói nhiều ngày.
Câu 3: mấy từ láy trong các câu văn sau: “Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay lão lờ rờ,
không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, đánh rơi cả
mắm ra ngoài bát”?
A. 1 từ láy.
B. 2 từ láy.
C. 3 từ láy.
D. 4 từ láy.
Câu 4: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?
A. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn được đặt vào nhân vật lão.
B. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn được đặt vào nhân vật lão.
C. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn sự kết hợp giữa người kể chuyện nhân vật
lão.
D. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn sự kết hợp giữa người kể chuyện nhân vật
lão.
Câu 5: Hai câu văn “Rồi thổ. Rồi tả” thuộc kiểu câu về cấu tạo ngữ pháp?
A. Câu ghép.
B. Câu đơn.
C. Câu đơn đặc biệt.
D. Điệp câu.
Câu 6 : Thái độ của phó Thụ trong tác phẩm với cụ thể hiện nhất điều gì?
A. Sự khó chịu, khinh thường cụ
B. Sự ích kỷ, tình của người giàu
C. Tình trạng thê thảm của người nông dân nghèo
D. Sự tiếc của, thù hằn của phó Thụ
Câu 7: Qua câu chuyện, Nam Cao phán ánh điều người nông dân?
A. Điều quan trọng nhất đối với người nông dân được ăn no.
B. Người nông dân nghèo nên không cần diện.
C. Người nông dân bị tha hóa, đánh mất diện do hoàn cảnh đói khổ.
D. Cuộc sống bế tắc của người nông dân, đói cũng chết, no cũng chết.
Câu 8: Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của phó Thụ cuối truyện?
Câu 9: Tác giả thể hiện tình cảm dành cho nhân vật cụ trong tác phẩm?
Câu 10: Theo em nhân vật lão trong truyện đáng thương hay đáng trách?
sao?
Đáp án
Phầ
n
u
Nội dung
I
ĐỌC HIỂU
1
A
2
D
3
C
4
C
5
C
6
C
7
C
8
- Câu nói của mỉa mai, đay đả coi thường người
nghèo.
- Qua đó cho thấy suy nghĩ của NC: xót thương, đau đớn cho
người nghèo khổ.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời tương đương như đáp án: 0.5 điểm.
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0
điểm.
* Lưu ý: Học sinh thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết
phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp chấp nhận được.
9
- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho cụ đói
khát trở nên khốn khổ.
- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho nỗi khổ của
người lao động trong hội cũ.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời tương đương như đáp án: 0.5 điểm.
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0
điểm.
* Lưu ý: Học sinh thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết
phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp chấp nhận được.
10
HS thể trả lời
- Đáng trách:
miếng ăn đánh mất đi tự trọng, diện.
- Đáng thương:
Cuộc đời khốn khổ, bị cái đói đẩy đến bước đường cùng;
chết đau đớn miếng ăn.
- Vừa đáng thương vừa đáng trách: kết hợp cả 2 cách giải
trên.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời 1 trong 3 hướng như đáp án, giải: 0.5
điểm.
- Học sinh chỉ nêu tình cảm, thái độ không giải: 0,25 điểm.
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0
điểm.
* Lưu ý: Học sinh thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết
phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp chấp nhận được.
Show more
Đọc hiểu Một bữa no - Nam Cao - đề 1
Đọc đoạn trích:
lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn lại
hờ con. Làm như chính tự con nên bây giờ phải đói. cũng đúng như thế
thật. Chồng chết từ khi mới lọt lòng ra. thắt lưng buộc bụng, nuôi từ tấm
tấm, giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu nhờ. Thế chưa cho mẹ
nhờ đưọc một li, đã lăn cổ ra chết. Công thành công toi. Con vợ không
phải giống người. biết thương mẹ già đâu!
Chồng chết vừa mới xong tang, đã vội vàng đi lấy chồng ngay, đem đứa con
gái lên năm giả lại bà. Thành thử đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm còm
cọm, làm nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó. Hết xương, hết thịt con, cháu,
nào được trông mong gì?
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi đã mười hai, cho đi làm con nuôi
người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng
dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. chạy xạc cả gấu
váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng
đâu! Ấy thế ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy
còn bắt ốm một trận thập tử nhất sinh. đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không
chết nhưng lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay đã bắt đầu run rẩy.
Người thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi đứng lên, hai mắt cũng hoa
ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn
bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió đã sợ.
(Trích Một bữa no, Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại,1943)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích? Ngôi kể
của văn bản?
Câu 2: Nhân vật chính trong văn bản ai?
Câu 3. Trong đoạn trích, hoàn cảnh của lão được miêu tả qua những chi tiết
nào?
Câu 4. Nêu tâm trạng của lão khi ông trời “còn bắt ốm một trận thập tử
nhất sinh” trong đoạn trích.
Câu 5. Anh/chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam
Cao.
Câu 6: Cảm nhận của em về lão trng văn bản.
Gợi ý
Câu 1:
Các phương thức biểu đạt sử dụng trong đoạn trích: tự sự, miêu tả & biểu cảm.
Ngôi kể thứ 3
Câu 2:
Nhân vật chính trong văn bản lão
Câu 3: Hoàn cảnh của lão được miêu tả qua những chi tiết:
Chồng chết khi con lọt lòng, thắt lưng buộc bụng nuôi con nhưng con chết
trước mình.
Phải nuôi đứa cháu của con trai mình với người vợ ơn một mình.
Không trông cậy được con cháu, một thân một mình già nua nuôi cháu gái.
Câu 4: Tâm trạng của lão khi ông trời “còn bắt ốm một trận thập tử nhất sinh”
trong đoạn trích:
"Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió đã sợ". Nỗi lo lắng,
sợ hãi cứ bủa vây trong tâm trí
Câu 5:
thể nói rằng nhà Văn Nam cao bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm nhân
vật. Nam Cao những phát hiện tinh tế, những miêu tả nhận xét xác đáng mặc
chỉ qua những chi tiết rất nhỏ. Ngòi bút của Nam Cao đã đi sâu vào những ngõ
ngách sâu kín của tâm hồn, của những diễn biến tâm phức tạp.
Câu 6:
thể thấy rằng trong tác phẩm "Một Bữa No", Nam Cao đã xây dựng nhân vật
người luôn gặp những vận rủi trong cuộc sống. Đó kiếp sống khốn khổ, đắm
chìm trong sự tăm tối. sớm góa bụa, một mình mái nuôi con nhưng niềm ni
vọng duy nhất ấy cũng sớm vụt tắt. Đứa con bấy lâu chăm lo cũng vội vàng
bỏ lại ra đi. Tưởng như sự đau khổ chỉ dừng tới thế nhưng dường như định
mệnh vẫn không buông tha cho bà. Cuộc sống của người đàn ấy khốn khổ
cùng. Qua đó ta thấy được sự xót xa, thương cảm của nhà văn Nam Cao chính
độc giả về kiếp người ấy.
Đọc hiểu Một bữa no - Nam Cao - đề 2
Đọc đoạn trích sau đây trả lời các câu hỏi:
“Hơn ba tháng, lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau
cùng thì một tấm cũng không nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, ra chợ xin người này
một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu ngày nào cũng cho như vậy? Lòng
thương cũng hạn. Mấy hôm nay nhịn đói. Bởi thế lại đem con ra hờ. hờ
thê thảm lắm. hờ suốt đêm. khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến
gần sáng, không còn sức khóc nữa. nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi.
người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. lẽ đúng như thế thật. Bởi
lão bỗng tìm ra một kế. ra đi...”
(Trích Một bữa no, Nam Cao, “Tuyển tập Nam Cao tập I”, NXB Văn học 1993)
Câu 1: (0.5 điểm) Phương thức biểu đạt chính của trích đoạn nêu trên gì?
Câu 2: (0.5 điểm) Nêu nội dung chính của đoạn trích?
| 1/29

Preview text:

Đọc hiểu Một bữa no có đáp án
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu: (Trắc nghiệm)
… Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hầm hầm. Lũ con gái,
con nuôi, con ở, biệt hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải
biết! Có khi bà hất cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên: - Mời bà phó…
Nhưng bà vừa mới há mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi,
mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp
tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập
cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn
chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau,
mọi nguời khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ
vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm thôi. Mà phải ăn nhanh để
còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, làm gì hiểu trong
những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy? Bà đoán rằng
họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng
chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà
cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi
thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt
vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:
- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.
Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:
- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
À! Bây giờ thì bà lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn
với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà
thôi ăn thì khí tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn
như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới
đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Không, mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào
đâu được nũa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn
mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng
bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở
cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà
muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ
thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn
nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì
bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không
đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ
được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ
nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng.
Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau
cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm
mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn
một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà
phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài
học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!… (Trích “Một bữa no” -1943 - Tuyển
tập truyện ngắn Nam Cao).
Nam Cao (1917 - 1951) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích? A. Tự sự B. Miêu tả C. Nghị luận D.Thuyết minh
Câu 2: Xác định thể loại của văn bản trên. A. Tiểu thuyết B. Kịch C. Truyện ngắn D. Truyền kì.
Câu 3: Xác định nhân vật chính trong văn bản. A. Cái đĩ B. Bà phó Thụ C. Bà lão D. Lũ con ở
Câu 4: Câu văn “Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm
còn lại như một con gà con nuốt nhái.”có sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? A. Ẩn dụ B.Hoán dụ C.Điệp từ D.So sánh
Câu 5: Qua đoạn trích, ta thấy hoàn cảnh sống của người nông dân lúc bấy giờ: A. Sung sướng
B. Đói khổ, khốn cùng. C. Nhàn nhã D. Đủ ăn
Câu 6: Nó không ăn vào đâu được nũa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì? Nó ở
đây là chỉ nhận vật nào? A. Cái đĩ B. Bà phó Thụ C. Bà lão D. Lũ con ở
Câu 7: Câu nói của sau của bà phó có hàm ý gì?
Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!
A. Khuyên lũ con ở nên ăn nhiều
B. Cảnh báo lũ con ở nếu ăn nhiều sẽ bị chết như bà lão
C.Thể hiện lòng thương xót bà lão
D.Vui mừng vì cái chết của bà lão.
Câu 8: Xác định ngôi kể trong đoạn trích? Ngôi kể thứ 3.
Câu 9: Qua các lời thoại sau, hãy nhận xét tính cách của bà phó Thụ?
- Không, mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu
được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…
Qua lời thoại trên ta thấy được bà phó Thụ là một con người lạnh lùng, keo kiệt,
hách dịch. Thông qua đó, tác giả cũng phản ánh sự tàn nhẫn, độc ác của giai cấp
địa chủ phong kiến Việt Nam.
Câu 10: Từ cái chết của bà lão, tác giả Nam Cao muốn nhắn gửi thông điệp gì?
Từ cái chết của nhân vật bà lão trong tác phẩm Một bữa no, tác giả thể hiện sự
đồng cảm, xót thương đối với số phận người nông dân Việt Nam trước CMT8. Qua
đó, lên án, tố cáo giai cấp thống trị đã dồn người nông dân vào bước đường cùng.
Đọc hiểu văn bản Một bữa no
Học sinh đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: MỘT BỮA NO
Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại
hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế
thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm
tấm, ti tỉ giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ
nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi. [...]
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi
người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà
dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu
váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng
gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy
còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không
chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy.
Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa
ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn
bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
[…] Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm.
Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin
người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như
vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra
hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước
mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu,
nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế
thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.
Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghỉ. Nghỉ một lúc lâu, trống
ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi
quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, bà mới tới
nhà mình định tới: ấy là nhà bà phó Thụ, nuôi cái đĩ. Bà quen gọi như vậy, ngay từ
khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của anh con trai đã cướp công bà để về với
đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại. Anh con trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay.
[...] Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hằm hằm. Lũ con gái,
con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải
biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên: - Mời bà phó...
Nhưng bà vừa mới hả mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quả. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi,
mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp
tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập
cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn
chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau,
mọi người khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy.
[…] Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng
bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá
gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì.
Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung
quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu
được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm.
Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà
tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho
thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn
lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật.
Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì
bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không
đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ
được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ
nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch.
Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ
một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi
chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại
sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được.
Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết
no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa
là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào! ...
(Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010) *Chú thích:
Nhà văn Nam Cao tên thật là Nguyễn Hữu Tri sinh ngày 20/10/1915, quê ở Lý Nhân,
Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng) và được xem
là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Nam Cao còn là người có
đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách viết truyện ngắn và tiểu
thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra trong một gia đình công giáo
bậc trung. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, làm thư ký cho
một hiệu may, dạy học, viết báo kiếm sống,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã
cho ra đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay.
Tác phẩm “Một bữa no” được trích từ “Tuyển tập Nam Cao” của nhà xuất bản thời
đại, được sáng tác năm 1943. Nhớ lại thời điểm này, đây là thời điểm trước cách
mạng, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, không ngừng chịu sự hoành hành của giặc
ngoại xâm ta còn phải chịu nạn giặc đói và giặc dốt.
Câu 1: Chỉ ra nhân vật trung tâm trong truyện? A. Bà cụ. B. Cái đĩ. C. Bà phó Thụ.
D. Bà cụ, bà phó Thụ, cái đĩ.
Câu 2: Tình cảnh nào khiến bà cụ phải đi ăn chực?
A. Bà cụ sống một mình không ai giúp đỡ.
B. Bà cụ già yếu không có sức để đi làm kiếm tiền.
C. Bà cụ nghèo khổ không có tiền để mua cái ăn.
D. Bà cụ đã nhịn đói nhiều ngày.
Câu 3: Có mấy từ láy trong các câu văn sau: “Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ,
không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”? A. 1 từ láy. B. 2 từ láy. C. 3 từ láy. D. 4 từ láy.
Câu 4: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?
A. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão.
B. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão.
C. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.
D. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.
Câu 5: Hai câu văn “Rồi bà thổ. Rồi bà tả” thuộc kiểu câu gì về cấu tạo ngữ pháp? A. Câu ghép. B. Câu đơn. C. Câu đơn đặc biệt. D. Điệp câu.
Câu 6 : Thái độ của bà phó Thụ trong tác phẩm với bà cụ thể hiện rõ nhất điều gì?
A. Sự khó chịu, khinh thường bà cụ
B. Sự ích kỷ, vô tình của người giàu
C. Tình trạng thê thảm của người nông dân nghèo
D. Sự tiếc của, thù hằn của bà phó Thụ
Câu 7: Qua câu chuyện, Nam Cao phán ánh điều gì ở người nông dân?
A. Điều quan trọng nhất đối với người nông dân là được ăn no.
B. Người nông dân nghèo nên không cần sĩ diện.
C. Người nông dân bị tha hóa, đánh mất sĩ diện do hoàn cảnh đói khổ.
D. Cuộc sống bế tắc của người nông dân, đói cũng chết, no cũng chết.
Câu 8: Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của bà phó Thụ ở cuối truyện?
Câu 9: Tác giả thể hiện tình cảm gì dành cho nhân vật bà cụ trong tác phẩm?
Câu 10: Theo em nhân vật bà lão trong truyện đáng thương hay đáng trách? Vì sao? Đáp án Phầ Nội dung n u I ĐỌC HIỂU 1 A 2 D 3 C 4 C 5 C 6 C 7 C 8
- Câu nói của bà mỉa mai, đay đả và coi thường người nghèo.
- Qua đó cho thấy suy nghĩ của NC: xót thương, đau đớn cho người nghèo khổ.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời tương đương như đáp án: 0.5 điểm.
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
* Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết
phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp lý là chấp nhận được. 9
- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho bà cụ vì đói
khát mà trở nên khốn khổ.
- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho nỗi khổ của
người lao động trong xã hội cũ.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời tương đương như đáp án: 0.5 điểm.
- Học sinh trả lời được 1 ý: 0,25 điểm
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
* Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết
phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp lý là chấp nhận được. 10 HS có thể trả lời - Đáng trách:
Vì miếng ăn mà đánh mất đi tự trọng, sĩ diện. - Đáng thương:
Cuộc đời khốn khổ, bị cái đói đẩy đến bước đường cùng;
chết đau đớn vì miếng ăn.
- Vừa đáng thương vừa đáng trách: kết hợp cả 2 cách lí giải trên.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời 1 trong 3 hướng như đáp án, có lý giải: 0.5 điểm.
- Học sinh chỉ nêu tình cảm, thái độ không lí giải: 0,25 điểm.
- Học sinh trả lời không thuyết phục hoặc không trả lời: 0,0 điểm.
* Lưu ý: Học sinh có thể trả lời khác đáp án nhưng thuyết
phục, diễn đạt nhiều cách miễn hợp lý là chấp nhận được. Show more
Đọc hiểu Một bữa no - Nam Cao - đề 1 Đọc đoạn trích:
Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại
hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế
thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm
tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ
nhờ đưọc một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi. Con vợ nó không
phải giống người. Nó có biết thương mẹ già đâu!
Chồng chết vừa mới xong tang, nó đã vội vàng đi lấy chồng ngay, nó đem đứa con
gái lên năm giả lại bà. Thành thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm còm
cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó. Hết xương, hết thịt vì con, vì cháu,
mà nào được trông mong gì?
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi
người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà
dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu
váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng
gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy
còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không
chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy.
Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa
ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn
bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
(Trích Một bữa no, Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại,1943)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích? Ngôi kể của văn bản?
Câu 2: Nhân vật chính trong văn bản là ai?
Câu 3. Trong đoạn trích, hoàn cảnh của bà lão được miêu tả qua những chi tiết nào?
Câu 4. Nêu tâm trạng của bà lão khi mà ông trời “còn bắt bà ốm một trận thập tử
nhất sinh” trong đoạn trích.
Câu 5. Anh/chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam Cao.
Câu 6: Cảm nhận của em về bà lão trng văn bản. Gợi ý Câu 1:
Các phương thức biểu đạt sử dụng trong đoạn trích: tự sự, miêu tả & biểu cảm. Ngôi kể thứ 3 Câu 2:
Nhân vật chính trong văn bản là bà lão
Câu 3: Hoàn cảnh của bà lão được miêu tả qua những chi tiết:
● Chồng chết khi con bà lọt lòng, thắt lưng buộc bụng nuôi con nhưng con chết trước mình.
● Phải nuôi đứa cháu của con trai mình với người vợ vô ơn một mình.
● Không trông cậy được gì con cháu, một thân một mình già nua nuôi cháu gái.
Câu 4: Tâm trạng của bà lão khi ông trời “còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh” trong đoạn trích:
"Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ". Nỗi lo lắng,
sợ hãi cứ bủa vây trong tâm trí bà Câu 5:
Có thể nói rằng nhà Văn Nam cao là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân
vật. Nam Cao có những phát hiện tinh tế, những miêu tả và nhận xét xác đáng mặc
dù chỉ qua những chi tiết rất nhỏ. Ngòi bút của Nam Cao đã đi sâu vào những ngõ
ngách sâu kín của tâm hồn, của những diễn biến tâm lí phức tạp. Câu 6:
Có thể thấy rằng trong tác phẩm "Một Bữa No", Nam Cao đã xây dựng nhân vật
người bà luôn gặp những vận rủi trong cuộc sống. Đó là kiếp sống khốn khổ, đắm
chìm trong sự tăm tối. Bà sớm góa bụa, một mình gà mái nuôi con nhưng niềm ni
vọng duy nhất ấy cũng sớm vụt tắt. Đứa con mà bấy lâu bà chăm lo cũng vội vàng
bỏ lại bà mà ra đi. Tưởng như sự đau khổ chỉ dừng tới thế nhưng dường như định
mệnh vẫn không buông tha cho bà. Cuộc sống của người đàn bà ấy khốn khổ vô
cùng. Qua đó ta thấy được sự xót xa, thương cảm của nhà văn Nam Cao và chính
độc giả về kiếp người ấy.
Đọc hiểu Một bữa no - Nam Cao - đề 2
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi:
“Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau
cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này
một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng
thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ
thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến
gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi.
Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì
bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi...”
(Trích Một bữa no, Nam Cao, “Tuyển tập Nam Cao tập I”, NXB Văn học 1993)
Câu 1: (0.5 điểm) Phương thức biểu đạt chính của trích đoạn nêu trên là gì?
Câu 2: (0.5 điểm) Nêu nội dung chính của đoạn trích?