-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là gì? Đối tượng điều chỉnh ngành luật
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật, sự điều chỉnh của pháp luật tác động tới. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là toàn bộ các quan hệ xã hội, được pháp luật điều chỉnh. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Tài liệu Tổng hợp 679 tài liệu
Tài liệu khác 747 tài liệu
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là gì? Đối tượng điều chỉnh ngành luật
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật, sự điều chỉnh của pháp luật tác động tới. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là toàn bộ các quan hệ xã hội, được pháp luật điều chỉnh. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tài liệu Tổng hợp 679 tài liệu
Trường: Tài liệu khác 747 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Tài liệu khác
Preview text:
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là gì? Đối tượng điều chỉnh ngành luật
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật, sự điều chỉnh của pháp luật
tác động tới. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là toàn bộ các quan hệ xã hội, được pháp luật điều chỉnh.
1. Khái niệm đối tượng điều chỉnh của pháp luật.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật, sự điều chỉnh của pháp luật tác động tới.
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật là toàn bộ các quan hệ xã hội, được pháp luật điều
chỉnh. Trong đời sống của một xã hội, giữa người và người tồn tại các quan hệ rất đa dạng, trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài pháp luật, các quan hệ xã hội còn được điều chỉnh bởi các quy tắc đạo
đức, tôn giáo, chính trị, phong tục, tập quán... Trong xã hội, tồn tại những quan hệ xã hội, mà xét từ lợi ích
của giai cấp cầm quyền, từ lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng... thì cần phải có sự điều chỉnh của
pháp luật, sự quản lí của Nhà nước. Đó là những quan hệ xã hội có tính cơ bản, quan trọng trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... và đều trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Có
những quan hệ xã hội đã được các quy tắc đạo đức, xã hội, tập quán, phong tục... điều chỉnh, nhưng do ý
nghĩa xã hội, tầm quan trọng của chúng vẫn được pháp luật điều chỉnh, như các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực hôn nhân gia đình, lao động...
Theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực, có cùng tính
chất, gần gũi nhau. Các quan hệ xã hội này trở thành đối tượng điều chỉnh của một ngành luật, một hay
nhiều văn bản luật như Bộ luật dân sự, Luật lao động, Luật hình sự, dân sự...
2. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp.
2.1 Khái niệm đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là những quan hệ xã hội quan trọng với việc xác định chế độ
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng, địa vị pháp lý của công dân
cũng như tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.2 Đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp gồm những gì ?
Luật Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh rộng liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội,
Điều mà các học giả đã khẳng định: "Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp không chỉ bó hẹp trong phạm
vi một loại quan hệ xã hội nhất định mà ngược lại nó điều trị nhiều loại quan hệ xã hội khác nhau trên tất cả
lĩnh vực hoạt động của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên phạm vi đối tượng điều
chỉnh của Luật Hiến pháp cũng có giới hạn“Phạm vi đó chị yếu chỉ giới hạn ở những quan hệ xã hội quan
trọng vẫn nhìn với việc xác định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chính sách đối ngoại và an ninh
quốc phòng, địa vị pháp lý của công dân cũng như tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hiến pháp không thể điều chỉnh những quan hệ xã hội cụ thể trong mọi lĩnh vực
mà chỉ quy định những vấn đề chung mang tính nguyên tắc, định hướng trong từng lĩnh vực, cụ thể:
- Trong lĩnh vực chính trị, hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan tới việc xác định chế độ
chính trị. Nội dung của chế độ chính trị bao gồm các vấn đề như chủ quyền quốc gia; bản chất. Nhà nước;
nguồn gốc quyền lực của Nhà nước; hình thức thực hiện quyền lực nhân dân; vai trò của đảng Cộng sản
Việt Nam đối với Nhà nước xã hội; vai trò của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của mặt trận;
mục đích nhiệm vụ của Nhà nước các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức. Nhà nước; chính sách dân tộc
của Nhà nước chính sách đối ngoại của Nhà nước.
- Trong lĩnh vực kinh tế, hiến pháp quy định mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước; chính sách phát
triển kinh tế; các loại hình chế độ sở hữu chính sách của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế; chính
sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước; các nguyên tắc Nhà nước quản lý kinh tế quốc dân.
- Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, hiến pháp quy định mục đích phát triển của nền văn hóa giáo dục, khoa
học công nghệ; chính sách của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển văn hóa giáo dục, khoa học và công
nghệ; chính sách xã hội của Nhà nước.
Nói tóm lại, từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng Luật Hiến pháp điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội sau:
– Thứ nhất, nhóm quan hệ xã hội gắn với việc xác định cơ sở của quyền lực nhân dân bao gồm chế độ
chính trị chế độ kinh tế văn hóa – xã hội.
– Thứ hai, nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân bao
gồm tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước quyền và nghĩa vụ của công dân.
3. Đối tượng điều chỉnh của luật Hành chính 3.1 Khái niệm
Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính là những quan hệ xã hội hầu hết phát sinh trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước với nội dung là chấp hành và điều hành:
– Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh các quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước.
– Các hoạt động quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự xã hội trên từng địa phương và từng ngành.
– Trực tiếp phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây phải được xác định là mục tiêu hàng
đầu của quản lý hành chính.
– Khen thưởng, trao danh hiệu cho các cá nhân tổ chức có đóng góp và đạt được những thành quả nhất
định trong lĩnh vực hành chính nhà nước hoặc trong các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật định; xử lý
các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trật tự quản lý hành chính nhà nước…..
3.2 Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính bao gồm những gì
* Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện hoạt động
quản lý hành chính NN trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá
trình các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý hành chính NN trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính Nhà nước cấp dưới theo hệ thống ngành dọc.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn cùng cấp.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn trung ương với cơ quan hành chính Nhà
nước có thẩm quyền chung ở cấp dưới trực tiếp, nhằm thực hiện chức năng quản lý.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực thuộc đóng tại địa phương đó.
+ Giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc.
+ Giữa cơ quan hành chính với các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
+ Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà với công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.
* Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình cơ quan Nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác
nội bộ của cơ quan, nhằm ổn định về tổ chức và hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của mình.
+ Công tác nội bộ: thành lập, sáp nhập, giải thể, chia tách cơ quan nhà nước, bổ nhiệm chức vụ, chức danh…
+ Công tác nhân sự: tổ chức thi tuyển, xếp ngạch công chức, luân chuyển, tuyển dụng, điều động, biệt phái, phân công công tác,..
* Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân và tổ chức được Nhà nước trao quyền thực
hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
+ Nhà nước trao quyền trong 2 trường hợp:
+ Không có cqnn hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động quản lý (người
chỉ huy máy bay, tàu biển khi nó đã rời khỏi sân bay, bến cảng có quyền tạm giữ người có hành vi gây cản
trở chuyến đi,… sau đó giao cho người có thẩm quyền giải quyết)
+ Khi NN thấy việc trao quyền này là cần thiết, đưa lại hiệu quả cao hơn (tiết kiệm tiền của, thời gian thuận
lợi cho các bên liên quan)
+ Cá nhân được trao quyền gồm:
+ Bất kỳ cá nhân nào khi ở trong hoàn cảnh được PL đã giả định trước
+ Là người có thẩm quyền trong cqNN, đơn vị tổ chức (không phải thẩm quyền quản lý hành chính) khi ở
trong những hoàn cảnh nhất định được nhà nước trao quyền quản lý hành chính. + Tổ chức xã hội:
+ Tổ chức tự quản: ban thanh tra nd, đội tự quản an ninh, trật tự…
+ Các tổ chức chính trị – xã hội: Công đoàn được trao quyền kiểm tra việc thực hiện pháp luật về lao động.
4. Đối tượng điều chỉnh của luật Dân sự
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta. Luật dân sự điều chỉnh hai nhóm quan hệ
cơ bản là: các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân.
Quan hệ tài sản: là những quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản dưới dạng tư liệu sản xuất,
tư liệu tiêu dùng hoặc dịch vụ nhằm tạo ra một tài sản nhất định. Quan hệ tài sản là hình thức biểu hiện
quan hệ kinh tế. Thông qua quan hệ tài sản quá trình phân phối, trao đổi, lưu thông các tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng và các thành quả khác được thực hiện. Trong đời sống xã hội quan hệ tài sản phát sinh rất
đa dạng và do nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật dân sự chỉ điều chỉnh quan hệ tài sản mang tính chất hàng
hoá tiền tệ với đặc trưng là giá trị tính được bằng tiền đền bù ngang giá. Nhưng cũng có một số quan hệ tài
sản không có tính chất đền bù ngang giá như thừa kế, cho, tặng.
Quan hệ nhân thân: là quan hệ giữa người với người không mang tính chất kinh tế, không được tính bằng
tiền, nó phát sinh từ một giá trị tinh thần (giá trị nhân thân) của một cá nhân hay một tổ chức và luôn gắn
liền với một chủ thể nhất định. Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự bao gồm các
quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản và các quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản. Quan hệ
nhân thân không liên quan đến tài sản là những quan hệ xã hội về những lợi ích tinh thần, tồn tại một cách
độc lập không liên quan gì đến tài sản và được quy định là các quyền nhân thân như quyền đối với họ tên,
danh dự, nhân phẩm. Những quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản là những quyền nhân thân có thể làm
phát sinh những quyền tài sản như là quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sáng tạo…
5. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật của ngành
luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm PLHS tác động tới là đối tượng điều chỉnh của
luật hình sự. Luật hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra và đó cũng chính là các quan hệ PLHS.
Vậy, Đối tượng điều chỉnh của luật hình sựlà những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người
phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Thời điểm bắt đầu xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự là thời
điểm người phạm tội bắt đầu thực hiện tội phạm và quan hệ pháp luật này chấm dứt khi người phạm tội
được xóa án tích. Trong cả quá trình này xuất hiện đồng thời quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, quan hệ
pháp luật dân sự… Tuy nhiên, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, đa số trường hợp bắt đầu xuất hiện khi có
quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can.