Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới | Tiểu luận môn Lịch sử Đảng Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc, đường lối đối ngoại của Đảng ta luôn được phát triển và hoàn thiện trong các giai đoạn cách mạng. Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986), Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
19 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới | Tiểu luận môn Lịch sử Đảng Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc, đường lối đối ngoại của Đảng ta luôn được phát triển và hoàn thiện trong các giai đoạn cách mạng. Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986), Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA CHÍNH TRỊ & LUẬT




MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
GVHD: Ths. Lê Quang Chung
SVTH MSSV
Ô Gia Bảo 23543001
Phan Anh Dũng 23543003
Nguyễn Trần Hiếu 23543005
Lớp Tối 2-4_VLVH
Mã lớp: LLCT220514_01
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2024
ĐIỂM SỐ
TIÊU CHÍ NỘI DUNG TRÌNH BÀY TỔNG
ĐIỂM
NHẬN XÉT
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Ký tên
Ths. Lê Quang Chung
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
THỨ
TỰ
HỌ TÊN NHIỆM VỤ KẾT QUẢ KÝ TÊN
1 Phan anh Dũng Nội dung chương 1 Hoàn thành tốt
2 Nguyễn Trần Hiếu Nội dung chương 2 Hoàn thành tốt
3 Ô Gia Bảo Nội dung chương 3 Hoàn thành tốt
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỐI NGOẠI TRONG XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC......................................................................................................3
1.1.Khái niệm về đối ngoại........................................................................................3
1.2.Vai trò của đối ngoại trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc......................................3
Chương 2. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI.............................................................................................6
2.1 Đường lối đối ngoại từ Đại hội VI đến Đại hội IX...............................................6
2.2 Đường lối đối ngoại từ Đại hội X đến Đại hội XIII.............................................8
Chương 3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT
ĐỘNG ĐỐI NGOẠI....................................................................................................11
3.1 Đánh giá kết quả thực hiện đường lối đối ngoại từ năm 1986 đến nay..............11
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại.......................................12
Nguồn Tham Khảo......................................................................................................14
MỞ ĐẦU
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- nin, tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc,
đường lối đối ngoại của Đảng ta luôn được phát triển và hoàn thiện trong các giai đoạn
cách mạng.
Phát huy mạnh mẽ duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986),
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, đa
phương hóa, đa dạng hóa, chủ độngtích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia-
dân tộc sợi chỉ đỏ xuyên suốt đối ngoại thời kỳ đổi mới được nhận thức ngày
càng sâu sắng.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì
Đảng không lợi ích gì khác", Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc lợi ích quốc gia- dân
tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (năm 2003)
lần đầu tiên u các thành tố bản của lợi ích quốc gia- dân tộc. Từ Đại hội XI
(năm 2011), Đảng khẳng định lợi ích quốc gia- dân tộc mục tiêu cao nhất của đối
ngoại, trong đó lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc thống nhất với nhau
trong lợi ích quốc gia- dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ bao trùm thường
xuyên là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi
cho công cuộc đổi mới bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước. Nhiệm vụ này
được nhận thức ngày càng sâu sắc qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nghị quyết 13 Bộ
Chính trị khóa VI (năm 1988) khởi đầu quá trình đổi mới duy đường lối đối
ngoại, đề ra nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tếxu thế quốc tế hóa để phát triển đất
nước. Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng khẳng định nhiệm vụ của đối ngoại gồm
ba thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước.
Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm,
phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới nhất quán
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; "là bạn, đối tác tin cậy thành viên trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế"; nắm vững hai mặt đối tác- đối tượng, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về
sách lược, "dĩ bất biến, ứng vạn biến"...chế thực hiện đối ngoại là phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước đối ngoại nhân dân dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước.
Với nhận thức Việt Nam một bộ phận của thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế
(Đại hội IX) được triển khai mạnh mẽ, sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác và hình
thành chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội XI). Chủ trương này
1
định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp của toàn dân
và cả hệ thống chính trị. Nhận thức về quan hệ giữa độc lập, tự chủ hội nhập quốc
tế ngày càng sâu sắc, trong đó nhất quán kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, nội lực là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.
Đối ngoại song phương và đa phương từng bước điều chỉnh, bổ sung hoàn
thiện. Từ "tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước
trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa" (Đại hội VI) đến hợp tác với tất cả các nước trên cơ
sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Từ tham gia các diễn đàn quốc tế đến "nỗ
lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa
phương có tầm quan trọng chiến lược”.
Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã góp phần rất quan
trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất
nước. Đến nay, nước ta quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên
Liên hợp quốc, trong đó 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước
ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển
hàng đầu (G7) 17 trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20)… Từ một nền kinh
tế kế hoạch tập trung khép kín, đến nay Việt Nam nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có liên kết kinh tế sâu rộng, đã và tham gia 17 hiệp định thương mại
tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới; kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương
khoảng 200% GDP, thu hút khoảng 400 tỷ USD vốn FDI đăng ký, v.v…
Việt Nam thành viên của hầu hết tổ chức quốc tế diễn đàn đa phương quan
trọng, đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn cũng như hoàn thành nhiều
trọng trách quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
(2008-2009 và 2020-2021), Hội nghị cấp cao ASEAN (1998, 2010 và 2020), Hội nghị
cấp cao ASEM (2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC (2006, 2017), Diễn đàn Kinh tế
giới về ASEAN (2018), Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ- Triều Tiên (2019), cử hàng
trăm lượt cán bộ, chiến sỹ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, v.v…
Những thành tựu đối ngoại nói trên kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân
toàn dân ta, điểm sáng trong thành tựu chung của đất nước như Nghị quyết Đại
hội XIII đã khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”, trong đó có đóng góp rất quan trọng của đối ngoại, bao gồm
đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.
2
`Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỐI NGOẠI TRONG XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
1.1.Khái niệm về đối ngoại
Đối ngoại là tổng thể các hoạt động và quan hệ của một nước vối bên ngoài.
Đối ngoại tổng hợp những hoạt ộng nhằm tạo ra những ảnh h ởng phảnđ ư
ánh quan iểm của cộng ồng công chúng trong n ớc ngoài n ớc trong quá trìnhđ đ ư ư
tạo lập thực hiện chính sách ối ngoại. ối ngoại tổng hợp bao hàm tất cả nhữngđ Đ
mối quan hệ ối ngoại, bao gồm cả những hoạt ộng ngoại giao truyền thốngđ đ
dụ nh các hoạt ộng tuyên truyền của chính phủ một n ớc tác ộng ư đ ư đ đến
thái ộ công chúng ở những quốc gia khác; sự ảnh h ởng lẫn nhau giữa những nhómđ ư
lợi ích của một quốc gia trong mối quan hệ tác ộng tới những quốc gia khác;đ
những thông tin của hoạt ộng ngoại giao và ảnh h ởng của những hoạt ộng này đ ư đ đến
quá trình xây dựng chính sách ối ngoại ối nội; mối quan hệ giữa những ngđ đ ười
làm truyền thông, báo chí tuyên truyền các n ớc với nhau, mối quan hệ giữa nhữngư
nhà ngoại giao những ng ời n ớc ngoài sinh sống tại n ớc sở tại, quá trình traoư ư ư
đổi văn hóa - truyền thống giữa các quốc gia.
1.2.Vai trò của đối ngoại trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Trong lịch sử dựng nước giữ nước, ông cha ta luôn lấy ngoại giao hòa hiếu
làm thượng sách giữ nước. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
xây dựng bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại đi đầu tạo thế "vừa đánh, vừa đàm", tranh thủ
ủng hộ quốc tế, phá bao vây cấm vận, mở ra cục diện phát triển mới cho đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, đối ngoại “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc
thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước". Như vậy, việc khẳng định vai trò tiên
phong của đối ngoại trong văn kiện Đại hội XIII bước phát triển mới về tư duy đối
ngoại của Đảng trên sở vận dụng sáng tạo tưởng giữ nước mang tính chủ động
cao của dân tộc, đúc kết thực tiễn phát triển hội nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với xu thế hòa bình, hợp tác phát triển
trên thế giới.
Trước hết, vai trò tiên phong thể hiện ở việc đối ngoại đánh giá, dự báo tình hình,
nhận diện thời thách thức để bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, nhanh nhạy phát
hiện các vấn đề mới, tham mưu chiến lược, thúc đẩy đổi mới duy, tìm hướng đi
thuận lợi cho phát triển đất nước. vậy, Đại hội XIII nhấn mạnh “tăng cường công
tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất
ngờ”. Nhiệm vụ này rất quan trọng, bởi chỉ có "biết mình", "biết người", "biết thời thế"
3
mới có thể tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển đất nước bảo vệ Tổ quốc trong
một thế giới vận động không ngừng, phức tạp và khó lường.
Hai là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị toàn dân, trong đó
có đối ngoại. Đặc thù của đối ngoại là sử dụng các phương thức, biện pháp hòa bình để
ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, qua đó góp
phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia.
Phát huy truyền thống giữ nước của ông cha ta "hòa trong nước thì ít phải
dùng binh, hòa ngoài biên thì không sợ báo động", Đại hội XIII khẳng định tiếp tục
đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng,
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các đối tác quan trọng bạn truyền thống,
“tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Việc thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp
củng cvững chắc cục diện đối ngoại ổn định, thuận lợi cho xây dựng bảo vệ Tổ
quốc.
Bên cạnh đó, đối ngoại cùng quốc phòng, an ninh giữ vững đường biên giới hòa
bình, hợp tác phát triển; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, tìm kiếm và phát huy điểm đồng
về lợi ích để thúc đẩy hợp tác, linh hoạt sáng tạo trong xử lý các tranh chấp trên
sở lợi ích quốc gia- dân tộc luật pháp quốc tế; trong đó, tiếp tục thúc đẩy giải quyết
các vấn đề trên biển trên sở luật pháp quốc tế, nhất Công ước Liên hợp quốc về
luật biển 1982.
Ba là, tiên phong huy động các nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Một
trong những lợi ích bản của nước ta hiện nay phấn đấu thực hiện mục tiêu phát
triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Do đó, phát triển đất nước
mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động đối ngoại, theo đó tất cả trụ cột, binh chủng đối
ngoại đều nỗ lực đóng góp vào thực hiện tầm nhìn mục tiêu phát triển đất nước,
trong đó ngoại giao kinh tế nòng cốt. Như vậy, cùng với duy tiên phong, duy
phát triển là điểm mới trong tư duy đối ngoại của Đảng tại Đại hội XIII.
Quán triệt “phát triển kinh tế-xã hội nhiệm vụ trung tâm”, đối ngoại tiếp tục
tranh thủ hiệu quả các yếu tố quốc tế thuận lợi, các FTA đã các cam kết, thỏa
thuận quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thu hút tri thức, công nghệđầuphục vụ
đổi mới hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp
phần tăng cường năng lực tự chủ của nền kinh tếsức mạnh tổng hợp quốc gia. Đối
ngoại cũng tranh thủ các mối quan hệ chính trị tốt đẹp để xử các vấn đề phức tạp
trong hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, vai trò tiên phong của đối
ngoại đã được phát huy và thể hiện rõ qua hoạt động “ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự
4
hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế thuốc điều trị, đóng
góp quan trọng vào phòng, chống, thích ứng an toàn với Covid-19 phục hồi, phát
triển kinh tế- xã hội.
Bốn là, tiên phong mở đường, đồng hành, phục vụ lợi ích của người dân, địa
phương doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế. Một điểm mới Chiến lược phát
triển kinh tế- hội 2021-2030 đề ra định hướng “xây dựng nền ngoại giao kinh tế
phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phươngdoanh nghiệp làm trung tâm”. Đây là
sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân là gốc” trong đối ngoại, bởi việc thực hiện các
nhiệm vụ đối ngoại xét đến cùng nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “việc gì có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, bám sát chủ trương, đường lối đối
ngoại và phát triển kinh tế- xã hội, đối ngoại kiến tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở
đường, đồng hành, hỗ trợ người dân, địa phương doanh nghiệp tranh thủ tối đa
hội, lợi ích giảm thiểu rủi ro, vượt qua thách thức của hội nhập quốc tế; đồng thời,
bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, người dân doanh nghiệp Việt Nam trong
hội nhập quốc tế.
Năm là, tiên phong nâng cao vị thế và uy tín đất nước thông qua phát huy vai trò
nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải, đảm nhận tốt các trọng trách quốc tế, đóng góp tích cực
trách nhiệm vào quan tâm chung của thế giới. Đại hội XIII xác định đẩy mạnh
nâng tầm đối ngoại đa phương, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa
phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các
khuôn khổ hợp tác cũng như trong những vấn đề quan trọng tầm chiến lược, phù
hợp với yêu cầu, khả năng điều kiện của đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân, ngoại giao
văn hóa, triển khai toàn diện và mạnh mẽ.
5
Chương 2. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI
2.1 Đường lối đối ngoại từ Đại hội VI đến Đại hội IX
Những diễn biến nhanh, mạnh của bối cảnh thế giới thập niên 1980, trong đó
phải kể đến những thỏa thuận của các cường quốc trong cuộc chạy đua trang cuối
thời kỳ Chiến tranh lạnh đã cho thấy một sự chuyển dịch lớn trong sắp xếp lực lượng
sắp diễn ra. Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu lâm vào khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế, kéo theo sự khủng hoảng trên các lĩnh vực chính trị, hội… đã khiến mâu
thuẫn trong hệ thống các nước XHCN ngày càng gia tăng, gây ra những bất trắc trong
quá trình tập hợp lực lượng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,nh hưởng
không nhỏ đến các nước nhỏ trong hệ thống. Bên cạnh đó, để chống lại sự lôi kéo từ
các nước lớn, nhiều phong trào, tổ chức khu vực… đã được thành lập hoặc điều chỉnh
cơ chế hoạt động trở thành diễn đàn đấu tranh của các nước vừa và nhỏ.
Đối với nước ta, những năm 80 thế kỷ XX, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức trên tất cả các lĩnh vực của đời sốnghội: về kinh tế, sản xuất đình
trệ, ngân sách thiếu hụt, lạm phát cao…; về chính trị chịu tác động lớn từ khủng hoảng
chính trị trong hệ thống các nước XHCN, bị lập chính trị do những hiểu lầm trong
vấn đề Campuchia; về đối ngoại gặp nhiều khó khăn do Mỹ phương Tây cấu kết
với nhau hình thành trận tuyến chống lại chúng ta.
Bối cảnh quốc tế trong nước nêutrên đặt ra những thách thức lớn đối với sự
phát triển mục tiêu CNXH của Việt Nam, đồng thời cũng tạo scho việc hình
thành tư duy đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam trước tình hình mới. Đại
hội VI của Đảng đã đặt nền móng cho quá trình đổi mới tư duy nói chung và trong lĩnh
vực đối ngoại nói riêng, tạo nên bước ngoặt quan trọng trong tư duy “mở rộng quan hệ
với các tổ chức quốc tế,mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng
tồn tại hòa bình”
Đại Hội Lần Thứ VI
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước. Với việc đổi mới tư duy lý luận, đối ngoại Việt Nam bước vào
một thời kỳ phát triển mới. Phương châm bản của đường lối đối ngoại được xác
định năm 1986 là đa dạng hoá các hoạt động đa phương hoá các quan hệ đối ngoại.
Trong Văn kiện năm 1986 ghi “…s dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ
thương mại, hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Vào tháng 5/1988, sau hai năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về nhiệm vụ chính sách
đối ngoại trong tình hình mới. Trong đó, lần đầu tiên cụm từ “đa dạng hóa quan hệ”
xuất hiện. Cụm từ này đã làm rõ nét hơn duy đối ngoại theo định hướng đa phương
và thể hiện bước phát triển trong nhận thức của Đảng.
Đại hội xác định: “Xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các
nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng với
công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta”. Từ 1990, Đảng và Nhà nước có những chủ
6
trương đổi mới về quan hệ ngoại giao: “Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo
phương châm thêm bạn, bớt thù, giữ vững hoà bình, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Với Trung Quốc, Hoa Kì: bình thường hoá quan hệ.
- Lào, Campuchia: đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả
(5/1988, Việt Nam rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở
Campuchia về nước)
- Khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương: từng bước xây dựng quan hệ hữu
nghị, hợp tác
- Châu Âu: thiết lập quan hệ ngoại giao.
Đại Hội Lần Thứ VII
Đại hội lần thứ XII của Đảng (tháng 6/1991) tiếp tục chủ trương mở rộng
quan hệ đối ngoại: “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân
biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên sở nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”.
Cũng tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng đưa ra phương châm “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu hòa bình, độc lập phát
triển”. Như vậy, từ Đại hội VI đến Đại hội VII đường lối đối ngoại của Việt Nam đã
sự chuyển biến lớn trong nhận thức. Từ chỗ mang đậm ý thức hệ, đường lối đối
ngoại của Việt nam đã chuyển sang rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế.
Đại Hội Lần Thứ VIII
Một trong sáu bài học chủ yếu qua 10 năm đổi mới được nêu ra ở đại hội là: Mở
rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại.
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra
sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng các nước trong tổ chức ASEAN;
không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với
các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước
đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt
động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền
đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những nhiệm vụ này phải được thực hiện theo
các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.
Trong đó, về lĩnh vực đối ngoại, Đại hội khẳng định lại chủ trương mở rộng
quan
hệ quốc tế: “Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” đặc biệt chú
trọng “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Ngoài ra, mở rộng quan hệ đối
ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát
triển.
7
Đại Hội Lần Thứ IX
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ
nghĩa” đã trình bày 10 vấn đề, trong đó, có mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đồng thời, phát triển quan
điểm mở rộng quan hệ đối ngoại của hai kỳ đại hội trước, Đại hội IX nêu rõ: “Việt
Nam sẵn sàng bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, khác biệt so với “Việt Nam muốn là bạn” ở hai
kỳ đại hội trước. Đây được xem bước phát triển về chất của quan hệ đối ngoại Việt
Nam.
Qua 10 năm 1991 - 2001 công tác nghiên cứu tưởng Hồ Chí Minh đã đạt
được những kết quả quan trọng, tuy vậy, việc tuyên truyền giáo dục tưởng Hồ Chí
Minh vẫn còn một số hạn chế yếu kém. Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết và chỉ
thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, ngoài ra,
còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động, học tập, đoàn tụ gia
đình, hình thành các cộng đồng người Việt nước ngoài. Đa số họ luôn nuôi dưỡng
tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc giữ gìn truyền thống văn hóa đất nước. Tuy
nhiên, người Việt ở một số nước còn nhiều khó khăn trong việc ổn định cuộc sống,
một số nơi còn bị kỳ thị. Một số người chưa có dịp về thăm đất nước, chưa thấy những
thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến, mặc cảm, thậm chí chống phá
đất nước.
Trong bối cảnh đó Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành nghị quyết số 36-NQ/TW
ngày 26/3/2004, chủ trương coi người Việt Nam nước ngoài bộ phận không tách
rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhân tố quan trọng để góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước trách
nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp để đồng bào ổn định
cuộc sống bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam nước
ngoài.
Sau đại hội IX tình hình thế giới diễn biến rất nhanh, phức tạp, sự nghiệp hội
nhập quốc tế và bảo vệ tổ quốc của nước ta đang đặt ra những vấn đề mới rất cấp thiết.
Hội nghị Trung Ương 8 khóa IX (7/2003), sau khi chỉ những thành tựu, khuyết
điểm, yếu kém của Đảng ta trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, dự báo tình hình
quốc tế, khu vực, đất nước. Sau đó đã có những chiến lược xác định, về đối ngoại: xây
dựng sức mạnh tổng hợp trong đó lĩnh vực đối ngoại, ra sức phát huy nội lực đồng
thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài, chủ động phòng ngừa
triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi. Những nhiệm
vụ bản về bảo vệ tổ quốc, về đối ngoại đó đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở
rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc
đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn
2.2 Đường lối đối ngoại từ Đại hội X đến Đại hội XIII
Đại Hội Lần Thứ X
8
Từ “sẵn sàng là bạn” của Đại hội IX, Đại hội lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006)
tiến thêm một bước khi khẳng định “Việt Nam bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực…
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững”.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chính
sách đối ngoại phục vụ hai mục tiêu "phát triển" "an ninh", trong đó mục tiêu phát
triển được đặt lên hàng đầuchỉđẩy mạnh phát triển kinh tế - hội mớiđiều
kiện vật chất để giữ vững an ninh, nâng cao vị thế quốc tế.Để phát triển thuận lợi thì
hoạt động đối ngoại phải góp phần mở rộng tối đa quan hệ quốc tế, tạo dựng mối quan
hệ đan xen với các nước các trung tâm trên thế giới, tạo dựng môi trường êm thấm
ở bên ngoài. Điểm mới của chính sách đối ngoại ở Đại hội X là đặt cao nhiệm vụ "chủ
động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", "hội nhập sâu hơn đầy đủ hơn với các
thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực song phương" nước ta đang đứng trên ngưỡng
cửa của shội nhập hoàn toànđầy đủ vào nền kinh tế thế giới với việc nỗ lực hoàn
tất thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Bên cạnh đó, vận dụng
bài học về sức mạnh tổng hợp, Đại hội lần thứ X đã nhấn mạnh yêu cầu phối hợp chặt
chẽ đối ngoại với quốc phòng an ninh. Sự phối hợp này cần được thể hiện không
chỉ về nhận thức, quan điểm trên tầm mô, không chỉ thông qua việc bảo đảm môi
trường quốc phòng, an ninh ổn định để phát triển mà còn cần được thể hiện trong từng
hoạt động cụ thể, địa bàn cụ thể, dự án cụ thể.
Đại Hội Lần Thứ XI
Sang đến Đại hội lần thứ XI (1/2011), mức đội hội nhập được nâng lên một tầm
cao mới. Việt Nam sẽ “chủ động tích cực hội nhập quốc tế; bạn, đối tác tin cậy
thành viên trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Hội nhập quốc tế giờ đây
được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực từ kinh tế cho tới chính trị, quốc phòng, an ninh và
văn hóa - xã hội.
Đại Hội Lần Thứ XII
Đại hội lần thứ XII (tháng 1/2016) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “đối ngoại đa
phương” và nêu rõ: “tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động tích cực đóng góp
xây dựng, định hình các thể chế đa phương”. Theo đó, công tác đối ngoại đa phương
cần phải chủ động, tích cực hơn trong việc tham gia vào các chế đa phương, đặc
biệt vào quá trình xây dựng định hình các quy tắc, luật lệ mới của các chế
này.
Đại hội trước hết nêu ra những vấn đề của quốc tế Việt Nam như (chọn 1 số
vấn đề trong này): kinh tế thế giới phục hồi chậm; khủng hoảng chính trị nhiều nơi,
nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu
vực; diễn biến phức tạp trên Biển Đông, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền
kinh tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản
những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân....
Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại,
chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều thuận lợi để phát
9
triển đất nước. Đảng ta xác định đây một trong những giải pháp quan trọng để phát
triển kinh tế - hội 5 năm 2016 2020; đồng thời sự thể hiện nhận thức, đánh giá
của Đảng ta về vai trò to lớn của công tác đối ngoại trong tình hình mới.
Nhìn lại kết quả thực hiện 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Trong 30 năm đổi mới,
nhất là trong 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội (1991), Đảng ta đã không ngừng mở rộng tăng cường quan hệ đa
dạng với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới, tích cực tham gia các diễn
đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế của các Đảng Cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả
các chính đảng châu Á. Từ chỗ chỉ quan hệ với các Đảng Cộng sản công
nhân, các đảng cánh tả theo khuynh hướng cách mạng, giải phóng dân tộc chủ yếu,
Đảng ta đã chủ động mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, các đảng tham chính.
Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan hệ các mức độ khác nhau với trên
200 đảng 115 nước khắp các châu lục; trong đó trên 100 Đảng Cộng sản công
nhân, hơn 40 đảng cầm quyền, gần 80 đảng đang tham gia Quốc hội - Nghị viện các
nước.
Đại Hội Lần Thứ XIII
Nếu như Đại hội XII nhấn mạnh Việt Nam sẽ một thành viên trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế thì Đại hội XIII (tháng 1/2021) bổ sung thêm Việt Nam
thành viên tích cực trong cộng đồng quốc tế: “Việt Nam bạn, đối tác tin cậy
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Đại hội XIII kế thừa những nhận định lớn của các kỳ đại hội Đảng trước đây,
nhất Đại hội XII, về các đặc điểm tính quy luật xu thế lâu dài của thế giới,
song cập nhật, điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Đại hội XIII khẳng định hòa
bình, hợp tác và phát triểnxu thế lớn, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến
triển, song nhấn mạnh các xu thế này đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn do “thế giới
đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự
báo”
Đại hội XIII khẳng định "bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc", tức là đặt
lợi ích quốc gia- dân tộc lên trước hết và trên hết; đồng thời, chỉ ra nguyên tắc chung là
phải luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất thể. Bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia- dân tộc không có nghĩa nước ta theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ.
Đại hội XIII nhấn mạnh thúc đẩy lợi ích quốc gia- dân tộc phải "trên sở các
nguyên tắc bản của Hiến chương Liên hợp quốc luật pháp quốc tế, bình đẳng,
hợp tác, cùng lợi", cùng phấn đấu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ
xã hội trên thế giới.
Để đối ngoại phát huy vai trò tiên phong hoàn thành tốt các định hướng,
nhiệm vụ được đề ra, Đại hội XIII đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn
diện, hiện đại với ba trụ cộtđối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân
dân”. Chủ trương mới này phản ánh sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đồng thời cũng là một yêu cầu mới vừa
mang tính chiến lược, lâu dài, vừa mang tính cấp thiết đối với đối ngoại ngành
ngoại giao trong bối cảnh mới.
Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển hoàn thiện đường
lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, kim chỉ nam cho triển khai đối ngoại
đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong thời gian tới.
10
Kết luận: Trải qua 93 năm từ năm 1930 đến nay, đường lối đối ngoại của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh thay đổi để phù hợp với thời cuộc. Điều
này không chỉ thể hiện sự nhạy bén sáng suốt của Đảng còn mang lại những
đóng góp hết sức to lớn cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước cũng
như quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
11
Chương 3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT
ĐỘNG ĐỐI NGOẠI.
3.1 Đánh giá kết quả thực hiện đường lối đối ngoại từ năm 1986 đến nay.
Có thể thấy, những sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới
được thể hiện rõ nét trên nhiều mặt như sau:
- Độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Tới giai đoạn
1996 – 2007 bổ sung, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á Châu Á
– Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp
tác. Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
- Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng các nước trong tổ
chức ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn truyền
thống.
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy
nhà nước.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp sản phẩm trong
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Giữ vững tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội
nhập.
Kết luận:
- Trước hết, Đảng ta chú trọng đổi mới việc nhận thức, đánh giá cục diện xu
thế phát triển của thế giới. Trước đây, khi phân tích tình hình thế giới, do tác
động của chiến tranh lạnh cuộc đối đầu Đông - Tây gay gắt, nên nhận thức
của ta thường biểu hiện mang tính một chiều. Bởi vậy chưa thấy hết những
chuyển động phức tạp trong cục diện thế giới, nhất là quan hệ giữa các nước lớn
và xu thế đi vào hòa hoãn giữa họ chưa lường hết được diễn biến bất
lợi đối với hệ thống hội chủ nghĩa(XHCN), nhất là từ cuối thập niên
70 trở đi. Đại hội VI đặt vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại trước sự phát triển
của xu thế hoà hoãn trên thế giới, xu thế quốc tế hoá và hợp tác kinh tế giữa các
nước chế độ hội khác nhau. Đại hội chỉ rõ, muốn kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, nước ta phải tham gia sphân công lao động quốc tế
trên nguyên tắc bình đẳng, cùng lợi. Đây một biểu hiện nhấttrong đổi
mới tư duy đối ngoại của Đảng trên sở vận dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, mở ra khả năng nhận thức đúng đắn
về mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc nghĩa vụ quốc tế, giữa an ninh phát
triển, giữa hợp tác đấu tranh nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
- Bước ngoặt mang tính đột phá sáng tạo đối với sự phát triển duy đối ngoại,
cũng như nhận thức cục diện thế giới xu thế thời đại, được mở ra từ Nghị
quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988), sau đó được Nghị quyết Trung ương 6
12
(khoá VI, 3/1989) nâng lên một tầm cao mới. Đảng xác định ưu tiên đối ngoại
hàng đầu của nước ta giữ vững hòa bình phát triển kinh tế, nhấn mạnh
chính sách “thêm bạn bớt thù”, đa phương hóa quan hệ quốc tế trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập chủ quyền cùng lợi, kiên quyết chủ động chuyển sang
đấu tranh hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình. Nghị quyết Trung ương 6
(khóa VI) còn vạch cần phải chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ
chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế,mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Bước đột phá về tư duy
đối ngoại nêu trên đã định hình những quan điểm bản trong đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng ta.
- Trong đổi mới duy về quan hệ quốc tế, điểm mấu chốt nhất Đảng ta ngày
càng nhận thức sự chuyển dịch lớn trong quan hệ quốc tế, nhất quan hệ
giữa các nước lớn, từ tình trạng đối đầu gay gắt về chính trị - quân sự, khu biệt
về kinh tế sang vừa đấu tranh, vừa hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình.
- Mặt khác, Đảng ta ngày càng chú trọng đổi mới nhận thức một số vấn đề cơ bản
về thời đại ngày nay. Trước những diễn biến vô cùng phức tạp của thế giới, đặc
biệt sau sự sụp đổ chế độ XHCN Đông Âu Liên Xô, vấn đề thời đại trở
thành một tiêu điểm nóng bỏng của cuộc đấu tranh tưởng - lý luận. Song, do
nỗ lực đổi mới duy luận, tổng kết thực tiễn trong nước thế giới,nên
nhận thức về thời đại của Đảng đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện, cách
tiếp cận sát hợp và rõ nét hơn.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại.
- Cần đổi mới nhận thức về hình con đường xây dựng CNXH, phải tích
cực đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo sức chiến đấu của mình, cần cảnh
giác và kiên quyết chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của CNĐQ và
thế lực thù địch.
- Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ
của nhân dân.
- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
- Phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng hội chủ nghĩa, vận hành theo chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Trong lĩnh vựctưởng văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin,tưởng Hồ Chí
Minh nền tảng trong đời sống tinh thần hội. Kế thừa phát huy những
truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Thực hiện chính sách đại đoàn kết n tộc, củng cố mở rộng Mặt trận n
tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu sự nghiệp dân giàu nước
13
mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác hữu nghị với tất cả
các nước.
- Xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam.
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tưởng tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ.
Kết luận: Công tác xây dựng Đảng rất quan trọng nên việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng
phải được chỉ đạo một cách kiên quyết, bước đi vững chắc làm từ Trung ương đến
sở, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới chế quản lý, tăng
cường hệ thống chính trị, cải cách bộ máy Nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua
phong trào cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.
14
Nguồn Tham Khảo
1. https://dangcongsan.vn/thoi-su/duong-loi-doi-ngoai-dai-hoi-dang-xiii-ke-thua-phat-
trien-va-hoan-thien-duong-loi-doi-ngoai-thoi-ky-doi-moi-598434.html
2. https://hcma3.hcma.vn/thong-tin-hoa-dong/Pages/cong-tac-dang.aspx?
CateID=0&ItemID=50533
3. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3667-qua-trinh-
doi-moi-tu-duy-doi-ngoai-da-phuong-cua-dang-tu-dai-hoi-vi-den-nay.html
4.
15
| 1/19

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA CHÍNH TRỊ & LUẬT 
MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
GVHD: Ths. Lê Quang Chung SVTH MSSV Ô Gia Bảo 23543001 Phan Anh Dũng 23543003 Nguyễn Trần Hiếu 23543005 Lớp Tối 2-4_VLVH
Mã lớp: LLCT220514_01
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2024 ĐIỂM SỐ TIÊU CHÍ NỘI DUNG TRÌNH BÀY TỔNG ĐIỂM NHẬN XÉT
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
......................................................................................................................................... Ký tên Ths. Lê Quang Chung
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THỨ HỌ TÊN NHIỆM VỤ KẾT QUẢ KÝ TÊN TỰ 1 Phan anh Dũng Nội dung chương 1 Hoàn thành tốt 2
Nguyễn Trần Hiếu Nội dung chương 2 Hoàn thành tốt 3 Ô Gia Bảo Nội dung chương 3 Hoàn thành tốt MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỐI NGOẠI TRONG XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC......................................................................................................3
1.1.Khái niệm về đối ngoại........................................................................................3
1.2.Vai trò của đối ngoại trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc......................................3
Chương 2. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI.............................................................................................6
2.1 Đường lối đối ngoại từ Đại hội VI đến Đại hội IX...............................................6
2.2 Đường lối đối ngoại từ Đại hội X đến Đại hội XIII.............................................8
Chương 3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT
ĐỘNG ĐỐI NGOẠI....................................................................................................11
3.1 Đánh giá kết quả thực hiện đường lối đối ngoại từ năm 1986 đến nay..............11
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại.......................................12
Nguồn Tham Khảo......................................................................................................14 MỞ ĐẦU
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và
phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc,
đường lối đối ngoại của Đảng ta luôn được phát triển và hoàn thiện trong các giai đoạn cách mạng.
Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986),
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa
phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia-
dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đối ngoại thời kỳ đổi mới và được nhận thức ngày càng sâu sắng.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì
Đảng không có lợi ích gì khác", Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc lợi ích quốc gia- dân
tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (năm 2003)
lần đầu tiên nêu rõ các thành tố cơ bản của lợi ích quốc gia- dân tộc. Từ Đại hội XI
(năm 2011), Đảng khẳng định lợi ích quốc gia- dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối
ngoại, trong đó lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc thống nhất với nhau
trong lợi ích quốc gia- dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ bao trùm và thường
xuyên là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi
cho công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước. Nhiệm vụ này
được nhận thức ngày càng sâu sắc qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nghị quyết 13 Bộ
Chính trị khóa VI (năm 1988) khởi đầu quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối
ngoại, đề ra nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tế và xu thế quốc tế hóa để phát triển đất
nước. Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ của đối ngoại gồm
ba thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước.
Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm,
phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là nhất quán
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; "là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế"; nắm vững hai mặt đối tác- đối tượng, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về
sách lược, "dĩ bất biến, ứng vạn biến"... Cơ chế thực hiện đối ngoại là phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước.
Với nhận thức Việt Nam là một bộ phận của thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế
(Đại hội IX) được triển khai mạnh mẽ, sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác và hình
thành chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội XI). Chủ trương này là 1
định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn dân
và cả hệ thống chính trị. Nhận thức về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế ngày càng sâu sắc, trong đó nhất quán kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, nội lực là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.
Đối ngoại song phương và đa phương từng bước điều chỉnh, bổ sung và hoàn
thiện. Từ "tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước
trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa" (Đại hội VI) đến hợp tác với tất cả các nước trên cơ
sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Từ tham gia các diễn đàn quốc tế đến "nỗ
lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa
phương có tầm quan trọng chiến lược”.
Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã góp phần rất quan
trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất
nước. Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên
Liên hợp quốc, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước
ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển
hàng đầu (G7) và 17 trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20)… Từ một nền kinh
tế kế hoạch tập trung và khép kín, đến nay Việt Nam là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có liên kết kinh tế sâu rộng, đã ký và tham gia 17 hiệp định thương mại
tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới; kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương
khoảng 200% GDP, thu hút khoảng 400 tỷ USD vốn FDI đăng ký, v.v…
Việt Nam là thành viên của hầu hết tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương quan
trọng, đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn cũng như hoàn thành nhiều
trọng trách quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
(2008-2009 và 2020-2021), Hội nghị cấp cao ASEAN (1998, 2010 và 2020), Hội nghị
cấp cao ASEM (2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC (2006, 2017), Diễn đàn Kinh tế
giới về ASEAN (2018), Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ- Triều Tiên (2019), cử hàng
trăm lượt cán bộ, chiến sỹ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, v.v…
Những thành tựu đối ngoại nói trên là kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân ta, là điểm sáng trong thành tựu chung của đất nước như Nghị quyết Đại
hội XIII đã khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”, trong đó có đóng góp rất quan trọng của đối ngoại, bao gồm
đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. 2
`Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỐI NGOẠI TRONG XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
1.1.Khái niệm về đối ngoại
Đối ngoại là tổng thể các hoạt động và quan hệ của một nước vối bên ngoài.
Đối ngoại là tổng hợp những hoạt động nhằm tạo ra những ảnh hưởng và phản
ánh quan điểm của cộng đồng công chúng trong nước và ngoài nước trong quá trình
tạo lập và thực hiện chính sách đối ngoại. Đối ngoại tổng hợp bao hàm tất cả những
mối quan hệ đối ngoại, bao gồm cả những hoạt động ngoại giao truyền thống
Ví dụ như các hoạt động tuyên truyền của chính phủ một nước tác động đến
thái độ công chúng ở những quốc gia khác; sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa những nhóm
lợi ích của một quốc gia trong mối quan hệ và tác động tới những quốc gia khác;
những thông tin của hoạt động ngoại giao và ảnh hưởng của những hoạt động này đến
quá trình xây dựng chính sách đối ngoại và đối nội; mối quan hệ giữa những người
làm truyền thông, báo chí tuyên truyền ở các nước với nhau, mối quan hệ giữa những
nhà ngoại giao và những người nước ngoài sinh sống tại nước sở tại, quá trình trao
đổi văn hóa - truyền thống giữa các quốc gia.
1.2.Vai trò của đối ngoại trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn lấy ngoại giao hòa hiếu
làm thượng sách giữ nước. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại đi đầu tạo thế "vừa đánh, vừa đàm", tranh thủ
ủng hộ quốc tế, phá bao vây cấm vận, mở ra cục diện phát triển mới cho đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, đối ngoại “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc
và thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước". Như vậy, việc khẳng định vai trò tiên
phong của đối ngoại trong văn kiện Đại hội XIII là bước phát triển mới về tư duy đối
ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng giữ nước mang tính chủ động
cao của dân tộc, đúc kết thực tiễn phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Trước hết, vai trò tiên phong thể hiện ở việc đối ngoại đánh giá, dự báo tình hình,
nhận diện thời cơ và thách thức để bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, nhanh nhạy phát
hiện các vấn đề mới, tham mưu chiến lược, thúc đẩy đổi mới tư duy, tìm hướng đi
thuận lợi cho phát triển đất nước. Vì vậy, Đại hội XIII nhấn mạnh “tăng cường công
tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất
ngờ”. Nhiệm vụ này rất quan trọng, bởi chỉ có "biết mình", "biết người", "biết thời thế" 3
mới có thể tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong
một thế giới vận động không ngừng, phức tạp và khó lường.
Hai là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước
và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó
có đối ngoại. Đặc thù của đối ngoại là sử dụng các phương thức, biện pháp hòa bình để
ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, qua đó góp
phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia.
Phát huy truyền thống giữ nước của ông cha ta là "hòa ở trong nước thì ít phải
dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo động", Đại hội XIII khẳng định tiếp tục
đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng,
đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống,
“tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Việc thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp
củng cố vững chắc cục diện đối ngoại ổn định, thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, đối ngoại cùng quốc phòng, an ninh giữ vững đường biên giới hòa
bình, hợp tác và phát triển; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, tìm kiếm và phát huy điểm đồng
về lợi ích để thúc đẩy hợp tác, linh hoạt và sáng tạo trong xử lý các tranh chấp trên cơ
sở lợi ích quốc gia- dân tộc và luật pháp quốc tế; trong đó, tiếp tục thúc đẩy giải quyết
các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982.
Ba là, tiên phong huy động các nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Một
trong những lợi ích cơ bản của nước ta hiện nay là phấn đấu thực hiện mục tiêu phát
triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Do đó, phát triển đất nước là
mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động đối ngoại, theo đó tất cả trụ cột, binh chủng đối
ngoại đều nỗ lực đóng góp vào thực hiện tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước,
trong đó ngoại giao kinh tế là nòng cốt. Như vậy, cùng với tư duy tiên phong, tư duy
phát triển là điểm mới trong tư duy đối ngoại của Đảng tại Đại hội XIII.
Quán triệt “phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm”, đối ngoại tiếp tục
tranh thủ hiệu quả các yếu tố quốc tế thuận lợi, các FTA đã ký và các cam kết, thỏa
thuận quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thu hút tri thức, công nghệ và đầu tư phục vụ
đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp
phần tăng cường năng lực tự chủ của nền kinh tế và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đối
ngoại cũng tranh thủ các mối quan hệ chính trị tốt đẹp để xử lý các vấn đề phức tạp
trong hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, vai trò tiên phong của đối
ngoại đã được phát huy và thể hiện rõ qua hoạt động “ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự 4
hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng
góp quan trọng vào phòng, chống, thích ứng an toàn với Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội.
Bốn là, tiên phong mở đường, đồng hành, phục vụ lợi ích của người dân, địa
phương và doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế. Một điểm mới là Chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội 2021-2030 đề ra định hướng “xây dựng nền ngoại giao kinh tế
phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm”. Đây là
sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân là gốc” trong đối ngoại, bởi việc thực hiện các
nhiệm vụ đối ngoại xét đến cùng là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “việc gì có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, bám sát chủ trương, đường lối đối
ngoại và phát triển kinh tế- xã hội, đối ngoại kiến tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở
đường, đồng hành, hỗ trợ người dân, địa phương và doanh nghiệp tranh thủ tối đa cơ
hội, lợi ích và giảm thiểu rủi ro, vượt qua thách thức của hội nhập quốc tế; đồng thời,
bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Năm là, tiên phong nâng cao vị thế và uy tín đất nước thông qua phát huy vai trò
nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải, đảm nhận tốt các trọng trách quốc tế, đóng góp tích cực và
có trách nhiệm vào quan tâm chung của thế giới. Đại hội XIII xác định đẩy mạnh và
nâng tầm đối ngoại đa phương, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa
phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các
khuôn khổ hợp tác cũng như trong những vấn đề quan trọng có tầm chiến lược, phù
hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện của đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân, ngoại giao
văn hóa, triển khai toàn diện và mạnh mẽ. 5
Chương 2. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI
2.1 Đường lối đối ngoại từ Đại hội VI đến Đại hội IX
Những diễn biến nhanh, mạnh của bối cảnh thế giới thập niên 1980, trong đó
phải kể đến những thỏa thuận của các cường quốc trong cuộc chạy đua vũ trang cuối
thời kỳ Chiến tranh lạnh đã cho thấy một sự chuyển dịch lớn trong sắp xếp lực lượng
sắp diễn ra. Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu lâm vào khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế, kéo theo sự khủng hoảng trên các lĩnh vực chính trị, xã hội… đã khiến mâu
thuẫn trong hệ thống các nước XHCN ngày càng gia tăng, gây ra những bất trắc trong
quá trình tập hợp lực lượng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ảnh hưởng
không nhỏ đến các nước nhỏ trong hệ thống. Bên cạnh đó, để chống lại sự lôi kéo từ
các nước lớn, nhiều phong trào, tổ chức khu vực… đã được thành lập hoặc điều chỉnh
cơ chế hoạt động trở thành diễn đàn đấu tranh của các nước vừa và nhỏ.
Đối với nước ta, những năm 80 thế kỷ XX, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: về kinh tế, sản xuất đình
trệ, ngân sách thiếu hụt, lạm phát cao…; về chính trị chịu tác động lớn từ khủng hoảng
chính trị trong hệ thống các nước XHCN, bị cô lập chính trị do những hiểu lầm trong
vấn đề Campuchia; về đối ngoại gặp nhiều khó khăn do Mỹ và phương Tây cấu kết
với nhau hình thành trận tuyến chống lại chúng ta.
Bối cảnh quốc tế và trong nước nêutrên đặt ra những thách thức lớn đối với sự
phát triển và mục tiêu CNXH của Việt Nam, đồng thời cũng tạo cơ sở cho việc hình
thành tư duy đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam trước tình hình mới. Đại
hội VI của Đảng đã đặt nền móng cho quá trình đổi mới tư duy nói chung và trong lĩnh
vực đối ngoại nói riêng, tạo nên bước ngoặt quan trọng trong tư duy “mở rộng quan hệ
với các tổ chức quốc tế, … mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”
Đại Hội Lần Thứ VI
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước. Với việc đổi mới tư duy lý luận, đối ngoại Việt Nam bước vào
một thời kỳ phát triển mới. Phương châm cơ bản của đường lối đối ngoại được xác
định năm 1986 là đa dạng hoá các hoạt động và đa phương hoá các quan hệ đối ngoại.
Trong Văn kiện năm 1986 ghi rõ “…sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ
thương mại, hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Vào tháng 5/1988, sau hai năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới. Trong đó, lần đầu tiên cụm từ “đa dạng hóa quan hệ”
xuất hiện. Cụm từ này đã làm rõ nét hơn tư duy đối ngoại theo định hướng đa phương
và thể hiện bước phát triển trong nhận thức của Đảng.
Đại hội xác định: “Xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các
nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng với
công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta”. Từ 1990, Đảng và Nhà nước có những chủ 6
trương đổi mới về quan hệ ngoại giao: “Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo
phương châm thêm bạn, bớt thù, giữ vững hoà bình, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Với Trung Quốc, Hoa Kì: bình thường hoá quan hệ.
- Lào, Campuchia: đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả
(5/1988, Việt Nam rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở Campuchia về nước)
- Khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương: từng bước xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác
- Châu Âu: thiết lập quan hệ ngoại giao.
Đại Hội Lần Thứ VII
Ở Đại hội lần thứ XII của Đảng (tháng 6/1991) tiếp tục chủ trương mở rộng
quan hệ đối ngoại: “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân
biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”.
Cũng tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng đưa ra phương châm “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”
. Như vậy, từ Đại hội VI đến Đại hội VII đường lối đối ngoại của Việt Nam đã
có sự chuyển biến lớn trong nhận thức. Từ chỗ mang đậm ý thức hệ, đường lối đối
ngoại của Việt nam đã chuyển sang rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Đại Hội Lần Thứ VIII
Một trong sáu bài học chủ yếu qua 10 năm đổi mới được nêu ra ở đại hội là: Mở
rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại.
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra
sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN;
không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với
các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước
đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt
động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền
đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những nhiệm vụ này phải được thực hiện theo
các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu.
Trong đó, về lĩnh vực đối ngoại, Đại hội khẳng định lại chủ trương mở rộng quan
hệ quốc tế: “Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” và đặc biệt chú
trọng “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Ngoài ra, mở rộng quan hệ đối
ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng
hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển. 7
Đại Hội Lần Thứ IX
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” đã trình bày 10 vấn đề, trong đó, có mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Đồng thời, phát triển quan
điểm mở rộng quan hệ đối ngoại của hai kỳ đại hội trước, Đại hội IX nêu rõ: “Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, khác biệt so với “Việt Nam muốn là bạn” ở hai
kỳ đại hội trước. Đây được xem là bước phát triển về chất của quan hệ đối ngoại Việt Nam.
Qua 10 năm 1991 - 2001 công tác nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt
được những kết quả quan trọng, tuy vậy, việc tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn còn một số hạn chế yếu kém. Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết và chỉ
thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, ngoài ra,
còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động, học tập, đoàn tụ gia
đình, hình thành các cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Đa số họ luôn nuôi dưỡng
tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc và giữ gìn truyền thống văn hóa đất nước. Tuy
nhiên, người Việt ở một số nước còn nhiều khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, ở
một số nơi còn bị kỳ thị. Một số người chưa có dịp về thăm đất nước, chưa thấy những
thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến, mặc cảm, thậm chí chống phá đất nước.
Trong bối cảnh đó Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành nghị quyết số 36-NQ/TW
ngày 26/3/2004, chủ trương coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách
rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng để góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà nước có trách
nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định
cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Sau đại hội IX tình hình thế giới diễn biến rất nhanh, phức tạp, sự nghiệp hội
nhập quốc tế và bảo vệ tổ quốc của nước ta đang đặt ra những vấn đề mới rất cấp thiết.
Hội nghị Trung Ương 8 khóa IX (7/2003), sau khi chỉ rõ những thành tựu, khuyết
điểm, yếu kém của Đảng ta trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, dự báo tình hình
quốc tế, khu vực, đất nước. Sau đó đã có những chiến lược xác định, về đối ngoại: xây
dựng sức mạnh tổng hợp trong đó có lĩnh vực đối ngoại, ra sức phát huy nội lực đồng
thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài, chủ động phòng ngừa và
triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi. Những nhiệm
vụ cơ bản về bảo vệ tổ quốc, về đối ngoại đó là đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở
rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc
đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn
2.2 Đường lối đối ngoại từ Đại hội X đến Đại hội XIII
Đại Hội Lần Thứ X 8
Từ “sẵn sàng là bạn” của Đại hội IX, Đại hội lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006)
tiến thêm một bước khi khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực…
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững”
.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chính
sách đối ngoại phục vụ hai mục tiêu "phát triển" và "an ninh", trong đó mục tiêu phát
triển được đặt lên hàng đầu vì chỉ có đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội mới có điều
kiện vật chất để giữ vững an ninh, nâng cao vị thế quốc tế.Để phát triển thuận lợi thì
hoạt động đối ngoại phải góp phần mở rộng tối đa quan hệ quốc tế, tạo dựng mối quan
hệ đan xen với các nước và các trung tâm trên thế giới, tạo dựng môi trường êm thấm
ở bên ngoài. Điểm mới của chính sách đối ngoại ở Đại hội X là đặt cao nhiệm vụ "chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", "hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các
thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương" vì nước ta đang đứng trên ngưỡng
cửa của sự hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới với việc nỗ lực hoàn
tất thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Bên cạnh đó, vận dụng
bài học về sức mạnh tổng hợp, Đại hội lần thứ X đã nhấn mạnh yêu cầu phối hợp chặt
chẽ đối ngoại với quốc phòng và an ninh. Sự phối hợp này cần được thể hiện không
chỉ về nhận thức, quan điểm trên tầm vĩ mô, không chỉ thông qua việc bảo đảm môi
trường quốc phòng, an ninh ổn định để phát triển mà còn cần được thể hiện trong từng
hoạt động cụ thể, địa bàn cụ thể, dự án cụ thể.
Đại Hội Lần Thứ XI
Sang đến Đại hội lần thứ XI (1/2011), mức đội hội nhập được nâng lên một tầm
cao mới. Việt Nam sẽ “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”
. Hội nhập quốc tế giờ đây
được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực từ kinh tế cho tới chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội.
Đại Hội Lần Thứ XII
Đại hội lần thứ XII (tháng 1/2016) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “đối ngoại đa
phương” và nêu rõ: “tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp
xây dựng, định hình các thể chế đa phương”
. Theo đó, công tác đối ngoại đa phương
cần phải chủ động, tích cực hơn trong việc tham gia vào các cơ chế đa phương, đặc
biệt là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, luật lệ mới của các cơ chế này.
Đại hội trước hết nêu ra những vấn đề của quốc tế và Việt Nam như (chọn 1 số
vấn đề trong này): kinh tế thế giới phục hồi chậm; khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi,
nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu
vực; diễn biến phức tạp trên Biển Đông, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền
kinh tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và
những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân....
Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại,
chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều thuận lợi để phát 9
triển đất nước. Đảng ta xác định đây là một trong những giải pháp quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020; đồng thời là sự thể hiện nhận thức, đánh giá
của Đảng ta về vai trò to lớn của công tác đối ngoại trong tình hình mới.
Nhìn lại kết quả thực hiện 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Trong 30 năm đổi mới,
nhất là trong 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã không ngừng mở rộng và tăng cường quan hệ đa
dạng với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới, tích cực tham gia các diễn
đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế của các Đảng Cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả
và các chính đảng ở châu Á. Từ chỗ chỉ có quan hệ với các Đảng Cộng sản và công
nhân, các đảng cánh tả theo khuynh hướng cách mạng, giải phóng dân tộc là chủ yếu,
Đảng ta đã chủ động mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, các đảng tham chính.
Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên
200 đảng ở 115 nước khắp các châu lục; trong đó có trên 100 Đảng Cộng sản và công
nhân, hơn 40 đảng cầm quyền, gần 80 đảng đang tham gia Quốc hội - Nghị viện các nước.
Đại Hội Lần Thứ XIII
Nếu như Đại hội XII nhấn mạnh Việt Nam sẽ là một thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế thì Đại hội XIII (tháng 1/2021) bổ sung thêm Việt Nam là
thành viên tích cực trong cộng đồng quốc tế: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Đại hội XIII kế thừa những nhận định lớn của các kỳ đại hội Đảng trước đây,
nhất là Đại hội XII, về các đặc điểm có tính quy luật và xu thế lâu dài của thế giới,
song cập nhật, điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Đại hội XIII khẳng định hòa
bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến
triển, song nhấn mạnh các xu thế này đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn do “thế giới
đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”
Đại hội XIII khẳng định "bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc", tức là đặt
lợi ích quốc gia- dân tộc lên trước hết và trên hết; đồng thời, chỉ ra nguyên tắc chung là
phải luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể. Bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia- dân tộc không có nghĩa nước ta theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ.
Đại hội XIII nhấn mạnh thúc đẩy lợi ích quốc gia- dân tộc phải "trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng,
hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Để đối ngoại phát huy vai trò tiên phong và hoàn thành tốt các định hướng,
nhiệm vụ được đề ra, Đại hội XIII đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn
diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân
dân”. Chủ trương mới này phản ánh sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đồng thời cũng là một yêu cầu mới vừa
mang tính chiến lược, lâu dài, vừa mang tính cấp thiết đối với đối ngoại và ngành
ngoại giao trong bối cảnh mới.
Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường
lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, là kim chỉ nam cho triển khai đối ngoại
đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong thời gian tới. 10
Kết luận: Trải qua 93 năm từ năm 1930 đến nay, đường lối đối ngoại của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh và thay đổi để phù hợp với thời cuộc. Điều
này không chỉ thể hiện sự nhạy bén và sáng suốt của Đảng mà còn mang lại những
đóng góp hết sức to lớn cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước cũng
như quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 11
Chương 3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI.
3.1 Đánh giá kết quả thực hiện đường lối đối ngoại từ năm 1986 đến nay.
Có thể thấy, những sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới
được thể hiện rõ nét trên nhiều mặt như sau:
- Độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Tới giai đoạn
1996 – 2007 bổ sung, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và Châu Á
– Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp
tác. Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
- Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ
chức ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống.
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập. Kết luận:
- Trước hết, Đảng ta chú trọng đổi mới việc nhận thức, đánh giá cục diện và xu
thế phát triển của thế giới. Trước đây, khi phân tích tình hình thế giới, do tác
động của chiến tranh lạnh và cuộc đối đầu Đông - Tây gay gắt, nên nhận thức
của ta thường có biểu hiện mang tính một chiều. Bởi vậy chưa thấy hết những
chuyển động phức tạp trong cục diện thế giới, nhất là quan hệ giữa các nước lớn
và xu thế đi vào hòa hoãn giữa họ chưa lường hết được diễn biến bất
lợi đối với hệ thống xã hội chủ nghĩa(XHCN), nhất là từ cuối thập niên
70 trở đi. Đại hội VI đặt vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại trước sự phát triển
của xu thế hoà hoãn trên thế giới, xu thế quốc tế hoá và hợp tác kinh tế giữa các
nước có chế độ xã hội khác nhau. Đại hội chỉ rõ, muốn kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế
trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Đây là một biểu hiện rõ nhấttrong đổi
mới tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, mở ra khả năng nhận thức đúng đắn
về mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, giữa an ninh và phát
triển, giữa hợp tác và đấu tranh nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
- Bước ngoặt mang tính đột phá sáng tạo đối với sự phát triển tư duy đối ngoại,
cũng như nhận thức cục diện thế giới và xu thế thời đại, được mở ra từ Nghị
quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988), sau đó được Nghị quyết Trung ương 6 12
(khoá VI, 3/1989) nâng lên một tầm cao mới. Đảng xác định ưu tiên đối ngoại
hàng đầu của nước ta là giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế, nhấn mạnh
chính sách “thêm bạn bớt thù”, đa phương hóa quan hệ quốc tế trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập chủ quyền cùng có lợi, kiên quyết và chủ động chuyển sang
đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình. Nghị quyết Trung ương 6
(khóa VI) còn vạch rõ cần phải chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ
chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế,mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Bước đột phá về tư duy
đối ngoại nêu trên đã định hình những quan điểm cơ bản trong đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng ta.
- Trong đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế, điểm mấu chốt nhất là Đảng ta ngày
càng nhận thức rõ sự chuyển dịch lớn trong quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ
giữa các nước lớn, từ tình trạng đối đầu gay gắt về chính trị - quân sự, khu biệt
về kinh tế sang vừa đấu tranh, vừa hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình.
- Mặt khác, Đảng ta ngày càng chú trọng đổi mới nhận thức một số vấn đề cơ bản
về thời đại ngày nay. Trước những diễn biến vô cùng phức tạp của thế giới, đặc
biệt sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, vấn đề thời đại trở
thành một tiêu điểm nóng bỏng của cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận. Song, do
nỗ lực đổi mới tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới,nên
nhận thức về thời đại của Đảng đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện, cách
tiếp cận sát hợp và rõ nét hơn.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại.
- Cần đổi mới nhận thức về mô hình và con đường xây dựng CNXH, phải tích
cực đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, cần cảnh
giác và kiên quyết chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của CNĐQ và thế lực thù địch.
- Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân.
- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
- Phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước 13
mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ.
Kết luận: Công tác xây dựng Đảng rất quan trọng nên việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng
phải được chỉ đạo một cách kiên quyết, có bước đi vững chắc làm từ Trung ương đến
cơ sở, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng
cường hệ thống chính trị, cải cách bộ máy Nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua
phong trào cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng. 14 Nguồn Tham Khảo
1. https://dangcongsan.vn/thoi-su/duong-loi-doi-ngoai-dai-hoi-dang-xiii-ke-thua-phat-
trien-va-hoan-thien-duong-loi-doi-ngoai-thoi-ky-doi-moi-598434.html
2. https://hcma3.hcma.vn/thong-tin-hoa-dong/Pages/cong-tac-dang.aspx? CateID=0&ItemID=50533
3. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3667-qua-trinh-
doi-moi-tu-duy-doi-ngoai-da-phuong-cua-dang-tu-dai-hoi-vi-den-nay.html 4. 15