Gia đình là gì? Phân tích các chức năng cơ bản của gia đình
1. Khái niệm gia đình
Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt (hoặc đặc biệt cùng chung
sống). Gia đình phạm trù biến đổi mang tính lịch sử phản ánh văn hóa của dân tọc thời
đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội.
Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh
hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và
mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật hôn
nhân và gia đình.
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân gia đình
(Điều 8. Giải thích từ ngữ ): “Gia đình tập hợp những người gắn với nhau theo hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ quyền giữa họ
với nhau theo qui định của Luật này”.
2. Nguồn gốc hình thành của gia đình
Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có
những ảnh hưởng những tác động mạnh mẽ đến hội.
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn
tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia đình.
Song để đưa ra được một ch xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu
hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia
đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa hội của đời sống gia đình
con người.
Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự
tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia
đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh
tế, khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào.
Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều thể đưa ra
một khái niệm gia đình cthể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp chỉ như vậy mới
có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình
như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế hội vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình xã hội hóa con người.
Gia đình một thiết chế hội đặc thù, một nhóm hội nhỏ các thành viên của gắn
với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng
về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên
cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người .
3. Những hình thái gia đình phổ biến
Xét về quy mô, gia đình có thể phân loại thành:
- Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và con.
- Gia đình ba thế h(hay gia đình truyền thống): gia đình bao gồm ông bà, cha mẹ con còn
được gọi là tam đại đồng đường.
- Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn thế hệ còn gọi là tứ đại
đồng đường.
Dưới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũngthể phân chia gia đình
thành hai loại:
- Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi gia đình truyền thống
liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống
chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó còn
có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ.
Dạng cổ điển của gia đình lớn gia đình trưởng lớn, đặc tính tổ chức chặt chẽ. liên kết ít
nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự
theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình thường người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình.
Ngày nay, gia đình lớn thường gồm cặp vợ chồng, con cái của họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia
đình này, quyền hành không ở trong tay của người lớn tuổi nhất.
- Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) nhóm người thể hiện mối quan hệ
của chồng vợ với các con, hay cũng mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng
với các con. Do vậy, cũng có thể có gia đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ.
Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia đình chứa trong đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con);
ngược lại, gia đình nhỏ không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó,
nghĩa trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc chỉ của người cha
hoặc người mẹ với các con.
Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của
tương lai và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển. Ở các nước đang
phát triển, tỉ lệ sinh cao làm dân số tăng cao, chính phủ thực hiện các chính sách để người dân
giảm số con trong gia đình.
4. Chức năng của gia đình
Gia đình đóng vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài người. Gia
đình được sinh ra, tồn tại phát triển sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt
hội tự nhiên đã giao cho, không thiết chế hội nào có thể thay thế được. Chức năng của gia
đình một khái niệm then chốt của xã hội học gia đình, c nhà nghiên cứu hội học gia đình
trên cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô đều khẳng định những chức năng cơ bản của gia đình.
Gia đình các chức ng cơ bản: Chức năng sinh đẻ; Chức năng giáo dục; Chức năng kinh tế.
Bên cạnh các chức năng cơ bản đó, gia đình còn phải thực hiện chức năng quan tâm và chăm sóc
người cao tuổi.
4.1. Chức năng kinh tế
Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất, là chức năng đảm
bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước
mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng
này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình
nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.
Để kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện nâng cao, ngoài những thành viên đang
còn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở độ tuổi lao động cần có một công việc, một mức
thu nhập ổn định. Ngoài ra còn cần nguồn thu nhập thêm để thêm nguồn thu chi trả cho
những chi phí lặt vặt hàng ngày.
4.2. Chức năng tái sinh sản, duy trì nòi giống
Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động nguồn nhân cho hội. Chức năng y sẽ góp
phần thay thế những lớp người lao động đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh
hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người.
mỗi quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau.
4.3. Chức năng giáo dục
Đây chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách của con người, dạy
dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công dân ích cho xã hội bởi gia đình
trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:”
Cha mẹ nghĩa vụ quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có
ích cho xã hội.. ”
Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội Gia đình là môi trường xã
hội hóa đầu tiên của con người chủ thể của sự giáo dục. Như khoa học đã xác định ràng,
cơ sở trí tuệ và nh cảm cá nhân thường hình thành ngay từ thời thơ ấu. Gia đình trang bị cho đứa
trẻ những ý niệm đầu tiên để giải thế giới sự vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện
cái ác, dạy cho trẻ con hiểu đời sống con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị
mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó.
Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần phong
tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm
chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri
thức…
Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố khách quan chủ quan.
Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội, những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa, thông
tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh nghiệm, ý thức dạy con trong những gia đình trẻ… đó là những yếu
tố ảnh hưởng đến chức năng giáo dục của gia đình.
Để chức năng này được thực hiện một cách hiệu quả thì gia đình phải có phương pháp giáo dục,
răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai sửa chữa chứ đừng cái tôi, cái diện và tính
bảo thủ của mình mà cố chấp không thay đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận
đòn roi, những cái bạt tai đến tối mặt mũi.. Liệu đó phải biện pháp hiệu quả? Những biện
pháp ấy chẳng những không đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì, tâm lí tiêu
cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong cùng một mái nhà.
Thay bằng những trận đòn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo con i
mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu. Hơn nữa những bậc cha mẹ, ông bà nên là
một tâm gương để thế hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống thuận hòa, vui vẻ, cùng
nhau chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống.
Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà không biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần
nên không có thời gian quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám
dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống
đạo đức của dân tộc…
Tuy việc giáo dục gia đình chỉ một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ trở nên
hoàn thiện hơn khi sự kết hợp giáo dục cả gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa ý thức
tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi người…
Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu nối không thể thay
thế được giũa xã hội và cá nhân.
Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã
hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình tưởng với chức năng hội
của nó.
4.4. Các chức năng khác
Ngoài ba chức năng bản trên thì gia đình còn chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tình
cảm chăm sóc sức khỏe. Đây là chức năng ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu
thương gắn bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia
đình vừađiểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng
thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng v
cuối đời, con người càng trở nên thấm thía khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân
bằng trạng thái tâm , tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe,
đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.
5. Gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình truyền thống được coi đại gia đình các thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi
quan hệ huyết thống, thể cùng chung sống từ 3 thế hệ trở lên: ông ba- cha mẹ- con cái người
ta quen gọi là "tam, tứ, ngũ đại đồng đường". Đây là kiểu gia đình khá phổ biến và tập trung nhiều
nhất ở nông thôn, cơ sở phát sinh và tồn tại của nó xuất phát từ nền kinh tế tiểu nông.
Về ưu điểm của gia đình truyền thống: sự gắn cao về tình cảm theo huyết thống, bảo tồn,
lưu giữ được c truyền thống văn hoá, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo.
Các thành viên trong gia đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người
già và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hoá gia đình mà chúng ta cần
kế thừa phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại hình gia đình này trong khi giữ gìn các
truyền thống tốt đẹp cũng tồn tại những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Ngoài ra, sự khác biệt
về tâm lý, tuổi tác, lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa
các thế hệ: giữa ông - các cháu; giữa mẹ chồng- nàng dâu... Bên cạnh việc duy trì được tinh thần
cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Gia đình đơn hay còn gọi gia đình hạt nhân đang trở nên phổ biến các độ thị cả nông
thôn, thay cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo. Gia đình Việt Nam ngày nay
phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái mà họ sinh ra.
Xu hướng hạt nhân hoá gia đình Việt Nam đang chiều hướng gia tăng nhiều ưu điểm
lợi thế của nó.

Preview text:

Gia đình là gì? Phân tích các chức năng cơ bản của gia đình
1. Khái niệm gia đình
Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột thịt (hoặc đặc biệt cùng chung
sống). Gia đình là phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tọc và thời
đại. Gia đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội.
Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), là hình thức tổ chức xã hội quan trọng nhất của sinh
hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và
mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân và gia đình
(Điều 8. Giải thích từ ngữ ): “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau theo hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ
với nhau theo qui định của Luật này”.
2. Nguồn gốc hình thành của gia đình
Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn
tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia đình.
Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu
xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia
đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người.
Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự
tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh
tế, khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào.
Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra
một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới
có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình
như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình xã hội hóa con người.
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó
với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng
về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên
cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người .
3. Những hình thái gia đình phổ biến
Xét về quy mô, gia đình có thể phân loại thành:
- Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và con.
- Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống): là gia đình bao gồm ông bà, cha mẹ và con còn
được gọi là tam đại đồng đường.
- Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn thế hệ còn gọi là tứ đại đồng đường.
Dưới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũng có thể phân chia gia đình thành hai loại:
- Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi là gia đình truyền thống
liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống
chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó còn
có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ.
Dạng cổ điển của gia đình lớn là gia đình trưởng lớn, có đặc tính tổ chức chặt chẽ. Nó liên kết ít
nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự
theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình.
Ngày nay, gia đình lớn thường gồm cặp vợ chồng, con cái của họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia
đình này, quyền hành không ở trong tay của người lớn tuổi nhất.
- Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người thể hiện mối quan hệ
của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng
với các con. Do vậy, cũng có thể có gia đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ.
Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia đình chứa trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con);
ngược lại, gia đình nhỏ không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó,
nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc chỉ của người cha
hoặc người mẹ với các con.
Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của
tương lai và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển. Ở các nước đang
phát triển, vì tỉ lệ sinh cao làm dân số tăng cao, chính phủ thực hiện các chính sách để người dân
giảm số con trong gia đình.
4. Chức năng của gia đình
Gia đình đóng vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài người. Gia
đình được sinh ra, tồn tại và phát triển có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã
hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Chức năng của gia
đình là một khái niệm then chốt của xã hội học gia đình, các nhà nghiên cứu xã hội học gia đình
trên cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô đều khẳng định những chức năng cơ bản của gia đình.
Gia đình có các chức năng cơ bản: Chức năng sinh đẻ; Chức năng giáo dục; Chức năng kinh tế.
Bên cạnh các chức năng cơ bản đó, gia đình còn phải thực hiện chức năng quan tâm và chăm sóc người cao tuổi.
4.1. Chức năng kinh tế
Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật chất, là chức năng đảm
bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước
mạnh như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh “. Chức năng
này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong gia đình
nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.
Để có kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện và nâng cao, ngoài những thành viên đang
còn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở độ tuổi lao động cần có một công việc, một mức
thu nhập ổn định. Ngoài ra còn cần có nguồn thu nhập thêm để có thêm nguồn thu chi trả cho
những chi phí lặt vặt hàng ngày.
4.2. Chức năng tái sinh sản, duy trì nòi giống
Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Chức năng này sẽ góp
phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh
hoạt, năng động, sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của xã hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở
mỗi quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau.
4.3. Chức năng giáo dục
Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách của con người, dạy
dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là
trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:”
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển
lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.. ”
Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội Gia đình là môi trường xã
hội hóa đầu tiên của con người và là chủ thể của sự giáo dục. Như khoa học đã xác định rõ ràng,
cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường hình thành ngay từ thời thơ ấu. Gia đình trang bị cho đứa
trẻ những ý niệm đầu tiên để lí giải thế giới sự vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện và
cái ác, dạy cho trẻ con hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị
mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó.
Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần phong mĩ
tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm
chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…
Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố khách quan và chủ quan.
Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội, những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa, thông
tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh nghiệm, ý thức dạy con trong những gia đình trẻ… đó là những yếu
tố ảnh hưởng đến chức năng giáo dục của gia đình.
Để chức năng này được thực hiện một cách có hiệu quả thì gia đình phải có phương pháp giáo dục,
răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa chứ đừng vì cái tôi, cái sĩ diện và tính
bảo thủ của mình mà cố chấp không thay đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận
đòn roi, những cái bạt tai đến tối mặt mũi.. Liệu đó có phải là biện pháp hiệu quả? Những biện
pháp ấy chẳng những không đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì, tâm lí tiêu
cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong cùng một mái nhà.
Thay bằng những trận đòn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo con cái
mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu. Hơn nữa những bậc cha mẹ, ông bà nên là
một tâm gương để thế hệ trẻ noi theo. Các thành viên trong gia đình sống thuận hòa, vui vẻ, cùng
nhau chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống.
Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà không biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần
nên không có thời gian quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám
dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống
đạo đức của dân tộc…
Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ trở nên
hoàn thiện hơn khi có sự kết hợp giáo dục cả ở gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý thức
tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi người…
Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành cầu nối không thể thay
thế được giũa xã hội và cá nhân.
Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã
hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình lí tưởng với chức năng xã hội của nó.
4.4. Các chức năng khác
Ngoài ba chức năng cơ bản trên thì gia đình còn có chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tình
cảm và chăm sóc sức khỏe. Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu
thương gắn bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Tổ ấm gia
đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng
thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng về
cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân
bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe,
đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.
5. Gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình truyền thống được coi là đại gia đình mà các thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi
quan hệ huyết thống, có thể cùng chung sống từ 3 thế hệ trở lên: ông ba- cha mẹ- con cái mà người
ta quen gọi là "tam, tứ, ngũ đại đồng đường". Đây là kiểu gia đình khá phổ biến và tập trung nhiều
nhất ở nông thôn, cơ sở phát sinh và tồn tại của nó xuất phát từ nền kinh tế tiểu nông.
Về ưu điểm của gia đình truyền thống: có sự gắn bó cao về tình cảm theo huyết thống, bảo tồn,
lưu giữ được các truyền thống văn hoá, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo.
Các thành viên trong gia đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người
già và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hoá gia đình mà chúng ta cần
kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại hình gia đình này là trong khi giữ gìn các
truyền thống tốt đẹp cũng tồn tại những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Ngoài ra, sự khác biệt
về tâm lý, tuổi tác, lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa
các thế hệ: giữa ông bà- các cháu; giữa mẹ chồng- nàng dâu... Bên cạnh việc duy trì được tinh thần
cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên phổ biến ở các độ thị và cả ở nông
thôn, thay cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo. Gia đình Việt Nam ngày nay
phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái mà họ sinh ra.
Xu hướng hạt nhân hoá gia đình ở Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và lợi thế của nó.