Giải SGK Lịch sử 8 bài 5: Quá trình khai phá vùng đất phía Nam của người Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII | Chân trời sáng tạo

Giải Lịch sử 8 Chân trời sáng tạo bài 5: Quá trình khai phá vùng đất phía Nam của người Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII được sưu tầm và tổng hợp với lời giải chi tiết, rõ ràng theo khung chương trình sách giáo khoa

Mở đầu trang 29 bài 5 Lịch Sử 8: Vào cuối thế kỉ XV đạo Quảng Nam
được thành lập, tên gọi “Quảng Nam nghĩa “phía nam rộng lớn”.
Đúng như tên gọi, vùng đất này đã trở thành nơi an cư và tạo tiềm lực cho
người Việt tiếp tục xuôi nam, khai phá những vùng đất mới, sở thực
thi chủ quyền đối với vùng lãnh thổ và lãnh hải phía Nam Đại Việt. Vậy,
quá trình đó đã diễn ra như thế nào từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII?
Trả lời:
- Quá trình khai phá vùng đất phía Nam (thế kỉ XVI - XVIII)
+ Năm 1558, Nguyễn Hoàng được clàm trấn thủ Thuận Hoá. Tới m
1570, ông kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam.
+ Năm 1597, Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tổ chức đưa dân vào
đất Phú yên ngày nay để khai hoang, lập ấp. Năm 1611, phủ Phú yên được
thành lập.
+ Từ cuối thế kỉ XVI, người Việt tiếp tục di cư về phía nam, tới Mô Xoài
(Bà Rịa - Vũng Tàu), Bến Nghé, Sài Gòn,… khai hoang mở đất.
+ Năm 1693, phần đất của Chiêm Thành (Ninh Thuận, Bình Thuận) sáp
nhập thành một trấn của Đàng Trong.
+ Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt Phủ Gia Định.
+ Giữa thế kỉ XVIII, tại ng đất phương Nam đã xuất hiện thêm nhiều
thôn ấp mới.
- Quá trình thực thi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa:
+ Chúa Nguyễn Đàng Trong chính quyền đầu tiên đã xác định được
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. Việc thực
thi chủ quyền được thực hiện một cách chặt chẽ thông qua hoạt động
thường xuyên của hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải.
+ Quá trình thực thi chủ quyền được chính quyền chúa Nguyễn thực hiện
một cách liên tục suốt từ thế kỉ XVII và được tiếp nối với nhà Tây Sơn và
nhà Nguyễn.
1. Khái quát quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến
thế kỉ XVIII
Câu hỏi trang 29 Lịch Sử 8: Dựa vào thông tin trong bài và lược đồ 5.2,
em hãy cho biết quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến
thế kỉ XVIII đã diễn ra như thế nào?
Trả lời:
- Quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:
+ Năm 1558, Nguyễn Hoàng được clàm trấn thủ Thuận Hoá. Tới m
1570, ông kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam. Chtrong một thời gian ngắn
Thuận Hóa, Quảng Nam đã trở thành một vùng đất yên bình, kinh tế phát
triển, dân cư đông đúc.
+ Năm 1597, Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tổ chức đưa dân từ
Tuy Viễn (nay thuộc Bình Định) vào đất Phú yên ngày nay để khai hoang,
lập ấp. Năm 1611, phủ Phú yên được thành lập.
+ Từ cuối thế kỉ XVI, người Việt tiếp tục di cư về phía nam, tới Mô Xoài
(Bà Rịa - Vũng Tàu), Bến Nghé, Sài Gòn,… khai hoang mở đất.
+ Năm 1693, phần đất của Chiêm Thành (Ninh Thuận, Bình Thuận) sáp
nhập thành một trấn của Đàng Trong.
+ Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt Phủ Gia Định.
Vùng đất Mỹ Tho, Hà Tiên cũng được sáp nhập vào phủ này sau đó.
+ Đến giữa thế kỉ XVIII, tại vùng đất phương Nam đã xuất hiện thêm
nhiều thôn ấp mới, nhiều trung tâm giao thương phát triển như: ng Nại
Đại Phố, Gia Định, Bến Nghé, Hà Tiên,…
2. Quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa quần
đảo Trường Sa của các chúa Nguyễn ý nghĩa lịch sử
Câu hỏi trang 31 Lịch Sử 8: Dựa o thông tin trong bài và liệu 5.3,
em hãy tả quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa,
quần đảo Trường Sa thời chúa Nguyễn.
Trả lời:
- Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được ghi nhận trong các b
chính sử của Việt Nam với những tên gọi khác nhau, như: Bãi Cát Vàng,
Cồn Vàng, Vạn Lý Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, Đại Trường Sa,...
- Theo ghi chú bản đồ trong bộ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi).
- Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho lập hải đội Hoàng Sa (sau này lập thêm
đội Bắc Hải) để thực hiện các nhiệm vụ:
+ Khai thác sản vật trên các đảo, quần đảo.
+ Bảo vệ, canh giữ các đảo ở Biển Đông
+ Thu gom những hàng hóa của các tàu nước ngoài bị đắm khu vực
quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa về nộp cho triều đình.
- Chúa Nguyễn Đàng Trong chính quyền đầu tiên đã xác định được
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. Quá trình
thực thi chủ quyền được chính quyền chúa Nguyễn thực hiện một cách
liên tục suốt từ thế kỉ XVII được tiếp nối với nhà Tây Sơn nhà
Nguyễn.
Câu hỏi trang 31 Lịch Sử 8: Việc chúa Nguyễn thực thi chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa có ý nghĩa như thế nào?
Trả lời:
- Chúa Nguyễn Đàng Trong chính quyền đầu tiên đã xác định được
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. Việc thực
thi chủ quyền được thực hiện một cách chặt chẽ thông qua hoạt động
thường xuyên của hải đội Hoàng Sa.
- Quá trình thực thi chủ quyền được chính quyền chúa Nguyễn thực hiện
một cách liên tục suốt từ thế kỉ XVII và được tiếp nối với nhà Tây Sơn và
nhà Nguyễn.
- Nhờ những hoạt động kiểm soát khai thác, chiếm giữ của hai đội
Hoàng Sa, quần đảo Hoàng Sa Trường Sa không chđược ghi nhận
trong bản đồ trên thực tế đã một vùng biển đảo không thể tách rời
với đời sống của cư dân ven biển miền Trung Việt Nam từ thế kỉ XVII.
=> Các hoạt động thực thi chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa Trường
Sa của chính quyền chúa Nguyễn đã tạosở lịch sử vững chắc cho hoạt
động đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam hiện nay.
3. Luyện tập - Vận dụng
Luyện tập 1 trang 32 Lịch Sử 8: Hoàn thành bảng thống các vùng đất
được khai phá của Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII với các thông
tin dưới đây:
Mốc thời gian
Năm 1597
Năm 1611
Năm 1693
Năm 1698
Năm 1757
Vùng đất
được
khai phá
?
?
?
?
?
Trả lời:
Vùng đất được khai phá
Dân ở vùng Tuy Viễn (nay thuộc Bình Định) vào đất Phú yên
ngày nay để khai hoang, lập ấp
Phủ Phú Yên
Ninh Thuận và Bình Thuận.
Phủ Gia Định (Đồng Nai, Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương,
Bình Phước; thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh),
Mỹ Tho, Hà Tiên.
Sóc Trăng, Bạc Liêu
Vận dụng 2 trang 32 Lịch Sử 8: Nội dung bài học quá trình khai phá
vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII được phản ánh như thế
nào trong câu ca dao sau:
“Người đi dao rựa dắt lưng,
Ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng cao”
Trả lời:
- Vào khoảng đầu thế kỉ VII, Vương quốc Phù nam suy yếu bị Chân
Lạp m chiếm, trên danh nghĩa, vùng đất Nam Bộ của Việt Nam ngày
nay thuộc quyền quản của triều đình Chân Lạp. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, triều đình Chân Lạp hầu như không thể quản được vùng
đất này, vùng đất Nam Bộ bị bỏ hoang từ thuở đó.
- Từ Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp ngày nay, xuống phía Nam, sang
bên kia ng, dọc theo những vùng đất bên bờ Tây sông Hậu cho đến Mũi
mau,…là những vùng đầm lầy, những mảng rừng đước, kênh, rạch
quanh co, chằng chịt.
- Tình trạng hoang vu này vẫn tiếp tục tồn tại cho đến cuối thế kỉ XVI, khi
sự xuất hiện khai phá của người Việt. Trong các thế kXVI - XVIII,
chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tổ chức nhiều đợt di dân vào
khai hoang, lập ấp các vùng đất phía Nam. Trong quá trình khai p
ấy, người Việt phải đối mặt với bao gian khó, hiểm nguy luôn rình rập.
Nhưng với ý chí quyết m, kiên cường, bất khuất tinh thần lao động
cần cù, các thế hệ người Việt đã viết nên những trang sử hào hùng về quá
trình khai phá, xác lập chủ quyền, bảo vệ và phát triển vùng đất Nam Bộ,
góp phần làm rạng rỡ non sông, đất nước Việt Nam.
| 1/9

Preview text:

Mở đầu trang 29 bài 5 Lịch Sử 8: Vào cuối thế kỉ XV đạo Quảng Nam
được thành lập, tên gọi “Quảng Nam” có nghĩa là “phía nam rộng lớn”.
Đúng như tên gọi, vùng đất này đã trở thành nơi an cư và tạo tiềm lực cho
người Việt tiếp tục xuôi nam, khai phá những vùng đất mới, cơ sở thực
thi chủ quyền đối với vùng lãnh thổ và lãnh hải phía Nam Đại Việt. Vậy,
quá trình đó đã diễn ra như thế nào từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII? Trả lời:
- Quá trình khai phá vùng đất phía Nam (thế kỉ XVI - XVIII)
+ Năm 1558, Nguyễn Hoàng được cử làm trấn thủ Thuận Hoá. Tới năm
1570, ông kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam.
+ Năm 1597, Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tổ chức đưa dân vào
đất Phú yên ngày nay để khai hoang, lập ấp. Năm 1611, phủ Phú yên được thành lập.
+ Từ cuối thế kỉ XVI, người Việt tiếp tục di cư về phía nam, tới Mô Xoài
(Bà Rịa - Vũng Tàu), Bến Nghé, Sài Gòn,… khai hoang mở đất.
+ Năm 1693, phần đất của Chiêm Thành (Ninh Thuận, Bình Thuận) sáp
nhập thành một trấn của Đàng Trong.
+ Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt Phủ Gia Định.
+ Giữa thế kỉ XVIII, tại vùng đất phương Nam đã xuất hiện thêm nhiều thôn ấp mới.
- Quá trình thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa:
+ Chúa Nguyễn ở Đàng Trong là chính quyền đầu tiên đã xác định được
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. Việc thực
thi chủ quyền được thực hiện một cách chặt chẽ thông qua hoạt động
thường xuyên của hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải.
+ Quá trình thực thi chủ quyền được chính quyền chúa Nguyễn thực hiện
một cách liên tục suốt từ thế kỉ XVII và được tiếp nối với nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
1. Khái quát quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII
Câu hỏi trang 29 Lịch Sử 8: Dựa vào thông tin trong bài và lược đồ 5.2,
em hãy cho biết quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến
thế kỉ XVIII đã diễn ra như thế nào? Trả lời:
- Quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:
+ Năm 1558, Nguyễn Hoàng được cử làm trấn thủ Thuận Hoá. Tới năm
1570, ông kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn
Thuận Hóa, Quảng Nam đã trở thành một vùng đất yên bình, kinh tế phát
triển, dân cư đông đúc.
+ Năm 1597, Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tổ chức đưa dân từ
Tuy Viễn (nay thuộc Bình Định) vào đất Phú yên ngày nay để khai hoang,
lập ấp. Năm 1611, phủ Phú yên được thành lập.
+ Từ cuối thế kỉ XVI, người Việt tiếp tục di cư về phía nam, tới Mô Xoài
(Bà Rịa - Vũng Tàu), Bến Nghé, Sài Gòn,… khai hoang mở đất.
+ Năm 1693, phần đất của Chiêm Thành (Ninh Thuận, Bình Thuận) sáp
nhập thành một trấn của Đàng Trong.
+ Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt Phủ Gia Định.
Vùng đất Mỹ Tho, Hà Tiên cũng được sáp nhập vào phủ này sau đó.
+ Đến giữa thế kỉ XVIII, tại vùng đất phương Nam đã xuất hiện thêm
nhiều thôn ấp mới, nhiều trung tâm giao thương phát triển như: Nông Nại
Đại Phố, Gia Định, Bến Nghé, Hà Tiên,…
2. Quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa của các chúa Nguyễn và ý nghĩa lịch sử
Câu hỏi trang 31 Lịch Sử 8: Dựa vào thông tin trong bài và tư liệu 5.3,
em hãy mô tả quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa,
quần đảo Trường Sa thời chúa Nguyễn. Trả lời:
- Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được ghi nhận trong các bộ
chính sử của Việt Nam với những tên gọi khác nhau, như: Bãi Cát Vàng,
Cồn Vàng, Vạn Lý Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, Đại Trường Sa,...
- Theo ghi chú bản đồ trong bộ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi).
- Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho lập hải đội Hoàng Sa (sau này lập thêm
đội Bắc Hải) để thực hiện các nhiệm vụ:
+ Khai thác sản vật trên các đảo, quần đảo.
+ Bảo vệ, canh giữ các đảo ở Biển Đông
+ Thu gom những hàng hóa của các tàu nước ngoài bị đắm ở khu vực
quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa về nộp cho triều đình.
- Chúa Nguyễn ở Đàng Trong là chính quyền đầu tiên đã xác định được
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. Quá trình
thực thi chủ quyền được chính quyền chúa Nguyễn thực hiện một cách
liên tục suốt từ thế kỉ XVII và được tiếp nối với nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Câu hỏi trang 31 Lịch Sử 8: Việc chúa Nguyễn thực thi chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa có ý nghĩa như thế nào? Trả lời:
- Chúa Nguyễn ở Đàng Trong là chính quyền đầu tiên đã xác định được
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. Việc thực
thi chủ quyền được thực hiện một cách chặt chẽ thông qua hoạt động
thường xuyên của hải đội Hoàng Sa.
- Quá trình thực thi chủ quyền được chính quyền chúa Nguyễn thực hiện
một cách liên tục suốt từ thế kỉ XVII và được tiếp nối với nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
- Nhờ những hoạt động kiểm soát và khai thác, chiếm giữ của hai đội
Hoàng Sa, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không chỉ được ghi nhận
trong bản đồ mà trên thực tế đã là một vùng biển đảo không thể tách rời
với đời sống của cư dân ven biển miền Trung Việt Nam từ thế kỉ XVII.
=> Các hoạt động thực thi chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của chính quyền chúa Nguyễn đã tạo cơ sở lịch sử vững chắc cho hoạt
động đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam hiện nay.
3. Luyện tập - Vận dụng
Luyện tập 1 trang 32 Lịch Sử 8: Hoàn thành bảng thống kê các vùng đất
được khai phá của Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII với các thông tin dưới đây:
Mốc thời gian Năm 1597 Năm 1611 Năm 1693 Năm 1698 Năm 1757 Vùng đất được ? ? ? ? ? khai phá Trả lời: Mốc thời
Vùng đất được khai phá gian Năm
Dân ở vùng Tuy Viễn (nay thuộc Bình Định) vào đất Phú yên 1597
ngày nay để khai hoang, lập ấp Năm Phủ Phú Yên 1611 Năm
Ninh Thuận và Bình Thuận. 1693
Phủ Gia Định (Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Năm
Bình Phước; thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh), 1698 Mỹ Tho, Hà Tiên. Năm Sóc Trăng, Bạc Liêu 1757
Vận dụng 2 trang 32 Lịch Sử 8: Nội dung bài học quá trình khai phá
vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII được phản ánh như thế nào trong câu ca dao sau:
“Người đi dao rựa dắt lưng,
Ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng cao” Trả lời:
- Vào khoảng đầu thế kỉ VII, Vương quốc Phù nam suy yếu và bị Chân
Lạp xâm chiếm, trên danh nghĩa, vùng đất Nam Bộ của Việt Nam ngày
nay thuộc quyền quản lí của triều đình Chân Lạp. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, triều đình Chân Lạp hầu như không thể quản lí được vùng
đất này, vùng đất Nam Bộ bị bỏ hoang từ thuở đó.
- Từ Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp ngày nay, xuống phía Nam, sang
bên kia sông, dọc theo những vùng đất bên bờ Tây sông Hậu cho đến Mũi
Cà mau,…là những vùng đầm lầy, những mảng rừng đước, kênh, rạch quanh co, chằng chịt.
- Tình trạng hoang vu này vẫn tiếp tục tồn tại cho đến cuối thế kỉ XVI, khi
có sự xuất hiện và khai phá của người Việt. Trong các thế kỉ XVI - XVIII,
chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tổ chức nhiều đợt di dân vào
khai hoang, lập ấp ở các vùng đất ở phía Nam. Trong quá trình khai phá
ấy, người Việt phải đối mặt với bao gian khó, hiểm nguy luôn rình rập.
Nhưng với ý chí quyết tâm, kiên cường, bất khuất và tinh thần lao động
cần cù, các thế hệ người Việt đã viết nên những trang sử hào hùng về quá
trình khai phá, xác lập chủ quyền, bảo vệ và phát triển vùng đất Nam Bộ,
góp phần làm rạng rỡ non sông, đất nước Việt Nam.