-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Giáo trình chính sách công | Trường Đại học Lâm Nghiệp
Giáo trình chính sách công | Trường Đại học Lâm Nghiệp. Tài liệu gồm 9 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Quản lý tài chính công 7 tài liệu
Đại học Lâm nghiệp 158 tài liệu
Giáo trình chính sách công | Trường Đại học Lâm Nghiệp
Giáo trình chính sách công | Trường Đại học Lâm Nghiệp. Tài liệu gồm 9 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Quản lý tài chính công 7 tài liệu
Trường: Đại học Lâm nghiệp 158 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Lâm nghiệp
Preview text:
1. Chính sách công
Chính sách công là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng
của nhà nước. Thông qua việc ban hành và tổ chức thực thi các chính sách công,
những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước được hiện thực hóa.
Nhà nước là chủ thể chủ yếu ban hành các chính sách công, thông qua đó,
Nhà nước thực hiện vai trò quản lý đối với đời sống xã hội. Các chính sách công
là sự tác động của Nhà nước lên các lĩnh vực hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát
triển của đất nước. Chính vì thế, ta nói rằng các chính sách công là những bộ
phạn hiệp thành của toàn bộ chiến lược phát triển quốc gia. Cũng từ đó, khi tiến
hành đánh giá sự phát triển của một nước, chúng ta phải xem xét một cách tổng
thể các chính sách công của quốc gia đó để thấy được định hướng phát triển chung của quốc gia.
Chính sách công được Nhà nước đề tra như một chương trình hành động
trong một thời gian dài để giải quyết một vấn đề nhất định nào đó mà chính
quyền quan tâm. Do đó, một chính sách thường bao gồm một loạt các quyết định
quản lý có quan hệ với nhau cùng tác động đến vấn đề đó theo những mục tiêu mà Nhà nước đề ra.
Như vậy, ta có thể đưa ra khái niệm về chính công như sau :
Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể
hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong
đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội
Do chủ thể ban hành và tổ chức thực thi chính sách công là Nhà nước nên
chính sách luôn phản ánh bản chất của Nhà nước sản sinh ra nó.
Trong các nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản thì bản chất của Nhà
nước là bản chất bóc lột của thiểu số giai cấp thống trị đối với đa số nhân dân
lao động trong xã hội, điều này cũng là cho chính sách công của những Nhà
nước này phục vụ chủ yếu quyền lợi của giai cấp thống trị. Trong quá trình quản
lý, có những chính sách trùng hợp với quyền lợi chung của quốc gia và nhân dân
lao động – như chính sách phát triển công nghiệp hiện đại, nhưng nhiều khi,
chúng mâu thuẫn và đối lập lại quyền lợi của người lao động, khi đó chính sách
công không được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, gây ra mâu thuẫn xã hội.
Ở Việt Nam, các chính sách công là do Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đề ra. Bản chất của nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công
nhân dựa trên nền tảng liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Bản
chất dân chủ của nhà nước ta được khẳng định qua tất cả các bản Hiến Pháp
trong suốt quá trình lịch sử phát triển. Theo khoản 2, Điều 2, Hiến Pháp 2013 có
ghi rõ : “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo sâu
sắc và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn
dân xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh. Đảng cũng là tổ chức đề xướng đường lối chiến lực phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chính
sách công ở Việt Nam là những bộ phận hợp thành, là sự cụ thể hóa đường lối
phát triển kinh tế -xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
2. Cấu trúc của chính sách công
Thứ nhất, mục tiêu chính sách. Mục tiêu của chính sách là những giá trị
và kết quả mà nhà nước mong muốn đạt được thông qua thực hiện các giải pháp
chính sách. Mục tiêu chính sách thể hiện ý chí của Nhà nước – thực ra là ý chí
của giai cấp cầm quyền, về một vấn đề công. Nếu nhà nước muốn duy trì hiện
trạng của vấn đề thì nhà nước sẽ thực hiện “hành vi không hành động”, ngược
lại khi nhà nước muốn thay đổi thực trạng vấn đề thì nhà nước phải đề ra các
giải pháp để giải quyết vấn đề đó. Mục tiêu chính sách cũng thể hiện thái độ của
nhà nước đối với một vấn đề công, đó có thể là ủng hộ hay phản đối.
Mục tiêu chính sách được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, từ mục tiêu
chung đến mục tiêu cụ thể từng lĩnh vực, từng địa phương, từ mục tiêu định tính
đến mục tiêu định lượng. Thường thì những chính sách ban đầu đề ra những
mục tiêu chung mang tính định tính, có nghĩa là nó được thể hiện dưới dạng
ngôn từ chứ không phải dưới dạng những con số cụ thể. Từ những mục tiêu
chung này sẽ được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu cụ thể. Các mục tiêu cụ thể này
phản ánh những khía cạnh của mục tiêu chung trong một giai đoạn thời gian
nhất định, phù hợp với điều kiện thực thi cụ thể. Những mục tiêu cụ thể này
cung cấp căn cứ cho việc giám sát, đo lường và đánh giá mức độ đạt mục tiêu chung của chính sách.
Thứ hai, các giải pháp thực hiện chính sách. Giải pháp là cách thức giải
quyết vấn đề nhằm đạt được mục tiêu chính sách. Dựa vào mục tiêu chính sách,
Nhà nước xác định các giải pháp thích hợp để đạt được mục tiêu đó. Như vậy
giải pháp chính sách phải phù hợp với mục tiêu chính sách. Mục tiêu nào thì
giải pháp đó, đây chính là mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện. Do mục
tiêu chính sách được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau từ khái quát đến cụ thể
nên giải pháp chính sách cũng đi từ những giải pháp chung đến những giải pháp
cụ thể. Những giải pháp cụ thể phải đề ra được những công cụ được sử dụng để
thực thi chính sách, các nguồn lực cần thiết ( tài lực, vật lực, nhân lực), kế hoạch
tổ chức thực hiện. Nói cách khác, cơ quan nhà nước các cấp chịu trách nhiệm
thực thi chính sách phải xây dựng các quy trình, thủ tục, thành lập các tổ chức,
thiết kế các chương trình, đề án, dự án cụ thể.
Như vậy, cấu trúc của một chính sách gồm hai bộ phận hợp thành và
thống nhất nhau là mục tiêu và giải pháp của chính sách. Mối quan hệ đó là mối
quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi chính sách công ở Việt Nam:
Thực tiễn ở nước ta, điều kiện thực thế vẫn chưa thật sự được quan tâm
như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban hành, tổ chức thực
hiện chính sách. Vì thế, vẫn còn khá nhiều chính sách xa rời thực tế, gây khó
khăn khi tổ chức thực hiện và không được dư luận thật sự đồng tình. Đặc biệt,
những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành tích, thích "đánh bóng
hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích của một số nhóm trong
xã hội vẫn tồn tại kéo dài đã gây những hậu quả ngày càng lớn cho xã hội, cho
từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới tổ chức thực thi Chính sách công.
Bởi công tác ban hành và thực thi chính sách vẫn do Nhà nước “độc
quyền” tiến hành chứ chưa huy động được sự tham gia của doanh nghiệp, tổ
chức xã hội dân sự và quần chúng nhân dân.
Nguyên tắc phân công, phân cấp, phân quyền làm chính sách đôi khi được
thực hiện cứng nhắc đã tạo ra sự cục bộ của các bộ, ngành và địa phương trong
công tác chính sách. Mỗi cơ quan, đơn vị, tổ chức làm chính sách điều ban hành
riêng những chuẩn mực cho mình khiến chính sách công bị phân tán, không có
sự gắn kết giữa các chính sách với nhau tạo nên một chỉnh thể.
Các chính sách chỉ mới nếu ra mục tiêu với một bảng hệ thống các tiêu
chí mà chưa đề ra nhiều cách thức thực hiện trong thực tế. Nói cách khác, các
cách thức thực hiện đề ra vẫn còn chung chung, đại khái mà không chỉ ra một
cách cụ thể để người thực thi chính sách thực hiện hiệu quả.
Công tác quan hệ công chúng của cơ quan Nhà nước nói chung còn yếu,
chưa xây dựng một kênh thông tin giao tiếp hữu hiệu giữa cơ quan thực thi
chính sách với các đối tượng chịu tác động của chính sách.
Lợi ích nhóm trong hoạch định và thực thi chính sách công đã được chính
thức nhìn nhận như một lực cản của quá trình ban hành những chính sách hiện
nay. Các nhóm lợi ích ngày càng gia tăng sự tác động đến chính sách công khiến
các tính đại chúng, cộng đồng của chính sách bị ảnh hưởng.
Trong lĩnh vực tổ chức thực thi Chính sách công bộc lộ những hạn chế,
bất cập chủ yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện,
nhất là ở một số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần
đây. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng
dư luận trong quá trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức,
phương pháp, nội dung; còn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu quả.
Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và
thiếu thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá
trình thực hiện còn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã
ảnh hưởng xấu đến thực hiện Chính sách công. Công tác tổng kết thực tiễn, rút
kinh nghiệm cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa
làm thường xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự
được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập
trong tư duy làm chính sách. Điều này không chỉ đúng với quy trình chính sách
của chính quyền địa phương mà còn của Chính phủ, các bộ, ngành.
4. Những hạn chế trong việc thực thi chính sách công hiện nay
Có thể khẳng định rằng có được chính sách công đúng đắn mới chỉ là
“điều kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực thi là “điều kiện
đủ” của chính sách công. Điều này cho chúng ta thấy rõ mối quan hệ có tính
quyết định giữa các khâu trong quá trình thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong
thực tế vẫn tồn tại những chính sách ban hành chưa sát thực tiễn nên thực hiện
hiệu lực, hiệu quả thấp.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của
chính sách có khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên quan
(nhà chức trách, những người thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai.
Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí
mâu thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ nghị
định và thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến, cản trở việc áp dụng.
Sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách chưa
thực sự khoa học, vẫn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích. Cơ
chế phối hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt chẽ, đặc biệt
trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai thông tin. Bên cạnh đó, một bộ phận trong
đội ngũ cán bộ, công chức thiếu năng lực, trình độ và sự trong sạch trong thực
thi chính sách cũng đang là một trong những nguyên nhân bóp méo, thậm chí đi
ngược lại mục tiêu của chính sách.
Những quy chế, thủ tục lập ra trong quá trình tổ chức thực thi chính sách
thường thiếu tính ổn định tương đối, gây xáo trộn cho quá trình thực thi chính
sách công. Thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở
việc thực thi chính sách.
Sự thiếu cơ chế theo dõi và đánh giá làm cho việc đánh giá kết quả thực
hiện các chính sách công trở nên khó khăn, không có các thông tin đáng tin cậy
về những hoạt động tốt và những đòi hỏi cần hoàn thiện.
Điển hình như chính sách Việc Làm ở nước ta. Mặc dù đã được thực hiện
nhiều năm, đem lại nhiều kết quả đáng trân trọng nhưng quá trình thực thi chính
sách này cũng vấp phải nhiều hạn chế như:
Thứ nhất, hạn chế lớn nhất là chính sách việc làm hiện nay chủ yếu mới
chú trọng đến tạo việc làm theo chiều rộng, càng nhiều việc làm càng tốt mà
chưa chú trọng đến chất lượng việc làm. Vì vậy, chưa khuyến khích người lao
động nâng cao trình độ và tay nghề.
Thứ hai, chính sách về việc làm ban hành còn tản mạn ở nhiều văn bản
gây chồng chéo. Các quy định của chính sách việc làm mang tính quy phạm
chưa cao, chính sách chủ yếu hướng vào hỗ trợ, khuyến khích chưa rõ trách
nhiệm của các đối tượng điều chỉnh của chính sách. Một số chính sách hỗ trợ
việc làm chưa được hướng dẫn cụ thể như: chính sách miễn giảm thuế để
khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân tạo việc làm cho
nhiều người lao động; chính sách khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao; đi làm việc tại
các công trình, dự án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước trúng thầu,
nhận thầu, đầu tư ở nước ngoài; chính sách hỗ trợ người lao động sau khi về nước...
Thứ ba,chính sách tín dụng chưa phù hợp về điều kiện vay và mức vay,
thiếu gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ đầu vào tiếp cận thị trường nên hiệu
quả sử dụng vốn chưa cao. Nhiều chính sách ưu đãi tín dụng chồng chéo trên
cùng một đối tượng gây khó khăn cho việc thực hiện và khó đi vào cuộc sống.
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm ngày càng tập trung nhiều cho hộ gia
đình vay vốn, ít hỗ trợ các doanh nghiệp để tạo thêm nhiều việc làm mới. Các
quy định về Quỹ giải quyết việc làm chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời gây
khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện
Thứ tư, hệ thống chính sách hỗ trợ lao động di chuyển đến các khu công
nghiệp, khu đô thị còn thiếu. Đa số người dân di cư ra các đô thị, khu công
nghiệp, khu chế xuất chưa được hưởng các chính sách hỗ trợ di chuyển và ổn
định tại nơi đến. Trái lại, một số quy định còn hạn chế khả năng tiếp cận của
người di cư đến việc làm tốt, các dịch vụ xã hội cơ bản tại đô thị.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế của chính sách việc làm hiện nay.
- Cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xây dựng các chính sách việc làm là
Bộ luật Lao động (Chương II- Việc làm). Do Bộ luật này được xây dựng trong
giai đoạn nền kinh tế nước ta mới chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nên những vấn đề chủ yếu của kinh tế thị trường
nói chung và quan hệ việc làm nói riêng mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, chưa bộc lộ
hết những yêu cầu của nó. Mặc dù đã sửa đổi, bổ sung Chương Việc làm của Bộ
luật Lao động vào năm 2002, đồng thời ban hành mới một số văn bản Luật để
kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc làm, song, do sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng phát triển về số lượng,
phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình ban hành, thực hiện các
chính sách việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, phát sinh một số vấn đề
mới về quan hệ việc làm cần được điều chỉnh trong một văn bản Luật thống nhất.
- Chúng ta chưa có định hướng, quy hoạch tổng thể phát triển việc làm dài
hạn, quy hoạch phát triển vùng, ngành nghề sản xuất kinh doanh cho nên sự
chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, lạo động chủ yếu làm trong lĩnh vực
nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.
- Tổ chức thực hiện các chính sách việc làm chưa tốt. Sự phối hợp giữa
các cơ quan trung ương và địa phương chưa đồng bộ. Công tác tuyên truyền,
phổ biến chính sách việc làm đã được các cơ quan, tổ chức và các địa phương
quan tâm nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn.
- Tổ chức hoạt động dịch vụ việc làm chưa chuyên nghiệp, chưa khoa
học. Hoạt động của các trung tâm, doanh nghiệp giới thiệu việc làm còn quá chú
trọng vào đào tạo nghề, còn hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị
trường lao động chưa được chú trọng đúng mức. Sự phối hợp hoạt động giữa các
trung tâm giới thiệu việc làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử
dụng lao động còn hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp thông tin thị trường
lao động, do vậy thông tin thị trường lao động lao động chưa có sự kết nối giữa
các vùng, các địa phương.
- Hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài chưa hiệu quả. Các
chương trình hỗ trợ người lao động trở về nước tái hòa nhập thị trường lao động
trong nước chưa được chú trọng.
- Hiện tại và trong tương lai giải quyết việc làm phải hướng tới vấn đề về
chất lượng, đảm bảo “việc làm bền vững”, “việc làm xanh”,... thì chỉ tiêu “tạo
việc làm mới” bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn về phương thức tính toán, không
phân biệt theo ngành nghề, giới tính, khu vực nông thôn/thành thị, không đảm
bảo tính so sánh quốc tế, độ tin cậy thấp, phản ánh không sát với thực tế. Có
nhiều nguyên nhân gây nên hạn chế trên, trong đó chủ yếu do: cơ sở dữ liệu
quản lý dân cư chưa có; hệ thống thống kê báo cáo chưa khoa học; sự dịch
chuyển lao động, phân tích việc làm mới- cũ rất khó khăn; tính pháp lý trong
yêu cầu thực hiện chế độ thống kê, báo cáo chưa đủ sức bắt buộc các tổ chức, cá
nhân thực hiện nghiêm túc...
5. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách công
Nâng cao nhận thức về chính sách công theo hướng đầy đủ, đúng đắn các
nội dung là yêu cầu quan trọng đầu tiên trong quá trình đưa chính sách của Nhà
nước vào cuộc sống. Các nhà hoạch định, tổ chức thực thi chính sách, lực lượng
tham gia và cả các đối tượng chịu ảnh hưởng chính sách cần hiểu rõ mục tiêu, ý
nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, từ đó tạo ra sự đồng
thuận trong cả hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện
có hiệu quả chính sách.
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách đến các đối tượng liên quan,
các tầng lớp nhân dân; thực hiện công khai để mọi người biết, được bàn, được
làm và được kiểm tra chính sách, từ đó tạo dư luận xã hội và môi trường thuận
lợi cho việc thực hiện chính sách.
Tuỳ từng đối tượng mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến và
quán triệt phù hợp như: mở các lớp tập huấn tập trung để quán triệt, nghiên cứu
các nội dung chính sách, bàn các giải pháp và phân công thực hiện (hình thức
này phù hợp với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực hiện
và kiểm tra thực hiện chính sách); tổ chức các lớp tuyên truyền chính sách cho
các cơ quan thông tin đại chúng, cán bộ tuyên truyền; gửi các tài liệu hướng dẫn
nghiên cứu chính sách cho các tổ chức, doanh nghiệp liên quan để tự nghiên cứu
và xây dựng chương trình tham gia thực hiện chính sách.
Cụ thể hoá chính sách: sau khi chính sách mới ban hành, cần phải cụ thể
hoá bằng các chương trình hành động, chương trình mục tiêu, các kế hoạch thực
hiện; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách, các biểu mẫu báo
cáo (nếu có); xây dựng các đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể (nếu
có). Các thủ tục này tạo ra môi trường thực thi chính sách, quy định những đòi
hỏi và bước đi cần thiết trong việc thực hiện chính sách. Tuy nhiên, khi ban
hành các thủ tục hành chính cần phải nghiên cứu kỹ để tránh sự rườm rà, phức
tạp không cần thiết; đồng thời phải đảm bảo tính ổn định tương đối để không
gây nhiều xáo trộn cho quá trình thực thi. Bên cạnh đó, những thủ tục đã lỗi
thời, kìm hãm việc thực thi cần được thay thế bằng những thủ tục mới hợp lý và thuận tiện hơn.
Chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện chính sách: huy động các nguồn
lực (bao gồm nguồn nhân lực, nguồn kinh phí...) từ trung ương, các địa phương,
các tổ chức quốc tế (nếu có).
Về nguồn nhân lực, nên hạn chế ở mức ít nhất có thể số lượng cơ quan
thực thi chủ yếu để đảm bảo tính hiệu quả của chính sách.
Về nguồn kinh phí, nếu không có hoặc không đủ thì không thể thực hiện
được chính sách, dù chính sách đó mang ý nghĩa xã hội to lớn. Có thể khai thác
các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách nhà nước,
nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội, khai thác sự tài trợ của các tổ chức quốc
tế và các chính phủ. Nguồn kinh phí cần sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng kinh
phí và đánh giá hiệu quả.
- Tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm cụ
thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm chính
và những người tham gia phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
Trong phân công nhiệm vụ, cần chú ý đến khả năng, tính chất chuyên môn và
thế mạnh của từng người; hạn chế tình trạng trùng chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm.
- Thanh tra kiểm tra việc thực hiện chính sách. Mục đích của việc thanh
tra, kiểm tra là phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ hở
trong cơ chế quản lý, trong chính sách và pháp luật để kiến nghị với cơ quan
thẩm quyền có biện pháp khắc phục. Đồng thời, thông qua đó để phát huy nhân
tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan
Ví dụ như để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Chính sách Việc làm đã nêu
ở phần trên, ta có thể thực hiện những giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần ban hành Luật Việc làm để quy định cụ thể về chính sách
việc làm của Nhà nước. Trong đó, Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc
làm mà phải có trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng tới thúc đẩy
và bảo đảm việc làm bền vững cho người lao động; có những quy định về các
giải pháp cụ thể của Nhà nước.
Thứ hai, cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế hoạch
tổng thể về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển bền vững. chủ
động phát triển có tổ chức các thị trường lao động có nhiều tiềm năng và hiệu
quả kinh tế cao, nhất là thị trường lao động chất lượng cao về kinh tế nông
nghiệp, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu ỉao động.
Để nâng cao hiệu lực của chính sách việc làm cần có sự phối hợp đồng bộ
các cấp, ngành và địa phương có liên quan; tăng cường giám sát, kiểm tra việc
thực hiện chính sách, phát hiện những hạn chế, những ách tắc để xử lý kịp thời,
qua đó để các chính sách đi vào cuộc sống có hiệu quả hơn.
Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm. Hoạt động của các trung tâm giới
thiệu việc làm cần chú trọng đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin
thị trường lao động. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các trung tâm giới
thiệu việc làm, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, người sử dụng lao động.
Thứ ba, chính sách việc làm cần được thực hiện trong đồng bộ và đồng
thời, thậm chí đi trước một bước với các chính sách kinh tế khác. Đặc biệt, công
tác đào tạo nghề cần bám sát nhu cầu thị trường và đi trước, đón đầu các quy
hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở các địa phương, nhất là những địa bàn có tốc
độ đô thị hóa và tốc độ tái cấu trúc kinh tế-xã hội nhanh.
Sớm bổ sung các chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý phát
triển nguồn nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như kinh tế nông nghiệp
sử dụng công nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ thông tin và xuất khẩu lao động
có kỹ thuật, cũng như khai thác tốt đội ngũ lao động từ nước ngoài trở về nước
sau khi kết thúc hợp đồng lao động ở nước ngoài. Mặt khác, cần tạo môi trường
áp lực cao để người lao động Việt Nam khắc phục ảnh hưởng của lao động trong
nền sản xuất nhỏ, tiểu nông, manh mún, được học tập và rèn luyện trong các
trường dạy nghề trọng điểm chất lượng cao, trường đại học đẳng cấp quốc tế,
được quản lý theo mục tiêu bảo đảm chất lượng đào tạo và gắn với nhu cầu của xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi phát
triển sản xuất, tạo việc làm, chính sách hỗ trợ học nghề, hỗ trợ người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ưu tiên cho người nghèo,
người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó
khăn. Tiếp tục thực hiện chiến lược, các chương trình, đề án về việc làm và dạy
nghề, khẩn trương nghiên cứu xây dựng chương trình việc làm cho người thất
nghiệp, thiếu việc làm.
Để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế thực sự, tránh
hình thức và lãng phí xã hội trong quá trình triển khai các đề án đào tạo nghề,
cần bảo đảm đầu tư đủ mức theo yêu cầu dậy và học nghề, tránh tư tưởng bình
quân chủ nghĩa như kiểu “phát chẩn”, cửu đói. Mặt khác, cần tăng cường công
tác tuyên truyền, linh hoạt và thiết thực về nội dung và phương thức đào tạo
nghề, gắn với thực tế đối tượng học nghề, cũng như gắn với chương trình việc
làm cụ thể của mỗi địa phương, để các đối tượng lao động nông thôn ở vùng
sâu, vùng xa, nhất là vùng núi không bị lúng túng trong việc xác định nghề học,
sắp xếp thời gian học. Hơn nữa, cần chú ý dạy nghề theo hướng tạo việc làm tại
chỗ, trong đó có đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao, hoặc
thúc đẩy quá trình tái cấu trúc toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn theo tinh
thần “ly nông bất ly hương”, để người lao động sống ở nông thôn sau khi tốt
nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể tăng khả năng và chủ động tìm kiếm, tạo
lập công việc, thu nhập ngay tại quê nhà, không phải đi xa, giảm bớt áp lực quá
tải, phi kinh tế lên các đô thị.
Thứ tư, chính sách việc làm phải phát huy được các nguồn lực của xã hội
vào việc tạo việc làm và đảm bảo việc làm. Tăng cường huy động các nguồn
vốn của doanh nghiệp và các tổ chức cho đào tạo nâng cao trình độ người lao
động. Thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi (gồm những giải pháp ưu đãi về
thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về đào
tạo nhân lực chất lượng cao thuộc ngành nghề mũi nhọn) để khuyến khích mạnh
mẽ các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo với các hình thức khác nhau như đặt
hàng với các cơ sở đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp và
thành lập các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực cho bản thân
doanh nghiệp và cho xã hội. Huy động các nguồn vốn của dân để đầu tư xây
dựng cơ sở đào tạo, tổ chức các loại quỹ khuyến học, khuyến tài...