



















Preview text:
PHẦN MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC NĂNG CỦA MÔN HỌC LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn khoa học xã hội nghiên cứu quá
trình phát sinh, phát triển, thay thế của tư tưởng kinh tế của các giai cấp cơ bản
trong các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội.
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của môn Lịch sử các học thuyết kinh tế là các tư
tưởng, các học thuyết kinh tế. Hệ thống các tư tưởng, học thuyết kinh tế (gọi
chung là học thuyết kinh tế) là tập hợp những tư tưởng kinh tế có mối liên hệ
phụ thuộc với nhau, phản ánh các hiện tượng, quá trình kinh tế diễn ra trên cơ sở
quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của cải xã hội.
Các học thuyết kinh tế được thể hiện qua các tác phẩm của các nhà lý
luận kinh tế hình thành trong lịch sử phát triển của sản xuất xã hội, nó có quá
trình phát sinh, phát triển, biến đổi, kế thừa và thay thế lẫn nhau. Việc nghiên
cứu Lịch sử các học thuyết kinh tế chỉ ra các quy luật phát triển của tư duy kinh
tế, sự phát triển của khoa học kinh tế. Đồng thời thấy rõ được ảnh hưởng của lý
luận kinh tế đến chính sách, cương lĩnh kinh tế của các giai cấp, các tổ chức,
đảng phái trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử xã hội.
2. Chức năng của môn học lịch sử các học thuyết kinh tế
Khoa học Lịch sử các học thuyết kinh tế có các chức năng:
- Chức năng nhận thức: Lịch sử các học thuyết kinh tế cung cấp cho
chúng ta những tri thức, hệ thống quan điểm, tư tưởng lý luận về kinh tế, thấy
được tính lịch sử, sự kế thừa, phát triển của chúng, nó là cơ sở để chúng ta nhận
thức những vấn đề lý luận kinh tế hiện nay.
- Chức năng tư tưởng: các tư tưởng, các học thuyết kinh tế mang tính
giai cấp sâu sắc. Khi xem xét các học thuyết kinh tế, chúng ta cần đứng vững
trên lập trường khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin để đánh giá, nhận thức các
học thuyết kinh tế trong giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội phát sinh trong thực
tiễn, bảo vệ lợi ích của dân tộc. Trên cơ sở đó, thấy được tính kế thừa, phát triển
học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự vận dụng sáng tạo các học
thuyết kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa PAGE \* MERGEFORMAT 108
xã hội, tạo niềm tin của nhân dân vào đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước.
- Chức năng thực tiễn: Tính thực tiễn của lịch sử các học thuyết kinh tế
thể hiện ở chỗ mục đích của việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết là phục vụ
cho việc vận dụng lý luận kinh tế, kinh nghiệm của thế giới vào thực tiễn xây
dựng và phát triển kinh tế của chúng ta hiện nay.
- Chức năng phương pháp luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế cung
cấp hệ thống các quan điểm, các lý luận kinh tế làm cơ sở lý luận cho các ngành
kinh tế, cho nghiên cứu các vấn đề kinh tế xã hội, nhất là các vấn đề liên quan
đến kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế phát triển, kinh tế công v.v.
3. Ý nghĩa của môn học
Lịch sử các học thuyết kinh tế cung cấp cho sinh viên một hệ thống kiến
thức về quá trình hình thành, phát triển của khoa học kinh tế, phân tích một cách
khoa học, khách quan vị trí của các học thuyết kinh tế, những đóng góp của các
trường phái lý luận kinh tế, của các nhà kinh tế học vào sự phát triển của khoa
học kinh tế và thực tiễn phát triển kinh tế của thế giới đồng thời khẳng định tính
khoa học của kinh tế học Mác - Lênin, đấu tranh phê phán những trào lưu tư
tưởng giả danh Mác xít, bảo vệ và vận dụng thành công lý luận kinh tế Mác -
Lênin, tiếp thu tinh hoa tri thức kinh tế của nhân loại vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở phương pháp luận của Lịch sử các học thuyết kinh tế là học thuyết
Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội.
Phương pháp luận khoa học để nghiên cứu Lịch sử các học thuyết kinh
tế là điều kiện sản xuất của cải vật chất của xã hội. Nó là cơ sở quyết định tính
chất, nội dung của các học thuyết kinh tế.
Lịch sử các học thuyết kinh tế áp dụng phương pháp chung trong nghiên
cứu là phương pháp duy vật biện chứng: Đây là phương pháp chung trong
nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học xã hội. Phương pháp duy vật biện chứng
đòi hỏi chúng ta khi xem xét các học thuyết kinh tế phải đặt chúng trong những
mối liên hệ phổ biến, vận động, phát triển với quan điểm lịch sử cụ thể, toàn diện.
Lịch sử các học thuyết kinh tế cũng sử dụng phương pháp lôgic kết hợp
với lịch sử. Lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy bắt đầu từ đó, tư tưởng kinh tế
phản ánh các điều kiện kinh tế xã hội có tính lịch sử, cụ thể; đồng thời, hệ thống
các quan điểm kinh tế là một chuỗi tư tưởng kế thừa nhau phát triển. Do vậy khi PAGE \* MERGEFORMAT 108
nghiên cứu, Lịch sử các học thuyết kinh tế phải kết hợp phương pháp lôgic với phương pháp lịch sử.
Lịch sử các học thuyết kinh tế còn sử dụng phương pháp đối chiếu và so
sánh. Trên cơ sở số liệu, dữ liệu tập hợp hoặc các tư tưởng, các quan điểm kinh
tế của các nhà lý luận khác nhau nhằm so sánh chúng với nhau để chỉ ra sự phát
triển, kế thừa, những ưu điểm, nhược điểm của các tư tưởng, học thuyết kinh tế
khác nhau và ảnh hưởng của chúng tới sự phát triển của xã hội. PAGE \* MERGEFORMAT 108
CHƯƠNG I: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG (CTTT)
Chủ nghĩa Trọng Thương (CNTT) là hệ tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai
cấp tư sản ra đời trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến. Về mặt lịch sử đây
là thời kỳ tích lũy nguyên thủy của CNTB, là thời kỳ sơ khai của kinh tế thị
trường - giai đoạn đầu chuyển từ kinh tế hàng hóa sang kinh tế thị trường. Nó
bắt đầu từ khoảng những năm 1450 và kết thúc vào những năm 1650.
Đặc trưng của chủ nghĩa Trọng Thương là coi trọng thương mại, nhất là
ngoại thương. CNTT ra đời và phát triển mạnh ở Anh và Hà Lan, chiếm địa vị
quan trọng trong đời sống kinh tế Châu Âu thế kỷ XV, XVI, XVII.
Về kinh tế: Trong giai đoạn thế kỷ XV – XVII, kinh tế hàng hóa bắt đầu
phát triển mạnh, thị trường trong nước được mở rộng và thống nhất dần. Đồng
thời, việc tìm ra châu Mỹ đã làm dấy lên làn sóng du thương nhằm chuyển vàng
từ châu Mỹ về châu Âu. Điều này làm cho vai trò của thương nghiệp trở nên
quan trọng và trở thành ngành có ý nghĩa to lớn đối với quá trình tích lũy ban
đầu của CNTB khi sản xuất chưa phát triển, sản phẩm thặng dư trong nước còn
ít ỏi, muốn tích lũy phải dựa vào buôn bán, trao đổi không ngang giá. Thực tiễn
đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế và chính sách phù hợp để chỉ đạo, hướng dẫn
hoạt động thương nghiệp.
Bộ mặt chính trị - xã hội: cũng thay đổi khác hẳn với thời trung cổ: chế
độ quân chủ được củng cố quyền hành tập trung về trung ương, guồng máy quân
sự được tăng cường, sử dụng một lực lượng quân sự khổng lồ và nhà vua phải
dựa vào sự giúp đỡ tài chính của tầng lớp tư sản thương nhân trong xã hội. Giai
cấp phong kiến có sự phân hóa: các vương hầu quý tộc lớn mạnh không chịu
khuất phục ngai vàng của nhà vua; nông nô muốn thoát khỏi ách thống trị của
lãnh chúa; tầng lớp dân thành thị (gồm thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ. .)
cũng muốn chấm dứt sự đô hộ của giới quý tộc, do đó địa vị của giai cấp phong
kiến bắt đầu lung lay. Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc.
Về văn hóa tư tưởng: Thời kỳ này xuất hiện phong trào phục hưng chống
lại những tư tưởng đen tối của thời kỳ Trung cổ; chủ nghĩa duy vật xuất hiện
trong triết học. Các ngành khoa học tự nhiên phát triển mạnh như văn học, lý
học, hóa học… (đại diện là các nhà bác học thiên tài như G.Galilei,
N.Copernic…), nhiều tư tưởng mới về nhân đạo ra đời, người dân mơ ước về sự
công bằng xã hội và người dân có sự chuyển biến về tâm lý trong đó giảm bớt PAGE \* MERGEFORMAT 108
sự ràng buộc vào tôn giáo, tư tưởng của họ hướng tới thực tiễn hơn với những
triết lý thực tế và niềm tin vào sự chinh phục thế giới.
Các tư tưởng gia không chấp nhận những quan niệm cổ truyền, hủ bại
thuộc phạm vi tín ngưỡng tôn giáo, họ cố tìm hiểu thế giới với quan điểm thực
tiễn và khoa học, họ có những ý kiến cụ thể và khách quan trong đời sống thường ngày…
Tóm lại: Các sự kiện trên làm biến đổi nhanh chóng xã hội phong kiến và
nền sản xuất nhỏ thủ công bắt đầu nhường chỗ cho chế độ tư bản thương mại.
Đây chính là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và thực hành tích lũy ban đầu
của CNTB. CNTT ra đời phản ánh tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến.
II.ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
Thứ nhất: CNTT đánh giá cao vai trò của tiền, coi tiền tệ (vàng, bạc) là
tiêu chuẩn cơ bản của của cải, nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu. Hàng hóa
chỉ là phương tiện làm tăng khối lượng tiền tệ. Các nhà kinh tế học đã xây dựng
lý thuyết tiền tệ, họ đã thấy tiền là tiêu chuẩn của của cải, là phương tiện lưu
thông, phương tiện cất trữ và phương tiện để thu lợi nhuận. Từ đó họ rút ra kết
luận: quốc gia càng nhiều tiền thì càng giàu có, do vậy mục đích chủ yếu trong
các chính sách kinh tế của mỗi nước là phải làm tăng khối lượng tiền tệ.
Thứ hai: khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng thông qua hoạt động
thương nghiệp mà trước hết là ngoại thương. Theo họ, trong trao đổi tất phải có
kẻ được, người mất. Lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không
ngang giá, là sự lừa gạt. Như vậy, giữa các quốc gia tất yếu có sự đối lập về lợi
ích “Không có ai thu lợi mà không làm thiệt hại tới kẻ khác” và “Dân tộc này
làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc kia”.
Từ lập trên, các nhà Trọng Thương cho rằng chính sách kinh tế của mỗi
nước là phải tập trung phát triển thương mại. Trong hoạt động thương mại, phải
ưu tiên phát triển ngoại thương. Nội thương chỉ có thể làm giàu cho các cá nhân,
chỉ có ngoại thương mới làm tăng số lượng tiền của quốc gia. Họ coi nội thương
là ống dẫn còn ngoài thương là máy bơm để hút tiền tệ từ nước ngoài. Trong
phát triển ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu (bán nhiều, mua ít)
để chắc chắn khối lượng tiền của quốc gia sẽ tăng lên.
Thứ ba: Phải có sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế
nhằm “bảo hộ” “điều hướng” và “gia tăng hiệu năng” của nền kinh tế trong
nước. Các nhà trọng thương quan niệm các hoạt động “riêng rẽ và thiếu sự phối
hợp của tư nhân sẽ không đem lại sự thỏa mãn tối đa các lợi ích của quốc gia”. PAGE \* MERGEFORMAT 108
Tuy vậy các nhà trọng thương vẫn đề cao các “sáng kiến cá nhân” và không hề
có ý đi ngược lại quyền tư hữu.
III. HAI GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
1. Hai giai đoạn phát triển của CNTT
Giai đoạn đầu (TK XV - XVI) được gọi là Chủ nghĩa “Vàng” (Bullionisme).
Đây là thời kỳ nền kinh tế, trước hết là ở Anh chưa phát triển. Các đại
biểu trọng thương giai đoạn này ở Anh có Willam Stafford, ở Ý có Skarufa. .đã
đưa ra cương lĩnh coi trọng cán cân thanh toán. Quan điểm của họ là “thu” phải
lớn hơn “chi” - phải đem tiền về càng nhiều càng tốt bằng con đường ngoại
thương. Phải bảo vệ tiền tệ trong nước không để “chảy” ra nước ngoài, bằng mọi
cách tăng cường thu hút tiền từ nước ngoài vào trong nước. Tư tưởng này là cơ
sở của chính sách thương mại.
Các chính sách của Nhà nước thời kỳ này là: Cấm xuất khẩu tiền, hạn chế
tối đa nhập hàng ở nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu hàng ra nước ngoài, lập
hàng rào thuế quan để bảo hộ mậu dịch trong nước, giảm lãi suất cho vay để
kích thích sản xuất và xuất khẩu. Thời kỳ này là thời kỳ tích lũy tiền tệ của chủ
nghĩa tư bản. Với chính sách này, chỉ trong vòng 100 năm số vàng ở Châu Âu đã tăng lên 8 lần.
Khuynh hướng chung của chính sách kinh tế chủ yếu là sử dụng biện pháp
hành chính, tức là sự can thiệp của nhà nước để giải quyết các vấn đề kinh tế.
F.Engels nhận xét về CNTT giai đoạn đầu là: Trong giai đoạn này, “Các
dân tộc chống đối nhau như những kẻ bủn xỉn, hai tay ôm giữ túi tiền quý báu,
nhìn sang người láng giềng với con mắt ghen tị, đa nghi”.
Giai đoạn sau (TK XVI – XVII): được gọi là thời kỳ “chủ nghĩa trọng
thương thực sự” (Mercantilisms).
Đại biểu chủ yếu của giai đoạn này ở Anh có Thomas Mun, ở Pháp có
A.Montchrestien. . Tác phẩm: “Sự giàu có của nước Anh trong ngoại thương”
của Thomas Mun được coi như kinh thánh của chủ nghĩa Trọng Thương.
Đặc điểm tư tưởng Trọng Thương trong giai đoạn này là vẫn coi sự giàu
có thể hiện ở khối lượng tiền tệ, một nước phải tích lũy tiền và con đường làm
giàu là ngoại thương; nhưng khác với thời kỳ đầu ở chỗ là không cấm xuất khẩu
tiền, lên án việc tích trữ “găm” tiền ở trong nước và khuyến khích mở rộng xuất
khẩu. Tư tưởng trọng tâm của các nhà Trọng Thương là: “Bảng cân đối thương
mại”. Trong buôn bán phải bảo đảm xuất siêu để có chênh lệch, tăng tiền tích
lũy cho ngân khố quốc gia. Họ gọi “bảng cân đối xuất siêu” là bảng cân đối tích PAGE \* MERGEFORMAT 108
cực. T.Mun viết: “Chúng ta phải thường xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng
năm bán cho người nước ngoài với số lượng hàng hóa lớn hơn chúng ta mua của họ”.
Để xuất siêu, họ cho rằng chỉ xuất khẩu thành phẩm chứ không xuất khẩu
nguyên liệu, thực hiện thương nghiệp trung gian tức là mang tiền ra nước ngoài
để mua rẻ ở nước này, bán đắt ở nước khác. Thực hiện chính sách thuế quan bảo
hộ nhằm kiếm soát hàng hóa nhập khẩu khuyến khích phát triển sản xuất hàng
xuất khẩu; bằng mọi cách chiếm lĩnh thị trường thế giới, thực hành một cuộc
chiến tranh thương mại vì thương mại là hòn đá thử vàng đối với sự phồn thịnh
của một quốc gia và “không có một phép lạ nào khác để kiếm tiền trừ thương
mại” (Thomas Mun) “kẻ nào làm chủ được thương mại quốc tế, kẻ đó có thể làm
trọng tài cho chiến tranh và hòa bình” (J.B.Colbert).
Tóm lại: giai đoạn này CNTT đã đi tới quan điểm để cho tiền vận động và
chỉ qua đó mới thu được tiền nhiều thêm. Ở thời kỳ sau, chủ nghĩa trọng thương
đã có vai trò tích cực trong việc đẩy mạnh sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nó đáp
ứng nhu cầu khách quan của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. CNTT ở cả hai
giai đoạn đều cho rằng nhiệm vụ kinh tế của mỗi nước là phải làm giàu, phải
tích lũy tiền tệ. Tuy nhiên các phương pháp tích lũy tiền tệ là khác nhau.
2. Đặc điểm dân tộc của chủ nghĩa trọng thương
CNTT phát triển ở nhiều nước trên thế giớ như ở Ý, Tây Ban Nha, ở Anh,
ở Pháp…sự giống nhau của CNTT ở các nước là ở chỗ các nhà kinh tế ở mỗi
nước đều đưa ra các chính sách nhằm tăng cường khối lượng tiền tệ tích lũy làm
tăng sự giàu có của đất nước mình. Tuy nhiên, biện pháp ở mỗi nước áp dụng có khác nhau.
CNTT Tây Ban Nha (được gọi là CNTT tiền tệ).
Tây Ban Nha là quốc gia đầu tiên chuyên về ngành hàng hải, nền kinh tế
Tây Ban Nha thế kỷ XV - XVI thịnh vượng là nhờ những phát triển hàng hải,
chinh phục những miền đất mới.
Chủ trương của các nhà trọng thương Tây Ban Nha là: cần phải giữ lại
trên lãnh thổ Tây Ban Nha toàn bộ lượng vàng bạc mang từ châu Mỹ về, và kêu
gọi nhà nước nên cấm mang ra khỏi nước các loại quý kim dưới bất cứ hình thức
nào, hạn chế nhập cảng hàng hóa, bớt xén số lượng vàng trong mỗi đơn vi tiền
trong nước, tăng giá các loại tiền của nước ngoài… Họ cho rằng như vậy sẽ thu
hút được tiền (vàng) từ nước ngoài, tăng thêm khối lượng tiền trong nước và
Tây Ban Nha sẽ trở nên giàu có, giá cả hàng hóa sẽ hạ thấp và đời sống người
dân được sung túc nhưng kết quả lại trái ngược với sự mong đợi, giá cả hàng
hóa tăng vọt, dân chúng thừa thãi vàng bạc nhưng lại thiếu thốn của cải tiêu PAGE \* MERGEFORMAT 108
dùng, đời sống ngày càng khó khăn, nông nghiệp bị bỏ phế, công nghiệp bị biến
dạng còn thương mại bị chi phối từ nước ngoài.
Các tác giả đề ra các biện pháp kể trên là Oftiz (1558) Damian de Oliveres
(1621). Một số khác tuy cùng quan điểm trọng thương nhưng lại chủ trương cần
mở rộng nông nghiệp và phát triển công nghiệp thì mới thu hút được tiền tệ vào
trong nước và họ chỉ trích kịch liệt những biện pháp trên đó là các tác giả theo
khuynh hướng trọng thương ở Pháp.
CNTT ở Pháp (được gọi là CNTT công nghiệp)
Các tác giả tiêu biểu cho CNTT Pháp là: Jean Bodin, Antoine de Montchrestien, J.B.Colbert….
Các nhà trọng thương Pháp cùng một quan niệm cho rằng một quốc gia
giàu có phải có nhiều vàng, bạc. Pháp là quốc gia không có mỏ vàng bạc nên
phải tìm cách thu hút vàng bạc từ nước ngoài. Nhưng đồng thời, họ cũng quan
niệm nhiều vàng bạc phải đi đôi với nhiều vật dụng cần thiết có ích và đó mới là
biểu hiện của sự giàu có, sung túc thật sự.
Các biện pháp áp dụng được chia làm 2 loại :
Một là: kích thích sản xuất mà trước hết là phát triển sản xuất công nghiệp
trong nước dưới sự định hướng và tổ chức của Nhà nước (Nhà nước đứng ra
thành lập các hiệp hội, công xưởng tổ chức các trường dạy nghề, thuê chuyên
gia giỏi từ nước ngoài, cho vay vốn, ban hành quy chế cho phép chủ xưởng
được hưởng những đặc quyền ưu đãi…), nhà nước thực hành một “thứ sư phạm
công nghiệp” để dẫn dắt phát triển công nghiệp tư nhân, trong đó ưu tiên cho
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Hai là: Lập hàng rào thuế quan bảo hộ nền mậu dịch trong nước - các sản
phẩm nước ngoài bị cấm nhập hoặc phải chịu thuế cao. Khuyến khích nhập các
nguyên liệu cho việc sản xuất sản phẩm ở trong nước (miễn thuế). Cấm bán ra
nước ngoài các sản phẩm thiên nhiên (như sắt, thép, sợi, lông cừu…) Nâng đỡ
việc xuất khẩu hàng hóa…
Các nhà trọng thương Pháp coi tự do là sự thi thố khả năng hoạt động của
các cá nhân nhưng phải có sự định hướng và trợ lực của chính quyền. Trong một
nước, tự do không có nghĩa ai muốn làm gì tùy thích mà phải làm những gì
không đi ngược với lợi ích công cộng của xã hội. Họ kêu gọi nhà nước can thiệp
vào các hoạt động kinh tế để bảo hộ sản xuất trong nước; khuyến khích mỗi cá
nhân phải áp dụng những phương pháp làm việc tiên tiến có hiệu quả phù hợp
với lợi ích quốc gia; tôn trọng và phát huy mọi sáng kiến cá nhân trong xã hội. PAGE \* MERGEFORMAT 108
CNTT ở Anh (được gọi là CNTT thương mại) các học giả tiêu biểu gồm Thomas Mun, James Stewart…
Khác với chủ trương của Pháp chú ý nhiều tới công nghiệp, các nhà trọng
thương Anh quan niệm rằng điều quan trọng nhất đối với nước Anh là sự thặng
dư cán cân thương mại, tức là tổng giá trị hàng xuất phải lớn tổng giá trị hàng
nhập khẩu, phải bán nhiều hơn mua (nhưng khi cần thì cũng có thể mua nhiều để
bán nhiều hơn). Nếu cán cân thương mại thừa thãi thì lẽ đương nhiên là nước
ngoài bắt buộc phải đưa vàng vào nước Anh để thanh toán các khoản nợ.
Từ đó các nhà Trọng Thương Anh kêu gọi: Phải tập trung mọi nỗ lực vào
hai ngành thương mại và hàng hải, Nhà nước phải vận dụng mọi phương tiện để
phát triển hai ngành này. Cố gắng bằng mọi cách chinh phục thị trường thế giới;
quy định một chế độ thuế tối ưu, đánh thuế nặng vào hàng tiêu dùng nhập cảng,
ưu đãi về thuế đối với hàng tái xuất; ban hành một quy chế thuộc địa bắt buộc
các nước thuộc địa phải bán nguyên liệu cho chính quốc và mua các chế phẩm
từ chính quốc. Cần hạ thấp lãi suất để kích thích đầu tư tư bản và tạo thuận lợi
cho sự cạnh tranh quốc tế…
Kết quả của chính sách trên đã làm cho nền kinh tế Anh thịnh vượng
nhanh chóng, đội hải thuyền của nước Anh làm bá chủ thế giới trong một thời gian dài.
Các sắc thái kể trên của chủ nghĩa trọng thương hầu như cũng phù hợp
với thứ tự kế tiếp theo thời gian, tức là thứ tự phát triển của tư tưởng Trọng
Thương theo xu hướng hợp lý hơn. Chủ nghĩa trọng thương Tây Ban nha
khuyên “Hãy giữ lấy vàng”, chủ nghĩa trọng thương Pháp khuyên “Hãy thu hút
vàng vào trong nước bằng cách xuất khẩu và muốn như vậy hãy mở mang công
nghiệp”, còn chủ nghĩa trọng thương Anh nói “Hãy bán ra nhiều hơn là mua vào”.
IV. VỊ TRÍ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
1. Thành tựu của CNTT
Trong điều kiện lịch sử thế kỷ XV – XVII, quan niệm của CNTT là một
bước tiến bộ so với những chính sách và tư tưởng kinh tế thời phong kiến. Điều này thể hiện ở chỗ.
- Trước hết các học giả trọng thương đã đưa ra nguyên lý, chính sách kinh
tế mở ra sự phát triển mới trong kinh tế, cần phát triển giao lưu quốc tế, mở
mang thương nghiệp trên cơ sở đó mở mang công nghiệp.
- Đánh đòn mạnh vào tư tưởng kinh tế tự cấp tự túc của giai cấp phong
kiến. Nó cắt đứt được truyền thống kinh tế tự nhiên, thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển. PAGE \* MERGEFORMAT 108
- Các học giả trọng thương lần đầu tiên trong lịch sử đã cố gắng nhận thức
và giải thích các hiện tượng kinh tế dưới góc độ lý luận. Họ đã dựa trên những
thành tựu tri thức nhân loại và áp dụng các phương pháp khoa học (như toán học,
thống kê, lịch sử, triết học…) do đó đã mở ra kỷ nguyên mới cho việc nghiên
cứu và nhận thức các vấn đề kinh tế trên cơ sở khoa học, đoạn tuyệt với các tư
tưởng kinh tế thời trung cổ chỉ giải thích các hiện tượng kinh tế bằng các quan
niệm tôn giáo. Điều này thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có không
phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, là tiền. Mục đích hoạt động kinh doanh là lợi
nhuận. Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản đã có tác dụng rút ngắn giai
đoạn quá độ từ chế độ phong kiến sang CNTB. Tư tưởng nhà nước can thiệp vào
kinh tế của họ đã được kinh tế học tư sản hiện đại tiếp thu phát triển.
2. Hạn chế của CNTT
Học thuyết Trọng Thương còn nhiều hạn chế, thể hiện ở chỗ.
- Đứng trên yêu cầu phát triển của CNTB thì lý thuyết CNTT là nhỏ bé,
việc giải thích các vấn đề kinh tế còn quá giản đơn ít tính lý luận, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
- Về phương pháp luận : CNTT xuất phát từ hiện tượng bên ngoài chứ
chưa tìm ra được các quy luật phản ánh bản chất của các hiện tượng kinh tế.
Thêm nữa, tầm nhìn của họ còn phiến diện, mới chỉ dừng lại lưu thông, chưa
nghiên cứu được lĩnh vực sản xuất, chưa nhận thức được bản chất của các hiện
tượng và quá trình kinh tế. PAGE \* MERGEFORMAT 108
CHƯƠNG II: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI TRỌNG NÔNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRƯỜNG PHÁI TRỌNG NÔNG
Vào giữa thế kỷ XVIII, ở Pháp, kinh tế chính trị tư sản cổ điển xuất hiện
dưới tên gọi: trường phái Trọng Nông.
Trường phái Trọng Nông ra đời trong thời kỳ quá độ về kinh tế từ chế độ
phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Vào giai đoạn nay, Tây Âu đang phát triển rất
mạnh trên con đường tư bản chủ nghĩa. Ở Anh cuộc cách mạng công nghiệp đã
bắt đầu, ở Pháp chủ nghĩa tư bản công trường thủ công đã bám rễ, ăn sâu một
cách vững chắc và đã tiến gần sát tới cuộc cách mạng tư sản (1789).
Thời kỳ tích lũy ban đầu của tư bản đã kết thúc, do đó, việc dùng thương
mại để bóc lột các nước thuộc địa đã mất dần ý nghĩa đặc biệt của nó, kéo theo
sự tan rã của tư tưởng Trọng Thương. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản công
trường thủ công trong công nghiệp đã làm trọng tâm những quyền lợi kinh tế
của giai cấp tư sản đã chuyển dần sang lĩnh vực sản xuất. Đóng vai trò ngày
càng lớn trong việc làm giàu của giai cấp tư sản là việc bóc lột lao động trong
công trường thủ công, thay thế cho việc giao thương buôn bán với nước ngoài.
Các ảo tưởng phát sinh trong thời kỳ tích lũy nguyên thủy do việc bóc lột các
nước lạc hậu thuần túy bằng thương mại đã tiêu tan.
Trước tình hình đó, việc khái quát, lý giải những hiện tượng kinh tế mới,
gắn chặt và xuất hiện trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Trọng Thương.
Trong cuộc đấu tranh này, các nhà kinh tế Anh đặt tất cả niềm tin, hy vọng của
mình vào công nghiệp – công trường thủ công, còn ở Pháp mang khuynh hướng
trọng nông, khuynh hướng này đẻ ra từ bản thân nền kinh tế Pháp:
- Nền nông nghiệp Pháp trong thời kỳ này bị suy sụp nghiêm trọng:
Ruộng đất bị bỏ hoang, giá lúa mì thấp, năng suất lao động giảm, đặc biệt miền
bắc nước Pháp, miền Normandie. .nông dân bỏ ruộng đất, hành khất nhan nhản khắp các vùng nông thôn.
- Ở Pháp chế độ phong kiến thống trị nông thôn lâu đời đã kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Phần lớn nông dân làm tá điền từ đời này đến
đời khác với mức địa tô nộp cho chủ đất rất cao (khoảng 1/3 đến 1/4 tổng thu
hoạch). Các khoản nợ của nông dân theo luật pháp lúc đó là cha truyền con nối.
Sản xuất công nghiệp bị đình đốn, giao thông khó khăn đã cản trở thương
nghiệp, dân số có xu hướng giảm. Người tá điền phải chịu gánh nặng của nhiều
thứ thuế, đời sống nông dân vô cùng cực khổ. PAGE \* MERGEFORMAT 108
- Chính sách hạ giá lúa mì của J.B.Colbert đã gây hậu quả nghiêm trọng,
việc thực hiện “ăn đói để xuất khẩu” làm trầm trọng thêm khó khăn của nông
nghiệp và nông dân, gây ra sự khủng hoảng trong nông nghiệp. Điều này khiến
cuộc đấu trang chống chủ nghĩa trọng thương biến thành cuộc đấu tranh bảo vệ
nông nghiệp, tìm kiếm những nguồn gốc của cải quốc dân ở trong nông nghiệp
và dẫn đến việc lý tưởng hóa nghề nông là điều không tránh khỏi.
Trung tâm mâu thuẫn kinh tế ở Pháp lúc đó là trong nông nghiệp. Những
người Trọng Nông cho rằng, xã hội loài người phát triển theo những quy luật tự
nhiên. Theo họ, nguồn gốc duy nhất của cải xã hội là tự nhiên là nông nghiệp vì
nông nghiệp mang lại cho con người những kết quả của tự nhiên. Nội dung giai
cấp của học thuyết Trọng Nông là giải phóng kinh tế nông dân thoát khỏi quan
hệ phong kiến để phát triển nông nghiệp theo kiểu TBCN.
Karl Marx coi những người Trọng Nông là những người bênh vực CNTB,
vạch rõ sự cần thiết phải chuyển sang kinh doanh theo lối TBCN: “CNTB đang
tự mở cho mình một con đường trong khuôn khổ xã hội phong kiến”.
Đặc điểm chung của trường phái Trọng Nông là đã chuyển đối tượng
nghiên cứu của KTCT sang lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Họ đánh giá cao vai
trò của ngành nông nghiệp, coi đó là lĩnh vực duy nhất tạo ra của cải. Chỉ có lao
động nông nghiệp mới là lao động có ích, lao động sinh lời, nó tạo ra sản phẩm
thuần túy cho xã hội. Muốn làm giàu phải phát triển nông nghiệp.
Người đầu tiên đặt nền tảng lý thuyết cho trường phái Trọng Nông là Pierr
Boisguillebert (1646 -1714). Đại biểu xuất sắc của trường phái này là Fransois
Quesnay (1694 -1774) và Anne Robert Jacques Turgot (1727 - 1771).
II.CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CƠ BẢN CỦA TRƯỜNG PHÁI TRỌNG NÔNG
1. Sự phê phán chủ nghĩa Trọng Thương
Sự phê phán CNTT của trường phái trọng nông được thể hiện trong tác
phẩm “Bàn về thương mại” (1760) và một số tác phẩm khác của Fransois Quesnay.
Những người trọng nông cho rằng, lợi nhuận thương nghiệp có được
chẳng qua là nhờ tiết kiệm chi phí thương mại. Vì theo họ thương mại chỉ đơn
thuần là “việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như thế” và
trong quá trình trao đổi nếu xét dưới hình thức thuần túy thì cả người mua lẫn
người bán đều chẳng có gì để mất hay được cả. Thương nghiệp không sinh ra
được của cải. Trao đổi không sản xuất ra được gì cả, trao đổi không làm tài sản
cho tăng lên, của cải được tạo ra trong sản xuất, còn trong trao đổi thì chỉ có sự
trao đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử dụng khác mà thôi. PAGE \* MERGEFORMAT 108
Các học giả phái Trọng Nông cho rằng một quốc gia cường thịnh phải là
một quốc gia trong đó dân chúng có những số lượng của cải kinh tế dồi dào,
trước hết là lương thực, thực phẩm, để thỏa mãn các nhu cầu của đời sống
thường ngày, chứ không phải ở khối lượng tiền tệ vàng bạc nhiều hay ít.
Trong một quốc gia có số lượng nông sản càng gia tăng thì đời sống càng
dễ chịu, và nếu như thừa nông sản thì có thể đem ra nước ngoài đổi lấy những
vật phẩm không sản xuất được trong nước.
Như vậy, những người Trọng Nông đã chứng tỏ sự trưởng thành trong
quan điểm kinh tế của mình, phản ánh một giai đoạn mới (một cuộc cách mạng)
trong sự phát triển tư tưởng kinh tế thế kỷ XVIII. Đây là sự tiến bộ to lớn so với chủ nghĩa Trọng Thương.
2. Học thuyết về “trật tự tự nhiên”
Học thuyết trật tự tự nhiên là cơ sở lý luận chủ yếu của những người
Trọng Nông. Họ dùng học thuyết đó để đi đến những kết luận kinh tế. Theo học
thuyết này thì tính quy luật giữ vị trí thống trị trong tự nhiên và xã hội. Có hai
loại quy luật: quy luật vật lý tác động trong lĩnh vực tự nhiên và quy luật luân lý
tác động trong lĩnh vực xã hội. Hai quy luật đó giống nhau về tính chất, chúng
đều tất yếu như nhau và tồn tại vĩnh viễn, chúng chỉ khác nhau ở chỗ hoạt động
trong những lĩnh vực khác nhau.
Họ kêu gọi tuân theo quyền tự nhiên và trật tự tự nhiên và coi đó là quyền
chính đáng tối cao và cơ bản của con người. Đối lập với quyền tự nhiên là quyền luật pháp đem lại.
Nội dung cơ bản của học thuyết “trật tự tự nhiên” là :
- Thừa nhận vai trò của tự do cá nhân của con người, coi đó là luật tự
nhiên của con người không thể thiếu được. Họ coi sự lệ thuộc phong kiến là trái
với quy luật. Quesnay cho rằng: các nghĩa vụ phong kiến dựa trên luật pháp
thông thường là điều trái với luật tự nhiên.
- Chủ trương có tự do cạnh tranh giữa nhũng người sản xuất. Quesnay đưa
ra khẩu hiệu ‘tự do buôn bán, tự do hoạt động’’ (laisseg passex, laisseg faire).
Họ coi phường hội, một tổ chức kinh tế trong chế độ phong kiến, là một trở ngại
cho sự phát triển của CNTB thành thị.
- Thừa nhận quyền bất khả xâm phạm đối với chế độ tư hữu. Nhà nước
không can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ đóng vai trò như người làm vườn.
Thực chất đây là tư tưởng tự do kinh tế. Phái Trọng Nông yêu cầu phải
thừa nhận quyền bất khả xâm phạm đối với chế độ tư hữu. Quyền tư hữu là một
phần thưởng cho công lao xứng đáng của người giàu, còn người nghèo không có
những đức tính cần thiết để tích lũy tư bản, làm giàu cho nên không được phần PAGE \* MERGEFORMAT 108
thưởng này. Như vậy, ta thấy “luật tự nhiên” chính là luật tư sản. Họ đề nghị đối
xử với chủ nghĩa tư bản như đối với hiện tượng hợp quy luật. Nhà nước không
nên can thiệp vào nền kinh tế. Tự do kinh doanh là chính sách hợp lý nhất. Nhà
nước chỉ nên làm nhiện vụ bảo đảm an ninh. Nền tảng của một trật tự xã hội là
“tư hữu, an ninh, tự do”.
3. Học thuyết “sản phẩm thuần túy” (sản phẩm ròng)
Học thuyết về sản phẩm thuần túy là điểm trung tâm của hệ thống lý luận
của CNTN và là biểu hiện độc đáo nhất trong tư tưởng kinh tế của phái này.
Những người trọng nông cho rằng sản phẩm thuần túy được tạo ra trong
nông nghiệp. Nó là số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất. Nó là
số dôi ra ngoài chi phí sản xuất.
Theo F.Quesnay, có hai nguyên tắc hình thành giá trị hàng hóa tương ứng
với hai lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp giá trị
hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất (bao gồm chi phí về nguyên liệu, tiền lương
công nhân, tiền lương nhà tư bản công nghiệp và chi phí bổ sung của tư bản
thương nghiệp). Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp giá trị hàng hóa bằng tổng
chi phí (như trên) cộng với sản phẩm thuần túy.
Như vậy, sản phẩm thuần túy chỉ được tạo ra trong sản xuất nông nghiệp,
còn công nghiệp không tạo ra sản phẩm thuần túy.
Phái Trọng Nông giải thích nguyên nhân sự việc này là do trong công
nghiệp quá trình tạo ra sản phẩm mới chỉ là quá trình kết hợp giản đơn những
chất cũ mà không có sự tăng thêm về chất nên không tạo ra sản phẩm thuần túy.
Công nghiệp chỉ biến đổi của cải hiện có mà không làm tăng thêm của cải ấy.
Còn đối với sản xuất nông nghiệp, quá trình tạo ra sản phẩm không có sự kết
hợp chất song được sự giúp đỡ của tự nhiên nó có thể làm tăng thêm chất mới và
tạo ra sản phẩm thuần túy. Ví dụ: khi gieo một hạt lúa xuống đồng, sau một thời
gia nó trổ bông, kết quả cho hàng chục hạt mới. Đó là sự tăng thêm về chất và
như vậy chỉ có nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần túy.
Karl Marx nhận xét: “Trong khi muốn chứng minh rằng sản phẩm thuần
túy chỉ hình thành trong sản xuất, nhưng chưa hiểu đươc thục thể của giá trị và
sự hình thành giá trị, thì phái trọng nông chủ nghĩa ắt phải viện đến ngành nông
nghiệp là ngành duy nhất cho thấy về tự nhiên hoàn lại cho lao động một số lượng sản phẩm”.
Từ học thuyết sản phẩm thuần túy, F.Quesnay đưa ra lý thuyết lao động
sản xuất và lao động không sản xuất.
Lao động sản xuất là lao động tạo ra sản phẩm thuần túy. Lao động nào
không tạo ra sản phẩm thuần túy là lao động không sản xuất hoặc không sinh PAGE \* MERGEFORMAT 108
lời. Như vậy, lao động nông nghiệp tạo ra tạo ra sản phẩm thuần túy là lao động
sản xuất, còn lao động công nghiệp là lao động không sản xuất. Tuy nhiên, ông
không coi lao động công nghiệp là ăn bám vào nông nghiệp.
Cũng từ học thuyết sản phẩm thuần túy, Quesnay đưa ra lý thuyết giai cấp.
Ông chia xã hội thành ba giai cấp là giai cấp sản xuất (là những người tạo ra sản
phẩm thuần túy, họ là những chủ đồn điền và công nhân của họ), giai cấp không
sản xuất (bao gồm những nhà tư bản công nghiệp, thương nghiệp và công nhân
của họ) và giai cấp sở hữu (đó là những người chủ ruộng đất, nhờ đó họ chiếm
hữu sản phẩm thuần túy tạo ra).
Từ những lập luận trên, phái Trọng Nông cho rằng chính sách của nhà
nước cần coi trọng nông nghiệp, ưu tiên cho nông nghiệp. Ưu tiên cho nông
nghiệp dẫn tới sự giàu có cho toàn xã hội, tiền bạc không là gì cả, sản xuất thực tế mới là tất cả.
4. Lý thuyết tái sản xuất – Biểu kinh tế Quesnay (1694-1774)
F. Quesnay là người sáng lập ra trường phái Trọng Nông, ông là con của
một chủ ruộng nhỏ. Là người có năng lực phi thường, năm 1718 ông nhận được
học vị phẩu thuật gia, năm 1749 trở thành quan ngự y, sống trong cung điện
Vecxay. Năm 1752 do trung thành phục vụ hoàng đế nên được phong tước vị
quý tộc. Mãi đến năm 1753, ông mới nghiên cứu kinh tế. Các tác phẩm cơ bản
của ông là “Bàn về thương mại” (1760), “Biểu kinh tế” (1758), “Phân tích biểu kinh tế” (1766)…
Vào cuối thế kỷ XVIII, F.Quesnay phát triển mô hình kinh tế vĩ mô đầu
tiên: "Biểu kinh tế". Những ý tưởng của ông đánh dấu một cột mốc quan trọng
trong lịch sử tư tưởng kinh tế và tác động đến nhiều tác giả, trong đó có K.Marx và J.M.Keynes.
Qua cuốn "Biểu kinh tế", ông cho thấy tiền bạc và hàng hóa phải lưu
thông như thế nào để đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Việc phân tích một cách
khoa học tái sản xuất xã hội là một cống hiến to lớn cho khoa học kinh tế.
Trước hết ông đưa ra các giả định rằng:
Giai cấp sản xuất có 5 tỷ sản phẩm, trong đó :
- Một tỷ được dùng làm khấu hao cho tư bản được ứng trước đầu tiên;
- 2 tỷ làm tư bản ứng trước hằng năm;
- 2 tỷ làm sản phẩm thuần túy.
Giai cấp không sản xuất có 2 tỷ sản phẩm, trong đó:
- 1 tỷ dùng để tiêu dùng cá nhân cho giai cấp không sản xuất;
- 1 tỷ dùng làm nguyên liệu. PAGE \* MERGEFORMAT 108
Giai cấp sở hữu có 2 tỷ tiền, ngang bằng 2 tỷ sản phẩm thuần túy mà giai
cấp này thu được hằng năm.
Quá trình vận động của sản phẩm xã hội, tiền tệ trải qua năm hành vi cơ
bản, được biểu diễn qua sơ đồ sau: Giai cấp sở hữu 2 tỷ tiền <- 1 tỷ tiền 1 tỷ tiền -> Giai cấp không sản xuất 2 tỷ sản phẩm Giai cấp sản xuất
1 tỷ sản phẩm nông nghiệp -> <-1 tỷ hàng công ngiệp 5 tỷ sản phẩm <-1 tỷ tiền
1 tỷ sản phẩm nông nghiệp -> Giai cấp sản xuất Giai cấp không sản xuất 1 tỷ tiền -> 5 tỷ sản phẩm 2 tỷ sản phẩm
<- 1 tỷ hàng công nghiệp (TLSX) <-1 tỷ tiền
1 tỷ hàng công nông nghiệp (NVL) -> Giai cấp sản xuất 5 tỷ sản phẩm
Giai cấp sỡ hữu thu được từ giai cấp sản xuất 2 tỷ tiền tệ, giai cấp này
không sản xuất mà chỉ có tiêu dùng sản phẩm thuần túy.
- Hành vi 1: giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tệ để mua một tỷ nông
phẩm của giai cấp sản xuất để tiêu dùng. Như vậy giai cấp sản xuất đã thực hiện
được 1/5 sản phẩm của mình và thu được một tỷ tiền.
- Hành vi 2: giai cấp sở hữu tiếp tục dùng 1 tỷ tiền còn lại để mua một tỷ
sản phẩm công nghiệp của giai cấp không sản xuất đã thực hiện được ½ sản
phẩm và thu được 1 tỷ tiền.
- Hành vi 3: giai cấp không sản xuất dùng một tỷ tiền mặt có được này
để mua một tỷ sản phẩm nông nghiệp của giai cấp sản xuất về làm tư liệu sinh
hoạt cho giai cấp không sản xuất. Như vậy giai cấp sản xuất đã thực hiện được
2/5 sản phẩm của mình và có 2 tỷ tiền. PAGE \* MERGEFORMAT 108
- Hành vi 4: giai cấp sản xuất dùng một tỷ tiền để mua 1 tỷ sản phẩm
công nghiệp từ giai cấp không sản xuất để làm tư liệu sản xuất. Vậy giai cấp
không sản xuất đã thực hiện xong sản phẩm của mình và có được một tỷ tiền.
- Hành vi 5: giai cấp không sản xuất lại đem một tỷ tiền vừa nhận được
mua của giai cấp sản xuất 1 tỷ sản phâm nông nghiệp về là nguyên liệu.
Kết quả là giai cấp sản xuất đã bán 3 tỷ nông phẩm có được 3 tỷ tiền. Một
tỷ dùng mua tư bản ứng trước đầu tiên và 2 tỷ nộp cho giai cấp sở hữu dưới hình
thức địa tô để tiếp tục được thuê ruộng. Hai tỷ nông phẩm còn lại dùng làm tư bản ứng trước.
Giai cấp không sản xuất bán hai tỷ công nghệ phẩm thu được 2 tỷ tiền. 1
tỷ dùng mua nông phẩm để tiêu dùng cá nhân, 1 tỷ dùng mua nông phẩm để làm nguyên liệu.
Giai cấp sở hữu có hai tỷ tiền và dùng để mua tư liệu tiêu dùng.
Như vậy có thể tiếp tục quá trình tái sản xuất giản đơn
Về ý nghĩa của “biểu kinh tế”, Karl Marx cho rằng đó là sơ đồ đại cương
về tái sản xuất. Ở đây, F.Quesnay nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, kết hợp
phân tích hai mặt giá trị sử dụng và giá trị, tư bản cố định chuyển hết vào sản
phẩm sau một quá trình sản xuất, dựa vào nguyên tắc tiền quay về điểm xuất
phát, trừu tượng hóa ngoại thương.
Tuy nhiên người ta không thấy được cơ sở tái sản xuất mở rộng trong
công nghiệp cũng như trong nông nghiệp. F.Quesnay đã đánh giá sai về vai trò sản xuất công nghiệp.
Mặc dù sơ đồ tái sản xuất của F. Quesnay còn quá đơn giản nhưng có ý
nghĩa to lớn về phương pháp luận. Nó trình bày sự lưu thông hàng hoá với vai
trò trung gian của tiền tệ. Sự lưu thông này là khách quan, bị chi phối bởi những
quy luật có thể phát hiện ra được. Như vậy ông là người đầu tiên nêu lên vấn đề
lưu thông của cải để tái sản xuất trong phạm vi toàn xã hội và đưa lại cho môn
kinh tế học tính khoa học với tư tưởng về các quy luật khách quan.
Đánh giá biểu kinh tế của F. Quesnay, C. Mác khẳng định: “đó là sự trình
bày toàn bộ quá trình tái sản xuất tư bản, còn lưu thông thì chỉ với tư cách là
hình thái của quá trình tái sản xuất. .thực hiện vào giữa thế kỷ XVII là một tư
tưởng hết sức thiên tài, thiên tài nhất trong tất cả các tư tưởng mà khoa kinh tế
chính trị đã đề ra được cho đến ngày nay”1
5. Sự phát triển các tư tưởng kinh tế Trọng Nông của Anne Robert Jacques Turgot (1727 -1771)
1 C. Mác. ., Toàn tập, sđd, tập 26, phần I, Trg. 446 PAGE \* MERGEFORMAT 108
Là một nhà tư tưởng lỗi lạc và nhà hoạt động chính trị lớn của Pháp, tác
phẩm chính của ông là “Suy nghĩ về việc hình thành và phân phối của cải” xuất bản năm 1776.
A.Turgot tiếp thu luận điểm chủ yếu của phái Trọng Nông, tán thành
những quan điểm của F.Quesnay về vai trò của nông nghiệp trong việc sản xuất
sản phẩm thuần túy, đồng thời ông còn phát triển thêm những quan điểm đó.
- Ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm tư bản: tư bản không phải tiền tệ,
mà là giá trị của tiền tệ được tích lũy lại. Theo ông đất đai cũng là tư bản. Đồng
thời ông cũng là người đầu tiên chia tư bản thành tư bản lưu động và tư bản cố định.
- A.Turgot đã phát triển qua niệm đặc trưng của phái trọng nông về cơ cấu
giai cấp xã hội. Ông chia xã hội thành 5 giai cấp: giai cấp công nhân nông
nghiệp, giai cấp nhà tư bản nông nghiệp, giai cấp công nhân công nghiệp, giai
cấp nhà tư bản công nghiệp và giai cấp sở hữu.
Như vậy so với F.Quesnay, Turgot đã thấy được một giai cấp tư bản riêng
biệt trong nông nghiệp và công nghiệp. Nhưng đồng thời ông đã lẫn lộn hai
nguyên tắc phân chia giai cấp: dựa vào quan hệ đối với đối với tư liệu sản xuất
và dựa vào ngành hoạt động sản xuất.
A.Turgot cũng là người đầu tiên nêu ra quy luật tiền công: tiền công phải
được thu hẹp ở mức tư liệu sinh hoạt tối thiểu. Ông là người ủng hộ “quy luật sắt
về tiền công”. Ông cho tiền công của công nhân có thể thu hẹp ở mức tối thiểu
vì cung lớn hơn cầu lao động.
- Ông đã chỉ ra một cách đúng đắn sự bất hạnh của công nhân về kinh tế,
sự cạnh tranh của họ và quyền của nhà tư bản có thể lựa chọn sức lao đông nào
rẻ nhất trong số hiện có.
- Một vấn đề mới được ông nêu lên là nguyên lý về sự bình quân hóa tỷ
suất lợi nhuận trong các ngành khác nhau. Ông nói rằng những tư bản bằng nhau
thì đem lại thu nhập bằng nhau, không kể chúng được đầu tư vào ngành nào.
Tuy nhiên A.Turgot cũng đã phạm sai lầm, khi đưa ra kết luận về quy luật
màu mỡ của đất đai ngày càng ngày càng giảm.
III. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG NÔNG 1. Thành tựu
Phái Trọng Nông đã thực hiện chuyển đối tượng nghiên cứu kinh tế từ
lĩnh vực lưu thông sang sản xuất. K.Marx đã đánh giá: “phái Trọng Nông đã
chuyển công tác nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu
thông sang lĩnh vực sản xuất trực tiếp, như vậy họ đã đặt cơ sở cho việc phân PAGE \* MERGEFORMAT 108
tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”2. Theo K.Marx, họ là cha đẻ của kinh tế học
hiện đại vì khoa học thật sự của kinh tế học hiện đại chỉ bắt đầu từ lúc mà việc
nghiên cứu lý luận chuyển từ nghiên cứu quá trình lưu thông sang nghiên cứu quá trình sản xuất.
Phái Trọng Nông đã nêu khái niệm sản phẩm thuần túy, khẳng định đúng
đắn lưu thông không tạo giá trị, nó chỉ làm thay đổi hình thái của giá trị và họ
ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế. 2. Hạn chế
- Việc cho rằng chỉ có nông nghiệp mới là ngành sản xuất đã dẫn đến xem
nhẹ vai trò của các ngành sản xuất khác, do đó quan điểm của họ còn mang tính phiến diện.
- Chưa phân tích được các khái niệm cơ bản của kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa (hàng hoá, tiền tệ, giá trị, lợi nhuận. .) do đó, chưa thấy được mối liên
hệ bản chất của nền sản xuất.
- Những người Trọng Nông bênh vực cho chủ nghĩa tư bản. Họ không
bênh vực cho nông nghiệp nói chung mà bênh vực cho nông nghiệp kinh doanh
theo lối tư bản chủ nghĩa, vạch ra sự cần thiết phải chuyển sang kinh doanh nông
nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng phái Trọng Nông đã có nhiều đóng góp
quý báu cho khoa học kinh tế nhất là các quan điểm về vai trò sản xuất nông
nghiệp tạo ra sự giàu có, sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu
động, và đặc biệt họ đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu tái sản xuất xã hội.
2 D.I.Rodenbe, sách đọc dẫn Tr.80 PAGE \* MERGEFORMAT 108 PAGE \* MERGEFORMAT 108