Giáo trình Luật Kinh Tế - Luật Dân sự | Trường Đại Học Công Đoàn

Hiện nay, Nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo[1]. Như vậy, chủ thể kinh doanh không chỉ là các tổ chức kinh tế mà chủ sở hữu là Nhà nước mà còn có nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác cùng tham gia kinh doanh bình đẳng. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Môn:
Trường:

Đại học Công Đoàn 205 tài liệu

Thông tin:
183 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Giáo trình Luật Kinh Tế - Luật Dân sự | Trường Đại Học Công Đoàn

Hiện nay, Nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo[1]. Như vậy, chủ thể kinh doanh không chỉ là các tổ chức kinh tế mà chủ sở hữu là Nhà nước mà còn có nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác cùng tham gia kinh doanh bình đẳng. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

28 14 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|47205411
lOMoARcPSD|47205411
BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
lOMoARcPSD|47205411
lOMoARcPSD|47205411
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ
HỘI Ban biên soạn:
1. Chủ biên: TS. Đào Xuân Hội
2. Thành viên: ThS. Lê Thị Toàn
TS. Vũ Thị Lan Hương
TS. Khuất Thị Thu Hiền
TS. Nguyễn Thị Tuyết Vân
GIÁO TRÌNH
LUẬT KINH TẾ
(Dùng đào tạo trình độ: Đại học)
LƯU HÀNH NỘI BỘ
HÀ NỘI, NĂM 2021
MỤC LỤC
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ 4
1. Khái niệm Luật kinh tế 4
2. Chủ thể của Luật Kinh tế 5
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường 13
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT
KINH TẾ 18
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
18
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế 21
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ 22
1. Các văn bản quy phạm pháp luật 22
2. Các Điều ước quốc tế 23
3. Các tập quán 24
4. Áp dụng án lệ 25
CÂU HỎI ÔN TẬP 25
CHƯƠNG II. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP 26
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP 26
1. Lược sử pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam 26
2. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp 29
3. Phân loại doanh nghiệp 32
4. Thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp và tạm ngừng kinh doanh
32
5. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
44
II. CÁC LOẠI DOANH NGHIỆP 45
1. Công ty cổ phần 45
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên 69
3. Công ty TNHH một thành viên. 80
4. Công ty hợp danh
87
5. Doanh nghiệp tư nhân 95
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 98
CHƯƠNG III. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC XÃ 99
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ
99
lOMoARcPSD|47205411
1. Khái niệm hợp tác xã
99
2. Đặc điểm của hợp tác xã
100
II. THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ HỢP TÁC XÃ 102
1. Thành lập hợp tác xã
102
2. Tổ chức lại hợp tác xã
106
3. Giải thể hợp tác xã 107
III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỢP TÁC XÃ 109
1. Quyền của hợp tác xã
109
2. Nghĩa vụ của hợp tác xã
109
IV TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỢP TÁC XÃ 110
1. Đại hội thành viên 110
2. Hội đồng quản trị
112
3. Giám đốc/Tổng Giám đốc 113
4. Ban kiểm soát, kiểm soát viên 114
V. THÀNH VIÊN HỢP TÁC XÃ 115
1. Điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã 115
2. Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã 116
3. Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã 117
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III
119
CHƯƠNG IV: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH DOANH 120
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘ KINH DOANH
120
1. Lược sử phát triển hộ kinh doanh 120
2. Khái niệm, đặc điểm hộ kinh doanh 121
II. ĐĂNG KÝ KINH DOANH HỘ KINH DOANH 123
1. Điều kiện đăng ký kinh doanh 123
2. Tạm ngừng hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh 130
3. Chấm dứt hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh
130
IV QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘ KINH DOANH
133
1. Quyền của hộ kinh doanh
133
2. Nghĩa vụ của hộ kinh doanh 134
CHƯƠNG V PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
136
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI 136
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI 136
1. Khái niệm 136
2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại 136
II. CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 136
1. Trọng tài thương mại 136
2.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân
156
CHƯƠNG VI. PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN 180
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 180
1. Khái niệm phá sản và pháp luật về phá sản 180
2. Phân loại phá sản
181
3. Đối tượng áp dụng của Luật Phá sản 182
4. So sánh phá sản với giải thể
183
5. Tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản 184
II. THỦ TỤC PHÁ SẢN
186
lOMoARcPSD|47205411
1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
187
2. Mở thủ tục phá sản 195
3. Phục hồi kinh doanh 205
4. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 210
5. Thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 212
CÂU HỎI ÔN TẬP 213
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
2. TCKDTM: Tranh chấp kinh doanh thương mại
3. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
4. TAND: Tòa án nhân dân
5. UBND: Ủy ban nhân dân
6. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, tập bài giảng Pháp luật về kinh tế của Trường đại học Lao
động hội do thạc Nguyễn Thị Tuyết Vân chủ biên, xuất bản năm 2008, tái bản
năm 2013, Giáo trình Luật Kinh tế do của Trường Đại học Lao động hội do TS.
Nguyễn Thanh Huyền chủ biên, xuất bản năm 2018 đã được đưa vào sử dụng giảng dậy
cho sinh viên hệ Đại học của Nhà trường.
Trước sự thay đổi của nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Luật doanh nghiệp
năm 2020, nhiều nội dung chính của giáo trình đã không còn phù hợp. Khoa Luật quyết
định biên soạn Bộ giài giảng Luật Kinh tế để sử dụng như một giáo trình trong việc
giảng dậy môn Luật Kinh tế cho sinh viên ngành Luật Kinh tế sinh viên các ngành
khác của Nhà trường. Bài giảng này được kế thừa từ Giáo trình Luật Kinh tế năm 2018
của Nhà trường phát triển, biên soạn mới các nội dung cho phù hợp. Nội dung
người chịu trách nhiệm biên soạn cụ thể như sau:
Nội dung Tác giả
Chương I. Khái quát chung về luật kinh tế TS. Đào Xuân Hội
Chương II. Địa vị pháp lý của doanh TS. Vũ Thị Lan Hương
nghiệp
Chương III. Địa vị pháp lý của hợp tác xã TS. Khuất Thị Thu Hiền
Chương IV. Địa vị pháp lý của hộ kinh ThS. Lê Thị Toàn
doanh
Chương V. Pháp luật về giải quyết tranh TS. Nguyễn Thị Tuyết Vân
chấp kinh doanh
Chương VI. Pháp luật về phá sản doanh TS. Đào Xuân Hội
nghiệp, hợp tác xã
Mặc dù, bài giảng đã được tổ chức biên soạn cẩn thận nhằm đáp ứng yêu cầu về
giảng dạy, đào tạo cho sinh viên của Trường Đại học Lao động hội nhưng không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của các đồng nghiệp, nhà nghiên cứu, các em sinh viên bạn đọc để hoàn thiện giáo
trình này.
Thay mặt tập thể tác giả
lOMoARcPSD|47205411
Chủ biên
TS. Đào Xuân Hội
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LUẬT KINH
TẾ Mục tiêu của Chương I
Mục tiêu của Chương I yêu cầu người học phải nắm được khái quát chung về Luật
Kinh tế như khái niệm, chủ thể, vai trò của Luật Kinh tế trong nền kinh tế thị trường; nắm
được đối tượng, phạm vi điều chỉnh phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế cũng
như nguồn của Luật Kinh tế . Vận dụng được các quy định của pháp luật để giải quyết các
tình huống phát sinh trên thực tế.
Những nội dung chính của Chương I
- Khái quát chung về Luật Kinh tế
- Đối tượng, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế
- Nguồn của Luật Kinh tế
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ
1. Khái niệm Luật kinh tế
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo
[1]
. Như vậy, chủ thể kinh doanh không chỉcác tổ chức kinh tế
chủ sở hữu Nhà nước còn nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác
cùng tham gia kinh doanh bình đẳng. Các chủ thể kinh doanh được tự do chọn lựa ngành
nghề mà pháp luật không cấm để tiến hành kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Do đó, vai trò điều chỉnh của pháp luật nói chung và lĩnh vực pháp luật kinh tế nói
riêng đối với các hoạt động kinh tế hiện nay bao gồm nhiều nội dung nhấn mạnh đến các
quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
Nếu nhấn mạnh vào khía cạnh điều chỉnh này, trong hoạt động nghiên cứu xuất hiện quan
điểm gọi Luật kinh tế là Luật kinh doanh và cho rằng Luật kinh doanh là ngành luật trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong quá trình
tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, còn nhiều cách tiếp cận
đối với vấn đề pháp luật kinh tế. Ngoài khái niệm về Luật kinh doanh trên, một số
chuyên gia còn gọi Luật thương mại. Khái niệm y xuất phát từ một khía cạnh nhất
định của nền kinh tế thị trường, đó tập trung vào tiếp cận đến các hành vi thương mại
cụ thể như mua n, trao đổi hàng hóa, đại lý, gửi... Với cách tiếp cận này, ưu điểm
quan trọng nhất là liệt kê chi tiết các hoạt động thương mại để các chủ thể kinh doanh lựa
chọn khi tiến nh kinh doanh. Nhưng cùng với đó, cách tiếp cận này sẽ làm hạn chế
những ý tưởng kinh doanh mới, đặc biệt hạn chế sự hình thành những hoạt động kinh
doanh vừa không trái pháp luật vừa đem lại lợi ích cho nhân toàn hội hoặc
không bao quát hết các hoạt động kinh doanh mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường.
Quy luật khách quan tất yếu khi hội phát triển đến một trình độ nhất định sẽ kéo
theo các hoạt động kinh doanh mới, khi đó pháp luật sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời hoặc
không theo kịp để điều chỉnh phù hợp với ý chí của Nhà nước.
lOMoARcPSD|47205411
Tóm lại, có thể hiện với các tên gọi khác nhau thì ngành luật này cũng đều
hướng đến điều chỉnh các quan hệ hội phát sinh trong quá trình kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh và quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh đó với các cơ
quan quản nhà nước. vậy, với cách tiếp cận từ đối tượng điều chỉnh các quan hệ
hội của ngành luật này nên đặt n gọi ngành Luật kinh tế được coi đầy đủ phù
hợp. Phương pháp tiếp cận này vừa đảm bảo bao quát hết các hoạt động của các chủ thể
kinh doanh với nhau trong toàn bộ quá trình kinh doanh, vừa chỉ ra các quyền nghĩa
vụ các chủ thể y trong mối quan hệ với chủ thể đặc biệt nhà nước. Trên sở
khung luận đó, giáo trình này đưa ra khái niệm: Luật kinh tế tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ hội phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức,
quản chấm dứt các hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Theo đó, nội dung của Luật kinh tế trong giáo trình này tập trung nghiên cứu các chế
định pháp lý về kinh doanh như sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hội liên quan đến
việc hình thành và xác lập địa vị pháp lý nói chung của các chủ thể kinh doanh đó là:
- Doanh nghiệp gồm: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH),
công ty TNHH 1 thành viên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
- Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã
- Hộ kinh doanh
Thứ hai, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hội phát sinh trong
việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh như: Quy định
về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh tại trọng tài thương mại hay quy định về việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh tại tòa án nhân dân.
Thứ ba, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hội diễn ra trong quá
trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
2. Chủ thể của Luật Kinh tế
2.1. Chủ thể kinh doanh
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chủ thể kinh doanh
Để hiểu thế nào chủ thể kinh doanh, chúng ta cần tìm hiểu kinh doanh gì?
Theo từ điển tiếng Việt thì “kinh doanh” được hiểu tổ chức việc sản xuất, buôn n,
dịch vụ nhằm mục đích sinh lời”
[2]
. Dưới góc độ pháp thì “Kinh doanh việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận.”
[3]
. Tuy nhiên, thực tế còn những chủ thể chỉ thực hiện các hoạt đông kinh
doanh đơn lẻ, không thường xuyên như môi giới bất động sản, chứng khoán, tư vấn... nên
dưới góc độ pháp lý cần được tham chiếu đến pháp luật chuyên ngành khác.
Với khái niệm “kinh doanh” rộng như vậy ta có thể hiểu chủ thể kinh doanh là bất
kỳ nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực
hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Chủ thể kinh doanh được phân biệt với các tổ chức, cá nhân khác bởi các đặc điểm
cơ bản sau:
lOMoARcPSD|47205411
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh phải được thành lập hợp pháp hoặc được công
nhận.
Điều đó nghĩa chủ thể kinh doanh phải được quan nhà nước thẩm
quyền ra quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Với đặc điểm này,
chúng ta khẳng định đây những chủ thể kinh doanh hợp pháp, chủ thể y được kinh
doanh tất cả những ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì những chủ thể kinh doanh phải đăng
thành lập như: Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh nhưng
cũng có những chủ thể kinh doanh thể đăng hoặc không phải đăng kinh doanh
như hộ kinh doanh hoặc nhân kinh doanh những ngành nghề pháp luật quy định
không phải đăng ký. Các chủ thể không phải đăng kinh doanh chủ yếu thực hiện hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản làm muối theo quy định của pháp
luật đối với các hộ kinh doanh “tự sản tự tiêu” và hộ kinh doanh có thu nhập thấp, căn cứ
quy định tại từng địa phương. Đối với cá nhân hoạt động thương mại mà không phải đăng
kinh doanh được quy định tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
16/3/2007 về nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải
đăng kinh doanh. Theo đó, nhân hoạt động thương mại phải tuân thủ pháp luật về
thuế, giá, phí lệ phí liên quan đến hàng hóa, dịch vụ kinh doanh. Trường hợp kinh
doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống, cá nhân hoạt động thương mại phải bảo đảm đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với việc kinh
doanh loại hàng hóa, dịch vụ này. Nghiêm cấm nhân hoạt động thương mại gian lận
trong cân, đong, đo đếm cung cấp các thông tin sai lệch, dối trá hoặc thông tin dễ gây
hiểu lầm về chất lượng của hàng hóa, dịch vụ hoặc bản chất của hoạt động thương mại
mà mình thực hiện...
Những chủ thể nhân hoạt động thương mại nhân tự mình hàng ngày
thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không
thuộc đối tượng phải đăng kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng kinh
doanh không gọi “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại. C thể bao
gồm những cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây:
a) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không địa điểm cố
định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách
báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm này
theo quy định của pháp luật để bán rong;
b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có
địa điểm cố định;
c) Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc
không có địa điểm cố định;
d) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để
bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;
đ) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ
xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh các dịch vụ khác hoặc không địa điểm cố
định;
lOMoARcPSD|47205411
e) Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký
kinh doanh khác.
[4]
Thứ hai, chủ thể kinh doanh phải có tài sản đưa vào kinh doanh.
Đây s vật chất không thể thiếu để chủ thể này tiến hành hoạt động kinh
doanh theo quan điểm truyền thống. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản
[5]
được ghi nhận bởi pháp luật dân sự, luật kế toán và các luật khác có liên quan.
Nhà nước bảo vệ quyền của chủ thể kinh doanh về tài sản của mình. Nhà nước
công nhận bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, quyền lợi ích hợp
pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp
[6]
.
Tài sản vốn đầu hợp pháp của doanh nghiệp chủ sở hữu doanh nghiệp
không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trường hợp thật
cần thiết, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của doanh nghiệp thì được thanh
toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản. Việc
thanh toán, bồi thường phải bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp không phân biệt đối xử
giữa các loại hình doanh nghiệp.
[7]
Thứ ba, chủ thể kinh doanh phải có thẩm quyền kinh tế.
Thẩm quyền kinh tế tổng thể các quyền nghĩa vụ của một chủ thể được nhà
nước xác nhận trên sở pháp luật trên thực tế. Thẩm quyền kinh tế của một chủ thể
luật kinh tế luôn phải tương ứng với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của nó.
Như vậy, thể thấy thẩm quyền kinh tế giới hạn pháp trong đó các chủ
thể của Luật kinh tế được hành động hoặc phải hành động hoặc không được phép hành
động. Thẩm quyền kinh tế trở thành cơ sở pháp lý để các chủ thể này thực hiện các hành
vi pháp nhằm tạo ra các quyền nghĩa vụ cụ thể cho mình. Mỗi chủ thể kinh doanh
có thẩm quyền rộng, hẹp khác nhau tương ứng với những chức năng, nhiệm vụ và phạm
vi hoạt động của mỗi chủ thể kinh doanh. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định mọi
nhân quyền tự do kinh doanh những ngành nghề pháp luật không cấm
[8]
điều
kiện cần, tuy nhiên để thực hiện các quyền này trên thực tế, các chủ thể kinh doanh có đủ
năng lực chủ thể còn phải thực hiện những hành vi nhất định như đăng kinh doanh để
tiến hành một hoạt động kinh doanh cụ thể nào đó để xác lập thẩm quyền về kinh tế. Một
khi đã thẩm quyền về kinh tế, các chủ thể đều có quyền bình đẳng với nhau trong hoạt
động kinh doanh, tố tụng, hành chính và được pháp luật bảo hộ.
Như vậy, đặc điểm chính của thẩm quyền kinh tế mang tính pháp lý. Để từ đó
các chủ thể kinh doanh thực hiện các hành vi pháp lý nhằm tạo ra cho mình các quyền
nghĩa vụ, đồng thời định giới hạn trong đó các chủ thể kinh doanh được thực
hiện. Thẩm quyền kinh tế của các chủ thể kinh doanh được quy định trong văn bản pháp
luật hiện hành phát sinh trong khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thông
qua quyết định cá nhân trên cơ sở các quy phạm pháp luật.
Thứ tư, chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh.
Hành vi kinh doanh dưới góc độ pháp lý là các hành vi do chủ thể kinh doanh thực
hiện không trái với pháp luật hiện hành, hay nói cách khác các hành vi kinh doanh
pháp luật không cấm hoặc bị hạn chế (kinh doanh điều kiện). Pháp luật hiện hành
không liệt kê những hàng vi kinh doanh nào là được phép mà chỉ quy định những hành vi
kinh doanh nào bị cấm hoặc kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật.
lOMoARcPSD|47205411
Để đủ điều kiện thực hiện các nh vi kinh doanh được liệt trong danh mục
ngành nghề kinh doanh điều kiện, các chủ thể buộc phải đáp ứng các điều kiện đã
được công bố trước trong các quy định của pháp luật đầu tư. Khi thực hiện hành vi kinh
doanh, các chủ thể kinh doanh thực hiện một cách độc lập, nhân danh mình, vì lợi ích của
chính mình tự chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh đó. Khi thực hiệnnh vi kinh
doanh, chủ thể kinh doanh không bị chi phối bởi ý chí của các chủ thể khác được
quyết định bởi ý chí của chính chủ thể kinh doanh.
Đặc điểm quan trọng khi các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh
mang tính chuyên nghiệp, liên tục nhằm tạo ra thu nhập. Ngoài ra, hành vi kinh doanh
của chủ thểy phổ biến được diễn ra trên thị trường nhất định. Một số hành vi sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ sẽ không được coi hành vi kinh doanh nếu chúng không
diễn ra trên thị trường hợp pháp.
Mục tiêu trực tiếp chủ yếu của chủ thể kinh doanh khi thực hiện các hoạt động
kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, một giai
đoạn hay thời điểm nhất định, một số chủ thể thể thực hiện các hoạt động nhằm các
mục tiêu hội, xây dựng thương hiệu... chưa mục đích lợi nhuận nhưng nếu hành vi
đó không phải mục tiêu bản thì các chủ thể y vẫn được coi chủ thể của hoạt
động kinh doanh.
Với các đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy kinh doanh hiểu theo nghĩa chung nhất
hoạt động mang tính nghề nghiệp, chủ thể kinh doanh đã tham gia vào sự phân công
lao động hội; các chủ thể này tiến hành hoạt động kinh doanh mang tính liên tục
mang lại thu nhập cho chính chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh.
2.1.2. Phân loại chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, chủ thể kinh doanh rất phong phú đa dạng. Việc
phân loại chúng cần thiết để xác lập chế điều chỉnh pháp luật phù hợp. Các tiêu chí
phân loại chủ thể kinh doanh được nhìn nhận nhiều phương diện góc độ khác nhau.
Các tiêu chí khác nhau thể được tiếp cận từ mỗi ngành nghiên cứu khoa học khác
nhau. Dưới góc độ khoa học pháp lý, các tiêu chí để phân loại gồm:
Thứ nhất, dựa vào nhóm nguồn luật điều chỉnh hình thức pháp của chủ thể
kinh doanh, chủ thể kinh doanh được phân loại thành:
Các chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp bao gồm các loại
hình sau đây
[9]
: Công ty cổ phần; công ty TNHH (Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Công ty TNHH 1 thành viên); công ty hợp danh doanh nghiệp nhân; nhóm công
ty. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng những quy định cụ thể về Doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp
hội.
Chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Hợp tác bao gồm: Hợp tác
liên hiệp hợp tác xã.
Hộ kinh doanh đăng kinh doanh Hộ kinh doanh, nhân hoạt động kinh
doanh một cách độc lập, liên tục, không phải đăng kinh doanh (gọi chung Hộ kinh
doanh).
Thứ hai, dựa vào cách pháp nhân của chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành pháp nhân và không có tư cách pháp nhân
lOMoARcPSD|47205411
sở quan trọng để xác định một tổ chức được coi pháp nhân hay không
hiện nay theo khái niệm được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015
[10]
. Theo đó, một tổ
chức được công nhận pháp nhân khi đủ các điều kiện sau: (1) Được thành lập hợp
pháp; (2) cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập với nhân, tổ chức khác
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (4) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật
một cách độc lập. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, các chủ thể kinh doanh có
cách pháp nhân gồm: Công ty cổ phần, Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty
TNHH 1 thành viên, Công ty hợp danh. Theo quy định của Luật Hợp tác 2012 thì cả
Hợp tác xã và liên hiệp Hợp tác xã đều có tư cách pháp nhân.
Các chủ thể không cách pháp nhân như: Hộ kinh doanh, doanh nghiệp
nhân. Ngoài việc không thỏa mãn bốn điều kiện trên và được pháp luật chuyên ngành quy
định không cách pháp nhân, các chủ thể thuộc nhóm này đặc điểm tương đối
giống nhau là tổ chức đơn giản, quy nhỏ và chịu trách nhiệm vô hạn về các hoạt động
kinh doanh. Các chủ thể hộ kinh doanh doanh nghiệp nhân phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài sản của hộ kinh doanh, doanh
nghiệp tư nhân, kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh.
Thứ ba, dựa vào phạm vi trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành chủ thể kinh doanh trách nhiệm hạn chủ thể kinh doanh
TNHH.
Trách nhiệm hạn hay TNHH tính chất của chế độ bảo đảm i sản của các
chủ thể kinh doanh khi các chủ thể này tham gia các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, trách
nhiệm này chỉ đặt ra khi các chủ thể kinh doanh khi làm thủ tục phá sản hoặc trong một
số trường hợp nhất định đối với thành viên tham gia với tư cách là chủ thể độc lập.
Trách nhiệm hạn được hiểu sự chịu trách nhiệm đến cùng về tài sản của chủ
thể kinh doanh khi chủ thể này phá sản. Điều đó nghĩa là, khi tài sản đưa vào kinh
doanh của chủ thể kinh doanh không đủ để thanh toán hết các khoản nợ nghĩa vụ tài
sản của chủ thể kinh doanh thì tài sản không đưa vào kinh doanh của riêng họ cũng được
đưa ra thanh toán cho các chủ nợ. TNHH được hiểu sự giới hạn trả nợ của một schủ
thể kinh doanh (cũng như giới hạn sự trả nợ của nhà đầu tư). Điều đó thể hiểu rằng,
chủ thể kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác
của mình tương ứng với số tài sản được đưa vào kinh doanh chủ thể còn lại trong
trường hợp bị tuyên bố phá sản. Điều này cũng đồng nghĩa với quan điểm trong quá trình
kinh doanh các chủ thể phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung này còn liên quan đến mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với thành
viên của nó. Theo đó, nếu chủ thể kinh doanh pháp nhân, thì pháp nhân skhông chịu
trách nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện
không nhân danh pháp nhân, còn thành viên thì không chịu trách nhiệm dân sự thay cho
pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện
[11]
. Mối quan hệ về
chế độ trách nhiệm còn được thể hiện các quy định đối với các loại hình doanh
nghiệp trong hoạt động kinh doanh Luật Doanh nghiệp năm 2020. Cụ thể, thành viên
công ty TNHH hay cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợcác
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong vi số vốn cam kết góp hoặc đã góp vào
doanh nghiệp. Như vậy, thành viên của hai chủ thể kinh doanh trên (gọi chung là doanh
lOMoARcPSD|47205411
nghiệp) đương nhiên được giải phóng khỏi trách nhiệm tài sản hạn khi hoàn thành
nghĩa vụ góp vốn. TNHH hay trách nhiệm hạn một khi được đề cập phải xem xét đến
không chỉ phạm vi trách nhiệm của chủ thể kinh doanh còn chỉ phạm vi trách
nhiệm của các thành viên hình thành nên chủ thể kinh doanh đó.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối với hợp tác xã, công ty cổ phần
công ty TNHH, thành viên chịu TNHH trong phạm vi phần vốn góp của mình, doanh
nghiệp chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản đang sở hữu trong quá trình kinh doanh
hoặc còn lại của mình khi phá sản. dụ, công ty TNHH một thành viên thì chủ sở hữu
công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Các chủ thể kinh doanh còn lại công ty hợp danh,
doanh nghiệpnhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp vànhân
thành viên hợp danh hoặc chủ doanh nghiệp nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình, cả tài sản đưa vào kinh doanh tài sản không đưa vào kinh doanh; Thành
viên hợp danh của công ty hợp danh chủ doanh nghiệp nhân, chủ hộ kinh doanh
cũng có chế độ trách nhiệm vô hạn chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của hộ kinh doanh mà nó tham gia hoặc thành lập.
2.2. Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
Quản nhà nước về kinh tế một trong các hoạt động quản nhà nước. Do đó,
các quan quản nhà nước về kinh tế cũng chính hệ thống quan quản nhà
nước. Theo quy định tại Điều 215 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: Chính phủ thống
nhất quản nhà nước đối với doanh nghiệp; Bộ, quan ngang Bộ chịu trách nhiệm
trước Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công trong quản nhà nước đối
với doanh nghiệp; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản nhà nước đối với doanh
nghiệp trong phạm vi địa phương.
[12]
Căn cứ vào đó việc phân loại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế chủ yếu dựa
trên các tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thẩm quyền hành chính - kinh tế, thể chia thành: Cơ quan
quản nhà nước về kinh tế thẩm quyền chung (Chính phủ, UBND các cấp); quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền riêng đối với các ngành kinh tế (Các Bộ, cơ quan ngang
Bộ quản chuyên ngành,...) quan quản nhà nước tổng hợp theo từng lĩnh vực
(Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,...).
Thứ hai, căn cứ vào vị trí trong bộ máy quản nhà nước, thể chia thành:
quan hành chính - kinh tế ở Trung ương và cơ quan hành chính - kinh tế ở địa phương.
Đặc biệt, trong lĩnh vực quản về kinh tế, quan chuyên trách quản về
đăng kinh doanh gọi quan đăng kinh doanh. Nhiệm vụ, quyền hạn của
quan đăng kinh doanh được quy định tại Khoản 1, Điều 216, Luật Doanh nghiệp năm
2020 bao gồm:
- Giải quyết việc đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp xây dựng, quản Hệ thống thông tin quốc gia về đăng doanh
nghiệp; công khai, cung cấp thông tin cho quan nhà nước, tổ chức nhân yêu
cầu theo quy định của pháp luật;
lOMoARcPSD|47205411
- Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ quy định của Luật này khi xét
thấy cần thiết; đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp;
- Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát
doanh nghiệp theo nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp;
- Chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ đăng doanh nghiệp, không chịu
trách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước sau khi đăng doanh
nghiệp;
- Xử vi phạm quy định của pháp luật về đăng doanh nghiệp; thu hồi Giấy
chứng nhận đăng doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy
định của Luật này;
- Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính Phủ thì quan
đăng kinh doanh được tổ chức tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung cấp tỉnh) quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung
cấp huyện), bao gồm: cấp tỉnh: Phòng Đăng kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch Đầu
(sau đây gọi chung Phòng Đăng kinh doanh); Phòng Đăng kinh doanh thể
tổ chức các điểm để tiếp nhận hồ trả kết quả thuộc Phòng Đăng kinh doanh tại
các địa điểm khác nhau trên địa bàn cấp tỉnh; cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện (sau đây gọi chung là Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp
huyện).
Cũng theo quy định tài Điều này, Cơ quan đăng ký kinh doanh có tài khoản và con
dấu riêng.
[13]
Bên cạnh đó, Chương II, Nghị định này cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp, đăng
ký hộ kinh doanh.
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
3.1. Luật kinh tế cụ thể hoá đường lối của Đảng
Kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, tuy
nhiên, ở thời điểm này Đảng chưa đề cập tới phát triển nền kinh tế thị trường. Về cơ cấu kinh
tế, đã bắt đầu chú ý tới việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép
khuyến khích phát triển thành phần kinh tế nhân, thể đối với những ngành nghề, lĩnh
vực nhất định. Về chế quản kinh tế, Đảng chỉ rõ, việc bố trí lại cấu kinh tế phải đi
đôi với đổi mới chế quản kinh tế theo hướng kiên quyết xóa bỏ chế tập trung quan
liêu, bao cấp
[14]
. Để cụ thể hóa đường lối chính sách của của Đảng, đến năm 1990, Luật
Doanh nghiệp nhân được ban hành. Ngay phần đầu của đạo luật này đã tuyên bố một các
ràng rằng “Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
khuyến khích việc đầu tư kinh doanh, bảo hộ lợi ích hợp pháp của chủ doanh nghiệp tư nhân;
tăng cường hiệu lực quản Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”
[15]
. Luật này quy
định công dân Việt Nam đủ 18 tuổi quyền thành lập doanh nghiệp nhân Nhà nước
công nhận sự tồn tại lâu dài phát triển của doanh nghiệp nhân, thừa nhận sự bình đẳng
trước pháp luật của doanh nghiệp nhân với các doanh nghiệp khác tính sinh lợi hợp
pháp của việc kinh doanh. Như vậy, trong khuôn khổ
lOMoARcPSD|47205411
pháp luật, chủ doanh nghiệp nhân quyền tự do kinh doanh chủ động trong mọi
hoạt động kinh doanh.
Đến Đại hội Đảng IX năm 2001, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
hội
[16]
. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn được hiểu nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Các thành phần kinh tế nói trên thực hiện kinh doanh theo pháp luật đều được khuyến
khích phát triển trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh pháp luật không cấm.
Đồng thời, Nhà nước quản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bằng pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
thức kinh tế phương pháp quản của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế khắc phục mặt tiêu cực củachế
thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Để cụ thể đường
lối đổi mới trên, ở thời kỳ này đã có những đạo luật quan trọng tác động và làm cơ sở cho
các chủ thể kinh doanh tạo lập, xác định hàng lang pháp cho mình phải kể đến như:
Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu
2005, Luật Đầu 2014, Luật Thương mại 2005; Luật Cạnh tranh 2004, Luật Phá sản
2004, Luật Phá sản 2014, Luật Hợp tác xã năm 2012…. Các đạo luật trên đã góp phần
quan trọng trong quản nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện thể
chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh.
Đại hội Đảng XII năm 2016 của Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức hơn về nội
hàm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Đó nền kinh tế thị trường hiện đại hội nhập quốc tế; sự quản
của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
[17]
. Luật kinh tế tiếp tục
công cụ quản kinh tế quan trọng của Nhà nước, thực hiện chính sách, chủ trương cải
cách và chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng. Pháp luật về kinh tế đã ghi nhận và thể chế
hóa các chính sách, chủ trương của Đảng thành các quy định pháp luật, bảo đảm các
quyền nghĩa vụ pháp cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường như mong muốn của Đảng và Nhà nước.
3.2. Luật kinh tế tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, để các chủ thể yên tâm đầu
sản xuất kinh doanh lâu dài, một yêu cầu bản các hoạt động kinh doanh đó phải
được đảm bảo về mặt pháp lý. Xuất phát từ chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, pháp
luật kinh tế đã tạo ra hành lang pháp bằng các quy định trong các văn bản pháp luật đã
xác lập tính hợp pháp của các hoạt động kinh doanh Việt Nam, điều này đã khuyến
khích các chủ thể mạnh dạn tham gia đầu tư kinh doanh. Cụ thể:
lOMoARcPSD|47205411
Một , Luật kinh tế môi trường pháp thuận lợi ổn định cho s phát triển
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự chủ quyết định hoạt
động, nhưng quyền tự chủ được thể chế hoá thành pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân
theo pháp luật. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, hiệu lực cao s ổn định chính trị,
xã hội là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, Luật kinh tế góp phần tạo môi trường kinh tế ổn định cho phát triển
kinh tế. Nhà nước ban hành các quy định pháp khuyến khích đầu vào một số lĩnh
vực để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu xác định. Nhà nước thông qua
những quy định ưu đãi, hỗ trợ này sử dụng như những đòn bẩy kinh tế để hướng các
doanh nghiệp vào các ngành, các lĩnh vực nhà nước muốn ưu tiên phát triển. Ngoài
ra, pháp luật vềi chính, tín dụng, thuế… cũng phối hợp tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ thể kinh tế yên tâm hoạt động.
Ba là, Luật kinh tế đảm bảo các chủ thể kinh doanh hoạt động hiệu quả lành
mạnh thông qua việc quy định thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác
động từ bên ngoài ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh trong Luật Cạnh
tranh. vậy, những quy định trong Luật kinh tế về điều kiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh, giá cả thị trường phản ánh đúng
chi phí sản xuất, làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, Luật kinh tế góp phần thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm định hướng XHCN. Bởi thực tế cơ chế thị trường có nhiều tác
động tích cực đối với sự phát triển kinh tế năng động hiệu quả, nhưng cũng những
hạn chế như: Phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng hội, tệ nạn hội... vậy, Luật
kinh tế sẽ quy định những ưu đãi đặc biệt hoặc hạn chế các chủ thể kinh doanh thông qua
các biện pháp kỹ thuật nhằm khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường,
thực hiện công bằng xã hội, tạo động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế. Như vậy, ngành
Luật kinh tế là công cụ quan trọng để Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường nói
chung các chủ thể kinh doanh nói riêng nhằm làm cho mọi người cuộc sống m
no, tự do, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
3.3. Luật kinh tế xác định địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh
Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề pháp luật không cấm
[18]
. Căn cứ vào đó Luật kinh tế xác lập bảo đảm
quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo tính chủ động trong
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh phù hợp với quy định pháp luật, ghi nhận vai trò,
nhiệm vụ của từng loại chủ thể trong hệ thống quan, tổ chức kinh tế, đồng thời cũng
giúp các quan nhà nước quản hoạt động của các chủ thể kinh doanh hiệu quả hơn.
Sự ghi nhận quyền tự do kinh doanh cũng như việc quy định và bảo đảm trên thực tế hoạt
động đầu tư, kinh doanh của các tổ chức, nhân động lực bản cho sự ổn định
phát triển nền kinh tế. Quyền tự do kinh doanh về bản được cụ thể hóa thông qua các
đạo luật chuyên ngành đặc biệt Luật Doanh nghiệp năm 2014 một số quyền như
quyền tự do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyền tiếp cận thị
trường, quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản
của doanh nghiệp. Thông qua các quy định pháp luật hiện hành có thể khái quát về quyền
tự do kinh doanh trên mấy nội dung chính như sau:
lOMoARcPSD|47205411
Ghi nhận quyền tự do và sự bình đẳng của mọi chủ thể trong các hoạt động đầu tư,
kinh doanh.
Bảo đảm an toàn tài sản cho các nhà đầu tư, kinh doanh như quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của mình.
Bảo đảm sự vận động nhanh chóng của các nguồn vốn đầu bằng việc quy định
chủ thể kinh doanh quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ sử
dụng vốn của mình.
Ngoài ra, chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh, lựa
chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh chủ động điều chỉnh quy
ngành, nghề kinh doanh theo nhu cầu năng lực của mình. Ngược lại, các chủ thể kinh
doanh cũng quyền từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy định của pháp
luật hoặc tiến hành khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo
tham gia tố tụng bình đẳng theo quy định của pháp luật
[19]
.
3.4. Luật kinh tế điều chỉnh giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh Hoạt
động kinh doanh trên thực tế rất đa dạng, phong phú và thường có nhiều
quan hệ đan xen với nhau. Luật kinh tế ghi nhận quá trình xác lập, thực hiện, chấm dứt
cùng những hệ quả phải giải quyết đối với các hành vi kinh doanh. Tranh chấp phát sinh
trong kinh doanh là vấn đề tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, do đó Luật kinh
tế đã dự liệu các hình thức giải quyết tranh chấp để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong quá trình kinh doanh bằng các chế định về cách thức tổ chức, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của các cơ quan tài phán kinh tế.
Việc sử dụng pháp luật kinh tế để giải quyết các tranh chấp giữa các bên trước hết
đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh muốn giải quyết vụ việc của mình một cách
thuận lợi, nhanh chóng hiệu quả. Từ khi đàm phán kết hợp đồng hoặc các giao
kết kinh tế khác, các chủ thể quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp
nhất. Ngay c trong trường hợp không thỏa thuận này pháp luật kinh tế cũng thừa
nhận một số hình thức cơ bản như hòa giải hoặc tố tụng tại tòa án có thẩm quyền và quyết
định của tòa án có giá trị buộc các bên tham gia phải thực hiện. Không chỉ có cơ quan tòa
án, pháp luật kinh tế cũng thừa nhận và quy định chặt chẽ hình thức giải quyết tranh chấp
giữa các bên trong hoạt động kinh doanh thông qua hình thức tố tụng tại các trung tâm
trọng tài thương mại quyết định hợp pháp của trọng tài thương mại cũng giá trị
chung thẩm đảm bảo thi hành như các quyết định của tòa án. Kể cả trong trường hợp
không thỏa thuận trọng i từ trước, các bên tranh chấp thể thiết lập thỏa thuận
trọng tài thương mại sau khi xảy ra tranh chấp kinh doanh. Bên cạnh đó, luật kinh tế chỉ
ra thẩm quyền giữa các quan tố tụng hoặc giải quyết tranh chấp một cách ràng để
đảm bảo quyền tự quyết, bình đẳng giữa các bên trong hoạt động kinh doanh.
3.5. Luật kinh tế quy định về các biện pháp giải quyết việc giải thể, phá sản chủ thể
kinh doanh
Khi chủ thể kinh doanh mong muốn hoặc không đủ điều kiện, khả năng hoạt động
kinh doanh thể lựa chọn các hình thức hoặc trình tự nhất định để chấm dứt. Đối với
mỗi trình tự nhất định, các chủ thể kinh doanh đều phải tuân theo các quy định của pháp
luật chuyên ngành để đảm bảo quyền lợi lợi ích hợp pháp của các bên liên quan
được pháp luật bảo về những quyền lợi của chính mình.
lOMoARcPSD|47205411
dụ, khi chủ thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc hết thời hạn
đã đăng thì quyền thực hiện các thủ tục để giải thể hoặc tuyên bố chấm dứt hoạt
động kinh doanh theo trình tự, thủ tục hành chính xóa n trên sở dữ liệu quốc gia
về đăng kinh doanh (Cổng thông tin đăng doanh nghiệp Quốc gia). Tuy nhiên, khi
một chủ thể kinh doanh không khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong một
thời hạn nhất định thì có thể phải áp dụng thủ tục phá sản để tòa án ra quyết định tuyên
bố phá sản.
Luật Phá sản năm 2014 ra đời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế đất nước
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo đảm cụ thể hoá và không có sự xung đột
giữa các quy định của Luật Phá sản với các quy định của các điều ước quốc tế nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam thành viên. Luật Phá sản bảo đảm trình tự thủ tục giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản dân chủ, công khai, nhanh gọn, công bằng, thuận lợi;
đề cao vai trò, trách nhiệm của nhân, quan, tổ chức trong quá trình giải quyết yêu
cầu mở thủ tục phá sản nhưng quan trọng hơn cả Luật kinh tế nói chung Luật Phá
sản nói riêng đã tạo ra chế đảm bảo cho chủ thể kinh doanh bị lâm vào tình trạng phá
sản hội phục hồi theo chủ trương tái cấu kinh tế gắn với chuyển đổi hình
tăng trưởng. Đặc biệt, đối với doanh nghiệp, hợp tác mất khả năng thanh toán có khả
năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản; bảo
đảm tối đa quyền lợi của người lao động.
Việc Luật kinh tế quy định các trình tự, thủ tục về phá sảngóp phần tăng cường
pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác được thành lập hoạt động theo quy định của
pháp luật các nhân, quan, tổ chức liên quan. Không những thế, với các quy
định liên quan, pháp luật kinh tế về phá sản giải thể các chủ thể kinh doanh đã đề cao
vai trò, trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, các nhân, quan, tổ chức trong hoạt
động giải quyết yêu cầu giải thể tuyên bố phá sản. Pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các chủ thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh do o đó hoặc trong
tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách
có trật tự.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG
PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT KINH TẾ
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế
Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ
chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế hoàn chỉnh đối với nước ta một quá
trình lâu dài liên tục thị trường luôn biến động n hệ thống pháp luật cũng phải
được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Mỗi ngành luật
đối tượng điều chỉnh riêng, theo giáo trình này, Luật kinh tế điều chỉnh ba nhóm quan hệ
xã hội sau:
1.1. Nhóm quan hệ hội phát sinh giữa quan nhà nước thẩm quyền quản
về kinh tế với các chủ thể kinh doanh
lOMoARcPSD|47205411
Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh xác lập
địa vị pháp đáp ứng các nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Các quan hệ này phát
sinh chủ yếu trong quá trình thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng
kinh doanh (nếu có), đăng thay đổi nội dung đăng kinh doanh, công khai thông tin
về thành lập và hoạt động, báo cáo và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật kinh
tế có liên quan.
Thứ hai, chủ thể kinh doanh thực hiện các công việc nhằm đáp ứng đủ điều kiện
kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của
pháp luật có liên quan.
Thứ ba, chủ thể kinh doanh tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính,
thống kê, khai thuế, nộp thuế thực hiện các nghĩa vụ i chính khác cho quan
nhà nước có thẩm quyền.
Đặc điểm của nhóm quan hệ xã hội này là các quan hệ quản lý kinh tế phát sinh và
tồn tại giữa các quan quản nhà nước các chủ thể kinh doanh khi các quan
quản thực hiện chức năng quản của mình. Các chủ thể tham gia quan hệ này vào
vị trí bất bình đẳng, quan hệ này hình thành được thực hiện dựa trên nguyên tắc
quyền uy, phục tùng với một bên luôn là quan Nhà nước. Các chủ thể kinh doanh phải
thực hiện theo quy định của pháp luật về hồ báo cáo, đăng kinh doanh, thủ tục tổ
chức lại, khiếu nại, tố cáo… theo đúng trình tự pháp luật, đồng thời phải tuân thủ các
quyết định, xử vi phạm của quan thẩm quyền. sở pháp để quan quản
nhà nước hoặc cơ quan tố tụng thực hiện chức năng của mình thông qua các văn bản pháp
lý do các cơ quan quản lý có thẩm quyền ban hành.
Tóm lại, nhóm quan hệ này thể hiện sự quản kinh tế của Nhà nước diễn ra
khi các quan quản nhà nước thực hiện chức năng quản của mình. Các chủ thể
trong mối quan hệ này không bình đẳng về mặt pháp lý, các chủ thể bị quản phải phục
tùng mệnh lệnh, ý chí của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể
kinh doanh với nhau
Nhóm quan hệ hội y phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chủ thể của nhóm
quan hệ này chủ yếu các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
tham gia trên nguyên tắc bình đẳng cùng lợi, tự nguyên không bị áp đặt. Đây nhóm
quan hệ chủ yếu và phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh
doanh nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, trên sở
thống nhất ý chí của các bên thông qua hình thức pháp chủ yếu hợp đồng kinh tế
hoặc những thoả thuận hợp tác kinh doanh. Chủ thể của nhóm quan hệ này chủ yếu là các
chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ này trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng các bên cùng lợi. Đặc trưng đặc biệt của nhóm quan hệ
này là nhóm quan hệ tài sản và quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
1.3. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ các chủ thể kinh doanh
lOMoARcPSD|47205411
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia kinh doanh hình thành nên các đơn vị kinh
doanh độc lập tương đối với nhau. Các hình thức kinh doanh các chủ thể thể chọn
như các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh. Nhóm quan hệ kinh tế phát
sinh trong nội bộ của các chủ thể kinh doanh bao gồm các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình hoạt động kinh doanh giữa tổng công ty, tập đoàn kinh tế các đơn vị thành
viên cũng như giữa các cá nhân là thành viên của của chủ thể kinh doanh đó với nhau. Ví
dụ, trong quá trình hoạt động kinh doanh các cá nhân, tổ chức tham gia góp vốn thành lập
doanh nghiệp, bản thân các thành viên trong doanh nghiệp thể mâu thuẫn quyền lợi,
nghĩa vụ với nhau hoặc mâu thuẩn giữa thành viên với doanh nghiệp dẫn đến tranh chấp
cần sự điều chỉnh của luật.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là trực tiếp phát sinh trong nội bộ nên cơ sở pháp
điều chỉnh các mối quan hệ trên gồm các quyết định thành lập, nội quy, quy chế, điều
lệ, cam kết. Đây không phải là nguồn luật và không phải là căn cứ pháp lý áp dụng chung
cho tất các các chủ thể kinh doanh, chúng chỉ hiệu lực, giá trị pháp ràng buộc
giữa các thành viên, đơn vị trong tổ chức kinh doanh nhất định.
Điều lệ của doanh nghiệp, hợp tác xã: bản cam kết giữa các chủ sở hữu doanh
nghiệp nhằm xác lập các nội dung về danh tính công ty, cách thức thành lập, góp vốn, bộ
máy tổ chức, quản lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại v.v…. để
hoạt động suôn sẻ và tránh những rắc rối, tranh chấp trong nội bộ công ty. Như vậy, điều lệ
doanh nghiệp không phải văn bản quy phạm pháp luật thể hiểu đây một cam kết
được đồng ý bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp, giữa những người sáng lập với nhau cũng như
giữa những người sáng lập với những người góp vốn (thành viên hợp danh, thành viên góp
vốn vào công ty hợp danh, thành viên công ty TNHH, cổ đông) nhằm xác lập các nội dung
về danh tính doanh nghiệp, cách thức thành lập, góp vốn, bộ máy tổ chức, quản lý, hoạt động
của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại và những nội dung khác. Điều lệ doanh
nghiệp trước hết thể xem một bản hợp đồng được đồng ý bởi các bên trong công ty
mang tính chất quy định. được xây dựng dựa trên các khuôn khổ, hành lang pháp
pháp luật đề ra mặt khác, doanh nghiệp lại được phép tự do chỉnh sửa, miễn không trái
pháp luật. Xét về mặt điều hành, điều lệ doanh nghiệp được hiểu như “luật của doanh
nghiệp” trong đó doanh nghiệp thể tự điều chỉnh hoạt động của mình một cách ý chí
riêng mà lại không trái pháp luật. Xét về mặt kinh doanh, điều lệ đóng một vai trò quan trọng
không kém cho biết cấu, nội dung doanh nghiệp, cách thức kinh doanh, hoạt động
doanh nghiệp đề ra cho người mong muốn góp vốn hay giao dịch với công ty. Cũng bởi
lẽ đó mà những đối tác đầu tư, những khách hàng luôn quan tâm, tìm hiểu kỹ về điều lệ trước
khi cam kết điều gì. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần biết ai sẽ người kết hợp đồng
với họ, bởi thông qua điều lệ công ty, pháp luật quy định ai người đại diện. Để hoạt
động suôn sẻ, tránh được những tranh chấp phát sinh rắc rối với pháp luật, doanh nghiệp
cần quan tâm một số điểm bản trong cách soạn thảo thành lập điều l công ty như sau:
Điều lệ không được trái với các quy định của pháp luật không xâm phạm quyền lợi của
bên thứ ba; điều lệ công ty một hợp đồng nhiều bên dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa
thuận để quy định quyền nghĩa vụ của các bên, tổ chức quản lý, hoạt động của công ty;
điều lệ phải có đủ các nội dung chủ yếu quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020. Theo quy định
lOMoARcPSD|47205411
của pháp luật về kinh tế, điều lệ doanh nghiệp, hợp tác đều phải được lưu giữ tại
doanh nghiệp, đồng thời nộp một bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành lập hoặc
khi có sửa đổi các nội dung trong điều lệ doanh nghiệp.
Nghị quyết, quyết định... trong nội bộ doanh nghiệp. Đây các văn bản trong
quản điều hành doanh nghiệp. không phải văn bản quy phạm pháp luật,
nhưng lại là nguồn luật quan trọng để tham chiếu hoặc căn cứ vào đó các thành viên, chủ
sở hữu doanh nghiệp tiến hành các thủ tục hành chính, pháp hợp pháp. quan quản
nhà nước hoặc quan tố tụng cũng thể căn cứ o loại văn bản này để giám sát,
quản lý hoặc đưa ra những phán quyết hoặc quyết định theo thẩm quyền của mình.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế
Luật kinh tế s dụng hai phương pháp điều chỉnh bản phương pháp bình
đẳng, thỏa thuận phương pháp mệnh lệnh, quyền uy. Đây những phương pháp
nhà nước tác động lên các quan hệ kinh tế làm cho các quan hệ y phát sinh, thay đổi,
chấm dứt theo ý chí của nhà nước.
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận thể hiện quyền tự do lựa chọn cũng như thể
hiện sự ưng thuận của các chủ thể kinh doanh trong quá trình tổ chức hoạt động kinh
doanh của mình như tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, ngành nghề kinh doanh,
hình kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác kinh doanh...
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện quyền của chủ thể quản nhà nước đối với các
chủ thể kinh doanh. Theo đó, các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ các quy định về điều
kiện, trình tự, thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý... do luật định.
Tuy nhiên do Luật kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ quản kinh tế giữa chủ thể
không bình đẳng (khi có sự tham gia của Nhà nước) vừa điều chỉnh quan hệ bình đẳng về
tài sản giữa các chủ thể với nhau phát sinh trong quá trình kinh doanh cho nên ngành luật
này sử dụng phối hợp cả hai phương pháp tác động trên nhưng ở mức độ linh hoạt tuỳ
theo từng quan hệ kinh tế cụ thể. Đặc biệt, với sự hội nhập kinh tế quốc tế các quy
định mới rất tiến bộ trong Hiến Pháp năm 2013, phương pháp điều chỉnh của ngành luật
này cũng được bổ sung và thay đổi phù hợp. Theo đó, phương pháp mệnh lệnh trong điều
chỉnh pháp các hoạt động kinh doanh hầu như không còn được áp dụng rộng rãi. Các
quan hệ tài sản với mục đích kinh doanh được trả lại cho chúng nguyên tắc tự do ý chí, tự
do giao kết của tất cả các bên. Các mệnh lệnh hành chính trái với quy luật thị trường
được dần bãi bỏ, thay vào đó các chủ thể kinh doanh được tự do kinh doanh tất cả các
ngành nghề, lĩnh vực pháp luật không cấm
[20]
. Hay nói một cách khác, cơ quan Nhà
nước muốn cấm hoặc hạn chế các chủ thể kinh doanh bất kỳ ngành nghề nào phải được
ghi nhận hoặc tuyên bố trước trong các đạo luật do Quốc hội ban hành.
Phương pháp mệnh lệnh được s dụng chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ giữa
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể kinh doanh. Trong mối quan hệ này
quan Nhà nước có quyền đưa ra các quy định buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân
theo. Với cách thức tác động đó cho thấy vị trí bất bình đẳng giữa bên quản bên bị
quản lý, bên bị quản buộc phải thực hiện ý chí của quan quản đã thể hiện tính
chất phục tùng mệnh lệnh. điều chỉnh các qua hệ kinh tế bằng cách quy định cho các
cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế trong phạm vi chức năng của mình có quyền ra
| 1/183

Preview text:

lOMoARcPSD|47205411 lOMoARcPSD|47205411
BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI lOMoARcPSD|47205411 lOMoARcPSD|47205411
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI Ban biên soạn: 1. Chủ biên: TS. Đào Xuân Hội 2. Thành viên: ThS. Lê Thị Toàn TS. Vũ Thị Lan Hương TS. Khuất Thị Thu Hiền
TS. Nguyễn Thị Tuyết Vân
GIÁO TRÌNH LUẬT KINH TẾ
(Dùng đào tạo trình độ: Đại học) LƯU HÀNH NỘI BỘ HÀ NỘI, NĂM 2021 MỤC LỤC
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ 4
1. Khái niệm Luật kinh tế 4
2. Chủ thể của Luật Kinh tế 5
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường 13 II. Đ
ỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT K INH T 1 8
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế 18
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế 21
III. NGUỒN CỦA LUẬT KINH TẾ 22
1. Các văn bản quy phạm pháp luật 22 2. C
ác Điều ước quốc tế 23 3. Các tập quán 24 4. Áp dụng án lệ 25 C
ÂU HỎI ÔN TẬP 25 C
HƯƠNG II. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP 2 6
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP 26
1. Lược sử pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam 26 2. K
hái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp 2 9 3. P
hân loại doanh nghiệp 32
4. Thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp và tạm ngừng kinh doanh 32
5. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp 44
II. CÁC LOẠI DOANH NGHIỆP 45 1. Công ty cổ phần 45
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên 69
3. Công ty TNHH một thành viên. 80 4. Công ty hợp danh 87 5.
Doanh nghiệp tư nhân 95
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 98 C
HƯƠNG III. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC XÃ 99
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ 99 lOMoARcPSD|47205411
1. Khái niệm hợp tác xã 99
2. Đặc điểm của hợp tác xã 100
I I. THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ HỢP TÁC XÃ 1 02
1. Thành lập hợp tác xã 102
2. Tổ chức lại hợp tác xã 106
3. Giải thể hợp tác xã 107
III. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỢP TÁC XÃ 109
1. Quyền của hợp tác xã 109
2. Nghĩa vụ của hợp tác xã 109
IV TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỢP TÁC XÃ 110
1. Đại hội thành viên 110
2. Hội đồng quản trị 112
3. Giám đốc/Tổng Giám đốc 113
4. Ban kiểm soát, kiểm soát viên 114
V. THÀNH VIÊN HỢP TÁC XÃ 115
1. Điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã 115
2. Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã 116
3. Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã 117
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 119
CHƯƠNG IV: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘ KINH DOANH 120
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘ KINH DOANH 120
1. Lược sử phát triển hộ kinh doanh 120
2. Khái niệm, đặc điểm hộ kinh doanh 121
II. ĐĂNG KÝ KINH DOANH HỘ KINH DOANH 123 1.
Điều kiện đăng ký kinh doanh 123
2. Tạm ngừng hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh 130
3. Chấm dứt hoạt động kinh doanh hộ kinh doanh 130
IV QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘ KINH DOANH 133
1. Quyền của hộ kinh doanh 133
2. Nghĩa vụ của hộ kinh doanh 134
CHƯƠNG V PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 136
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI 136
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG M ẠI 1 36 1. K hái niệm 1 36
2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại 136
II. CÁC HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 136
1. Trọng tài thương mại 136
2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân 156 C
HƯƠNG VI. PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN 180
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 180
1. Khái niệm phá sản và pháp luật về phá sản 180
2. Phân loại phá sản 181
3. Đối tượng áp dụng của Luật Phá sản 182
4. So sánh phá sản với giải thể 183 5.
Tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản 1 84
II. THỦ TỤC PHÁ SẢN 186 lOMoARcPSD|47205411
1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 187
2. Mở thủ tục phá sản 195
3. Phục hồi kinh doanh 205
4. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 210
5. Thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản 212 CÂU HỎI ÔN TẬP 213
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
2. TCKDTM: Tranh chấp kinh doanh thương mại
3. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn 4. TAND: Tòa án nhân dân 5. UBND: Ủy ban nhân dân
6. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, tập bài giảng Pháp luật về kinh tế của Trường đại học Lao
động – Xã hội do thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết Vân chủ biên, xuất bản năm 2008, tái bản
năm 2013, Giáo trình Luật Kinh tế do của Trường Đại học Lao động – Xã hội do TS.
Nguyễn Thanh Huyền chủ biên, xuất bản năm 2018 đã được đưa vào sử dụng giảng dậy
cho sinh viên hệ Đại học của Nhà trường.

Trước sự thay đổi của nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Luật doanh nghiệp
năm 2020, nhiều nội dung chính của giáo trình đã không còn phù hợp. Khoa Luật quyết
định biên soạn Bộ giài giảng Luật Kinh tế để sử dụng như một giáo trình trong việc
giảng dậy môn Luật Kinh tế cho sinh viên ngành Luật Kinh tế và sinh viên các ngành
khác của Nhà trường. Bài giảng này được kế thừa từ Giáo trình Luật Kinh tế năm 2018
của Nhà trường và phát triển, biên soạn mới các nội dung cho phù hợp. Nội dung và
người chịu trách nhiệm biên soạn cụ thể như sau:
Nội dung Tác giả
Chương I. Khái quát chung về luật kinh tế TS. Đào Xuân Hội
Chương II. Địa vị pháp lý của doanh TS. Vũ Thị Lan Hương nghiệp
Chương III. Địa vị pháp lý của hợp tác xã TS. Khuất Thị Thu Hiền
Chương IV. Địa vị pháp lý của hộ kinh ThS. Lê Thị Toàn doanh
Chương V. Pháp luật về giải quyết tranh TS. Nguyễn Thị Tuyết Vân chấp kinh doanh
Chương VI. Pháp luật về phá sản doanh TS. Đào Xuân Hội nghiệp, hợp tác xã
Mặc dù, bài giảng đã được tổ chức biên soạn cẩn thận nhằm đáp ứng yêu cầu về
giảng dạy, đào tạo cho sinh viên của Trường Đại học Lao động – Xã hội nhưng không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của các đồng nghiệp, nhà nghiên cứu, các em sinh viên và bạn đọc để hoàn thiện giáo trình này.

Thay mặt tập thể tác giả lOMoARcPSD|47205411 Chủ biên
TS. Đào Xuân Hội
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LUẬT KINH
TẾ Mục tiêu của Chương I
Mục tiêu của Chương I yêu cầu người học phải nắm được khái quát chung về Luật
Kinh tế như khái niệm, chủ thể, vai trò của Luật Kinh tế trong nền kinh tế thị trường; nắm
được đối tượng, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế cũng
như nguồn của Luật Kinh tế . Vận dụng được các quy định của pháp luật để giải quyết các
tình huống phát sinh trên thực tế.
Những nội dung chính của Chương I
- Khái quát chung về Luật Kinh tế
- Đối tượng, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế
- Nguồn của Luật Kinh tế
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT KINH TẾ
1. Khái niệm Luật kinh tế

Hiện nay, Nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo[1]. Như vậy, chủ thể kinh doanh không chỉ là các tổ chức kinh tế
mà chủ sở hữu là Nhà nước mà còn có nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác
cùng tham gia kinh doanh bình đẳng. Các chủ thể kinh doanh được tự do chọn lựa ngành
nghề mà pháp luật không cấm để tiến hành kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Do đó, vai trò điều chỉnh của pháp luật nói chung và lĩnh vực pháp luật kinh tế nói
riêng đối với các hoạt động kinh tế hiện nay bao gồm nhiều nội dung nhấn mạnh đến các
quan hệ kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
Nếu nhấn mạnh vào khía cạnh điều chỉnh này, trong hoạt động nghiên cứu xuất hiện quan
điểm gọi Luật kinh tế là Luật kinh doanh và cho rằng Luật kinh doanh là ngành luật trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong quá trình
tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, còn có nhiều cách tiếp cận
đối với vấn đề pháp luật kinh tế. Ngoài khái niệm về Luật kinh doanh ở trên, có một số
chuyên gia còn gọi là Luật thương mại. Khái niệm này xuất phát từ một khía cạnh nhất
định của nền kinh tế thị trường, đó là tập trung vào tiếp cận đến các hành vi thương mại
cụ thể như mua bán, trao đổi hàng hóa, đại lý, ký gửi... Với cách tiếp cận này, ưu điểm
quan trọng nhất là liệt kê chi tiết các hoạt động thương mại để các chủ thể kinh doanh lựa
chọn khi tiến hành kinh doanh. Nhưng cùng với đó, cách tiếp cận này sẽ làm hạn chế
những ý tưởng kinh doanh mới, đặc biệt là hạn chế sự hình thành những hoạt động kinh
doanh vừa không trái pháp luật vừa đem lại lợi ích cho cá nhân và toàn xã hội hoặc
không bao quát hết các hoạt động kinh doanh mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường.
Quy luật khách quan và tất yếu là khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định sẽ kéo
theo các hoạt động kinh doanh mới, khi đó pháp luật sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời hoặc
không theo kịp để điều chỉnh phù hợp với ý chí của Nhà nước. lOMoARcPSD|47205411
Tóm lại, dù có thể hiện với các tên gọi khác nhau thì ngành luật này cũng đều
hướng đến điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh và quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh đó với các cơ
quan quản lý nhà nước. Vì vậy, với cách tiếp cận từ đối tượng điều chỉnh các quan hệ xã
hội của ngành luật này nên đặt tên gọi là ngành Luật kinh tế được coi là đầy đủ và phù
hợp. Phương pháp tiếp cận này vừa đảm bảo bao quát hết các hoạt động của các chủ thể
kinh doanh với nhau trong toàn bộ quá trình kinh doanh, vừa chỉ ra các quyền và nghĩa
vụ mà các chủ thể này trong mối quan hệ với chủ thể đặc biệt là nhà nước. Trên cơ sở
khung lý luận đó, giáo trình này đưa ra khái niệm: Luật kinh tế là tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức,
quản lý và chấm dứt các hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
Theo đó, nội dung của Luật kinh tế trong giáo trình này tập trung nghiên cứu các chế
định pháp lý về kinh doanh như sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến
việc hình thành và xác lập địa vị pháp lý nói chung của các chủ thể kinh doanh đó là:
- Doanh nghiệp gồm: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH),
công ty TNHH 1 thành viên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
- Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã - Hộ kinh doanh
Thứ hai, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh như: Quy định
về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh tại trọng tài thương mại hay quy định về việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh tại tòa án nhân dân.
Thứ ba, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra trong quá
trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
2. Chủ thể của Luật Kinh tế 2.1. Chủ thể kinh doanh
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chủ thể kinh doanh

Để hiểu rõ thế nào là chủ thể kinh doanh, chúng ta cần tìm hiểu kinh doanh là gì?
Theo từ điển tiếng Việt thì “kinh doanh” được hiểu là “tổ chức việc sản xuất, buôn bán,
dịch vụ nhằm mục đích sinh lời”[2]. Dưới góc độ pháp lý thì “Kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận.”[3]. Tuy nhiên, thực tế còn có những chủ thể chỉ thực hiện các hoạt đông kinh
doanh đơn lẻ, không thường xuyên như môi giới bất động sản, chứng khoán, tư vấn... nên
dưới góc độ pháp lý cần được tham chiếu đến pháp luật chuyên ngành khác.
Với khái niệm “kinh doanh” rộng như vậy ta có thể hiểu chủ thể kinh doanh là bất
kỳ cá nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực
hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

Chủ thể kinh doanh được phân biệt với các tổ chức, cá nhân khác bởi các đặc điểm cơ bản sau: lOMoARcPSD|47205411
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh phải được thành lập hợp pháp hoặc được công nhận.
Điều đó có nghĩa là chủ thể kinh doanh phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ra quyết định thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận. Với đặc điểm này,
chúng ta khẳng định đây là những chủ thể kinh doanh hợp pháp, chủ thể này được kinh
doanh tất cả những ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì có những chủ thể kinh doanh phải đăng
ký thành lập như: Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh nhưng
cũng có những chủ thể kinh doanh có thể đăng ký hoặc không phải đăng ký kinh doanh
như hộ kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật quy định
không phải đăng ký. Các chủ thể không phải đăng ký kinh doanh chủ yếu thực hiện hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và làm muối theo quy định của pháp
luật đối với các hộ kinh doanh “tự sản tự tiêu” và hộ kinh doanh có thu nhập thấp, căn cứ
quy định tại từng địa phương. Đối với cá nhân hoạt động thương mại mà không phải đăng
ký kinh doanh được quy định tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
16/3/2007 về cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải
đăng ký kinh doanh. Theo đó, cá nhân hoạt động thương mại phải tuân thủ pháp luật về
thuế, giá, phí và lệ phí liên quan đến hàng hóa, dịch vụ kinh doanh. Trường hợp kinh
doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống, cá nhân hoạt động thương mại phải bảo đảm đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với việc kinh
doanh loại hàng hóa, dịch vụ này. Nghiêm cấm cá nhân hoạt động thương mại gian lận
trong cân, đong, đo đếm và cung cấp các thông tin sai lệch, dối trá hoặc thông tin dễ gây
hiểu lầm về chất lượng của hàng hóa, dịch vụ hoặc bản chất của hoạt động thương mại mà mình thực hiện...
Những chủ thể là cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày
thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không
thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh
doanh và không gọi là “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại. Cụ thể bao
gồm những cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau đây:
a) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm cố
định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách
báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm này
theo quy định của pháp luật để bán rong;
b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định;
c) Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc
không có địa điểm cố định;
d) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để
bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;
đ) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ
xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định; lOMoARcPSD|47205411
e) Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác.[4]
Thứ hai, chủ thể kinh doanh phải có tài sản đưa vào kinh doanh.
Đây là cơ sở vật chất không thể thiếu để chủ thể này tiến hành hoạt động kinh
doanh theo quan điểm truyền thống. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản[5]
được ghi nhận bởi pháp luật dân sự, luật kế toán và các luật khác có liên quan.
Nhà nước bảo vệ quyền của chủ thể kinh doanh về tài sản của mình. Nhà nước
công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, quyền và lợi ích hợp
pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp[6].
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp
không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trường hợp thật
cần thiết, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của doanh nghiệp thì được thanh
toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản. Việc
thanh toán, bồi thường phải bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp và không phân biệt đối xử
giữa các loại hình doanh nghiệp.[7]
Thứ ba, chủ thể kinh doanh phải có thẩm quyền kinh tế.
Thẩm quyền kinh tế là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của một chủ thể được nhà
nước xác nhận trên cơ sở pháp luật và trên thực tế. Thẩm quyền kinh tế của một chủ thể
luật kinh tế luôn phải tương ứng với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của nó.
Như vậy, có thể thấy thẩm quyền kinh tế là giới hạn pháp lý mà trong đó các chủ
thể của Luật kinh tế được hành động hoặc phải hành động hoặc không được phép hành
động. Thẩm quyền kinh tế trở thành cơ sở pháp lý để các chủ thể này thực hiện các hành
vi pháp lý nhằm tạo ra các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho mình. Mỗi chủ thể kinh doanh
có thẩm quyền rộng, hẹp khác nhau tương ứng với những chức năng, nhiệm vụ và phạm
vi hoạt động của mỗi chủ thể kinh doanh. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định mọi
cá nhân có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm[8] là điều
kiện cần, tuy nhiên để thực hiện các quyền này trên thực tế, các chủ thể kinh doanh có đủ
năng lực chủ thể còn phải thực hiện những hành vi nhất định như đăng ký kinh doanh để
tiến hành một hoạt động kinh doanh cụ thể nào đó để xác lập thẩm quyền về kinh tế. Một
khi đã có thẩm quyền về kinh tế, các chủ thể đều có quyền bình đẳng với nhau trong hoạt
động kinh doanh, tố tụng, hành chính và được pháp luật bảo hộ.
Như vậy, đặc điểm chính của thẩm quyền kinh tế là mang tính pháp lý. Để từ đó
các chủ thể kinh doanh thực hiện các hành vi pháp lý nhằm tạo ra cho mình các quyền và
nghĩa vụ, đồng thời nó định rõ giới hạn mà trong đó các chủ thể kinh doanh được thực
hiện. Thẩm quyền kinh tế của các chủ thể kinh doanh được quy định trong văn bản pháp
luật hiện hành và phát sinh trong khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thông
qua quyết định cá nhân trên cơ sở các quy phạm pháp luật.
Thứ tư, chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh.
Hành vi kinh doanh dưới góc độ pháp lý là các hành vi do chủ thể kinh doanh thực
hiện không trái với pháp luật hiện hành, hay nói cách khác là các hành vi kinh doanh mà
pháp luật không cấm hoặc bị hạn chế (kinh doanh có điều kiện). Pháp luật hiện hành
không liệt kê những hàng vi kinh doanh nào là được phép mà chỉ quy định những hành vi
kinh doanh nào bị cấm hoặc kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật. lOMoARcPSD|47205411
Để đủ điều kiện thực hiện các hành vi kinh doanh được liệt kê trong danh mục
ngành nghề kinh doanh có điều kiện, các chủ thể buộc phải đáp ứng các điều kiện đã
được công bố trước trong các quy định của pháp luật đầu tư. Khi thực hiện hành vi kinh
doanh, các chủ thể kinh doanh thực hiện một cách độc lập, nhân danh mình, vì lợi ích của
chính mình và tự chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh đó. Khi thực hiện hành vi kinh
doanh, chủ thể kinh doanh không bị chi phối bởi ý chí của các chủ thể khác mà được
quyết định bởi ý chí của chính chủ thể kinh doanh.
Đặc điểm quan trọng khi các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi kinh doanh là
mang tính chuyên nghiệp, liên tục và nhằm tạo ra thu nhập. Ngoài ra, hành vi kinh doanh
của chủ thể này phổ biến được diễn ra trên thị trường nhất định. Một số hành vi sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ sẽ không được coi là hành vi kinh doanh nếu chúng không
diễn ra trên thị trường hợp pháp.
Mục tiêu trực tiếp và chủ yếu của chủ thể kinh doanh khi thực hiện các hoạt động
kinh doanh là để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, ở một giai
đoạn hay thời điểm nhất định, một số chủ thể có thể thực hiện các hoạt động nhằm các
mục tiêu xã hội, xây dựng thương hiệu... chưa vì mục đích lợi nhuận nhưng nếu hành vi
đó không phải là mục tiêu cơ bản thì các chủ thể này vẫn được coi là chủ thể của hoạt động kinh doanh.
Với các đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy kinh doanh hiểu theo nghĩa chung nhất
là hoạt động mang tính nghề nghiệp, chủ thể kinh doanh đã tham gia vào sự phân công
lao động xã hội; các chủ thể này tiến hành hoạt động kinh doanh mang tính liên tục và
mang lại thu nhập cho chính chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh.
2.1.2. Phân loại chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, chủ thể kinh doanh rất phong phú và đa dạng. Việc
phân loại chúng là cần thiết để xác lập cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp. Các tiêu chí
phân loại chủ thể kinh doanh được nhìn nhận ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau.
Các tiêu chí khác nhau có thể được tiếp cận từ mỗi ngành nghiên cứu khoa học khác
nhau. Dưới góc độ khoa học pháp lý, các tiêu chí để phân loại gồm:
Thứ nhất, dựa vào nhóm nguồn luật điều chỉnh và hình thức pháp lý của chủ thể
kinh doanh, chủ thể kinh doanh được phân loại thành:
Các chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp bao gồm các loại
hình sau đây[9]: Công ty cổ phần; công ty TNHH (Công ty TNHH hai thành viên trở lên
và Công ty TNHH 1 thành viên); công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; nhóm công
ty. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng có những quy định cụ thể về Doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp xã hội.
Chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Hợp tác xã bao gồm: Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.
Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh và Hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động kinh
doanh một cách độc lập, liên tục, không phải đăng ký kinh doanh (gọi chung là Hộ kinh doanh).
Thứ hai, dựa vào tư cách pháp nhân của chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành pháp nhân và không có tư cách pháp nhân lOMoARcPSD|47205411
Cơ sở quan trọng để xác định một tổ chức có được coi là pháp nhân hay không
hiện nay theo khái niệm được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015[10]. Theo đó, một tổ
chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: (1) Được thành lập hợp
pháp; (2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (4) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật
một cách độc lập. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, các chủ thể kinh doanh có
tư cách pháp nhân gồm: Công ty cổ phần, Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty
TNHH 1 thành viên, Công ty hợp danh. Theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012 thì cả
Hợp tác xã và liên hiệp Hợp tác xã đều có tư cách pháp nhân.
Các chủ thể không có tư cách pháp nhân như: Hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư
nhân. Ngoài việc không thỏa mãn bốn điều kiện trên và được pháp luật chuyên ngành quy
định không có tư cách pháp nhân, các chủ thể thuộc nhóm này có đặc điểm tương đối
giống nhau là tổ chức đơn giản, quy mô nhỏ và chịu trách nhiệm vô hạn về các hoạt động
kinh doanh. Các chủ thể hộ kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài sản của hộ kinh doanh, doanh
nghiệp tư nhân, kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh.
Thứ ba, dựa vào phạm vi trách nhiệm tài sản trong kinh doanh, chủ thể kinh doanh
được chia thành chủ thể kinh doanh có trách nhiệm vô hạn và chủ thể kinh doanh có TNHH.
Trách nhiệm vô hạn hay TNHH là tính chất của chế độ bảo đảm tài sản của các
chủ thể kinh doanh khi các chủ thể này tham gia các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, trách
nhiệm này chỉ đặt ra khi các chủ thể kinh doanh khi làm thủ tục phá sản hoặc trong một
số trường hợp nhất định đối với thành viên tham gia với tư cách là chủ thể độc lập.
Trách nhiệm vô hạn được hiểu là sự chịu trách nhiệm đến cùng về tài sản của chủ
thể kinh doanh khi chủ thể này phá sản. Điều đó có nghĩa là, khi tài sản đưa vào kinh
doanh của chủ thể kinh doanh không đủ để thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản của chủ thể kinh doanh thì tài sản không đưa vào kinh doanh của riêng họ cũng được
đưa ra thanh toán cho các chủ nợ. TNHH được hiểu là sự giới hạn trả nợ của một số chủ
thể kinh doanh (cũng như giới hạn sự trả nợ của nhà đầu tư). Điều đó có thể hiểu rằng,
chủ thể kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của mình tương ứng với số tài sản được đưa vào kinh doanh mà chủ thể còn lại trong
trường hợp bị tuyên bố phá sản. Điều này cũng đồng nghĩa với quan điểm trong quá trình
kinh doanh các chủ thể phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung này còn liên quan đến mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với thành
viên của nó. Theo đó, nếu chủ thể kinh doanh là pháp nhân, thì pháp nhân sẽ không chịu
trách nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện
không nhân danh pháp nhân, còn thành viên thì không chịu trách nhiệm dân sự thay cho
pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện[11]. Mối quan hệ về
chế độ trách nhiệm còn được thể hiện rõ ở các quy định đối với các loại hình doanh
nghiệp trong hoạt động kinh doanh ở Luật Doanh nghiệp năm 2020. Cụ thể, thành viên
công ty TNHH hay cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong vi số vốn cam kết góp hoặc đã góp vào
doanh nghiệp. Như vậy, thành viên của hai chủ thể kinh doanh trên (gọi chung là doanh lOMoARcPSD|47205411
nghiệp) đương nhiên được giải phóng khỏi trách nhiệm tài sản vô hạn khi hoàn thành
nghĩa vụ góp vốn. TNHH hay trách nhiệm vô hạn một khi được đề cập phải xem xét đến
không chỉ là phạm vi trách nhiệm của chủ thể kinh doanh mà còn chỉ rõ phạm vi trách
nhiệm của các thành viên hình thành nên chủ thể kinh doanh đó.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối với hợp tác xã, công ty cổ phần và
công ty TNHH, thành viên chịu TNHH trong phạm vi phần vốn góp của mình, doanh
nghiệp chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản đang sở hữu trong quá trình kinh doanh
hoặc còn lại của mình khi phá sản. Ví dụ, công ty TNHH một thành viên thì chủ sở hữu
công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Các chủ thể kinh doanh còn lại là công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và cá nhân
là thành viên hợp danh hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình, cả tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản không đưa vào kinh doanh; Thành
viên hợp danh của công ty hợp danh và chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ kinh doanh
cũng có chế độ trách nhiệm vô hạn chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của hộ kinh doanh mà nó tham gia hoặc thành lập.
2.2. Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là một trong các hoạt động quản lý nhà nước. Do đó,
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế cũng chính là hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước. Theo quy định tại Điều 215 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; Bộ, cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm
trước Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công trong quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp trong phạm vi địa phương.[12]
Căn cứ vào đó việc phân loại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế chủ yếu dựa
trên các tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thẩm quyền hành chính - kinh tế, có thể chia thành: Cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế có thẩm quyền chung (Chính phủ, UBND các cấp); cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền riêng đối với các ngành kinh tế (Các Bộ, cơ quan ngang
Bộ quản lý chuyên ngành,...) và cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp theo từng lĩnh vực
(Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,...).
Thứ hai, căn cứ vào vị trí trong bộ máy quản lý nhà nước, có thể chia thành: Cơ
quan hành chính - kinh tế ở Trung ương và cơ quan hành chính - kinh tế ở địa phương.
Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý về kinh tế, có cơ quan chuyên trách quản lý về
đăng ký kinh doanh gọi là cơ quan đăng ký kinh doanh. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan đăng ký kinh doanh được quy định tại Khoản 1, Điều 216, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bao gồm:
- Giải quyết việc đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp xây dựng, quản lý Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp; công khai, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có yêu
cầu theo quy định của pháp luật; lOMoARcPSD|47205411
- Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ quy định của Luật này khi xét
thấy cần thiết; đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp;
- Trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát
doanh nghiệp theo nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp;
- Chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, không chịu
trách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước và sau khi đăng ký doanh nghiệp;
- Xử lý vi phạm quy định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy định của Luật này;
- Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính Phủ thì cơ quan
đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh) và ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), bao gồm: Ở cấp tỉnh: Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu
tư (sau đây gọi chung là Phòng Đăng ký kinh doanh); Phòng Đăng ký kinh doanh có thể
tổ chức các điểm để tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thuộc Phòng Đăng ký kinh doanh tại
các địa điểm khác nhau trên địa bàn cấp tỉnh; Ở cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện (sau đây gọi chung là Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện).
Cũng theo quy định tài Điều này, Cơ quan đăng ký kinh doanh có tài khoản và con dấu riêng.[13]
Bên cạnh đó, Chương II, Nghị định này cũng quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh.
3. Vai trò của Luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
3.1. Luật kinh tế cụ thể hoá đường lối của Đảng

Kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, tuy
nhiên, ở thời điểm này Đảng chưa đề cập tới phát triển nền kinh tế thị trường. Về cơ cấu kinh
tế, đã bắt đầu chú ý tới việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép và
khuyến khích phát triển thành phần kinh tế tư nhân, cá thể đối với những ngành nghề, lĩnh
vực nhất định. Về cơ chế quản lý kinh tế, Đảng chỉ rõ, việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi
đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp[14]. Để cụ thể hóa đường lối chính sách của của Đảng, đến năm 1990, Luật
Doanh nghiệp tư nhân được ban hành. Ngay phần đầu của đạo luật này đã tuyên bố một các
rõ ràng rằng “Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
khuyến khích việc đầu tư kinh doanh, bảo hộ lợi ích hợp pháp của chủ doanh nghiệp tư nhân;
tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”[15]. Luật này quy
định công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước
công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng
trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp
pháp của việc kinh doanh. Như vậy, trong khuôn khổ lOMoARcPSD|47205411
pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh.
Đến Đại hội Đảng IX năm 2001, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội[16]. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn được hiểu có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Các thành phần kinh tế nói trên thực hiện kinh doanh theo pháp luật đều được khuyến
khích phát triển trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm.
Đồng thời, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bằng pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Để cụ thể đường
lối đổi mới trên, ở thời kỳ này đã có những đạo luật quan trọng tác động và làm cơ sở cho
các chủ thể kinh doanh tạo lập, xác định hàng lang pháp lý cho mình phải kể đến như:
Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu
tư 2005, Luật Đầu tư 2014, Luật Thương mại 2005; Luật Cạnh tranh 2004, Luật Phá sản
2004, Luật Phá sản 2014, Luật Hợp tác xã năm 2012…. Các đạo luật trên đã góp phần
quan trọng trong quản lý nhà nước và đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện thể
chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh.
Đại hội Đảng XII năm 2016 của Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức rõ hơn về nội
hàm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản
lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"[17]. Luật kinh tế tiếp tục là
công cụ quản lý kinh tế quan trọng của Nhà nước, thực hiện chính sách, chủ trương cải
cách và chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng. Pháp luật về kinh tế đã ghi nhận và thể chế
hóa các chính sách, chủ trương của Đảng thành các quy định pháp luật, bảo đảm các
quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường như mong muốn của Đảng và Nhà nước.
3.2. Luật kinh tế tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, để các chủ thể yên tâm đầu
tư sản xuất kinh doanh lâu dài, một yêu cầu cơ bản là các hoạt động kinh doanh đó phải
được đảm bảo về mặt pháp lý. Xuất phát từ chức năng quản lý kinh tế của nhà nước, pháp
luật kinh tế đã tạo ra hành lang pháp lý bằng các quy định trong các văn bản pháp luật đã
xác lập tính hợp pháp của các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, điều này đã khuyến
khích các chủ thể mạnh dạn tham gia đầu tư kinh doanh. Cụ thể: lOMoARcPSD|47205411
Một là, Luật kinh tế là môi trường pháp lý thuận lợi và ổn định cho sự phát triển
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự chủ quyết định hoạt
động, nhưng quyền tự chủ được thể chế hoá thành pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân
theo pháp luật. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, có hiệu lực cao và sự ổn định chính trị,
xã hội là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, Luật kinh tế góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho phát triển
kinh tế. Nhà nước ban hành các quy định pháp lý khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh
vực để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu xác định. Nhà nước thông qua
những quy định ưu đãi, hỗ trợ này và sử dụng như những đòn bẩy kinh tế để hướng các
doanh nghiệp vào các ngành, các lĩnh vực mà nhà nước muốn ưu tiên phát triển. Ngoài
ra, pháp luật về tài chính, tín dụng, thuế… cũng phối hợp tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ thể kinh tế yên tâm hoạt động.
Ba là, Luật kinh tế đảm bảo các chủ thể kinh doanh hoạt động có hiệu quả và lành
mạnh thông qua việc quy định và thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác
động từ bên ngoài có ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh trong Luật Cạnh
tranh. Vì vậy, những quy định trong Luật kinh tế về điều kiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh, giá cả thị trường phản ánh đúng
chi phí sản xuất, làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, Luật kinh tế góp phần thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo đảm định hướng XHCN. Bởi thực tế cơ chế thị trường có nhiều tác
động tích cực đối với sự phát triển kinh tế năng động và hiệu quả, nhưng cũng có những
hạn chế như: Phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội... Vì vậy, Luật
kinh tế sẽ quy định những ưu đãi đặc biệt hoặc hạn chế các chủ thể kinh doanh thông qua
các biện pháp kỹ thuật nhằm khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường,
thực hiện công bằng xã hội, tạo động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế. Như vậy, ngành
Luật kinh tế là công cụ quan trọng để Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường nói
chung và các chủ thể kinh doanh nói riêng là nhằm làm cho mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
3.3. Luật kinh tế xác định địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh
Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm[18]. Căn cứ vào đó Luật kinh tế xác lập và bảo đảm
quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh nhằm đảm bảo tính chủ động trong
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh phù hợp với quy định pháp luật, ghi nhận vai trò,
nhiệm vụ của từng loại chủ thể trong hệ thống cơ quan, tổ chức kinh tế, đồng thời cũng
giúp các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động của các chủ thể kinh doanh hiệu quả hơn.
Sự ghi nhận quyền tự do kinh doanh cũng như việc quy định và bảo đảm trên thực tế hoạt
động đầu tư, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân là động lực cơ bản cho sự ổn định và
phát triển nền kinh tế. Quyền tự do kinh doanh về cơ bản được cụ thể hóa thông qua các
đạo luật chuyên ngành và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 2014 ở một số quyền như
quyền tự do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quyền tiếp cận thị
trường, quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản
của doanh nghiệp. Thông qua các quy định pháp luật hiện hành có thể khái quát về quyền
tự do kinh doanh trên mấy nội dung chính như sau: lOMoARcPSD|47205411
Ghi nhận quyền tự do và sự bình đẳng của mọi chủ thể trong các hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Bảo đảm an toàn tài sản cho các nhà đầu tư, kinh doanh như quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của mình.
Bảo đảm sự vận động nhanh chóng của các nguồn vốn đầu tư bằng việc quy định
chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn của mình.
Ngoài ra, chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh, lựa
chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh và chủ động điều chỉnh quy mô và
ngành, nghề kinh doanh theo nhu cầu và năng lực của mình. Ngược lại, các chủ thể kinh
doanh cũng có quyền từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy định của pháp
luật hoặc tiến hành khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và
tham gia tố tụng bình đẳng theo quy định của pháp luật[19].
3.4. Luật kinh tế điều chỉnh và giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh Hoạt
động kinh doanh trên thực tế rất đa dạng, phong phú và thường có nhiều
quan hệ đan xen với nhau. Luật kinh tế ghi nhận quá trình xác lập, thực hiện, chấm dứt
cùng những hệ quả phải giải quyết đối với các hành vi kinh doanh. Tranh chấp phát sinh
trong kinh doanh là vấn đề tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, do đó Luật kinh
tế đã dự liệu các hình thức giải quyết tranh chấp để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong quá trình kinh doanh bằng các chế định về cách thức tổ chức, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của các cơ quan tài phán kinh tế.
Việc sử dụng pháp luật kinh tế để giải quyết các tranh chấp giữa các bên trước hết
đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh muốn giải quyết vụ việc của mình một cách
thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả. Từ khi đàm phán ký kết hợp đồng hoặc các giao
kết kinh tế khác, các chủ thể có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp
nhất. Ngay cả trong trường hợp không có thỏa thuận này pháp luật kinh tế cũng thừa
nhận một số hình thức cơ bản như hòa giải hoặc tố tụng tại tòa án có thẩm quyền và quyết
định của tòa án có giá trị buộc các bên tham gia phải thực hiện. Không chỉ có cơ quan tòa
án, pháp luật kinh tế cũng thừa nhận và quy định chặt chẽ hình thức giải quyết tranh chấp
giữa các bên trong hoạt động kinh doanh thông qua hình thức tố tụng tại các trung tâm
trọng tài thương mại và quyết định hợp pháp của trọng tài thương mại cũng có giá trị
chung thẩm và đảm bảo thi hành như các quyết định của tòa án. Kể cả trong trường hợp
không có thỏa thuận trọng tài từ trước, các bên tranh chấp có thể thiết lập thỏa thuận
trọng tài thương mại sau khi xảy ra tranh chấp kinh doanh. Bên cạnh đó, luật kinh tế chỉ
ra thẩm quyền giữa các cơ quan tố tụng hoặc giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng để
đảm bảo quyền tự quyết, bình đẳng giữa các bên trong hoạt động kinh doanh.
3.5. Luật kinh tế quy định về các biện pháp giải quyết việc giải thể, phá sản chủ thể kinh doanh
Khi chủ thể kinh doanh mong muốn hoặc không đủ điều kiện, khả năng hoạt động
kinh doanh có thể lựa chọn các hình thức hoặc trình tự nhất định để chấm dứt. Đối với
mỗi trình tự nhất định, các chủ thể kinh doanh đều phải tuân theo các quy định của pháp
luật chuyên ngành để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan và
được pháp luật bảo về những quyền lợi của chính mình. lOMoARcPSD|47205411
Ví dụ, khi chủ thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc hết thời hạn
đã đăng ký thì có quyền thực hiện các thủ tục để giải thể hoặc tuyên bố chấm dứt hoạt
động kinh doanh theo trình tự, thủ tục hành chính và xóa tên trên cơ sở dữ liệu quốc gia
về đăng ký kinh doanh (Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp Quốc gia). Tuy nhiên, khi
một chủ thể kinh doanh không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong một
thời hạn nhất định thì có thể phải áp dụng thủ tục phá sản để tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản.
Luật Phá sản năm 2014 ra đời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế đất nước
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo đảm cụ thể hoá và không có sự xung đột
giữa các quy định của Luật Phá sản với các quy định của các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên. Luật Phá sản bảo đảm trình tự và thủ tục giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản dân chủ, công khai, nhanh gọn, công bằng, thuận lợi;
đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình giải quyết yêu
cầu mở thủ tục phá sản nhưng quan trọng hơn cả là Luật kinh tế nói chung và Luật Phá
sản nói riêng đã tạo ra cơ chế đảm bảo cho chủ thể kinh doanh bị lâm vào tình trạng phá
sản có cơ hội phục hồi theo chủ trương tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng. Đặc biệt, đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có khả
năng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, thoát khỏi tình trạng thua lỗ, phá sản; bảo
đảm tối đa quyền lợi của người lao động.
Việc Luật kinh tế quy định các trình tự, thủ tục về phá sản là góp phần tăng cường
pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Không những thế, với các quy
định liên quan, pháp luật kinh tế về phá sản và giải thể các chủ thể kinh doanh đã đề cao
vai trò, trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt
động giải quyết yêu cầu giải thể và tuyên bố phá sản. Pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các chủ thể kinh doanh không muốn tiếp tục kinh doanh vì lý do nào đó hoặc trong
tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG
PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT KINH TẾ
1. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh tế

Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ
chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá
trình lâu dài và liên tục vì thị trường luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải
được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Mỗi ngành luật có
đối tượng điều chỉnh riêng, theo giáo trình này, Luật kinh tế điều chỉnh ba nhóm quan hệ xã hội sau:
1.1. Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý
về kinh tế với các chủ thể kinh doanh
lOMoARcPSD|47205411
Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh xác lập
địa vị pháp lý và đáp ứng các nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Các quan hệ này phát
sinh chủ yếu trong quá trình thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng ký
kinh doanh (nếu có), đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, công khai thông tin
về thành lập và hoạt động, báo cáo và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật kinh tế có liên quan.
Thứ hai, chủ thể kinh doanh thực hiện các công việc nhằm đáp ứng đủ điều kiện
kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Thứ ba, chủ thể kinh doanh tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính,
thống kê, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
Đặc điểm của nhóm quan hệ xã hội này là các quan hệ quản lý kinh tế phát sinh và
tồn tại giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể kinh doanh khi các cơ quan
quản lý thực hiện chức năng quản lý của mình. Các chủ thể tham gia quan hệ này ở vào
vị trí bất bình đẳng, vì quan hệ này hình thành và được thực hiện dựa trên nguyên tắc
quyền uy, phục tùng với một bên luôn là cơ quan Nhà nước. Các chủ thể kinh doanh phải
thực hiện theo quy định của pháp luật về hồ sơ báo cáo, đăng ký kinh doanh, thủ tục tổ
chức lại, khiếu nại, tố cáo… theo đúng trình tự pháp luật, đồng thời phải tuân thủ các
quyết định, xử lý vi phạm của cơ quan có thẩm quyền. Cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý
nhà nước hoặc cơ quan tố tụng thực hiện chức năng của mình thông qua các văn bản pháp
lý do các cơ quan quản lý có thẩm quyền ban hành.
Tóm lại, nhóm quan hệ này thể hiện sự quản lý kinh tế của Nhà nước và diễn ra
khi các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. Các chủ thể
trong mối quan hệ này không bình đẳng về mặt pháp lý, các chủ thể bị quản lý phải phục
tùng mệnh lệnh, ý chí của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau
Nhóm quan hệ xã hội này phát sinh trong quá trình các chủ thể kinh doanh thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chủ thể của nhóm
quan hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
tham gia trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tự nguyên không bị áp đặt. Đây là nhóm
quan hệ chủ yếu và phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh
doanh nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, trên cơ sở
thống nhất ý chí của các bên thông qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng kinh tế
hoặc những thoả thuận hợp tác kinh doanh. Chủ thể của nhóm quan hệ này chủ yếu là các
chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ này trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Đặc trưng đặc biệt của nhóm quan hệ
này là nhóm quan hệ tài sản và quan hệ hàng hoá- tiền tệ.
1.3. Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ các chủ thể kinh doanh lOMoARcPSD|47205411
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia kinh doanh hình thành nên các đơn vị kinh
doanh độc lập tương đối với nhau. Các hình thức kinh doanh mà các chủ thể có thể chọn
như các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh. Nhóm quan hệ kinh tế phát
sinh trong nội bộ của các chủ thể kinh doanh bao gồm các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình hoạt động kinh doanh giữa tổng công ty, tập đoàn kinh tế và các đơn vị thành
viên cũng như giữa các cá nhân là thành viên của của chủ thể kinh doanh đó với nhau. Ví
dụ, trong quá trình hoạt động kinh doanh các cá nhân, tổ chức tham gia góp vốn thành lập
doanh nghiệp, bản thân các thành viên trong doanh nghiệp có thể mâu thuẫn quyền lợi,
nghĩa vụ với nhau hoặc mâu thuẩn giữa thành viên với doanh nghiệp dẫn đến tranh chấp
cần sự điều chỉnh của luật.
Đặc điểm của nhóm quan hệ này là trực tiếp phát sinh trong nội bộ nên cơ sở pháp
lý điều chỉnh các mối quan hệ trên gồm các quyết định thành lập, nội quy, quy chế, điều
lệ, cam kết. Đây không phải là nguồn luật và không phải là căn cứ pháp lý áp dụng chung
cho tất các các chủ thể kinh doanh, mà chúng chỉ có hiệu lực, giá trị pháp lý ràng buộc
giữa các thành viên, đơn vị trong tổ chức kinh doanh nhất định.
Điều lệ của doanh nghiệp, hợp tác xã: Là bản cam kết giữa các chủ sở hữu doanh
nghiệp nhằm xác lập các nội dung về danh tính công ty, cách thức thành lập, góp vốn, bộ
máy tổ chức, quản lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại v.v…. để
hoạt động suôn sẻ và tránh những rắc rối, tranh chấp trong nội bộ công ty. Như vậy, điều lệ
doanh nghiệp không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà có thể hiểu đây là một cam kết
được đồng ý bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp, giữa những người sáng lập với nhau cũng như
giữa những người sáng lập với những người góp vốn (thành viên hợp danh, thành viên góp
vốn vào công ty hợp danh, thành viên công ty TNHH, cổ đông) nhằm xác lập các nội dung
về danh tính doanh nghiệp, cách thức thành lập, góp vốn, bộ máy tổ chức, quản lý, hoạt động
của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại và những nội dung khác. Điều lệ doanh
nghiệp trước hết có thể xem là một bản hợp đồng được đồng ý bởi các bên trong công ty
mang tính chất quy định. Nó được xây dựng dựa trên các khuôn khổ, hành lang pháp lý mà
pháp luật đề ra mặt khác, doanh nghiệp lại được phép tự do chỉnh sửa, miễn là không trái
pháp luật. Xét về mặt điều hành, điều lệ doanh nghiệp được hiểu như là “luật của doanh
nghiệp” trong đó doanh nghiệp có thể tự điều chỉnh hoạt động của mình một cách có ý chí
riêng mà lại không trái pháp luật. Xét về mặt kinh doanh, điều lệ đóng một vai trò quan trọng
không kém vì nó cho biết cơ cấu, nội dung doanh nghiệp, cách thức kinh doanh, hoạt động
mà doanh nghiệp đề ra cho người mong muốn góp vốn hay giao dịch với công ty. Cũng bởi
lẽ đó mà những đối tác đầu tư, những khách hàng luôn quan tâm, tìm hiểu kỹ về điều lệ trước
khi cam kết điều gì. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần biết ai sẽ là người ký kết hợp đồng
với họ, bởi thông qua điều lệ công ty, pháp luật có quy định ai là người đại diện. Để hoạt
động suôn sẻ, tránh được những tranh chấp phát sinh và rắc rối với pháp luật, doanh nghiệp
cần quan tâm một số điểm cơ bản trong cách soạn thảo thành lập điều lệ công ty như sau:
Điều lệ không được trái với các quy định của pháp luật và không xâm phạm quyền lợi của
bên thứ ba; điều lệ công ty là một hợp đồng nhiều bên dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa
thuận để quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, tổ chức quản lý, hoạt động của công ty;
điều lệ phải có đủ các nội dung chủ yếu quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020. Theo quy định lOMoARcPSD|47205411
của pháp luật về kinh tế, điều lệ doanh nghiệp, hợp tác xã đều phải được lưu giữ tại
doanh nghiệp, đồng thời nộp một bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành lập hoặc
khi có sửa đổi các nội dung trong điều lệ doanh nghiệp.
Nghị quyết, quyết định... trong nội bộ doanh nghiệp. Đây là các văn bản trong
quản lý và điều hành doanh nghiệp. Nó không phải là văn bản quy phạm pháp luật,
nhưng lại là nguồn luật quan trọng để tham chiếu hoặc căn cứ vào đó các thành viên, chủ
sở hữu doanh nghiệp tiến hành các thủ tục hành chính, tư pháp hợp pháp. Cơ quan quản
lý nhà nước hoặc cơ quan tố tụng cũng có thể căn cứ vào loại văn bản này để giám sát,
quản lý hoặc đưa ra những phán quyết hoặc quyết định theo thẩm quyền của mình.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh tế
Luật kinh tế sử dụng hai phương pháp điều chỉnh cơ bản là phương pháp bình
đẳng, thỏa thuận và phương pháp mệnh lệnh, quyền uy. Đây là những phương pháp mà
nhà nước tác động lên các quan hệ kinh tế làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi,
chấm dứt theo ý chí của nhà nước.
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận thể hiện quyền tự do lựa chọn cũng như thể
hiện sự ưng thuận của các chủ thể kinh doanh trong quá trình tổ chức hoạt động kinh
doanh của mình như tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, mô
hình kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác kinh doanh...
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện quyền của chủ thể quản lý nhà nước đối với các
chủ thể kinh doanh. Theo đó, các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ các quy định về điều
kiện, trình tự, thủ tục thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý... do luật định.
Tuy nhiên do Luật kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ quản lý kinh tế giữa chủ thể
không bình đẳng (khi có sự tham gia của Nhà nước) vừa điều chỉnh quan hệ bình đẳng về
tài sản giữa các chủ thể với nhau phát sinh trong quá trình kinh doanh cho nên ngành luật
này sử dụng và phối hợp cả hai phương pháp tác động trên nhưng ở mức độ linh hoạt tuỳ
theo từng quan hệ kinh tế cụ thể. Đặc biệt, với sự hội nhập kinh tế quốc tế và các quy
định mới rất tiến bộ trong Hiến Pháp năm 2013, phương pháp điều chỉnh của ngành luật
này cũng được bổ sung và thay đổi phù hợp. Theo đó, phương pháp mệnh lệnh trong điều
chỉnh pháp lý các hoạt động kinh doanh hầu như không còn được áp dụng rộng rãi. Các
quan hệ tài sản với mục đích kinh doanh được trả lại cho chúng nguyên tắc tự do ý chí, tự
do giao kết của tất cả các bên. Các mệnh lệnh hành chính trái với quy luật thị trường
được dần bãi bỏ, thay vào đó các chủ thể kinh doanh được tự do kinh doanh tất cả các
ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm[20]. Hay nói một cách khác, cơ quan Nhà
nước muốn cấm hoặc hạn chế các chủ thể kinh doanh bất kỳ ngành nghề nào phải được
ghi nhận hoặc tuyên bố trước trong các đạo luật do Quốc hội ban hành.
Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ giữa
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể kinh doanh. Trong mối quan hệ này
cơ quan Nhà nước có quyền đưa ra các quy định buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân
theo. Với cách thức tác động đó cho thấy vị trí bất bình đẳng giữa bên quản lý và bên bị
quản lý, bên bị quản lý buộc phải thực hiện ý chí của cơ quan quản lý đã thể hiện tính
chất phục tùng mệnh lệnh. là điều chỉnh các qua hệ kinh tế bằng cách quy định cho các
cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế trong phạm vi chức năng của mình có quyền ra