Giáo trình môn Tâm lý học tội phạm | Trường Đại học Luật Hà Nội
Tài liệu gồm 55 trang, có chương 5 chính bao gồm các kiến thức cơ bản cơ bản về nhân cách người phạm tội, cơ chế tâm lý của hành vi phạm tội, tâm lý nhóm phạm tội và khía cạnh tâm lí trong phòng ngừa tội phạm,...giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học Tâm lý học tội phạm. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
CHƯƠNG 1: ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ
VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦATÂM LÝ HỌC TỘI PHẠM
1. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lý học tội phạm
Cuối thế kỷ XIX, cùng với sự ra đời của khoa học nghiên cứu về tội phạm,
tâm lý học tội phạm, một chuyên ngành tâm lý học chuyên nghiên cứu về
tâm lý của những người phạm tội cũng đã được hình thành. Kể từ đó đến
nay, tâm lý học tội phạm luôn được quan tâm nghiên cứu và không ngừng
phát triển, nhất là ở các nước phương Tây. Kết quả của các nghiên cứu về
tâm lý người phạm tội, nguyên nhân tâm lý của tội phạm, cơ chế hành vi
phạm tội…đã được ứng dụng rộng rãi trong công tác phòng ngừa, phát hiện
và điều tra, xử lý tội phạm nhằm giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Trải qua các giai đoạn phát triển, tâm lý học tội phạm trở thành một ngành
khoa học độc lập nghiên cứu các hiện tượng tâm lý nảy sinh ở người phạm
tội; những vấn đề, những quy luật tâm lý liên quan đến hoạt động của tội phạm.
Tâm lý học tội phạm là khoa học nghiên cứu những hiện tượng tâm lý
nảy sinh trong quá trình hoạt động phạm tội của các tội phạm nhằm phòng
ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội.
2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
2.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm là các vấn đề cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu các hiện tượng,các đặc điểm và những khía cạnh tâm lý nảy
sinh trong quá trình hoạt động phạm tội. Việc nghiên cứu, phân tích tâm lý
hoạt động phạm tội có ý nghĩa quan trọng, giúp làm rõ các yếu tố liên quan
đến quá trình thực hiện tội phạm như: động cơ, mục đích cũng như diễn biến
và hậu quả tâm lý ở cá nhân khi thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể.
- Nghiên cứu nhân cách người phạm tội: các đặc trưng tâm lý trong nhân
cách người phạm tội; các kiểu nhân cách người phạm tội với những đặc
trưng riêng biệt; những lệch lạc trong nhân cách người phạm tội và các yếu 1
tố tác động làm suy thoái nhân cách dẫn cá nhân đến con đường phạm tội.
Những nghiên cứu này giúp cho việc đánh giá tội phạm một cách khách
quan, làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa,điều tra, xét xử
và giáo dục cải tạo người phạm tội, giúp họ tái hòa nhập với xã hội có hiệu quả.
- Nghiên cứu về tâm lý nhóm tội phạm: tâm lý hoc tội pham còn nghiên cứu
những đặc điểm tâm lý của tội phạm hoạt động theo nhóm, của tội phạm có
tổ chức. Việc nghiên cứu tâm lý nhóm tội phạm có ý nghĩa to lớn góp phần
phát hiện những nguyên nhan, điều kiện dẫn đến tình trạng gia tăng tội phạm
có tổ chức; tìm ra cơ chế phạm tội theo nhóm; con đường hình thành nhóm
tội phạm…nhằm phục vụ có hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa các
nhóm tội phạm, nhất là loại tội phạm có tổ chức.
- Nghiên cứu xác định các nguyên nhân tâm lý – xã hội của tội phạm: Tội
phạm là một hiện tượng mang tính chất xã hội – lịch sử phức tạp. Việc phát
hiện, đấu tranh, ngăn chặn nhằm loại trứ tận gốc tội phạm không thể tiến
hành một cách có hiệu quả nếu không nghiên cứu đầy đủ những điều kiện
khách quan và chủ quan, các yếu tố tâm lý và xã hội làm cơ sở cho sự phát
sinh, phát triển tội phạm hay một hành vi phạm tội cụ thể.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu, tâm lý học tội phạm có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ các quy luật hình thành và phát triển các phẩm chất tâm lý tiêu cực
dẫn cá nhân đi vào con đường phạm tội. Trên cơ sở đó xác định phương
hướng phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi phạm tội, ngăn
ngừa tội phạm xảy ra trong xã hội ở từng lĩnh vực cũng như ở mỗi giai đoạn khác nhau.
- Giáo dục cho mội công dân ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần cảnh
giác và chủ động tham gia vào công tác phòng ngừa, phát hiện và đú tranh
chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự.
- Nghiên cứu cơ sở tâm lý của các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và đấu
tranh chống tội phạm. Trên cơ sở đó, làm rõ được các quy luật diễn biến tâm
lý của người phạm tội trước, trong và sau khi phạm tội sẽ giúp cho việc đề ra
những chỉ dẫn về phương diện tâm lý phục vụ công tác phòng ngừa, điều tra,
khám phá và xử lý tội phạm có hiệu quả. 2
- Xây dựng các phương pháp nghiên cứu tâm lý, tác động tâm lý phục vụ
cho hoạt động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm. Trong
quá trình xây dựng các phương pháp nghiên cứu và tác động tâm lý cần chú
ý đến đặc điểm tâm lý của người phạm tội; đặc điểm tâm lý của các nhóm tội
phạm; mối quan hệ giữa các nhân tố xã hội và tâm lý trong việc hình thành
các đặc điểm tâm lý tiêu cực dẫn cá nhân đi vào con đường pham tội.
- Góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của tâm lý học nối chung, tâm lý học
pháp lý và chuyên ngành tâm lý học tội phạm nói riêng, nhằm đáp ứng
những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động bảo vệ pháp luật. Bằng
những tri thức tích lũy được, tâm lý học tội phạm có nhiệm vụ bổ sung, làm
rõ hơn các khái niệm như: nhân cách, hành vi, hoạt đông, giao tiếp…cũng
như các phương pháp nghiên cứu tâm lý cá nhân, tâm lý nhóm. Kết quả
nghiên cứu tâm lý các loại tội phạm sẽ góp phần làm phong phú nội dung,
phương pháp của tâm lý học pháp lý như: tâm lý học tư pháp, tâm lý học
giáo dục cải tạo phạm nhân…
3. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tội phạm
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, tâm lý học tội phạm sử dụng hệ thống
các phương pháp chung của tâm lý học như: phương pháp quan sát, phương
pháp trò chuyện, phương pháp phỏng vấn, phương pháp khái quát hóa các
nhận xét độc lập…Bên cạnh đó, tâm lý học tội phạm có sử dụng một số
phương pháp đặc trưng như:
3.1. Phương pháp quan sát
Quan s¸t lµ sù tri gi¸c cã chñ ®Þnh c¸c biÓu hiÖn bÒ ngoµi cña con ngêi
nh hµnh ®éng, cö chØ, ¸nh m¾t, nÐt mÆt, c¸ch nãi n¨ng, c¸ch ¨n mÆc...nh»m
nhËn xÐt, ph¸n ®o¸n c¸c ®Æc ®iÓm t©m lý cña hä.
Ph¬ng ph¸p quan s¸t ®îc sö dông mét c¸ch phæ biÕn trong ho¹t ®éng
tè tông. Ph¬ng ph¸p nµy gióp b¹n cã thÓ ph¸n ®o¸n ®îc c¸c diÔn bÕn néi t©m
cña ®èi tîng. Ch¼ng h¹n, th«ng qua quan s¸t c¸ch biÓu c¶m trªn nÐt mÆt cña
bÞ c¸o vµ c¸c biÓu hiÖn hµnh vi cña hä, b¹n cã thÓ ph¸n ®o¸n th¸i ®é cña hä
®èi víi hµnh vi mµ hä ®· thùc hiÖn. Ph¬ng ph¸p nµy còng cã thÓ sö dông ®Ó
ph¸n ®o¸n vÒ ®Æc ®iÓm t©m lý cña ®èi tîng. Khi ta quan s¸t hµnh vi, c¸ch nãi
n¨ng, ¨n mÆc cña mét ngêi, ta cã thÓ ®o¸n, hä lµ ngêi nh thÕ nµo, tÝnh c¸ch,
tr×nh ®é nhËn thøc cña hä ra sao... 3
Trong ho¹t ®éng ph¸p lý, ph¬ng ph¸p quan s¸t cã mét sè ®Æc ®iÓm ®Æc thï sau:
- Chñ thÓ tiÕn hµnh quan s¸t còng cã thÓ trë thµnh ®èi tîng bÞ quan s¸t.
Cã nghÜa lµ, khi ta tiÕp xóc víi mét ®èi tîng ®Ó thu thËp th«ng tin, th× hä
(®Æc biÖt lµ bÞ can, bÞ c¸o) còng rÊt muèn biÕt ta ®ang nghÜ g×, muèn g× ë hä .
V× vËy, hä còng tiÕn hµnh quan s¸t ta ®Ó cã ®îc nh÷ng th«ng tin cÇn thiÕt vÒ
chñ thÓ ®ang quan s¸t m×nh
- ViÖc sö dông ph¬ng ph¸p quan s¸t cã thÓ gÆp nh÷ng trë ng¹i nhÊt
®Þnh, v× ®èi tîng cña quan s¸t cã thÓ cã nh÷ng ®éng t¸c gi¶ ®Ó che ®Ëy néi
t©m cña m×nh. §©y lµ ®Æc ®iÓm ®Æc thï cña ho¹t ®éng t ph¸p. §èi víi ngêi
ph¹m téi hoÆc nh÷ng ngêi cã th¸i ®é kh«ng thµnh khÈn th× khi tiÕp xóc víi
ngêi c¸n bé t ph¸p, hä lu«n cã ý thøc che dÊu nh÷ng diÔn biÕn néi t©m cña
m×nh. Hä cã thÓ dïng nh÷ng ®éng t¸c gi¶ bªn ngoµi ®Ó ®¸nh l¹c híng chñ
thÓ quan s¸t. Ch¼ng h¹n, mét bÞ c¸o t¹i phiªn toµ cã thÓ khãc nøc në vµ thÓ
hiÖn sù hèi hËn mét c¸ch rÊt “nghÖ thuËt” mÆc dï thËt t©m anh ta kh«ng hÒ hèi c¶i.
- §iÒu kiÖn cña ho¹t ®éng t ph¸p cã thÓ g©y nh÷ng t¸c ®éng lín ®èi
víi t©m lý cña c¸c chñ thÓ tham gia. V× vËy, t©m lý cña hä thêng béc lé díi
rÊt nhiÒu s¾c th¸i kh¸c nhau. Ch¼ng h¹n, còng lµ th¸i ®é khai b¸o cña ngêi
lµm chøng, khi khai b¸o t¹i c¬ quan ®iÒu tra, hä cã thÓ tÝch cùc vµ chñ ®éng.
Nhng t¹i phiªn toµ, sù chó ý cña nhiÒu ngêi cã thÓ g©y cho ngêi lµm chøng
t©m lý e ng¹i, lµm cho hä trë nªn thô ®éng h¬n khi khai b¸o.
Tõ nh÷ng ®Æc thï trªn, khi sö dông ph¬ng ph¸p nµy, ta cÇn chó ý nh÷ng vÊn ®Ò sau:
- X¸c ®Þnh râ môc ®Ých, néi dung vµ kÕ ho¹ch quan s¸t. Ph¬ng ph¸p
quan s¸t thêng ®¹t hiÖu qu¶ cao khi ta ®· cã nh÷ng gi¶ thiÕt nhÊt ®Þnh vÒ ®èi
tîng, vµ quan s¸t lµ ®Ó kiÓm tra gi¶ thiÕt ®ã.
- Kh«ng nªn ®Ó lé cho ®èi tîng bÞ quan s¸t biÕt ®îc môc ®Ých cña ngêi
quan s¸t. NÕu hä biÕt ®îc môc ®Ých cña ngêi quan s¸t, hä cã thÓ mÊt tù
nhiªn, kh«ng tho¶i m¸i, thËm chÝ gi¶ t¹o, ®ãng kÞch.
- Sù biÓu hiÖn cña t©m lý lµ rÊt ®a d¹ng vµ phô thuéc vµo t×nh huèng.
Do ®ã, ta cÇn tiÕn hµnh quan s¸t ®èi tîng nhiÒu lÇn trong nh÷ng t×nh huèng kh¸c nhau. 4
- Ghi chÐp kÕt qu¶ quan s¸t mét c¸ch chi tiÕt, kh¸ch quan vµ kh«ng ®-
îc cã ®Þnh kiÕn khi ®¸nh gi¸ ®èi tîng.
3.2. Phương pháp phỏng vấn cá nhân
Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin về người phạm tội bằng cách
trưng cầu ý kiến miệng.
Hai hình thức phổ biến nhất của phỏng vấn là tự do ( không tuyên bố chủ đề
và hình thức đàm thoại ) và chẩn mực hóa ( về hình thức gần giống với loại
điều tra bằng bảng hỏi ).
Khi tiến hành phỏng vấn cần cúy ý đến một số yêu cầu như:
- Người tiến hành phỏng vấn nên đưa ra những câu hỏi rành mạch, rõ ràng.
- Trong trường hợp cần thiết cần tạo ra một không khí thẳng thắn và tin
tưởng để tranh thủ sự hợp tác của những người được hỏi.
3.3. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu, hồ sơ
Trong tâm lý học tội phạm cũng như nhiều khoa học khác thường sử dụng
nghiên cứu văn bản, tài liệu, hồ sơ. Về thực chất đây là phương pháp tìm
hiểu tâm lý người phạm tội thông qua việc hệ thống hóa các thông tin về
quan hệ, về môi trường sống, hoạt động của người phạm tội – yếu tố có ý
nghĩa quyết định nội dung, phẩm chất tâm lý người phạm tội.Vì vậy việc
nghiên cứu này giúp ta có cơ sở để phát hiện các phẩm chất tâm lý của người
phạm tội như: trình độ học vấn, khinh nghiệm, nghề nghiệp, vốn sống xã hội
, quan điểm chống đối …
3.4. Phương pháp thực nghiệm
Thùc nghiÖm lµ ph¬ng ph¸p mµ chñ thÓ chñ ®éng t¹o ra t×nh huèng
nh»m lµm xuÊt hiÖn ë ®èi tîng nh÷ng hiÖn tîng t©m lý cÇn quan t©m, tiÕn
hµnh ®o ®¹c, ®Þnh lîng chóng mét c¸ch kh¸ch quan.
VÝ dô: §Ó nghiªn cøu sù ¶nh hëng cña ¸p lùc nhãm ®èi víi c¸ nh©n,
ngêi ta yªu cÇu 5 ®èi tîng ®øng c¸ch ®ªï hai ®o¹n th¼ng cã ®é dµi kh¸c
nhau (sù kh¸c nhau vÒ ®é dµi cña hai ®o¹n th¼ng cã thÓ nhËn thÊy ®îc tõ vÞ
trÝ cña mçi ngêi). Sau ®ã yªu cÇu hä ®a ra ý kiÕn cña m×nh vÒ ®é dµi cña hai
®o¹n th¼ng ®ã. Bèn ngêi tr¶ lêi tríc, do ®îc nhµ nghiªn cøu bÝ mËt thèng
nhÊt tríc, ®Òu nhËn xÐt lµ hai ®o¹n th¼ng ®ã b»ng nhau. Ng¬× thø 5 tr¶ lêi sau
cïng, díi ¸p lùc cña nhãm, còng theo b¹n m×nh nhËn xÐt vÒ sù b»ng nhau 5
cña hai ®o¹n th¼ng. Trong trêng hîp nµy, chóng ta ®· sö dông ph¬ng ph¸p thùc nghiÖm.
T×nh huèng ®îc t¹o ra trong ph¬ng ph¸p thùc nghiÖm cã vai trß quan
träng. Chóng lµ ®iÒu kiÖn ®Ó h×nh thµnh nh÷ng hiÖn tîng t©m lý mµ chóng ta
cÇn quan t©m. Thùc chÊt c¸c t×nh huèng nµy lµ nh÷ng vÊn ®Ò, nh÷ng “bµi
to¸n” mµ nhµ nghiªn cøu ®Æt ra cho c¸c ®èi tîng vµ c¨n cø vµo c¸ch gi¶i
quyÕt cña hä ®Ó x¸c ®Þnh ®Æc ®iÓm cña ®èi tîng nghiªn cøu.
Ngêi ta ph©n biÖt nhiÒu lo¹i thùc nghiÖm kh¸c nhau:
- Thùc nghiÖm tù nhiªn lµ thùc nghiÖm dùa vµo nh÷ng ®iÒu kiÖn hoµn
c¶nh trong cuéc sèng vµ ho¹t ®éng cña ®èi tîng. Trong ho¹t ®éng tè tông c¸c
thùc nghiÖm ®iÒu tra chñ yÕu thuéc lo¹i nµy. VÝ dô: thùc nghiÖm diÔn l¹i
hµnh ®éng, viÖc lµm nh»m kiÓm tra lêi khai cña bÞ can, ngêi bÞ t¹m gi÷, ngêi lµm chøng ...
- Thùc nghiÖm gi¸o dôc lµ lo¹i thùc nghiÖm nh»m ph¸t triÓn, rÌn luyÖn
hoÆc uèn n¾n nh÷ng phÈm chÊt t©m lý nµo ®ã ë ®èi tîng. Lo¹i thùc nghiÖm
nµy ®îc dïng trong qu¸ tr×nh giam gi÷ c¶i t¹o ph¹m nh©n.
- Thùc nghiÖm trong phßng thÝ nghiÖm lµ nh÷ng thùc nghiÖm nh»m
nghiªn cøu nh÷ng ®Æc ®iÓm t©m lý nhÊt ®Þnh, ®îc tiÕn hµnh trong nh÷ng
phßng ®îc bè trÝ ®Æc biÖt víi nh÷ng m¸y mãc, thiÕt bÞ tinh vi.
§Ó kÕt qu¶ rót ra tõ ph¬ng ph¸p thùc nghiÖm cã ®ñ ®é tin cËy, cÇn tiÕn
hµnh thùc nghiÖm nhiÒu lÇn vµ phèi hîp víi c¸c ph¬ng ph¸p kh¸c.
3.5. Phương pháp điều tra bảng hỏi cá nhân
Phương pháp điều tra bảng hỏi cá nhân là dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt
ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của
họ về một vấn đề nào đó.
Sử dụng phương pháp này có thể trong một thời gian ngắn thu thập được
một số ý kiến của nhiều người, nhưng là ý kiến chủ quan. Đẻ có tài liệu
tương đối chính xác, cần soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra ( người sẽ phổ biến
bảng câu hỏi điều tra cho các đối tượng ) vì nếu những người này phổ biến
một cách tùy tiện thì kết quả sẽ rất khác nhau và sẽ không có giá trị khoa học.
Dựa vào các phiếu điều tra, sẽ giúp ta nghiên cứu những nguyên nhân tâm lý
xã hội của hành vi phạm tội cụ thể, đặc điểm tâm lý nhân cách của người phạm tội. 6
3.6. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của hoạt động
T©m lý con ngêi ®îc biÓu hiÖn trong ho¹t ®éng, ®îc “chÊt chøa” vµo
c¸c s¶n phÈm ho¹t ®éng, trë thµnh nh÷ng hiÖn tîng t©m lý tiÒm tµng, tÝch ®äng trong ®ã.
V× vËy, dùa vµo viÖc ph©n tÝch kÕt qu¶, s¶n phÈm ho¹t ®éng cã thÓ rót
ra nh÷ng kÕt luËn vÒ t©m lý nh©n c¸ch cña ngêi ®· lµm ra s¶n phÈm ®ã.
Ch¼ng h¹n, chóng t«i cã thÓ th«ng qua bµi thi cña mét häc viªn mµ ph¸n
®o¸n mét sè nÐt vÒ t©m lý cña hä nh: th¸i ®é ®èi víi m«n häc, hiÓu biÕt x· héi, kh¶ n¨ng t duy. .
Đây là phương pháp nghiên cứu tâm lý của người phạm tội bằng cách
phân tích các mặt hoạt động, các công việc nào đó mà người phạm tội đã
thực hiện. Hành vi phạm tội và hậu quả của nó cũng cần được phân tích,
nghiên cứu đầy đủ. Phân tích hậu quả của hành vi phạm tội, mức độ hoàn
thành, diễn biến của quá trình thực hiện hành vi phạm tội…có thể cho biết
trình độ, khả năng, kinh nghiệm, các kỹ năng, thói quen, tính cách, động cơ
cũng như các phẩm chất ý chí của người phạm tội.
3.7. Phương pháp trắc nghiệm
Phương pháp trắc nghiệm là phương pháp chẩn đoán tâm lý, có sử dụng
những câu hỏi và bài tập được chuẩn hóa ( các test ) theo những thang nhất định.
Trắc nghiệm cho phép với độ chính xác nhất định, xác định được mức độ
hiện tại các hiểu biết và đặc điểm nhân cách của người phạm tội.
Quá trình trắc nghiệm có thể chia ra làm ba giai đoạn:
- Lựa chọn trắc nghiệm ( xác định mục đích trắc nghiệm và mức độ tin cậy
và độ xác thực của test )
- Tiến hành trắc nghiệm.
- Xử lý kết quả thu được
3.8. Phương pháp phân tích trường hợp điển hình
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp tìm hiểu sâu
rộng một cá nhân hoặc một nhóm ít người.Theo phương pháp này, người
nghiên cứu phải thực hiện một trắc nghiệm tâm lý, trong đó người nghiên
cứu sử dụng một loạt câu hỏi được soạn thảo cẩn thận để tìm hiểu sâu sắc
các đặc điểm tâm lý cần thiết của người phạm tội
4. Vị trí, vai trò của tâm lý học tội phạm 7
4.1. Vị trí của tâm lý học tội phạm
Tâm lý học tội phạm có vị trí quan trọng trong hệ thống các khoa học
pháp lý. Nó là một bộ phận cấu thành của tâm lý học pháp lý, nghiên cứu
tâm lý người phạm tội cũng như các vấn đề, các khía cạnh tâm lý nảy sinh
trong hoạt động phạm tội của tội phạm nhằm giúp cho hoạt động điều tra,
xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội có kết quả.
Tâm lý học tội phạm cũng có mối quan hệ chặt chẽ với tội phạm học và khoa
học điều tra hình sự.
Tâm lý học tội phạm cũng có mối quan hệ chặt chẽ với tâm lý học nhân
cách, tâm lý học họat động … Nó được nghiên cứu, xây dựng dựa trên lý
luận của các ngành tâm lý học nói trên.
4.2. Vai trò của tâm lý học tội phạm
Tâm lý học tội phạm có vai trò to lớn trong công tác đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm. Những kết quả nghiên cứu các vấn đề, các quy luật
tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội của tội phạm đã góp phần nâng
cao hiệu quả của các mặt hoạt động này. Trªn c¬ së nghiªn cøu, lµm râ
nguyªn nh©n, ®iÒu kiÖn ph¹m téi, t©m lý häc téi ph¹m gióp c¸c c¬ quan cã
thÈm quyÒn ®a ra ®îc nh÷ng chñ tr¬ng, nh÷ng biÖn ph¸p ®óng ®¾n vµ cã hiÖu
qu¶ trong viÖc phßng ngõa téi ph¹m, lo¹i bá nh÷ng yÕu tè lµ nguyªn nh©n
ph¸t sinh téi ph¹m trong lèi sèng cña c¸ nh©n vµ céng ®ång.
Việc nghiên cứu, làm rõ đặc điểm tâm lý của người phạm tội, những quy
luật tâm lý biểu hiện trong hoạt động phạm tội luôn là cơ sở quan trọng cho
việc định ra các phương pháp, chiến thuật của hoạt động điều tra, xét xử và
cải tạo, giáo dục người phạm tội. Nghiªn cøu lµm râ ®Æc ®iÓm t©m lý, nh©n
c¸ch cña bÞ can, bÞ c¸o, cña ph¹m nh©n trong thêi gian chÊp hµnh ¸n ph¹t tï
t¹i tr¹i giam, ¶nh hëng cña ®iÒu kiÖn, hoµn c¶nh sèng ë tr¹i giam ®èi víi
ph¹m nh©n cho phÐp ngêi tiÕn hµnh tè tông, gi¸m thÞ vµ qu¶n gi¸o tr¹i giam
x©y dùng ch¬ng tr×nh, nh÷ng biÖn ph¸p t¸c ®éng phï hîp, ®¶m b¶o cho viÖc
hiÖn thùc ho¸ môc ®Ých cña ho¹t ®éng gi¸o dôc trong giai ®o¹n ®iÒu tra, xÐt
xö vµ ®Æc biÖt lµ trong giai ®o¹n thi hµnh ¸n.
Tâm lý học tội phạm giúp cho các cán bộ điều tra có căn cứ để áp
dụng các phương pháp tác động tâm lý trong quá trình điều tra vụ án có hiệu
quả. HiÖn nay, ë nhiÒu níc trªn thÕ giíi ®· cã nh÷ng trung t©m ph©n tÝch vµ
x©y dùng ch©n dung t©m lý ngêi ph¹m téi, nghÜa lµ x¸c ®Þnh nh÷ng nÐt ®Æc 8
trng vÒ løa tuæi, giíi tÝnh, d©n téc, tÝnh c¸ch, thãi quen, xu híng... cña ngêi
ph¹m téi trªn c¬ së cña c¸c th«ng tin ®· cã. Ho¹t ®éng cña c¸c trung t©m nµy
®· thu ®îc nh÷ng kÕt qu¶ kh¶ quan. NhiÒu téi ph¹m nguy hiÓm bÞ ph¸t hiÖn
vµ bÞ b¾t gi÷, nhiÒu vô ¸n phøc t¹p ®îc kh¸m ph¸.
Việc nghiên cứu, hoàn thiện lý luận của tâm lý học tội phạm góp phần quan
trọng cho sự xây dựng, bổ sung lý luận môn khoa học điều tra hình sự và
khoa học tâm lý pháp lý 9 CHƯƠNG 2.
NHÂN CÁCH NGƯỜI PHẠM TỘI
1. Khái niệm nhân cách người phạm tội
Các nhà khoa học thường nói nhân cách là một cấu tạo tâm lí. Việc xác định đúng
và đầy đủ các thành phần cấu trúc của nó là một yêu cầu về lí luận và phương pháp. Có
nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả trong và ngoài nước về khái niệm, cấu trúc
nhân cách. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có ý kiến thống nhất ngay cả trong cùng một
trường phái tâm lý học. Dù xem xét ở góc độ nào, chúng ta cũng phải dựa vào quan điểm
mác xít về bản chất xã hội của nhân cách. Nhân cách là thước đo mặt xã hội trong sự phát
triển cá thể của con người. Nó biểu hiện cụ thể thông qua mức độ tham gia của con người
vào nền văn hóa xã hội.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một con người biểu hiện ở bản
sắc và giá trị xã hội của người đó. Khi xem xét nhân cách có thể xem xét trong các quan
hệ xã hội lịch sử cụ thể, vị trí của cá nhân trong hệ thống các mối quan hệ xã hội, địa vị
của họ trong cơ cấu xã hội. Từ đó, có thể chia nhân cách làm 2 loại:
- Nhân cách hợp chuẩn: Nhân cách đáp ứng được các chuẩn mực xã hội. Đây là
những nhân cách có các thuộc tính, phẩm chất đáp ứng được các yêu cầu, đòi hỏi của xã
hội, thích ứng với các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, phù hợp với quá trình phát triển xã
hội. Đó là những con người, những công dân bình thường hiểu được trách nhiệm và nghĩa
vụ công dân, hành động đúng pháp luật.
- Nhân cách không hợp chuẩn là những nhân cách có các đặc điểm, thuộc tính
không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, các quy phạm pháp luật không đáp ứng đòi
hỏi của xã hội, những nhân cách này dễ bị xã hội đào thải.
Vậy nhân cách người phạm tội là gì ?
Nhân cách người phạm tội là tổ hợp các phẩm chất, các thuộc tính tâm lý cá
nhân thể hiện xu hướng chống đối xã hội và thái độ tiêu cực đối với các lợi ích, các
quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, luôn lựa chọn ý đồ và thực hiện hành vi phạm tội.
Đây là một điển hình của nhân cách không hợp chuẩn, nhân cách có sự lệch lạc
trong định hướng giá trị xã hội, với nhận thức, quan điểm sai trái, tình cảm tiêu cực và có
hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Những khiếm 10
khuyết trong nhân cách người phạm tội có thể là hậu quả của quá trình chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố xã hội tiêu cực, của quá trình tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã
hội không lành mạnh nhưng đồng thời cũng là hệ quả tất yếu của sự buông lỏng, không
chịu rèn luyện bản thân của cá nhân.
2. Cấu trúc nhân cách người phạm tội
Nếu xem nhân cách là một tổ hợp phức hợp của những yếu tố như xu hướng, tính
cách, năng lực và khí chất thì đều thấy sự suy thoái, sự phát triển lệch hướng của các yếu
tố này trong nhân cách người phạm tội.
Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách, nhân cách phát triển từ
đâu, theo chiều hướng nào là do xu hướng qui định. Xu hướng bao gồm nhu cầu, hứng
thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin.
Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân là động lực thúc đẩy hoạt động, điều
chỉnh hành vi của cá nhân. Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng. Nó gắn liền
với điều kiện lịch sử, sự phát triển sản xuất và sự phân phối các giá trị vật chất, tinh thần.
Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu là vô tận, hay nói khác đi con người không bao giờ thỏa
mãn hết mọi nhu cầu của mình. Khi nhu cầu được nhận thức và so sánh nó với những
điều kiện, công cụ, con đường thỏa mãn nhu cầu thì đó là lợi ích. Con người chỉ thực sự
hành động khi có lợi ích. Người phạm tội hướng tới những lợi ích mà những lợi ích đó
đối lập với lợi ích xã hội, xâm phạm tới lợi ích chính đáng và hợp pháp của người khác.
Trong nhân cách của người phạm tội thiếu sự cân bằng giữa các loại nhu cầu và
hứng thú là một đặc trưng cơ bản. Nhu cầu và hứng thú vật chất cao hơn, chiếm ưu thế
hơn so với nhu cầu tinh thần và nhu cầu xã hội. Nói cách khác trong nhân cách của họ
nhu cầu cấp thấp phát triển hơn nhu cầu cấp cao và chiếm vị trí chủ đạo, lấn át nhu cầu
tinh thần và xã hội. Đây là đặc điểm đặc trưng biểu hiện ở sự suy thoái nhân cách ở người phạm tội.
Trong nhu cầu và hứng thú ở người phạm tội cũng thường xuất hiện tính chất
không bình thường. Một số nhu cầu, hứng thú của người phạm tội bị suy thoái, biến chất
mang theo tính sinh vật, bản năng, như: thích ăn chơi, hưởng lạc, ham thích vật chất tầm
thường. Hầu như ở họ không có nhu cầu lao động, nhu cầu học tập nâng cao trình độ hiểu
biết để phục vụ xã hội, không có nhu cầu đóng góp phần mình cho sự phát triển xã hội vì lợi ích chung. 11
Phương thức thỏa mãn nhu cầu, hứng thú của người phạm tội trái với các chuẩn
mực đạo đức, vi phạm các quy tắc xử sự pháp luật, xâm hại lợi ích xã hội. Những người
phạm tội không có khả năng giải quyết mâu thuẫn nội tại trong con người làm động lực
cho sự phát triển nhân cách. Đó là mâu thuẫn giữa đòi hỏi của nhu cầu cá nhân và sự đáp
ứng của xã hội. Người phạm tội luôn đối lập các lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, xâm
phạm tới quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người khác. Vì tiền hay vì các nhu
cầu thấp hèn khác, người phạm tội có thể vì bất cứ thủ đoạn nào để chiếm đoạt, sẵn sàng
đâm chém, cướp, giết hay dụ dỗ lừa đảo để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Qua nhiều công trình nghiên cứu cho thấy cội nguồn của hành vi phạm tội không
phải ở bản thân nhu cầu mà là ở sự ý thức sai về nhu cầu và con đường thỏa mãn nhu cầu.
Nhu cầu của người phạm tội thường nghiêng về vật chất, vụ lợi với phương thức thỏa
mãn lệch chuẩn xã hội. Thế giới quan của người phạm tội đa số cũng lệch lạc và u tối,
đặc biệt là sự xuyên tạc đối với chân lý. Ví như nhìn thế giới khép kín trong những “vật
chất” tầm thường, vụ lợi. Người phạm tội sẵn sàng vì đồng tiền, danh lợi, bất chấp hậu
quả nguy hiểm cho xã hội, thậm chí cho cả bản thân do hành vi phạm tội của chúng gây
ra. Vì mục đích chính trị phản động, chúng sẵn sàng đặt bom nơi đông người qua lại, bất
chấp hậu quả sát thương nhiều quần chúng để cốt gây tiếng vang…
Thế giới quan, niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch lạc khác với ở con người
bình thường trong xã hội. Thế giới quan của người phạm tội được hình thành trên cơ sở
các quan niệm, quan điểm, nhận thức lệch lạc sai trái. Người phạm tội thường có lối sống
không lành mạnh, tôn thờ chủ nghĩa vật chất ích kỷ, mang nặng chủ nghĩa cá nhân. Quan
niệm sống đơn giản mang đầy mầu sắc hưởng thụ đã chi phối, điều chỉnh mục tiêu sống của người phạm tội.
Chẳng hạn: các đối tượng lưu manh, trộm cắp, những tên tội phạm chuyên nghiệp,
tái phạm nguy hiểm... thường tôn thờ chủ nghĩa hiện sinh, sống ngày hôm nay không biết
ngày mai, sống để hưởng lạc để vui thú.
Niềm tin đã mất hết ý nghĩa đúng đắn và thiêng liêng giữa con người với nhau
(hầu như trong các bản tự thuật của người phạm tội đều nói lên sự mất mát tình thương,
bản thân họ không còn tin ai, kể cả người ruột thịt). Niềm tin đã phát triển lệch lạc, tin
vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh của đồng tiền. Nói một cách khác, ở họ đã mất hết niềm
tin vào những giá trị nhân bản của xã hội, vào mối quan hệ trong sáng, cao đẹp và thiêng
liêng của con người. Những người phạm tội như vậy không có lý tưởng theo đúng nghĩa 12
của nó. Như vậy trong hầu hết các biểu hiện của xu hướng nhân cách đều phát triển lệch chuẩn.
Tính cách: Đó là hệ thống thái độ biểu hiện qua hệ thống hành vi quen thuộc.
Tính cách người phạm tội, nhất là của những đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm
nguy hiểm thường bao gồm các nét xấu xa, tiêu cực. Thái độ của người phạm tội đối với
xã hội thường là lệch lạc. Họ sống chà đạp lên đạo đức và dư luận xã hội, bị chi phối và
điều chỉnh bởi các mục đích phản xã hội. Sống buông thả, tự do, coi thường đạo đức, coi
thường pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên dư luận, bất chấp lẽ phải, kỷ cương. Chẳng hạn:
Ở các đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, tội phạm về ma túy, cướp của, giết
người... thường lười biếng, vô kỉ luật nhưng thích ăn chơi, hưởng thụ, tham lam, hám lợi,
hám danh và ích kỷ hay thay đổi lật lọng, coi thường người khác, nhẫn tâm, tàn bạo, có
thái độ thù địch chống đối, ác cảm với chính quyền, với chế độ biểu hiện ở các mức độ
khác nhau tùy theo từng loại tội phạm. Để đạt mục đích người phạm tội sẵn sàng chà đạp
lên tất cả, kể cả tính mạng và nhân phẩm con người, cũng như lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia.
Ở các đối tượng phạm tội về trật tự xã hội, về kinh tế thường có thái độ và hành vi
đi ngược lại lợi ích chung của xã hội, trốn tránh nghĩa vụ công dân.
Ở các đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia lại có hành vi và có thái độ thù địch,
tuyên truyền quan điểm sai trái, chống chế độ hoặc nhen nhóm, thành lập các tổ chức
phản động, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, câu kết với nước ngoài làm gián điệp, tay
sai chống lại Tổ quốc, chống lại nhân dân.
Tính cách của người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các hoạt động
phạm tội (thể hiện rõ nhất ở loại tội phạm “chuyên nghiệp”). Cho nên ở người phạm tội
sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm tránh tội khi khai báo. “Bản lĩnh” mang
nặng tính chất lì lợm nhằm hạn chế đến mức tối đa những sơ hở trong quá trình “hành
nghề”. Hơn bất kì lĩnh vực nào khác, những “tính cách giả” xuất hiện ở cá nhân khi mới
gia nhập nhóm sẽ chuyển thành tính cách thật khi có sự phát triển và tác động của nhóm
không chính thức tiêu cực tới cá nhân trong một thời gian dài. Do vậy, không phải ngẫu
nhiên trong các trại giam phải rất công phu, dày công thực hiện tổng thể các biện pháp
nhằm phục hồi các nét tính cách tốt cho phạm nhân. 13
Về năng lực: Hệ thống kĩ năng, kĩ xảo thể hiện tập trung, biểu hiện rõ nhất năng
lực cá nhân - thành tố trong cấu trúc của nhân cách. Trong lĩnh vực kĩ năng, kĩ xảo, người
ta còn nói đến các yếu tố sở trưởng, sở đoản của cá nhân. Năng lực của cá nhân phát triển
theo chiều hướng để đạt hiệu quả trong hoạt động phạm tội, cho nên năng lực của người
phạm tội phát triển ở cả những lĩnh vực liên quan tới hoạt động phạm tội. Đối với hoạt
động phạm tội thì kĩ năng, kĩ xảo phạm tội rất phát triển, vì thế những hành vi phạm tội
được thực hiện chuẩn xác mau lẹ, kín đáo và thuần thục.
Do bị chi phối bởi xu hướng của hành động phạm tội, nên ở người phạm tội
thường phát triển năng lực với các kỹ năng, kỹ xảo hành động phạm tội. Chúng thường
có khả năng nhanh chóng quan sát các tình huống phạm tội và nhạy cảm với các hoạt
động của cơ quan điều tra. Có năng lực ngụy trang đóng vai để thực hiện hành động
phạm tội và che giấu tội phạm, trốn tránh pháp luật. Năng lực giao tiếp ứng xử phát triển
thể hiện ở các kỹ năng tiếp xúc, làm quen, gây thiện cảm, tác động tâm lý thu thập thông
tin phục vụ cho hoạt động phạm tội. Năng lực này biểu hiện rõ ở các đối tượng phạm tội
chuyên nghiệp, phạm tội lừa đảo, trộm cắp, lợi dụng tín nhiệm, hối lộ... Tùy theo từng
loại tội phạm cụ thể, ở người phạm tội phát triển các thuộc tính, các kỹ năng phù hợp, cấu
thành năng lực chuyên biệt giúp họ thực hiện các hành động phạm tội cụ thể.
Về tình cảm và ý chí: Khác với những người bình thường, đời sống tình cảm của
người phạm tội thường nghèo nàn, các tình cảm cao cấp như tình cảm đạo đức, tình cảm
thẩm mĩ và tình cảm trí tuệ kém phát triển. Trong đó tình cảm đạo đức bị suy thoái
nghiêm trọng, mất chức năng động cơ thúc đẩy các hành vi xã hội và hoạt động tích cực
của con người. Các đối tượng phạm tội luôn có ác cảm với cácc lực lượng chuyên chính,
thù ghét chế độ... Cái thiện bị thay thế dần dần bởi cái ác. Các phẩm chất ý chí tích cực ở
người phạm tội kém phát triển bị lấn át bởi các phẩm chất ý chí tiêu cực.
Tuy nhiên trong các hành động phạm tội, ở các đối tượng phạm tội luôn thể hiện
tính mục đích cao, tính quyết đoán, sự kiên trì và nỗ lực ý chí lớn. Tất cả các đặc điểm đó
đã giúp đối tượng khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện hành động phạm tội để đạt
được mục đích của mình. Khi bị bắt, bị giam giữ điều tra, bọn chúng thường ngoan cố, lì
lợm, có đối tượng sẵng sàng chấp nhận hi sinh , tù tội để bảo vệ tổ chức, bảo vệ đồng bọn...
Thành tố cuối cùng làm hoàn thiện bộ mặt tổng thể của cấu trúc nhân cách chính
là khí chất. Khí chất vốn được xem là yếu tố liên quan chặt chẽ với kiểu thần kinh của 14
con người. Tính ổn định tương đối của khí chất đã làm cho nó ít chịu tác động trước hoàn
cảnh bên ngoài. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện phạm tội với những tình huống
“căng thẳng” cản trở việc thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải “điều tiết” liên tục hệ
thần kinh, khí chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực. Bởi thế, có những trường
hợp người phạm tội lại có những hành vi “hình như khác xa với hành vi, bản tính”
thường ngày mà mọi người hoặc các bậc cha mẹ hiểu và quá quen thuộc với con em mình.
Tóm lại: Trên đây là những thành phần chủ yếu trong nhân cách người phạm tội.
Không có một thành phần nào, ngay cả yếu tố được coi là ổn định nhất của cấu trúc nhân
cách người phạm tội lại không bị suy thoái hoặc thoát khỏi tình trạng chệch hướng.
Tuy nhiên, đối mỗi loại tội phạm cụ thể lại có những nét tâm lí riêng, khác biệt
hoặc giữ vị trí khác nhau trong cấu trúc nhân cách của họ. Nắm vững và hiểu sâu sắc về
nhân cách người phạm tội có ý nghĩa quan trọng, giúp ta có căn cứ để phân loại tội phạm
đúng đắn, lựa chọn phương pháp, chiến thuật phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
điều tra, xử lý tội phạm. Việc nghiên cứu đặc điểm nhân cách người phạm tội còn có ý
nghĩa to lớn trong việc tác động giáo dục, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
3. Các kiểu nhân cách người phạm tội
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
Cách thứ nhất theo A.I.Đôngôva thì có 3 loại:
- Loại hình nhân cách phạm pháp có hệ thống: Người có nhân cách loại này, họ
không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà còn tự bản thân tạo ra hoàn cảnh, vượt qua mọi trở ngại
để thực hiện âm mưu tội lỗi, hành vi phạm tội đã trở thành thói quen xử sự ở họ.
- Loại hình nhân cách phạm pháp do chuẩn mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo
không nghiêm. Lối sống đã hình thành trước đây trong sự tác động với tình huống chuẩn
mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo, không nghiêm đã dẫn đến hành vi phạm tội
- Loại hình nhân cách bối cảnh: Người có nhân cách loại này thường có hành vi
phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung đột. Ở đây hành vi phạm tội xảy ra tựa như kích
thích phản ứng (song sự thực không phải kích thích - phản ứng vì tuy hoàn cảnh có xung
đột nhưng cá nhân có phạm tội hay không còn phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách của
người đó lúc tiến hành hành vi) 15
Cách chia thứ hai: Căn cứ vào mức độ của những đặc điểm, phẩm chất tâm lý tiêu
cực để phân loại về nội dung và cách chia cũng tương tự như trên:
- Nhân cách “tội phạm toàn thể”: Người có nhân cách thuộc loại này thường có
thái độ xấu với xã hội, hành vi phạm tội được định hình, cuộc sống không ngoài tội
phạm, thường xuyên gắn liền với tính toán, hoạt động phạm tội, không dao động ngả
nghiêng trong hoạt động phạm tội (thường thấy ở tội phạm lưu manh chuyên nghiệp, tái phạm nhiều lần…)
- Nhân cách “tội phạm cục bộ” có sự phân đôi các phẩm chất, vừa có những
phẩm chất hợp chuẩn, vừa có phẩm chất không hợp chuẩn (thường thấy ở những người
phạm tội tham ô, hối lộ, buôn lậu…)
- Nhân cách “tội phạm tiểu cục bộ”: Trong nhân cách loại này có vài phẩm chất
tâm lý tiêu cực mà trong tình huống nhất định đã thúc đẩy cá nhân phạm tội (phạm tội do
thúc đẩy của cảm xúc tình huống ghen tuông, tức giận thách đố, xúc phạm danh dự của nhau)
Cách chia thứ ba: Căn cứ theo khách thể bị xâm hại và đặc điểm hành vi phạm tội
có thể chia thành 3 loại sau đây:
Nhân cách người phạm tội vụ lợi: Đây là loại nhân cách có định hướng sống thể
hiện rõ tính vụ lợi trong hoạt động, giao tiếp, quan hệ, ứng xử. Thường xử dụng thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt trong hoạt động phạm tội và trong cuộc sống hàng ngày. Xu hướng vụ
lợi là nhân tố nòng cốt của hành vi cá nhân. Nguyên nhân của loại tội phạm này không
nên tìm ở động cơ vụ lợi mà ở các nhân tố hình thành tâm thế vụ lợi của nhân cách. Loại
nhân cách này thường có kiểu hành vi đặc biệt, đó là sự lệ thuộc tình huống của hành vi.
Nhân cách người phạm tội bạo lực: Đây là loại nhân cách với các phẩm chất điển
hình như tính ích kỉ cao, không có thái độ dung hòa khi lợi ích cá nhân bị va chạm, tính
quyết đoán cao,nhẫn tâm, tàn bạo, coi thường người khác, thường sử dụng bạo lực trong
giải quyết xung đột, mâu thuẫn, khả năng kiềm chế, ổn định cảm xúc kém, đời sống tình
cảm nghèo nàn, đặc biệt là các tình cảm cấp cao như: tình cảm đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ.
Nhân cách người phạm tội vụ lợi- bạo lực: Đây là loại nhân cách có sự pha trộn,
kết hợp các đặc điểm nhân cách của các loại trên.
Cách chia thứ tư: Căn cứ vào ý thức trong hoạt động phạm tội có thể chia thành 2 loại sau 16
Nhân cách người phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm: Người phạm tội chuyên
nghiệp thông thường cũng là những người tái phạm tội. Những người thuộc kiểu nhân
cách tái phạm tội luôn coi thường pháp luật, hành vi phạm tội luôn được tiến hành bằng
các phương pháp thuần thục và trở nên quen thuộc, ổn định. Do bị kết án nhiều lần nên
sức khỏe và tâm lí của họ bị giảm sút, cấu trúc động cơ thấp hèn ngày càng chiếm vị trí rõ
nét (suy đồi đạo đức nặng nề, lệch lạc tính cách, hành vi không thích ứng, biến dạng vai trò xã hội).
Phần lớn những người tái phạm tội có rối loạn, lệch lạc tâm lí. Hành vi có dấu ấn
của sự buông thả, dễ phát khùng, tục tằn thù địch với những người xung quanh. Điều kiện
sống bất lợi, cùng với quá khứ tù tội dễ làm họ mất đi cảm giác sự hãi bị trừng phạt.
Những khiếm khuyết về khả năng tự điều chỉnh kết hợp với các định hướng chống đối xã
hội, sự lệ thuộc vào tình huống là đặc điểm tâm lí cơ bản của nhân cách người tái phạm
tội. Hành vi của họ nhiều khi đối lập ới ý nghĩa thông thương, với lợi ích của chính họ.
Mục đích không phù hợp với phương tiện, quyết định không hợp lí, hành động thiếu chín
chắn, không dự báo được kết quả gần nhất của hành động. Một trong những biểu hiện
tâm lý phổ biến của đa số nhứng người tái phạm tội là sự thờ ơ với khả năng bị trừng
phạt, với dư luận xã hội.
Nhân cách người phạm tội vô ý: Trái ngược với những phạm tội chuyên nghiệp,
người tái phạm tội, những người vô ý phạm tội lại không có động cơ, mục đích phạm tội.
Nhìn chung họ là những công dân bình thường, không cố ý phạm tội, nhưng là những
người thiếu tự giác, tuân thủ kỷ luật, kém khả năng kiềm chế, tự chủ. Trong tình huống
phạm tội, các phẩm chất tâm lý của nhân cách bộc lộ rõ như: tính chủ quan, cẩu thả, sự lệ
thuộc vào tình huống. Tính chủ quan thường đưa họ đến các vi phạm các quy tắc phòng
ngừa, không nhận thấy hậu quả tiêu cực có thể xảy ra trong hành vi của mình. Cũng có
thể các hành động của họ xảy ra trong tình huống vô ý, bất cẩn hoặc có sự quá tải tâm,
sinh lí, trạng thái xúc cảm tiêu cực, say rượu...
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội
Sự hình thành nhân cách người phạm tội, những khiếm khuyết trong nhân cách
người phạm tội có thể là hậu quả của một quá trình hình thành những nét tâm lý lệch lạc
hoặc là hệ quả của quá trình suy thoái nhân cách. 17
Từ một người bình thường trở thành một người phạm tội ít khi là hiện tượng, sự
kiện bất ngờ mà thường là quá trình suy thoái nhân cách. Có 2 quy luật của sự suy thoái nhân cách:
Quy luật thứ 1: Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo hướng dao động dần.
Một số vi phạm chuẩn mực này thông thường làm cho những vi phạm chuẩn mực
khác dễ dàng hơn theo chiều hướng ngày càng xấu đi. Hoặc ngay trong cùng một loại
chuẩn mực, mức độ vi phạm của cá nhân cũng theo chiều hướng ngày một tăng.
Quy luật thứ 2: Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến. Những tâm lý
hành vi tiêu cực hình thành theo một chiều hướng, thể hiện thống nhất trong các hoàn
cảnh khác nhau, với sự gia tăng phương thức thủ đoạn phạm tội, nhất là khi phải “khắc
phục” trở ngại, khó khăn của hoàn cảnh để phạm tội. Ví dụ: Người có tâm lý tham lam thì
trong vị trí công tác, hoàn cảnh nào cũng đều tìm cách trục lợi, thủ đoạn ngày càng tinh
vi: từ chỗ lợi dụng hoàn cảnh theo kiểu mượn gió bẻ măng, tăng dần đến chỗ tạo ra hoàn
cảnh, vấn đề, thậm chí bất chấp hoàn cảnh để trục lợi.
Sự suy thoái nhân cách của mỗi người phạm tội có thể theo một hoặc cả hai quy
luật trên, nhưng thường cả hai quy luật đan xen tác động.
Sự suy thoái nhân cách của người phạm tội thể hiện cụ thể như sau:
Quá trình suy thoái nhân cách có biểu hiện quan trọng đầu tiên là sự suy thoái đạo
đức vì sự phát triển đạo đức của cá nhân là một trong những chuẩn mực nói lên sự phát
triển nhân cách, ý thức đạo đức nói lên mối liên hệ của con người với những giá trị xã
hội. Con người chỉ tích cực hành động khi gắn với một hệ giá trị nhất định. Hệ giá trị đó
được cá nhân hóa và nó sẽ xác định tính lựa chọn, tích cực của tâm lý con người. Do vậy,
có những cái quan trọng với cuộc sống của người này lại không có hoặc có ít giá trị với
người khác. Cũng giống như những hành vi có ý thức khác, hành vi phạm tội đều được
định hướng bởi một hệ giá trị nhất định. Hệ giá trị của người phạm tội chủ yếu mang tính
tiêu cực, không phù hợp với hệ giá trị của đông đảo tầng lớp nhân dân. Vì vậy, làm rõ
những giá trị xã hội mà cá nhân phủ định sẽ xác định được mức độ suy thoái của nhân cách.
Mặc khác cũng cần nhận thức rằng: Khi ít nhiều nhận thức được hành vi phản xã
hội của mình, người phạm tội thường đưa ra lý do tự bào chữa, và bình thường hóa những
giá trị cản trở quá trình đạt tới mục đích phạm tội. Những nguyên nhân của hành vi phạm 18
tội được chúng đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người khác chứ không thấy đó là những biểu
hiện tiêu cực của chính mình, không công nhận ở mình những nét tâm lý bị xã hội lên án.
Có thể gọi vấn đề này là sự tự biện hộ và tự vệ về mặt tâm lý của người phạm tội. Bởi vì,
ít khi người phạm tội lên án chân thực những hành động của mình. Việc vạch ra lỗi của
bản thân chỉ thấy trong lời khai của rất ít những người phạm tội giết người, trộm cướp,
còn bọn côn đồ và tham ô lại càng ít hơn. Trách nhiệm đối với hành vi phạm tội được
chúng đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người khác đến khi trách nhiệm được xác định thì người
phạm tội giở các thủ thuật khác nhau: Gạt bỏ sự thú nhận những yếu tố không hợp ý
muốn chủ quan của mình, “hợp lý hóa” chúng và đổ cho những người khác.
Nói chung, sự suy thoái nhân cách của người phạm tội thường gắn liền với những
đổ vỡ của hệ chuẩn mực giá trị xã hội trong tâm lý của họ, mà hình thành nên hệ giá trị
mang tính chất chủ nghĩa cá nhân, có tính chất tiêu cực.
TLH tội phạm cho rằng, hành vi phạm tội của một người là do sự chi phối của các
yếu tố bên trong và bên ngoài khác nhau. Trước hết hành vi phạm tội của họ là do những
yếu tố tâm lý tiêu cực bên trong với tư cách là động cơ chi phối thúc đẩy. Nói cách khác
chính những phẩm chất tâm lí tiêu cực đã hình thành ở cá nhân là cơ sở cho việc nảy sinh
động cơ, mục đích phạm tội và trong những điều kiện nhất định sẽ dẫn cá nhân đến thực
hiện hành động phạm tội. Các yếu tố tâm lí tiêu cực nảy sinh do tác động của những quan
hệ xã hội không phù hợp, là hậu quả của quá trình tham gia vào các hoạt động tiêu cực
cũng như những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa con người.
Như vậy, các yếu tố xã hội là cơ sở của việc hình thành các yếu tố tâm lí. Các yếu
tố tâm lí là cơ sở để hình thành mục đích, động cơ phạm tội. Và nhân tố hoàn cảnh, tình
huống là điều kiện để cá nhân thực hiện hành động phạm tội.
4.1.Các yếu tố bẩm sinh di truyền
Yếu tố bẩm sinh di truyền ở đây được hiểu là các đặc điểm về cấu tạo, chức năng
giải phẫu sinh lý của con người, chủ yếu là bộ não, hệ thần kinh và các giác quan.
Yếu tố bẩm sinh di truyền có vai trò là cơ sở, là tiền đề vật chất cho sự hình thành
và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách người phạm tội nói riêng. Chính những
đặc điểm tâm lí này dưới ảnh hưởng của môi trường xã hội và trong những điều kiện nhất
định có thể nảy sinh thành động cơ và chi phối hành vi phạm tội của con người. 19
Tuy nhiên trong khoa học pháp lí, sinh học và tâm lí học vẫn tồn tại những quan
điểm cực đoan, tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố sinh vật. Một số người cho rằng, tội phạm
gắn liền và được định sẵn trong chương trình phát triển của cơ thể.
Chẳng hạn: C.Lômbroso, nhà tội phạm học người Ý quan niệm, nguyên nhân
hàng đầu của tội phạm chính là ở trong con người và coi những dị dạng về sinh lý, giải
phẫu bẩm sinh là nguyên nhân có tính chất quyết định dẫn cá nhân đi vào con đường phạm tội...
Trong thực tế, hành vi phạm tội, luôn được nghiên cứu trong mối quan hệ phối hợp
"môi trường - người phạm tội". Nhưng khi đó, yếu tố nào trong số hai yếu tố trên sẽ đóng
vai trò hàng đầu và quyết định nhất đối với nguồn gốc phát sinh tội phạm? Vấn đề này
được giải quyết khác nhau:
- Vào thế kỷ thứ XIX đã diễn ra cuộc tranh luận quyết liệt giữa hai quan điểm đối lập
nhau: quan điểm thứ nhất được thể hiện khá đầy đủ trong các công trình của Lômbôrôđơ.
Lômbôrôđơ cho rằng nguyên nhân hàng đầu của tội phạm chính là ở trong con người và
coi những dị dạng về sinh lý giải phẫu bẩm sinh và những đặc tính tâm lý của người
phạm tội là nguyên nhân có tính chất quyết định. Lômbôrôđơ viết: Đối với những trẻ em
đã có "vết nhơ di truyền" thì "việc giáo dục sẽ là vô ích". Quan điểm thứ hai đối lập với
quan điểm thứ nhất do Lakasan đề xướng.
- Hai nhà nghiên cứu Sen-đôn và Elêôragơluo đã nghiên cứu 67 yếu tố tâm lý sinh
học và 42 yếu tố văn hóa xã hội đối với 500 người phạm tội và 500 người không phạm
tội. Họ đi đến kết luận rằng, các dấu hiệu văn hóa xã hội rất ảnh hưởng tới những người
thuộc dạng trung bình, có nội tâm và ngoại hình khác nhau.
- Các công trình nghiên cứu ở Anh, Mỹ, úc và ở một số nước tư bản khác đã cho thấy
rằng, tỷ lệ biến dị nhiễm sắc thể giữa những người phạm tội được nghiên cứu cao hơn so
với nhóm người được khảo sát.
Ngày nay, các KHPL và TLH tội phạm khẳng định rằng: Không phải con người
sinh ra đã là tội phạm, tội phạm không có sẵn trong gen di truyền. Khoa học tâm lý và
pháp lí phê phán nghiêm khắc ý đồ sinh vật hóa hành vi phạm tội và các nguyên nhân của
hành vi phạm tội. Thực chất vấn đề là ở chỗ, không thể tách rời đặc điểm về sinh vật của
con người ra 1 dạng thuần túy nào đó và cũng không thể đặt vấn đề tách rời mặt xã hội và
sinh vật. Cái sinh vật và cái xã hội tạo nên nhân tố sinh vật – xã hội có hệ thống quy định hành vi con người. 20
Các hành vi lệch chuẩn không do yếu tố di truyền quy định. Đặc điểm di truyền
của cá nhân không phải là nguyên nhân biệt lập của hành vi phạm tội nhưng có thể quy
định sự tương tác của cá nhân với các yếu tố xã hội. Ảnh hưởng xã hội trong hành vi con
người luôn có quan hệ chặt chẽ với yếu tố tự nhiên.
Chẳng hạn: Tính hung bạo của cá nhân, là cơ sở của nhiều tội phạm, bị quy định
bởi tổ hợp các nhân tố sinh vật – xã hội. Sự hung bạo có thể mang tính chất hẫng hụt, bột
phát và kích động. Đây là một nét nhân cách ổn định hình thành trong sự phát triển tâm lí
bất lợi của nhân cách.
Trong các công trình nghiên cứu tội phạm gần đây, các nhà TLH tội phạm
(A.Bukhanôpxki. V.L.Vaxiliep...) đã chứng minh rằng có sự liên quan chặt chẽ giữa yếu
tố sinh vật với môi trường xã hội trong việc hình thành nhân cách người phạm tội.
Chẳng hạn: Đối với một số người phạm tội, nhất là những người phạm tội bạo lực
như: giết người hàng loạt, giết người với những tình tiết man rợ... đều là những người có
sự rối loạn nhân cách mà nguyên nhân gây ra sự rối loạn đó luôn gắn chặt với yếu tố bẩm
sinh, chẳng hạn bộ não có những khiếm khuyết nhất định...Các công trình nghiên cứu về
lệch lạc tâm lí (bệnh thái nhân cách, tính cách trội lệch, chậm phát triển trí tuệ, nhiễu tâm,
lệch lạc tính dục) đã cho thấy tự thân các lệch lạc tâm – sinh lí không phát sinh tội phạm,
nhưng trong những điều kiện nhất định của đời sống cá nhân chúng có thể đóng vai trò là
điều kiện của hành động phạm tội.
Như vậy, yếu tố sinh vật có ảnh hưởng nhất định đến những đặc điểm tâm lí trong
nhân cách người phạm tội, là cơ sở, tiền đề của hành vi phạm tội nhưng không quyết định
hành vi phạm tội của cá nhân. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận trong nghiên
cứu đánh giá tâm lí, nhân cách người phạm tội.
4.2. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội
Nhân cách người phạm tội khác với các nhân cách tích cực khác trong xã hội, đó
là một nhân cách lệch chuẩn điển hình. Tuy nhiên nhân cách nói chung và nhân cách
người phạm tội nói riêng đều được hình thành trong quá trình hoạt động thông qua sự tác
động qua lại tích cực giữa cá nhân và môi trường sống. Trong quá trình đó 1 số người
phát triển lệch lạc, hình thành những phẩm chất tâm lí tiêu cực không phù hợp với các giá
trị xã hội như: sự ích kỉ, tính tham lam, sự ham muốn vật chất tầm thường, lòng đó kị hay
quan điểm sai lầm, ảo tưởng, tình cảm hận thù, chống đối... TLH gọi là sự suy thoái nhân
cách. Do đó việc phân tích các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành những đặc 21
điểm tâm lí tiêu cực có thể dẫn cá nhân đến con đường phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng.
Trước hết là sự tác động, ảnh hưởng của tàn dư chế độ cũ, nhất là tàn dư của hệ tư
tưởng phản động của giai cấp bóc lột cũ, hệ tư tưởng lạc hậu, cực đoan của các loại tôn
giáo.... Tàn dư của chế độ cũ của xã hội luôn là một nhân tố xã hội ảnh hưởng, tác động
lâu dài đến các mặt của đời sống xã hội, là yếu tố khách quan làm nảy sinh tư tưởng, tình
cảm và những phẩm chất tâm lí tiêu cực nào đó ở một số người, nhất là những người vốn
có quan hệ, gắn bó với chế độ cũ, những người không có bản lĩnh vững vàng, bất mãn, hoài nghi...
Sự tác động nhiều mặt của những thế lực thù địch từ bên ngoài: “Diễn biến hòa
bình”, chiến tranh tâm lí, bao vây, tác động, can thiệp, gây sức ép về kinh tế, chính trị... là
nguyên nhân bên ngoài quan trọng đưa đến các hoạt động phạm tội. Đây cũng là những
tác động gây ra sự thay đổi trong nhận thức, tình cảm, làm xói mòn lòng tin, hay xuất
hiện tư tưởng tiêu cực, chống đối ở 1 số người. Nó cũng gây ra cho các đối tượng, các
phần tử vốn có tư tưởng bất mãn, chống đối chế độ... tâm lí hi vọng trông chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài.
Ảnh hưởng của khiếm khuyết trong môi trường nhỏ hẹp là nhân tố xã hội trực tiếp
làm nảy sinh các phẩm chất tâm lý tiêu cực trong nhaâ cách người phạm tội. Đó là môi
trường sống cụ thể của cá nhân với những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, không phù hợp với
đạo đức và sự tiến bộ xã hội, không thuận lợi cho sự phát triển nhân cách... Đặc biệt là
tác động không lành mạnh từ gia đình như bầu không khí không thuận hòa, có người
phạm tội, nếp sống thiếu văn hóa, giáo dục sai lầm, hoàn cảnh kinh tế thiếu thốn, khó
khăn, thiếu việc làm... Tác động của gương xấu của bạn bè và những người xung quanh.
Tác động tiêu cực của đường phố, làng xã, nơi cư trú. Tác động tiêu cực của sách báo,
phim ảnh và các loại văn hóa đồi trụy khác. Tác động xấu của hoàn cảnh xung đột, bất
hòa, do đụng chạm về quyền lợi và do quan hệ ứng xử không đúng mực. Tác động chính
của các hiện tượng phạm tội, phạm pháp và các tệ nạn đang hàng ngày xảy ra trong xã hội...
Ngoài ra, những thiếu sót trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng là
nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách của người phạm tội. Đất nước ta đang trong quá trình
đổi mới, pháp luật chưa hoàn thiện, chồng chéo và còn có nhiều sơ hở. Sự thực thi pháp
luật của các cơ quan pháp hành có nơi, có lúc chưa nghiêm, nhất là của những người có 22
quyền lực trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hoạt động của các cơ quan điều tra, xét xử,
thi hành án còn nhiều bất cập... đã tạo ra những kẻ hở để một số người đi vào con đường phạm tội.
Những nhân tố xã hội trên đây đã tác động hạn chế hay làm mất đi những phẩm chất
tích cực của cá nhân như: thiếu ý thức trách nhiệm đối với xã hội, cộng đồng; không có
tinh thần đấu tranh với cái xấu, cái tiêu cực; hạn chế khả năng tu dưỡng, rèn luyện bản
thân... Nó cũng tác động, ảnh hưởng và dần dần hình thành ở cá nhân những đặc điểm
tâm lý tiêu cực như: nhu cầu không lành mạnh, ham muốn làm giàu bất chính; sự phản
kháng; tính tự do, vô kỉ luật; ý thức coi thường đạo đức, coi thường pháp luật... Đây
chính là nguyên nhân tâm lý được hình thành từ những tác động của xã hội dẫn một số
người đi vào con đường phạm tội.
4.3 Những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa cá nhân
Từ khi sinh ra con người dần dần hòa nhập vào môi trường xã hội thông qua
những hoạt động sống và sự tiếp xúc với xung quanh. Trong quá trình đó nhân cách con
người được hình thành và phát triển. Nhân cách con người là chủ thể của hoạt động xã
hội của mình. Nhưng đồng thời môi trường xã hội cũng có tác động trở lại nhất định đến
nhân cách, đó là quá trình xã hội hóa con người.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình một con người cụ thể chuyển biến thành một
thành viên của xã hội hiện tại, tiếp nhận, kế tục và phát triển các giá trị văn
hóa xã hội, các quy phạm đạo đức xã hội cũng như lĩnh hội ngôn ngữ và các
kỹ năng thiết yếu trong sự tác động giữa cá nhân và xã hội. Nghĩa là quá
trình thích nghi thường xuyên của con người với điều kiện xã hội.
Quá trình xã hội hóa cá nhân được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Quá
trình này rất phức tạp, kéo dài trong cả đời người và được biểu hiện qua các mặt cơ bản sau:
- Thực hiện vai trò xã hội;
- Tiếp thu kinh nghiệm xã hội;
- Thực hiện hệ thống giao tiếp; - Thích nghi xã hội.
Quá trình xã hội hóa cá nhân được Nhà nước, xã hội quan tâm, dự đoán, điều chỉnh 23
và kiểm tra. Tuy nhiên vẫn tồn tại những thiếu sót, lệch lạc nhất định trong quá trình này.
Những thiếu sót đó theo các nhà tâm lý học và xã hội học là nguyên nhân nảy sinh tổ hợp
các phẩm chất tâm lý tiêu cực của cá nhân, từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội.
*Thứ nhất, những thiếu sót khi thực hiện vai trò xã hội của cá nhân đặc biệt
là vai trò trong hoạt động nghề nghiệp.Trong quá trình thực hiện vai trò xã
hội có thể xuất hiện những thiếu sót do những nguyên nhân:
- Cá nhân không có đủ những phẩm chất tâm lý cần thiết mà vai trò xã hội đòi hỏi ở họ.
- Cá nhân không có đầy đủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để hoàn thành vai trò xã hội.
- Cá nhân không ý thức được đầy đủ hoặc có thái độ tiêu cực đối với vai trò xã hội của bản thân.
Những thiếu sót trên làm giảm tính tích cực của cá nhân khi thực hiện vai trò xã hội,
họ không quan tâm, không chú ý đến công việc của mình, không sáng tạo, cẩu thả, thờ ơ,
chán nản trong công việc. Coi nhẹ trách nhiệm của bản thân, làm nảy sinh tính vô kỷ luật,
thiếu ý thức lao động, lường biếng, thô lỗ, cục cằn, dễ bị kích động, hay cáu gắt, ra rời tập
thể v.v.. Làm thay đổi cấu trúc nhân cách, như hạn chế hứng thú, nhu cầu, thiếu ý chí.
* Thứ hai, những thiếu sót trong hệ thống giao tiếp
Trong hệ thống giao tiếp có hai loại thiếu sót: thiếu sót về hình thức giao tiếp (ví dụ:
giao tiếp trong gia đình mà bố mẹ ly hôn, gia đình không có bố hoặc mẹ...) và thiếu sót về nội dung giao tiếp.
Nguyên nhân của những thiếu sót trong giao tiếp:
- Do hệ thống giao tiếp không thực hiện đầy đủ chức năng của mình. Ví dụ: trong tập
thể thiếu sự phê bình, tự phê bình.
- Giao tiếp trong nhóm có mục đích chống đối xã hội nhằm thoả mãn những nhu cầu
không lành mạnh, không phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Những thiếu sót trong hệ thống giao tiếp làm phá vỡ những quan hệ giao tiếp tốt đẹp
sẵn có, củng cố thêm những phẩm chất tâm lý tiêu cực như chủ nghĩa cá nhân, bất mãn
với xã hội, đưa con người đến chỗ phủ nhận các chuẩn mực xã hội, làm tích cực hóa hành 24 vi phạm tội.
*Thứ ba, những thiếu sót trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm xã hội
Kinh nghiệm xã hội được cá nhân tiếp thu thông qua nhiều con đường khác nhau:
thông qua giao tiếp, học tập, hoạt động thực tiễn của bản thân; thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng như sách báo, phim ảnh, vô tuyến...Những nguyên nhân của thiếu sót
trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm:
- Cá nhân không tự giác tiếp thu kinh nghiệm xã hội.
- Thiếu sót trong kinh nghiệm xã hội của nhóm, tập thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc
tiếp thu kinh nghiệm của cá nhân.
- Do cá nhân chỉ quan tâm tiếp thu những kinh nghiệm nhằm đáp ứng nhu cầu của
bản thân. Điều này dẫn đến hệ thống kinh nghiệm của cá nhân không đầy đủ, phiến diện.
Từ những thiếu sót trên dẫn cá nhân đến việc không thực hiện được vai trò xã hội
của mình. Không thể tham gia tích cực vào đời sống xã hội, làm hạn chế các mối quan hệ
giữa cá nhân với xã hội, làm nảy sinh tính ích kỷ hẹp hòi, chủ nghĩa cá nhân.
* Thứ tư, những thiếu sót trong quá trình thích nghi xã hội
Quá trình thích nghi xã hội phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Mức độ và tốc độ biến đổi của xã hội.
- Đặc điểm tâm lý của cá nhân như khí chất, tính cách, xu hướng, năng lực.
- Ý chí, kiến thức, hiểu biết của cá nhân.
Những thiếu sót trong quá trình thích nghi xã hội, làm cho cá nhân không thể thích
nghi với điều kiện mới, làm xuất hiện thêm những bất đồng và mâu thuẫn giữa cá nhân
với xã hội. Dẫn đến tích cực hóa hành vi chống đối xã hội của cá nhân.
Trên đây là những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa cá nhân, nó góp phần ảnh hưởng
đến quá trình hình thành nhân cách người phạm tội. 25 Chương 3
Phân tích tâm lý của hành vi phạm tội
1 Các khái niệm cơ bản
1.1 Khái niệm hành vi phạm tội
Hành vi phạm tội là một hành động có ý thức của một con người cụ thể xâm
hại đến các quy định chung mà pháp luật nghiêm cấm được thể hiện rõ
trong Bộ Luật Hình Sự nước CHCHCN Việt Nam-1999.
Hành vi phạm tội có thể được biểu hiện bằng việc làm cụ thể hoặc thông qua
lời nói trực tiếp và thông qua các công cụ, phương tiện phạm tội tác động lên
đối tượng của tội phạm. Trong các loại tội phạm được quy định tại Bộ Luật
Hình Sự nước CHXHCN Việt Nam-1999, có những tội mà người phạm tội
thực hiện bằng những hành động cụ thể nhưng cũng có những tội họ thực
hiện bằng việc không hành động…
1.2 Khái niệm nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội
Nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội là tập hợp các đặc
điểm tâm lý tiêu cực, hình thành và phát triển do hậu quả của những điều
kiện xã hội không thuận lợi trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Các đặc
điểm tâm lý tiêu cực này trong sự tác động qua lại với những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể là nguyên nhân đưa con người đến chỗ phạm tội.
Qua khái niệm trên, nó được thể hiện qua hai nhóm sau:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất: là những đặc điểm tâm lý tiêu cực hình thành
ở cá nhân do những điều kiện xã hội không thuận lợi.
-Nhóm nguyên nhân thứ hai: điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của tội phạm
2.Cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội
2.1 Nhu cầu và lợi ích 2.1.1 Nhu cầu
Nhu cầu phản ánh sự phụ thuộc của con người vào môi trường bên
ngoài. Nó được cảm nhận như trạng thái thiếu thốn về một cái gì đó và bạn 26
phải tìm cách hành động để bù đắp. Chính vì vậy, nhu cầu là cội nguồn của
tính tích cực của con người, là nguyên nhân sâu xa bên trong của hành vi.
Mọi hành động của con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu.
Mỗi con người luôn có nhiều nhu cầu. Chúng tạo thành hệ thống nhu
cầu của người đó. Thông thường, người ta chia các nhu cầu của con người
thành hai nhóm: Các nhu cầu sinh lý (hay còn gọi là nhu cầu tự nhiên) như
ăn, ngủ, sinh dục, tự vệ....Các nhu cầu xã hội (nhu cầu tinh thần) như nhu
cầu lao động, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu học tập, nhu cầu về sự công bằng...
Nhu cầu của con người xuất hiện, phát triển trong qúa trình sống và
hoạt động của họ, chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội và mức độ
phát triển của xã hội. Do đó, hoạt động và lối sống của con người để lại dấu
ấn trong hệ thống nhu cầu của họ. Nhu cầu của người phạm tội có nhiều
điểm khác biệt so với nhu cầu của những người bình thường. Khi nghiên cứu
hệ thống nhu cầu ở người chưa thành niên phạm tội, các nhà tâm lý học Nga
G.G.Bôcarieva và L.I.Bôrovich đã phát hiện những nét đặc trưng sau:
+ Tính nghèo nàn, hạn hẹp của hệ thống nhu cầu.
+ Sự đòi hỏi quá cao của các nhu cầu thuộc cấp độ thấp (các nhu cầu
sinh lý, các nhu cầu vật chất)
+ Tính suy đồi và thiếu lành mạnh.
Cần phải thấy rằng, mặc dù nhu cầu là nguyên nhân sâu xa bên trong
của hành vi, kể cả hành vi phạm tội, song không tồn tại nhu cầu phạm tội.
Một người bị coi là phạm tội không phải vì người đó cần phải thoả mãn một
nhu cầu nào đó của mình, mà là bởi vì họ đã lựa chọn phương thức thoả mãn
nó bằng việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, trong khi họ có đủ
điều kiện (khách quan và chủ quan) để quyết định một hành vi khác phù hợp
với các chuẩn mực xã hội. Như vậy, sự lựa chọn phương thức hành động 27
được quy định không phải bởi nhu cầu, mà bởi các đặc điểm nhân cách của con người. 2.1.2. Lợi ích
Lợi ích là bậc thang từ nhu cầu đến hành vi, là sự nhận thức nhu cầu
và so sánh nó với những điều kiện và công cụ thực hiện đang có. Lợi ích
cũng là xu hướng nhận thức đối tượng có ý nghĩa được cá nhân lựa chọn và
có nội dung phong phú về mặt tình cảm.
Lợi ích con người thể hiện ở mối quan hệ của cá nhân với điều kiện
hiện tại, với cái ước muốn ở kế hoạch hoạt động sống của nó trong tương lai.
Đôi khi những dạng hành vi nhất định triwr thành lợi ích độc lập của cá
nhân, tách khỏi điều kiện xuất phát. Hành vi vu khống, vu oan giá họa, đổ
lỗi cho người khác, cãi cọ, và thậm chí vi phạm pháp luật thường biểu hiện
như hình thức biến dạng của sự khẳng định và của “ tính tích cực xã hội”.
2.2 Động cơ, mục đích, ý đồ phạm tội
2.2.1.Động cơ phạm tội
Động cơ phạm tội (động cơ của hành vi phạm tội) là các yếu tố tâm lý
bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Đó có thể là
những xúc cảm, tình cảm, mong muốn, những hình ảnh tâm lý ... Ví dụ: Tình
cảm hằn thù cá nhân có thể đưa đến hành vi giết người, cố ý gây thương tích....
Cơ sở của động cơ là hệ thống nhu cầu. Tuy nhiên, không phải bất cứ
nhu cầu nào cũng trở thành động cơ thúc đẩy việc thực hiện hành vi. Khi
nhu cầu không được thoả mãn và gặp sự tác động tương thích của điều kiện
bên ngoài thì nó mới trở thành động cơ. Quá trình này tâm lý học gọi là
“động cơ hoá ”. Chẳng hạn, nhu cầu "ăn " khi đang được thoả mãn thì bạn
chưa để ý đến nó, nó chưa trở thành động cơ. không được thoả mãn nó sẽ 28
thúc đẩy bạn hành động. Lúc này, nhu cầu mới trở thành động cơ của hành động.
Động cơ phạm tội là nguyên nhân bên trong trực tiếp đưa con người
đến quyết định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Động cơ phạm tội
biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và của nhân cách người
phạm tội. Trong những trường hợp phạm tội với lỗi cố ý luôn tồn tại động cơ
phạm tội, còn trong trường hợp phạm tội với lỗi vô ý thì chỉ tồn tại động cơ
ứng xử, nó không đóng vai trò là động lực thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Động cơ và hành vi do nó thúc đẩy có thể không cùng tính chất với
nhau. Một động cơ tốt cũng có thể dẫn đến việc phạm tội. Ví dụ: Một phụ nữ
do thương yêu, lo lắng cho con mình nên đã hãm hại con riêng của chồng để
con mình được hưởng toàn bộ tài sản thừa kế. Chính vì vậy trong Bộ luật
hình sự nước ta, động cơ phạm tội có thể là dấu hiệu định khung trong các
cấu thành tội phạm, hoặc có thể được xem là tình tiết tăng nặng hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Ví dụ: Động cơ phòng vệ
được xem là tình tiết giảm nhẹ (điều 46 khoản 1 điểm c - Bộ luật hình sự),
động cơ đê hèn - là tình tiết tăng nặng (Điều 48 khoản 1 điểm đ )
2.2.2 Mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội (mục đích của hành vi phạm tội ) là kết quả mà
người phạm tội mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành vi phạm tội.
Nói cách khác, nó là kết quả được người phạm tội vẽ lên trong đầu óc mình
trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trong hoạt động phạm tội không phải hành vi phạm tội nào cũng có
mục đích phạm tội. ở những trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp
“người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra” (Điều 9
khoản 1, Bộ luật hình sự), nói cách khác, người phạm tội đã cân nhắc xác 29
định rõ mục đích trước khi thực hiện hành vi đó, vì vậy luôn tồn tại mục
đích phạm tội. Nó thể hiện khuynh hướng, ý chí của người phạm tội.
Mục đích được xác định trên cơ sở của động cơ. Do động cơ thúc đẩy
mà con người đề ra cho mình những mục đích cụ thể. Chúng thực hiện chức
năng nhận thức đối tượng và khách thể của hành vi, định hướng và điều
khiển hành vi. Ngoài ra, mục đích sau khi được xác định rõ ràng cũng có tác
dụng lôi cuốn con người vào hành động. Chính vì vậy nhiều nhà luật học và
tâm lý học (ví dụ: V.N.Cudriaxép, B.Chupharôpxki...) xếp mục đích vào lĩnh
vực động lực của hành vi. Trong thực tế, giữa động cơ và mục đích phạm tội
không phải bao giờ cũng dễ dàng phân biệt. Tuy nhiên, mục đích và động cơ
là hai hiện tượng tâm lý khác nhau. Chức năng chủ yếu của động cơ là động
lực thúc đẩy hành vi, còn của mục đích là định hướng và điều khiển hành vi.
Cùng một loại động cơ thúc đẩy nhưng do đặc điểm tâm lý của mỗi người và
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau nên họ có những mục đích và cách thức
hành động khác nhau. Từ một động cơ, một con người có thể đặt ra nhiều
mục đích và ngược lại, một mục đích có thể được xác định trên cơ sở của
những động cơ thúc đẩy khác nhau.
Mục đích phạm tội biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội. Những hành vi phạm tội giống nhau về mặt khách quan nhưng
khác nhau về mục đích, thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau.
2.2.3. Mối quan hệ giữa động cơ và mục đích phạm tội
Việc lựa chọn mục đích là do động cơ quyết định. Động cơ là động
lực thúc đẩy hành vi cả cá nhân. Khi nhu cầu được nhận thức và khả năng
thực hiện thì nó trở thành động cơ. Động cơ và mục đích liên quan chặt chẽ.
Nhờ động cơ thúc đẩy nên người phạm tội mới hành động quyết liệt để đạt
mục đích. Trong cấu trúc hoạt động, động cơ là mục tiêu bao trùm, mục đích
của hành động là mục tiêu gần cụ thể. Vì có sự gắn bó như vậy nên tring 30
thực tế động cơ và mục đích của hành vi phạm tội đôi khi được dùng thay
thế cho nhau. Tất cả những người phạm tội cố ý đều do động cơ nhất định
thúc đẩy. Chỉ trong trường hợp cá nhân vô ý vì cẩu thả chưa kịp suy nghĩ kỹ
thì hành vi của họ không có động cơ rõ ràngthường ở hành vi được thực hiện
do xung đột tình cảm được tích tụ lại, hoặc hình ảnh xuất hiện đột ngột kích
động con người hành động mà không phân tích kỹ lưỡng hậu quả của hành vi)
2.2.4. Ý định phạm tội
Sự xuất hiện động cơ và mục đích phạm tội chưa dẫn đến hành vi
phạm tội. Hành vi phạm tội có diễn ra hay không còn phụ thuộc vào hoàn
cảnh- tình huống phạm tội. Tình huống đó không có ý nghĩa quyết định độc
lập mà nó chỉ “củng cố” động cơ và mục đích đã được hình thành trước đó
và làm xuất hiện ý định phạm tội. Có thể nói vào thời điểm này mục đích
phạm tội nổi lên trên hết, mọi “ ý nghĩ” của cá nhân đều tập trung hướng
đến” kết quả” phạm tội. Động cơ, mục đích, ý định phạm tội được gọi chung là ý đồ phạm tội.
Tuy vậy, cá nhân chịu trách nhiệm hình sự không phải vì ý đồ của
mình mà vì họ chuẩn bị phạm tội (chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng) hay đã
phạm tội. Song rõ rang ý đồ là cơ sở tâm lý dễ làm cho hành vi phạm tội xảy
ra. Ý đồ phạm tội có quan hệ chặt chẽ với việc “ phân tích”, xem xét tình
huống- điều kiện khách quan thực hiện tội phạm. Điều kiện khách quant hay
đổi có thể làm thay đổi hoặc xuất hiện ý đồ mới, ý đồ biến mất khi không có
điều kiện khách quan thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Tuy
nhiên, sự phụ thuộc đó có tính chất tương đối bởi vì khi có điều kiện khách
quan thực hiện hành vi phạm tội nhưng một số cá nhân vẫn tự nguyện từ bỏ
ý đồ phạm tội ( như trường hợp từ bỉ ngay từ đầu hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội ) 31
2.3 Quyết định thực hiện hành vi phạm tội
Trong những hành vi phạm tội với lỗi cố ý, sau khi xuất hiện động cơ,
mục đích và lập kế hoạch thực hiện, người phạm tội thường cân nhắc một
lần nữa: có thực hiện hành động để đạt mục đích đã định hay không? Vì vậy
quyết định thực hiện hành vi phạm tội là sự lựa chọn cuối cùng của người
phạm tội về mục đích, phương án, phương tiện phạm tội, thể hiện ý chí và lý
trí của người phạm tội, thái độ của họ đối với hành vi phạm tội và hậu quả của nó.
Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có thể được đưa ra trong chốc
lát dưới tác động trực tiếp của tình huống, hoặc xuất phát từ những khuôn
mẫu hành động đã có trong quá khứ, hoặc là kết quả của một quá trình đấu
tranh tư tưởng lâu dài, khó khăn. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có
thể là quyết định có cơ sở, hợp lý, tối ưu hoặc là quyết định nông nổi, manh
động, thiếu cơ sở. Điều này phụ thuộc vào nhận thức và các đặc điểm tâm lý
khác của người phạm tội. Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ của các chuẩn mực
xã hội, thì chúng luôn là quyết định sai lầm, đáng lên án và người phạm tội
thường là người có những lệch lạc về nhân cách, người thiển cận, vì cái
trước mắt mà bỏ qua cái lâu dài.
2.4 Phương thức thực hiện hành vi phạm tội
Phương thức thực hiện hành vi phạm tội là dấu hiệu cơ bản để đánh giá
về tội phạm. Làm rõ phương thức thực hiện hành vi phạm tội cho thấy tội
phạm được thực hiện do cố ý, được chuẩn bị trước hay bất ngờ, cái gì được
sử dụng, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi.
2.5 Điều kiện, hoàn cảnh phạm tội
Mỗi hành vi phạm tội luôn được thực hiện trong một tình huống nhất
định với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian và
những sự kiện có liên quan xảy ra trong tình huống đó. Chúng là mặt khách 32
quan của tội phạm. Khi phân tích tâm lý hành vi phạm tội, bạn không thể bỏ
qua yếu tố này. Chính sự tác động qua lại giữa điều kiện, hoàn cảnh của tình
huống bên ngoài với đặc điểm nhân cách bên trong đã đưa đến phản ứng trả
lời của con người, đó là những hành vi, kể cả hành vi phạm tội. Chính những
tác động từ bên ngoài môi trường sống lên cá nhân đã làm cho nhu cầu chưa
được thoả mãn ở họ trở thành động cơ thúc đẩy họ hành động. Cũng chính
điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình hình
thành và thực hiện hành vi phạm tội. Khi xác định mục đích, lập kế hoạch,
lựa chọn công cụ, phương tiện phạm tội, khi đưa ra quyết định thực hiện,
con người không những cân nhắc, đánh giá năng lực của bản thân, mà còn
phân tích tình huống, dự đoán hậu quả của hành vi. Sự nhận thức đánh giá
tình huống không đúng có thể đưa con người đến với những hành vi lệch
chuẩn, hành vi phạm pháp và phạm tội. Ví dụ: phạm tội trong trường hợp
vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. Nguyên nhân của sự phản ánh tình
huống một cách sai lệch có thể do một số yếu tố khách quan của tình huống
đã cản trở nhận thức của con người, nhưng cơ bản vẫn là do những khiếm
khuyết trong tâm lý, nhân cách của họ: do hiểu biết hạn chế, do nông nổi,
cẩu thả, do tính tự tin thừa thãi... Điều này được biểu hiện rất rõ trong những
hành vi phạm tội với lỗi vô ý. Trong những hành vi phạm tội với lỗi cố ý sự
phản ánh tình huống thường có ý nghĩa hạn chế hơn, bởi vì ở đây, người
phạm tội nhận thức được hành vi của mình, hậu quả của nó nhưng vẫn quyết định thực hiện.
Tóm lại, hành vi phạm tội là kết quả của sự tác động qua lại giữa các
đặc điểm tâm lý, nhân cách bên trong con người với điều kiện, hoàn cảnh
bên ngoài. Vai trò của điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài thể hiện ở chỗ: chúng
là những yếu tố hoặc kích thích hoặc cản trở con người thực hiện hành vi 33
phạm tội. Sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài có thể làm thay đổi
ý đồ của người phạm tội và làm xuất hiện ý đồ mới.
3.Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội
Sau khi kết thúc một hành vi phạm tội con người thường đối chiếu
việc làm đó của mình với kế hoạch đề ra ban đầu là mục đích có đạt được
hay không. Thực tế này gây ra những thay đổi trong tâm lý của người phạm
tội. Những thay đổi này rất đa dạng về nội dung, mức độ và hình thức biểu hiện.
Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội thường được biểu hiện trên hai mặt sau:
3.1 Trạng thái tâm lý
Sau khi thực hiện tội phạm, trạng thái tâm lý của người phạm tội
thường có xu hướng trở nên căng thẳng và phức tạp. Điều này xảy ra do
nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể kể đến một số nguyên nhân thường gặp như sau:
- Sự xuất hiện của những xúc cảm căng thẳng, những ấn tượng, ám
ảnh ở người phạm tội.
Trong quá trình thực hiện tội phạm, cá nhân không chỉ hành động mà
còn tri giác diễn biến và hậu quả của nó. Trong nhiều trường hợp, những
hình ảnh về diễn biến và hậu quả của hành vi thường xuyên xuất hiện lại
trong đầu óc người phạm tội, ám ảnh họ và gây ra những cảm xúc nặng nề,
như: ghê rợn, sợ hãi, những căng thẳng không thể chịu đựng...
- Người phạm tội nhận thức được ý nghĩa và hậu quả của hành vi phạm tội,
họ có thể có những ăn năn, hối hận.
Thông thường chỉ sau khi thực hiện hành vi, con người mới thấy hết
được ý nghĩa và hậu quả của việc làm của mình đối với xã hội và đối với bản 34
thân. Điều này làm cho người phạm tội cảm thấy lỗi lầm, hối hận, lương tâm
dằn vặt, tự trách bản thân...
- Người phạm tội lo lắng cho sự an toàn của bản thân, lo sợ bị phát hiện và trừng trị.
Việc thực hiện hành vi phạm tội đưa người phạm tội đến chỗ đối đầu
với xã hội, với pháp luật và họ bị đe doạ phải chịu một hình phạt nghiêm
khắc. ý thức được điều này, người phạm tội luôn lo sợ bị phát hiện và bị
trừng trị, lo sợ đánh mất địa vị và tiền đồ của mình...
- Sự hoạt động tích cực của tư duy để tìm cách đối phó với cơ quan
điều tra, hòng che dấu hành vi phạm tội.
Khi thấy hành vi của mình vẫn chưa bị lôi ra ánh sáng, người phạm tội
hy vọng rằng họ có thể lẩn tránh được sự phát hiện và trừng trị của pháp
luật. Họ tìm mọi cách để đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật và che
dấu tội lỗi của mình. Họ cố nhớ lại quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm
để phát hiện, phân tích, đánh giá những sơ suất của bản thân trong quá trình
đó; tìm cách lý giải các tình huống nếu bị hỏi tới; phán đoán, nhận định về
hoạt động của cơ quan điều tra... điều này làm cho tư duy của người phạm
tội trở nên căng thẳng. 3.2 Hành vi
Xuất phát từ sự căng thẳng tâm lý, hành vi của người phạm tội thường
có những biểu hiện sau:
- Hành vi của ngươì phạm tội trở nên thụ động, họ dễ bị kích động,
không làm chủ được bản thân.
Sự căng thẳng tâm lý, diễn biến phức tạp của các quá trình cảm xúc và
trí tuệ làm giảm khả năng định hướng, điều khiển và kiểm soát hành vi, thái
độ của người phạm tội. Dù người phạm tội tìm cách che dấu nội tâm của
mình, cố tỏ ra bình thường, nhưng trong hành vi, cử chỉ của họ vẫn có thể dễ 35
dàng phát hiện những biểu hiện thiếu tự nhiên, lúng túng. Tâm lý căng
thẳng, mất cân bằng làm tăng tính phản ứng, người phạm tội trở nên dễ bị
kích động, dễ phản ứng và phản ứng không tương xứng với tình huống.
Phong cách giao tiếp của người phạm tội cũng thay đổi. Nếu trước đây họ là
người thích giao tiếp, cởi mở, dễ gần, thì nay ngược lại, họ thận trọng, đề
phòng, khép kín, ít nói và hạn chế giao tiếp đến mức tối thiểu. Cũng có
trường hợp người phạm tội tỏ ra hăng hái, tích cực tham gia vào nhiều công
việc khác nhau ở cơ quan, tập thể nơi họ công tác, song tính tích cực này
thường thái quá, chỉ mang tính hình thức, không thật và dễ bị ngắt quãng.
- Do luôn bị ám ảnh bởi trạng thái tâm lý căng thẳng và bất lực trong
việc loại bỏ nó, người phạm tội tìm có thể tìm đến những hình thức như sử
dụng các chất kích thích (rượu, ma tuý...) hoặc tìm các cảm giác mạnh ở các trò tiêu khiển.
- Người phạm tội có xu thế muốn tìm hiểu, thăm dò các thông tin về quá trình điều tra.
Sau khi thực hiện tội phạm, do lo sợ bị phát hiện và bị trừng trị, do
muốn xác định những biện pháp đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật,
người phạm tội đặc biệt quan tâm đến những thông tin về quá trình điều tra
vụ án. Tuy nhiên, những thông tin này được cơ quan điều tra giữ bí mật và
người phạm tội không có được đầy đủ các thông tin cần thiết, không xác
định được một cách rõ ràng tình thế của mình. Điều này gây nhiều khó khăn
cho họ trong việc quyết định những hành động tiếp theo, những biện pháp
đối phó. Vì vậy sau khi phạm tội, một số người lập tức rời bỏ địa bàn (cư trú,
gây án) tìm nơi kín đáo và an toàn để lẩn trốn, đồng thời nghe ngóng động
tĩnh. Trong giao tiếp, người phạm tội có thể tìm cách đề cập đến vụ án nhằm
thu thập thông tin từ người đối thoại. Cũng có trường hợp người phạm tội
mạo hiểm trở lại hiện trường gây án nhằm nhớ lại một cách đầy đủ diễn biến 36
của vụ án, xác định những dấu vết để lại trên hiện trường, từ đó phán đoán
về hoạt động của cơ quan điều tra.
- Người phạm tội có sự mâu thuẫn trong xu hướng hành vi.
Những hậu quả tâm lý đã phân tích trên đây làm hình thành ở người
phạm tội các xu hướng hành vi trái ngược nhau. Một mặt, họ muốn ra đầu
thú vì họ biết rằng, hành vi của mình không sớm thì muộn sẽ bị phát hiện và
trừng trị. Mặt khác, họ lại muốn lẩn tránh vì họ vẫn có hy vọng mong manh
rằng, hành vi của mình sẽ không bị phát giác. Các xu thế mâu thuẫn này làm
hình thành ở người phạm tội sự " giao động tâm lý" sau khi họ thực hiện tội phạm.
Như vậy, sau khi phạm tội, trong tâm lý người phạm tội diễn ra
những thay đổi trên nhiều mặt: nhận thức, xúc cảm, ý chí, hành vi... Mức độ
biểu hiện của những thay đổi này trong từng trường hợp cụ thể phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, như: đặc điểm và tính chất cuả hành vi phạm tội, tiền án,
tiền sự, các đặc điểm tâm lý ... của người phạm tội.
Trong trường hợp hành vi phạm tội không bị phát hiện hoặc người
phạm tội không bị trừng trị một cách nghiêm khắc, thì tâm thế chống đối xã
hội, những thói quen và phương thức hành động tội lỗi có thể được củng cố.
Người phạm tội trở thành chai dạn, kinh nghiệm và nguy hiểm hơn đối với xã hội.
CHƯƠNG IV: TÂM LÝ NHÓM TỘI PHẠM 37
4.1. Khái niệm, đặc điểm tâm lý của nhóm
4.1.1. Định nghĩa
Nhóm tội phạm là tập hợp người có sự liên kết, phân công, phối hợp
hoạt động với nhau do một hoặc một số cá nhân thành lập, điều khiển một
cách có kế hoạch, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Như vậy, nhóm tội phạm là nhóm có xu hướng chống đối lại các
chuẩn mực của xã hội, có tổ chức, có cấu trúc thứ bậc, sự cấu kết chặt chẽ.
Trong nhóm có sự phân công rõ ràng, mỗi đối tượng trong nhóm có vai trò
nhiệm vụ cụ thể và có sự liên kết với nhau trong quá trình hoạt động phạm
tội. Nhóm tội phạm là tiền đề hình thành hành vi phạm tội có tổ chức.
Những tội phạm do nhóm tội phạm thực hiện thường có sự tập trung sức lực,
trí tuệ, sự phối hợp, tương trợ lẫn nhau giữa những đối tượng phạm tội, tạo
điều kiện không chỉ cho việc thực hiện tội phạm một cách dễ dàng hơn mà
trong nhiều trường hợp có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, dễ dàng
che giấu dấu vết của tội phạm để chống lại sự điều tra, khám phá của các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Về mặt tâm lý, những thành viên trong tổ chức tội
phạm do dựa dẫm vào nhau nên quyết tâm phạm tội thường là cao hơn so
vời các trường hợp phạm tội riêng lẻ. So với tội phạm do cá nhân gây ra thì
hành vi phạm tội của nhóm nguy hiểm hơn về mặt xã hội. Ngoài hậu quả do
nhóm gây ra, thì khi thực hiện hành vi phạm tội nhóm còn có khả năng lôi
kéo các đối tượng khác vào cùng hoạt động phạm tội. Vì vậy, việc thực hiện
hành vi phạm tội của nhóm tội phạm thường được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
4.1.2. Đặc điểm tâm lý của nhóm tội phạm
Các nhóm tội phạm đều có một số đặc điểm đặc trung sau đây:
- Nhóm tội phạm bao gồm các thành viên có tâm thế chống đối các
chuẩn mực xã hội, có các đặc điểm tâm lý tiêu cực trong nhân cách.
- Trong nhóm tội phạm có tinh thần đoàn kết, sự tiếp xúc cá nhân khá
ổn định, có sự ưa thích lẫn nhau, có định hướng giá trị chung, có sự đánh giá
thống nhất trong tình huống phạm tội. Điều đó bảo đảm cho sự phối hợp 38
hành động giữa các đối tượng, giúp xác định được người nào sẽ thực hiện
nhiệm vụ gì trong từng hành vi phạm tội.
- Trong nhóm tội phạm, sự lan nhiễm tâm lý chống đối, tính tích cực
và quyết liệt hành động được tăng cường. Các đối tượng trong nhóm tội
phạm có phản ứng nhạy bén với tình huống phạm tội, nhanh chóng thống
nhất quyết định hành động. Mặt khác, do luôn được sự động viên, khích lệ,
cổ vũ của đồng bọn … nên mỗi cá nhân thường bình tĩnh và quyết tâm hành
động phạm tội đến cùng. Vì vậy, trong điều kiện nhóm, các đối tượng có sự
suy giảm đáng kể ý thức trách nhiệm, sự phê phán đối với hành vi của mình
và gia tăng cảm giác tự do, cảm giác không sợ bị trừng phạt, cảm giác an
toàn khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Nhóm tội phạm là tổ chức bí mật, khép kín, bất hợp pháp (có thể
núp dưới danh nghĩa một tổ chức hợp pháp) được hình thành với mục đích là
phạm tội. Tổ chức hoạt động rõ ràng, chặt chẽ, có tên cầm đầu, chỉ huy, có
kỷ luật riêng được quy ước bằng miệng hoặc bằng văn bản.
- Hoạt động phạm tội mang tính chất hệ thống, có sự chỉ huy thống
nhất, mục đích cuối cùng là thu được những lợi ích bất chính.
- Những tên cầm đầu luôn tìm mọi cách tạo vỏ bọc kín để chỉ huy các
thành viên hoạt động phạm tội. Các vỏ bọc này thường dưới các hình thức
phụ trách nhà hàng, khách sạn, tổ đội lao động, các công ty tư nhân, nhà
doanh nghiệp... Thậm chí cả hoạt động từ thiện để từng bước ra công khai,
tạo uy tín và đi vào con đường làm giàu. Nhóm tội phạm có thể móc nối với
một số cán bộ, nhân viên nhà nước biến chất, bằng nhiều thủ đoạn với mục
đích lôi kéo họ giúp đỡ, tạo điều kiện che chắn cho bọn chúng trong việc
thực hiện và che giấu tội phạm hoặc để trốn tránh pháp luật khi cần thiết.
- Đa số các nhóm tội phạm có cấu trúc thứ bậc rõ ràng với vai trò, vị
trí cụ thể đối với mỗi thành viên, bao gồm:
+ Đối tượng cần đầu, chỉ huy: là những đối tượng có công thành lập
nhóm tội phạm, có uy tín, được các đối tượng trong nhọm tội phạm tín
nhiệm, suy tôn. Những đối tượng này thường tổ chức, chỉ huy việc thực hiện hành vi phạm tội.
+ Đối tượng tay chân, cốt cán: đây là mắt xích trung gian, là cấu nối
giữa người cầm đầu, chỉ huy với đồng bọn, là chân tay đắc lực, đáng tin cậy
của người cầm đầu, trực tiếp điều hành, chỉ đạo đồng bọn thực hiện hành vi
phạm tội. Chúng sẵn sang hành động theo sự chỉ đạo của đối tượng cầm đầu,
chỉ huy và có những quyền hành nhất định. Giống như các đối tượng cầm
đầu, những đối tượng tay chân cũng có lệch lạc nhân cách khá sâu sắc.
Trong hoạt động phạm tội, chúng luôn thể hiện xu hướng mạo hiểm, liều
lĩnh. Những đối tượng này thường có nhiều thủ đoạn để gây tín nhiệm với
cấp trên và thể hiện uy quyền với cấp dưới. 39
+ Những đối tượng tham gia: là những người có thể bị lôi kéo, dụ dỗ,
kích động, mua chuộc, đe dọa tham gia vào nhóm tội phạm. Những người
này trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội theo lệnh của cầm đầu, chỉ huy.
Những đối tượng này thường có tâm lý dễ dao động, nghiêng ngả.
Nhóm tội phạm được hình thành sẽ rất gây nguy hiểm cho xã hội.
Chúng sẽ tiến hành nhiều hoạt động nguy hiểm và gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện hoạt động chung của
nhóm, các đối tượng sẽ thực hiện những tội phạm với các phương thức và
thủ đoạn mà mỗi cá nhân không thể nào thực hiện được. Ngoài hậu quả trên,
hàng loạt những vấn đề tiêu cực xuất hiện kèm theo sự phát sinh, phát triển
của các nhóm tội phạm, trước hết đó là tình trạng mất ổn định trong sinh
hoạt hàng ngày của quần chúng, tình trạng hoang mang và thái độ thờ ơ
trước các hành vi phạm tội, không còn tin tưởng vào sự công minh và hiệu
lực của pháp luật trong xã hội.
4.2. Các loại nhóm tội phạm
Căn cứ vào mức độ chặt chẽ về mặt tổ chức, cấu trúc, phương thức
hoạt động, mức độ nguy hiểm của những hành vi phạm tội do chúng gây ra
cho xã hội và căn cứ vào thực tiễn công tác phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm ở Việt nam, có thể chia nhóm tội phạm thành ba loại:
4.2.1. Nhóm tội phạm tạm thời
Đó là nhóm chủ yếu gồm các thanh, thiếu niên, lúc đầu tụ tập nhau lại
không phải nhằm mục đích thực hiện tội phạm mà để thỏa mãn nhu cầu nào
đó trên cơ sở tâm lý – cảm xúc. Các đối tượng trong nhóm này đa số là
những bạn bè cùng lứa tuổi, gần nơi ở, gắn bó với nhau bởi sự giao tiếp, giải
trí tại nơi cư trú, nơi làm việc, học tập. Là nhóm dược hình thành theo tình
huống và bắt nguồn từ nhóm mang tính chất chơi bời, bạn bè bình thường.
Do ảnh hưởng của những tác động tiêu cực bên ngoài mà dần dần chuyển
hóa thành nhóm tội phạm (vì vậy còn gọi là nhóm tiền tội phạm). Trong
những tình huống cụ thể như: có xung đột tình cảm, kích thích từ bên ngoài,
hoặc do sự lôi kéo của một số cá nhân có ý thức chống đối xã hội … mới có
thể xảy ra hành vi phạm tội.
Nét đặc trưng của nhóm này là sự lệch lạc trong chuẩn mực sinh hoạt
của nhóm và trong hành vi của các thành viên, tuy rằng đôi khi có thể không
thực hiện tội phạm. Nhóm bao gồm từ hai người trở lên, mức độ cố kết thấp,
thực hiện tội phạm không có sự thỏa thuận trước, xuất hiện ngẫu nhiên,
nhiều khi trong hoàn cảnh bất ngờ; thiếu sự phân công vai trò và trách 40
nhiệm; thiếu kế hoạch từ trước; hành động theo số đông … Nhóm thực hiện
tội phạm một cách nhất thời, theo sự khởi xướng của một đối tượng nào đó
hoặc do ảnh hưởng của trạng thái xúc cảm, ý chí chung. Trong nhóm không
có cấu trúc tâm lý, vai trò của người đứng đầu chưa thể hiện rõ; việc ra quyết
định của các đối tượng chịu ảnh hưởng của tình huống ngẫu nhiên, do tác
động của cảm xúc, tâm trạng và mức độ gắn bó giữa những người cùng thực
hiện. Mức độ gắn bó, sự lệ thuộc lẫn nhau trong nhóm thấp, do đó sự ủng hộ,
bảo vệ lẫn nhau trong tình huống bị phát hiện, bị bắt giữ, điều tra không cao.
4.2.2. Nhóm tội phạm đơn giản
Đây là nhóm mà quan hệ giữa các thành viên nhất thời, tổ chức thiếu
chặt chẽ với số lượng không nhiều. Lúc đầu, chúng hoạt động đơn lẻ hoặc
chỉ 2-3 tên, phạm tội có tính bột phát ít gây hậu quả nghiêm trọng. Sau đó
chúng móc nối với nhau câu kết thành nhóm với sự cầm đầu của một tên có
tai tiếng trong giới giang hồ. Tuy vậy, tội phạm có tổ chức đơn giản không
có sự phân chia thứ bậc một cách rõ ràng. Chủ yếu chúng sử dụng bạo lực để
ra tay manh động, nhanh chóng, rồi giải tán ngay khi giải quyết xong một
“phi vụ”. Nhóm này gây ra các loại án như giết người, cướp của, trộm cắp, lừa đảo...
Nhóm tội phạm đơn giản không có cấu trúc phức tạp giữa những
người phạm tội. Tuy nhiên chúng có sự bí mật cấu kết và có sự thỏa thuận sơ
bộ từ trước để cùng nhau thực hiện tội phạm. Sự thỏa thuận chủ yếu về các
vấn đề như địa điểm, thời gian, cách thức thực hiện tội phạm. Khi thực hiện
tội phạm các thành viên liên kết với người thực hiện ngay từ khi bắt đầu
thực hiện hành vi phạm tội, nghĩa là họ ý thức được rằng tất cả đều cùng
hành động. Hình thức này có thể đã có sự phân công vai trò. Trong nhóm
chưa hoàn toàn hình thành các yếu tố cấu trúc, cơ chế chỉ huy – phục tùng,
chưa có người cầm đầu được tất cả thừa nhận, nhưng từ các đối tượng tích
cực nhất đã tách ra được một hạt nhân lãnh đạo. Các nhóm tội phạm này có
tổ chức hơn so với nhóm tội phạm tạm thời.
Trong các nhóm tội phạm đơn giản, quan hệ liên nhân cách dựa trên
cơ sở ưa thích cá nhân và các mối liên hệ cảm xúc … Vai trò của quan hệ
tương hỗ giữa các thành viên khi thực hiện tội phạm tăng lên. Trong điều
kiện cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, các thành viên của nhóm có sự
giảm thiểu sự căng thẳng tâm lý, đồng thời quyết tâm hành động phạm tội
cao hơn. Chúng động viên nhau, dựa vào nhau trong hành động, bởi vậy bớt
đi sự sợ hãi và mạnh mẽ hơn trong hành động phạm tội. Các thành viên của
nhóm thể hiện sự gắn bó cao trong quá trình chống đối, che giấu, trốn tránh pháp luật. 41
Tội phạm có tổ chức đơn giản không có tài chính riêng, không có
“điều lệ” hoạt động một cách chính thức mà chủ yếu quan hệ với nhau theo
quy ước đơn giản. Mục đích chính của chúng là chiếm đoạt tài sản và khi
chiếm đoạt được tài sản chúng thường chia nhau ngay theo công lao của mỗi
thành viên hoặc sử dụng ngay cho những việc nhất thời: ăn chơi, cờ bạc,
chích hút ma túy, chơi số đề, cá cược... Loại tội phạm này hoạt động trắng
trợn, lỏng lẻo, nhất thời, nên dễ bị tan rã khi một tên trong nhóm bị bắt hoặc
bị truy đuổi. Những tên trốn thoát thường chuyển sang địa bàn khác lẩn trốn
để rồi nếu có cơ hội và điều kiện có thể tiếp tục nhen nhóm thành nhóm tội phạm khác.
Thành phần phạm tội thường là những tên có nhiều tiền án tiền sự,
tính tình thô bạo, tàn ác, côn đồ, trình độ văn hóa thấp, không có công ăn
việc làm, hoặc làm lao động đơn giản, mức thu nhập thấp. Thành phần xuất
thân thường từ gia đình (cha, mẹ, anh, chị em) có những người đã có tiền án
tiền sự. Một số khác do điều kiện hoàn cảnh khó khăn vì miếng cơm manh
áo phải làm thuê cho bọn chỉ huy rồi bị khống chế, ép buộc từng lao vào con đường phạm tội.
Nhóm phạm tội đơn giản là kiểu trung gian giữa nhóm tội phạm tạm
thời và nhóm tội phạm có tổ chức. Các nhóm tội phạm như vậy thường bao
gồm những người phạm các tội xâm phạm trật tự xã hội: trộm cắp, lừa đảo, cướp, cướp giật …
4.2.3. Nhóm tội phạm có tổ chức
Nhóm tội phạm có tổ chức là nhóm tội phạm đặc trưng bởi sự bền
vững trong quan hệ, liên hệ giữa các đối tượng, sự định hình các phương
thức hoạt động và che giấu hành vi phạm tội. Các nhóm tội phạm này có thể
được hình thành bằng hai con đường tự phát và tự giác. Con đường tự phát
thường là ở những địa bàn phức tạp về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội. Nhóm tội phạm này có thể được hình thành từ những nhóm tội phạm
tạm thời, đơn giản mang tính tình huống. Con đường tự giác thể hiện ở sự có
tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của một tổ chức chống đối xã hội nào đó.
Tùy theo mức độ nguy hiểm khác nhau, nhóm tội phạm có tổ chức
được chia thành ba loại: nhóm tội phạm có tổ chức ổn định, phức tạp; nhóm
tội phạm có tổ chức cao, chặt chẽ; cộng đồng tội phạm, liên minh các nhóm
tội phạm có tổ chức. Tội phạm có tổ chức cao thường xuất hiện ở nước ta tại
các thành phố và các tỉnh lớn có nền công nghiệp, dịch vụ và du lịch phát
triển, những địa bàn có khai thác khoáng sản quý (vàng, đá quý) mà những
người lao động tự do ở khắp nơi kéo đến đông để khai thác hoặc làm thuê.
Đây là những tổ chức tội phạm bí mật, khép kín với cơ cấu tổ chức rõ ràng, 42
bền vững có mục tiêu hoạt động lâu dài, có cơ cấu tổ chức rõ ràng, chặt chẽ,
bền vững với hai hoặc ba cấp.
Nhóm tội phạm có tổ chức bao gồm tất cả các thành viên đặc trưng
bởi ý thức phạm tội, là loại nhóm nguy hiểm nhất cho xã hội. Trong nhóm,
sự định hướng phạm tội ở mọi thành viên được bộc lộ rõ nét. Chúng liên kết
với nhau bởi hoạt động phạm tội và luôn coi trọng những giá trị tiêu cực,
phản xã hội hay những giá trị khác đạt được bằng phương thức phạm tội. Tự
thân các thành viên của nhóm tích cực tìm kiếm và tạo nên những tình
huống hoàn cảnh có lợi để thực hiện ý đồ phạm tội.
Tính chất nguy hiểm của tội phạm có tổ chức tương đối cao so với tội
phạm cá nhân vì trong điều kiện của nhóm có thuận lợi về tâm lý, có sự gia
tăng quyết tâm phạm tội ở những phần tử hay dao động do ảnh hưởng của
các thành viên khác, tăng cường khả năng lôi cuốn những thành viên mới
vào hoạt động phạm tội. Sự lây lan tâm lý chống đối xã hội, sự rối loạn
mang tính tội phạm có ý nghĩa to lớn. Sự thống nhất định hướng chống đối
xã hội trong nhiều trường hợp đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định
mức độ trách nhiệm hình sự của mỗi người trong tổ chức tội phạm.
Các nhóm tội phạm có tổ chức thường được lập ra để thực hiện các tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng hay để thực hiện tội phạm nhiều lần. Trong điều
kiện hiện nay, nhiều tổ chức tội phạm hoạt động xuyên quốc gia, câu kết với
các tổ chức tội phạm nuốc ngoài, xâm nhập, lũng đoạn các cơ cấu chính
quyền theo kiểu maphia, xã hội đen, gây nguy hại lớn cho xã hội … Tội
phạm có tổ chức cũng lợi dụng những sơ hở, yếu kém trong việc điều hành
nền kinh tế, những khiếm khuyết trong các quan hệ kinh tế, tài chính, thiết
lập các mối quan hệ kinh tế mang tính chất phạm tội xuyên quốc gia, hoặc
lợi dụng các xung đột sắc tộc, tôn giáo để thực hiện ý đồ chống đối xã hội.
Các nhóm gián điệp, phản động, trong và ngoài nước được lập ra để tập hợp
lực lượng, thực hiện các hoạt động phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia…
được xếp là các nhóm tội phạm có tổ chức hay các tổ chức tội phạm. Đây là
các nhóm tội phạm có cơ cấu, tổ chức chặt chẽ, cùng chung ý đồ hoạt động
xâm phạm an ninh quốc gia, có phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi, xảo
quyệt, có sự cấu kết, liên hệ với các tổ chức chống đối khác
Nhóm tội phạm có tổ chức ở mức cao hoạt động theo kiểu “xã hội
đen” thường có một tên đứng đầu chúng gọi là boss, thủ lĩnh, đại ca, băng
trưởng... Được chọn làm “thủ lĩnh” của tổ chức tội phạm ở mức cao, thường
là những tên có đầu óc tổ chức, có hiểu biết khá rộng (về luật pháp, về xã
hội...) và mối quan hệ rộng rãi trong xã hội, có quá khứ “oanh liệt” trong
giới giang hồ hoặc các "thế giới ngầm". Cấp cầm đầu quyết định mọi hoạt
động của tổ chức tội phạm này. Những tên này thường ít trực tiếp tham gia 43
vào việc gây án, mà điều hành qua số chỉ huy, tay chân. Sự “chỉ đạo” gián
tiếp này ngày càng làm cho tên cầm đầu ít có nguy cơ bị sa lưới pháp luật.
Ở cấp chỉ huy, mỗi tổ chức tội phạm cao có nhiều nhóm. Mỗi nhóm
lại có 1 hoặc 2 tên chỉ huy do thủ lĩnh trực tiếp chỉ định. Những tên này điều
hành các hoạt động cụ thể của các tổ, nhóm theo lệnh của “thủ lĩnh” và có
trách nhiệm báo cáo cho thủ lĩnh về mọi hoạt động của thành viên trong
nhóm, thu tiền kiếm được nộp cho chỉ huy. Trong các tổ chức tội phạm số
tiền thu nhập (chúng gọi là trả lương) của cấp chỉ huy rất cao so với cấp tay chân.
Các thành viên của các băng, nhóm tội phạm là những tên trực tiếp
thực hiện các hành vi phạm tội, cũng như mọi nhiệm vụ do nhóm trưởng, tổ trưởng giao.
4.3. Đặc điểm tâm lý của thủ lĩnh trong nhóm tội phạm
Trong nhóm tội phạm, chi phối hoạt động của nhóm là thủ lĩnh. Thủ
lĩnh là người nổi bật nhất, có uy tín trong nhóm, có khả năng thuyết phục,
ảnh hưởng tới các thành viên khác trong nhóm, thường là đối tượng được
các đối tượng trong nhóm suy tôn, thừa nhận, bị lệ thuộc. Thủ lĩnh trong
nhóm tội phạm có những đặc điểm sau:
- Thủ lĩnh nhóm tội phạm thường là người có kinh nghiệm, có bản
lĩnh thực hiện và che dấu tội phạm hơn các thành viên khác. Xét về mặt nhân
cách, thủ lĩnh nhóm tội phạm là người có sự lệch lạc trong nhân cách khá
sâu sắc. Trong hoạt động phạm tội, thủ lĩnh luôn thể hiện xu hướng mạo
hiểm, liều lĩnh, lạnh lùng về cảm xúc và có tính quyết đoán cao.
- Thủ lĩnh quyết định phương thức hoạt động phạm tội, tố chức điều
khiển các thành viên trong nhóm hành động và phân chia kết quả thu được.
Quan hệ giữa “ thủ lĩnh ” với các “ đàn em ” thường là áp đặt, chúng không
từ một thủ đoạn nào để ràng buộc thành viên và loại bỏ thành viên trên cơ sở
lợi ích cá nhân thủ lĩnh.
- Thủ lĩnh trong nhóm có độ ám thị cao. Sự ám thị của thủ lĩnh với các
thành viên trong nhóm, sự ám thị lẫn nhau giữa các thành viên làm giảm
trạng thái hồi hộp, lo lắng, căng thẳng khi cá nhân tiến hành hoạt động phạm
tội, làm tăng tính quyết đoán của những phần tử hay dao động, chần chừ. Vì
vậy, hành vi phạm tội của các thành viên trở nên dã man, tàn bạo nguy hiểm.
- Thủ lĩnh nhóm tội phạm thường là đối tượng chủ mưu và giữ vị trí
chỉ huy chỉ huy trong việc thực hiện hành vi phạm tội.
Nhóm tội phạm là nhóm nguy hiểm cao đối với xã hội và cần được
nghiên cứu một cách đầy đủ. Việc làm sáng tỏ một số khía cạnh tâm lý của
nhóm tội phạm giúp hiểu được sự hình thành, cơ chế hoạt động tổ chức của 44
nhóm tội phạm, có ý nghĩa lớn trong việc phòng, chống tội phạm, đặc biệt là
tội phạm có tổ chức.
4.4. Khía cạnh tâm lý của người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội
4.4.1. Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên phạm tội thực sự là mối lo của nhiều quốc gia
trên thế giới. Tình trạng phạm tội của người chưa thành niên là điều nguy hại
gấp nhiều lần đối với xã hội, vì những người này không còn là tương lai của
đất nước và phần lớn những người tái phạm nguy hiểm đều đã phạm tội lần
đầu ở lứa tuổi trước 18 tuổi.
Độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội được nhiều nước quy
định khác nhau. Ở Việt nam người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội.
Xét về sự phát triển tâm, sinh lý, ở lứa tuổi chưa thành niên xuất hiện
nhiều sự thay đổi mạnh mẽ. Tâm lý của cá nhân chuyển từ lứa tuổi trẻ con
sang lứa tuổi người lớn, xuất hiện ấn tượng đậm nét “mình không còn là trẻ
em nữa”. Sự phát triển thể chất của người chưa thành niên đặc trưng bởi sự
phát dục – dậy thì của cơ thể. Sự phát dục – dậy thì đã làm cho cơ thể phát
triển không cân bằng, mặc dù chỉ là tạm thời (sẽ qua đi theo sự trưởng thành
của cơ thể) nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý của người
chưa thành niên, làm cho tâm lý của các em xảy ra sự mất cân bằng tạm thời.
Như vậy, ở lứa tuổi người chưa thành niên có sự nhảy vọt về sinh lý,
dẫn tới những khủng hoảng tâm lý. Nếu các em không được phát triển trong
các mối quan hệ bình thường với gia đình, nhà trường, xã hội, không được
giáo dục một cách đúng đắn, thì dễ dẫn đến những lệch lạc trong sự phát
triển tâm lý, là một trong các nguyên nhân khiến các em thực hiện hành vi
phạm tội nói riêng. Xét về mặt tâm lý, người chưa thành niên phạm tội có
những đặc điểm tâm lý sau đây:
- Về trí tuệ: so với trẻ em bình thường, người chưa thành niên phạm
tội chậm phát triển hơn về trí tuệ, tư duy trừu tượng kém, nặng về tư duy cụ
thể, không biết phân tích, dánh giá đúng hiện tượng. Coi thường học tập
nhưng thường khéo léo và mưu trí trong thực hiện hành vi phạm pháp
(chẳng hạn, có kỹ xảo trong việc trộm cắp, móc túi, đối phó với người khác để che dấu hành vi).
- Về hứng thú: thường thiên về ham muốn vật chất, không có hứng thú 45
học tập. Thích đua đòi, ăn chơi như người lớn, thích những trò chơi, phim,
truyện mang tính chất bạo lực, gây cảm giác mạnh.
- Về tình cảm: thiếu bền vững, dễ dàng thay đổi nhưng lại rất mạnh
mẽ, trong nhiều trường hợp mang tính cực đoan. Tình cảm mang tính xung
động cao, dễ bị kích động, bồng bột, sôi nổi. Trẻ chưa thành niên phạm tội
thường có nhu cầu lớn trong tình cảm bạn bè, thường thích kết bạn với trẻ
em có cùng cảnh ngộ, tạo thành các “ băng”, “đảng”. Tình bạn trở thành tình
đồng bọn, dễ thân nhau mà cũng dễ phản bội nhau. Trong nhóm trẻ chưa
thành niên, vai trò của “ thủ lĩnh” được đặc biệt đề cao và có sức ám thị lớn.
- Về quan hệ: trong gia dình, có xu hướng muốn thoát ly gia đình,
trong khi vẫn còn bị phụ thuộc vào gia đình. Vì vậy, lứa tuổi này rơi vào tình
thế xung đột, mẫu thuẫn. Bắt đầu có những hoạt động, những qui ước trong
hoạt động với các bạn. Kinh nghiệm sống với các bạn cùng lứa tuổi giúp cho
trẻ chưa thành niên có bản lĩnh đối phó với người lớn. Trẻ thường đối chiếu
với những thành tựu, thật bại của bạn và suy ngẫm mình. Tính duy kỷ ở trẻ
em chưa hoàn toàn mất đi, có thể gây ra xung đột trong các sinh hoạt nhóm.
- Về tính cách: có sự đan xen giữa tính cách trẻ con và người lớn.
Luôn muốn tự khẳng định sức mạnh của mình, muốn hoạt động thử sức để
chứng minh mình là người lớn. Có xu hướng bắt chước cái xấu của người
lớn, dễ bị người lớn lôi kéo. Có tính độc lập và tự trọng cao. Phản ứng khá
cực đoan và mạnh mẽ khi bị xúc phạm. Tuổi này có xu thế hướng nội, giúp
cá nhân tự hiểu mình hơn, tự xem mình là một thế giới riêng biệt, giữ riêng
cảm nghĩ của mình, ít khi tâm sự với bố mẹ. Tuổi này thường tìm một người
bạn thân để có thể tâm sự cùng nhau hàng ngày. Nhân cách có lúc bị giằng
xé giữa những xu hướng trái ngược nhau: khi hăng hái đến cuồng tín, lúc chán nản bi quan.
Về ý chí trong tính cách: thích lao vào nguy hiểm để chứng tỏ bản lĩnh
của mình, tỏ ra dũng cảm và liều lĩnh, không biết phân biệt giữa bảo thủ và
kiên trì, giữa dũng cảm và liều lĩnh. Hành động khá táo bạo, liều lĩnh và
thiếu suy nghĩ. Nhiều lúc tỏ ra thô lỗ, cục cằn do thái độ thiếu tôn trọng người khác.
Như vậy, ở người chưa thành niên phạm tội có biểu hiện tâm lý lệch
lạc, khác với những trẻ bình thường. Khi gặp sự thúc đẩy của tình huống
hoặc bị kích động, do những lệch lạc nói trên trong tâm lý dễ dàng khiến trẻ
thực hiện hành vi phạm tội. 46
4.4.2. Một số loại trẻ em chưa thành niên có nguy cơ phạm tội
- Trẻ em lang thang: là những trẻ em mà vì những lý do nào đó (chính
đáng hay không chính đáng), đã lìa bỏ mái ấm gia đình, sống cuộc đời lang
thang nay đây mai đó. Về cơ bản đây vẫn là những trẻ em bình thường,
không phải là trẻ em hư hay phạm pháp, nhưng các em đứng trước những
nguy cơ bị lôi kéo, xô đẩy vào những việc làm sai trái.
- Trẻ em hư: còn gọi là trẻ khó bảo hay trẻ khó giáo dục, trẻ chậm
tiến. Đây là những đứa trẻ hoàn toàn bình thường, có tính di truyền tự nhiên
bình thường. Chỉ khác ở chỗ chúng không được giáo dục đầy đủ nên trí tuệ
và tư chất không được phát triển đúng và hết khả năng của nó. Có thể chia
trẻ hư thành các nhóm sau:
+ Không vâng lời, đỏng đảnh, bướng bỉnh;
+ Vô kỷ luật, xấc lược, ngổ ngáo, gây gổ; + Lười biếng; + Dối trá;
+ Dễ xúc động (hoặc là vênh váo, tự cao, anh hùng rơm, hoặc là dễ
hờn giận, mất lòng, dễ tổn thương).
- Trẻ em phạm pháp: là trẻ có hành vi vi phạm pháp luật hiện hành
(mang tính chất hành chính hay hình sự) đã hoặc chưa bị phát hiện và xử lý.
Dấu hiệu chính của trẻ phạm pháp là đã thực hiện những hành vi vi phạm
các qui định của pháp luật ở các mức độ khác nhau.
- Trẻ em bụi đời: là loại trẻ vừa có dấu hiệu của trẻ lang thang đường
phố, vừa có dấu hiệu của trẻ hư.
- Trẻ em rối loạn hành vi: trẻ thuộc loại này vừa có dấu hiệu của trẻ
hư, vừa cói dấu hiệu của trẻ phạm pháp.
Những loại trẻ em trên đây có thể được chuyển hóa lẫn nhau. Có thể mô tả theo sơ đồ sau: 47 Trẻ lang thang Có thể Trẻ bụi đời Trẻ hư Có thể Trẻ rối loạn hành vi Trẻ phạm pháp 48
Chương 5: Tâm lí phòng ngừa tội phạm
1. Khái niệm phòng ngừa tội phạm
1.1. Khái niệm chung về phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các quy định, các biện
pháp, các hành động của cá nhân, tổ chức nhằm hạn chế, ngăn
chặn tội phạm xảy ra, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các tội
phạm xảy ra và giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
Như vậy, đây là hệ thống các quy định, các biện pháp, các hành động nhằm: - hạn chế tội phạm - ngăn chặn tội phạm
- phát hiện, xử lý các tội phạm xảy ra
- giáo dục người phạm tội.
1.2. Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tâm lí học
Là hệ thống các biện pháp, các quy định, các hành vi của cá nhân, tổ chức:
- hình thành ở con người những phẩm chất tâm lí tích
cực, những thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội;
- ngăn chặn sự hình thành, loại bỏ, hạn chế những phẩm
tâm lí tiêu cực, những thói quen hành vi không phù hợp với
chuẩ mực xã hội, giải tỏa khuynh hướng gây hấn, xâm kích;
- đảm bảo cho cá nhân không phạm tội trong bất kỳ hoàn cảnh nào. 49
2. Đặc trưng của phòng ngừa tâm lí
- Cơ sở của phòng ngừa tâm lí là mối quan hệ giữa tâm lí và hành vi
+ Tâm lí: các tiến trình âm trí ở con người: tình cảm, ý chí, nhận thức..
+ Hành vi: phản ứng, xử sự của con người trong tình huống cụ thể.
+ Tâm lí điều hành hành vi + Hành vi tạo ra tâm lí -
Phòng ngừa tâm lí thực chất là hệ thống các biện pháp
tác động lên tâm lí con người.
+ tác động lên nhận thức;
+ tác động lên cảm xúc;
+ tác động lên ý chí;
+ tác động lên lĩnh vực ý thức;
+ tác động lên lĩnh vực vô thức;
+ đồng thờ tác đông lên nhiều lĩnh vực;
+ tác động có thể đưa đến những hay đổi lâu dài hoặc tạm thời. - Tính đa dạng
+ vận động, tuyên truyền; + thuyết phục;
+ bắt buộc, cưỡng chế;
+ thông qua lý trí hoặc ngấm ngầm…
- Tính phức tạp: do sự pức tạp của đời sống tâm lí, của
các yếu tố quy định ành vi. 50
- Tính hiệu quả: bản chất của phòng ngừa tâm lí là hệ
thống biện pháp ảnh hưởng đến tâm lí để từ đó dưa đến những
thay đổi về hành vi. Bởi tất cả những gì tồn tại ở mức độ tư
tưởng, tinh thần thì chỉ ở dạng tiềm năng, cho nên không thể
đòi hỏi hiệu quả tuyệt đối của phòng ngừa tâm lí. Hơn nữa, một
biện pháp phòng ngừa có thể tỏ ra hiệu quả oqr tình huống này
lại có thể không đem đến một kết quả tương tự trong tính huống khác.
3. Các lý thuyết tâm lí về phòng ngừa tội phạm
Tội phạm là một loại hành vi bất bình thường, hành vi sai
lệch của con người. Muốn phòng ngừa tội phạm hiệu quả thì các
biện pháp phòng ngừa phải xuất phát từ nguyên nhân, từ các yếu tố
đích thực quy định hành vi của con người.
2.1. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Phân tâm học truyền thống
- Nội dung của thuyết Phân tâm học:
+ Bản chất con người: ba khối với vai trò thống soái của các
bản năng, nhất là tình dục và xâm kích.
+ Vai trò của các thúc đẩy vô thức: Nếu như không tất cả thì
hầu hết hành vi của con người do các động cơ vô thức chi phối.
Bản tính con người là xấu xa, là thù địch với xã hội. Do đó,
tội phạm có thể xảy ra bất kỳ ở đâu, vào bất kỳ thời điểm nào và với bất cứ ai. - Phòng ngừa:
+ Tạo các rào cản để các thúc đẩy tội lỗi không thể đưa tới
hành vi thực tế: hình phạt, các biện pháp răn đe đủ mạnh, giáo dục
đạo đức, các chuẩn mực xã hội… 51
+ Tư vấn giúp con người chọn nghề hay các hoạt động phù
hợp để giúp giả tỏa các xung năng;
+ Tổ chức các hoạt động để con người có thể giải tỏa các
xung năng bị dồn nén hoặc tìm được đối tượng thay thế;
+ Với người phạm tội, phải phân tích, tìm hiểu nguyên nhân
sâu xa của hành vi bất thường của họ và tìm biện pháp điều trị phù hợp.
2.2. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Tâm lí học nhân văn
- Đại diện: A. Maslow, C. Roger.
- Quan niệm về bản chất con người và hành vi của họ:
+ bản tính của con người là tốt, con người là hiện thân của
cái đẹp, sinh ra con người đã có sẵn một khuynh hướng phát triển
và khuynh hướng này là không mâu thuẫn với xã hội, nếu gặp điều
kiện thuận lợi khuynh hướng này sẽ được phát huy.
+ Con người không xấu, tuy nhiên họ có thể có hành vi xấu, có thể phạm tội.
- Phòng ngừa tội phạm:
+ tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân phát triển mọi tiềm năng của mình;
+ tạo môi trường lành mạnh, thể hiện tình yêu thương, sự
quan tâm trong quan hệ người – người;
+ trong giáo dục người phạm tội cần hiểu, gần gũi, quan tâm để cảm hóa họ.
2.3. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Tâm lí học hành vi - Đại diện 52
- Quan niệm về bản chất con người và hành vi của họ: bản
chất và hành vi của con người do môi trường, đặc biệt là môi
trường xã hội quyết định. Hầu hết các hành vi của con người là do tập nhiễm.
- Phòng ngừa tội phạm:
+ chú trọng đặc biệt đến môi trường xã hội;
+ chú trọng đến việc hình thành thói quen tuân theo pháp luật;
+ kiểm soát chặt chẽ các tình huống giáo dục;
+ tránh xa các tình huống dễ gây cảm xúc.
2.4. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Tâm lí học nhận thức
- Đại diện: A. Bandura, W. Mischel, J. Rotter
- Quan niệm về bản chất con người và hành vi:
+ con người là một hệ thống xử lý thông tin: các sự kiện
cung cấp thông tin (đầu vào), con người xử lý và kết quả là hành vi xảy ra (đầu ra).
+ hành vi phạm tội là kết quả của quá trình học tập xã hội,
quá trình quan sát, là sự mô phỏng các hành vi mẫu.
+ hành vi của con người chịu sự quy định của nhiều yếu tố.
- Phòng ngừa tội phạm:
+ cung cấp thông tin đầy đủ, đúng về các sự kiện xảy ra;
+ tạo môi trường lành mạnh;
+ xây dựng các hành vi mẫu để tuyên truyền;
+ hành vi phạm pháp, phạm tội phải được xử lý thưởng
nghiêm minh, hành vi tuân theo pháp luật gương mẫu phải được khen thưởng. 53
2.5. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Tâm lí học hoạt động - Đại diện:
- Quan niệm về bản chất con người và hành vi:
+ nhân cách, yếu tố bên trong quy định hành vi, được hình
thành thông qua hoạt động trong môi trường xã hội;
+ hành vi phạm tội là kết quả của sự tác động qua lại giữa
nhân cách với những phẩm chất tâm lí tiêu cực và hoàn cảnh, tình huống bên ngoài. - Phòng ngừa:
+ chú trọng đến quá trình hình thành, phát triển nhân cách,
các moi trường xã hội, các yếu tố ảnh hưởng: giáo dục, gia đình,
nhà trường, tập thể, giao tiếp, hoạt động …
+ hạn chế, loại bỏ bất công, bất bình đẳng trong xã hội;
+ hoàn chỉnh hệ thống pháp luật;
+ tạo môi trường phù hợp, dùng lao động, chế độ, học tập để
giáo dục người phạm tội.
2.6. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Tâm lí học hiện đại
- Quan niệm của tâm lí học hiện đại về bản chất của con
người và hành vi của họ:
+ con người là phức tạp, là tổng hòa của tất cả: trong con
người có cái tốt, cái xấu, cái tích cực, cái tiêu cực;
+ hành vi nói chung và hành vi phạm tội nói riêng được quy
định bởi nhiều yếu tố: xã hội - văn hóa, tự nhiên, tâm lí, di truyền,
nuôi dưỡng, bên trong, bên ngoài;
+ con người và hành vi của họ có thể thay đổi ở mức cao; 54 - Phòng ngừa
+ có thể áp dụng bất kỳ biện pháp phòng ngừa nào miễn là
hữa ích và không trái luật;
+ áp dụng các biện pháp một cách linh hoạt. 55