Giáo trình ôn tập tổng hợp - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Học phần môn “Pháp luật đại cương” trang bị cho sinh viên những kiến thức lýluận cao nhất về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nóiriêng. Từ đó giúp sinh viên có nhận thức, quan điểm đúng đắn về đường lối, chínhsách của Đảng và nhà nước ta. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14 A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Học phần môn “Pháp luật đại cương” trang bị cho sinh viên những kiến thức lý
luận cao nhất về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói
riêng. Từ đó giúp sinh viên có nhận thức, quan điểm đúng đắn về đường lối, chính
sách của Đảng và nhà nước ta. Đồng thời những kiến thức lý luận đó cũng giúp cho
sinh viên hiểu biết hơn về pháp luật để vận dụng vào thực tế, do tính quan trọng của
môn học nên chúng em chọn môn “Pháp luật đại cương” làm đề tài nghiên cứu.
Học phần trang bị cho sinh viên những vấn đề lý luận chung về nhà nước và
pháp luật như: nguồn gốc nhà nước, khái niệm, bản chất nhà nước, chức năng và vai
trò pháp luật, các kiểu và hình thức pháp luật; quy phạm pháp luật và hệ thống pháp
luật; quan hệ pháp luật; vi phạm và trách nhiệm pháp lý.
Sau khi học xong phần lý luận, học phần sẽ trang bị cho sinh viên những vấn đề
chung nhất về một số ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam như: Luật
Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Dân sự, Luật Tố tụng dân sư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Lao động…
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hiểu được khái niệm pháp luật, các hình thức thực hiện pháp luật.
Hiểu được khái niệm vi phạm pháp luật, các dấu hiệu của vi phạm pháp luật,
phân loại vi phạm pháp luật.
Hiểu được khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý. Các căn cứ để truy
cứu trách nhiệm pháp lý và phân loại trách nhiệm pháp lý.
Vận dụng và liên hệ được với thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài tiểu luận em đã sử dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau. Trên cở sở vận dụng phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa duy vật
lịch sử, duy vật biện chứng, Chủ nghĩa Mác Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu
các tài liệu báo đài, internet, giáo trình, tạp chí… liên quan đến học phần Pháp luật đại cương. 1
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp lịch sử, phương pháp so sách,
phương pháp logic phân tích, tổng hợp… góp phần làm rõ vấn đề nghiên cứu
4. Kết cấu của đề tài
- Chương 1: Khái quát chung về bộ máy nhà nước Việt Nam theo hiến pháp 2013
- Chương 2: Khái quát chung về bộ máy nhà nước Việt Nam cấp địa phương theo hiến pháp 2013
- Chương 3: Thực trạng và phương hướng hoàn thiện về tổ chức và hoạt động
cuả cơ quan nhà nước cấp địa phương 2
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14 B.PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 2013
I. Khái niệm bộ máy Nhà nước Việt Nam:
Bộ máy Nhà nước: là hệ thống các cơ quan Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở những nguyên tắc chung, thống nhất, nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức năng chung của nhà nước.
II. Nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam:
Đặc trưng của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam:
- Cơ cấu tổ chức, hoạt
động của bộ máy Nhà nước đảm bảo tính thống nhất
quyền lực của Nhà nước. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân
thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các cơ quan đại diện do nhân dân lập ra. Các
cơ quan của Nhà nước đều bắt nguồn từ cơ quan đại diện nhân dân cử, chịu trách
nhiệm và báo cáo trước cơ quan đó.
- Tuy bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực
Nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy Nhà nước có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm tránh sự
chồng chéo, mâu thuẫn, lẫn lộn chức năng giữa chúng.
- Bộ máy Nhà nước thống nhất quản lý các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Chức năng của bộ máy Nhà nước: thể hiện trên ba lĩnh vực hoạt động: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Trên lĩnh vực lập pháp: Bộ máy Nhà nước thể chế hóa đường lối, quan điểm
của Đảng cộng sản thành pháp luật của Nhà nước.
- Trên lĩnh vực hành pháp: Bộ máy Nhà nước bằng hoạt động cụ thể, đưa pháp
luật vào đời sống xã hội, bảo đảm để pháp luật Nhà nước trở thành khuôn mẫu hoạt
động của Nhà nước, xã hội đảm bảo thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
- Trên lĩnh vực tư pháp: Bằng hoạt động cụ thể của từng cơ quan, bảo đảm cho
pháp luật được thực hiện nghiêm nhằm duy trì trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội. 3
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
III. Hệ thống cơ quan Nhà nước Việt Nam:
Nhà nước Việt Nam là hệ thống 4 cơ quan, đó là:
- Cơ quan quyền lực hay còn gọi là các cơ quan đại diện (lập pháp): bao
gồm Quốc hội ở cấp trung ương và Hội đồng nhân dân các cấp các cấp địa phương do
nhân dân trực tiếp bầu ra và thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
- Cơ quan hành chính (hành pháp): bao gồm Chính phủ ở cấp trung ương và Uỷ
ban nhân dân các cấp địa phương do cơ quan quyền lực tương ứng bầu ra.
- Cơ quan xét xử (tư pháp): bao gồm Tòa án nhân dân ở cấp trung ương và Tòa
án nhân dân các cấp địa phương.
- Cơ quan kiểm sát (công tố): bao gồm Viện kiểm soát nhân dân tối cao ở cấp
trung ương và Viện kiểm sát nhân dân các cấp địa phương. 4
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM CẤP ĐỊA PHƯƠNG THEO HIẾN PHÁP 2013
I. Hội đồng nhân dân
1. Khái quát về Hội đồng nhân dân.
- HĐND là một tổ chức có tính chất quần chúng, bao gồm các đại biểu mọi tầng
lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, công nhân, nông dân, trí thức cùng nhau bàn bạc
và giải quyết mọi công việc quan trọng của địa phương. Như vậy HĐND vừa là một tổ
chức có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng.
- Vị trí, tính chất và chức năng được quy định tại Điều 119, 120 Hiến pháp 1992
và cụ thể hóa tại Luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003.
HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Hội đồng nhân dân có ba chức năng chủ yếu sau:
- Một là, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, như quyết định
những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa
vụ của địa phương đối với cả nước;
- Hai là, bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước
cấp trên và trung ương ở địa phương;
- Ba là, thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thường trực HĐND, viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và của công dân dịa phương.
2. Tổ chức Hội đồng nhân dân.
2.1. Thường trực Hội đồng nhân dân: 5
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Theo Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 trong cơ cấu tổ chức của
bộ máy nhà nước Việt Nam không có tổ chức thường trực HĐND. Để phát huy hơn
nữa quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng
cường hiệu lực của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan này đã được
thành lập theo Điều 118 được bổ sung của Hiến pháp 1980 và Điều 3 Luật tổ chức
HĐND và UBND ngày 30 tháng 6 năm 1989.
Vị trí: Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND. Thường trực
HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu của mình tại kì họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND.
Lúc đầu thường trực HĐND chỉ thành lập ở cấp tỉnh và huyện gồm chủ tịch, phó
chủ tịch và thư kí. Ở cấp xã không thành lập mà chỉ có Ban thư kí.
Cơ sở của việc thành lập: Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND thì
thường trực HĐND là cơ quan đảm bảo việc tổ chức các hoạt động của HĐND. Trước
đó, UBND với tính cách là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương thì đồng thời cũng là cơ quan thường vụ, thường trực của HĐND.
UBND thực hiện tất cả các chức năng gọi là thường vụ, thường trực như: tổ chức việc
chuẩn bị và triệu tập các kì họp HĐND, điều hòa, phối hợp với các ban xây dựng các
đề án trình HĐND xét và quyết định… UBND vừa chịu trách nhiệm trước HĐND, vừa
chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên nên UBND có tính độc
lập, không còn phụ thuộc vào HĐND như lí luận nêu ra. Đây là nguyên nhân của tình
trạng các nghị quyết của HĐND không được tổ chức thực hiện tốt.
HĐND đối với UBND chưa có cơ sở pháp lí để phát huy. Nhằm khắc phục tình
trạng này thường trực HĐND được thành lập.
Thành phần thường trực HĐND: Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 1994 có một số thay đổi về tổ chức thường trực HĐND chỉ còn gồm chủ
tịch, phó chủ tịch, không còn chức danh thư kí, không còn coi là cơ quan của HĐND;
cấp xã bỏ Ban thư kí mà thành lập chủ tịch HĐND (có phó chủ tịch). Ngày 26 –11-
2003, Quốc hôi khóa XI, kì họp thứ IV đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND
( sửa đổi) theo đó, thường trực HĐND được thành lập ở tất cả các cấp và do HĐND
cùng cấp bầu ra, thường trực HĐND cấp tỉnh, huyện gồm có chủ tịch, phó chủ tịch và
ủy viên thường trực, ở cấp xã vẫn chỉ có chủ tịch và phó chủ tịch HĐND. 6
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Thường trực HĐND được chọn bầu ra trong số đại biểu theo thể thức: Bầu chủ
tịch HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kì họp (chủ tọa kì họp này là chủ tịch
HĐND khóa trước, nếu khuyết thì do phó chủ tịch, nếu vẫn khuyết cả 2 thì là triệu tập
viên do thường trực HĐND cấp trên trực tiếp chỉ định. Bầu phó chủ tịch và ủy viên
thường vụ theo sự giới thiệu của chủ tịch. Đại biểu HĐND có quyền giới thiệu và ứng
cử vào các chức vụ đó. Để đảm bảo cho hoạt động giám sát khách quan, luật quy định
các thành viên thường trực HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng
cấp. Kết quả bầu Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên thường trực HĐND phải được
thường trực HĐND cấp trên phê chuẩn; kết quả bầu chủ tịch, phó chủ tịch và ủy viên
thường trực HĐND cấp tỉnh phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Nhiệm kỳ của thường trực HĐND và các chức vụ trong đó theo nhiệm kỳ của
HĐND hiện nay là 5 năm. Lần đầu tiên trong Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân năm 2003 quy định chủ tịch HĐND (chủ tịch UBND) ở mỗi đơn vị hành
chính không giữ quá 2 nhiệm kỳ liên tục( Điều 6). Quy định này cũng giống như quy
định nhiệm kỳ của cơ quan đại diện nói chung là nhằm mục đích để giám sát đối với
các đại biểu được bầu ra và tạo cơ hội để các nhân tố mới tham gia vào hoạt động của
cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền:
- Thường trực HĐND làm việc theo nguyên tắc tập thể, mỗi tháng họp ít nhất 1
lần để kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của HĐND và các quyết định của
mình, đề ra nhiệm vụ công tác tháng sau. Thường trực HĐND có thể họp bất thường
theo đề nghị của từng thành viên thường trực HĐND.
2.2. Các Ban của Hội đồng nhân dân
- Mục đích thành lập: Các ban của HĐND là hình thức tham gia tập thể của các
đại biểu HĐND vào việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND và để giúp
HĐND theo quy định của pháp luật. Các ban được HĐND thành lập theo nhu cầu công tác.
- Vị trí các ban: là cơ quan được lập ra để giúp việc cho HĐND.
Ban của HĐND được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW, huyện,
quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã. Ở cấp xã, phường, thị trấn không có các ban. 7
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Theo quy định của pháp luật hiện hành( Điều 54 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân 2003) thì HĐND cấp tỉnh thành lập ba ban: Ban kinh tế và ngân sách,
ban văn hóa- xã hội, ban pháp chế.
Ở những tỉnh có nhiều dân tộc có thể thành lập Ban dân tộc để giúp HĐND thực
hiện và giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
HĐND cấp huyện thành lập hai ban: Ban kinh tế - xã hội, ban pháp chế.
Số lượng thành viên mỗi ban do HĐND cùng cấp quyết định. Thành viên của các
ban của HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp. Một điểm mới
đáng lưu ý là luật quy định trưởng ban của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện không thể đồng
thời là thủ trưởng cuả các cơ quan chuyên môn của UBND, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân, chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp.
Trưởng ban và các thành viên khác của các ban của HĐND do HĐND bầu ra tại
kì họp đầu tiên của mỗi khóa HĐND và được lựa chọn trong số các đại biểu có năng
lực kiến thức và chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi ban.
Trong khi thi hành nhiệm vụ, các ban của HĐND có quyền yêu cầu UBND,
TAND,VKSND cùng cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa
phương cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của các ban của HĐND
Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với thường trực HĐND cần thiết; Quy chế tổ
chức và hoạt động của HĐND cụ thể hóa những nhiệm vụ, quyền hạn của từng ban.
Hình thức hoạt động của Ban là phiên họp do trưởng ban triệu tập. Tại phiên họp
các thành viên thảo luận trước các dự án trình HĐND thông qua hoặc chuẩn bị các đề
án trình. HĐND kiểm điểm việc thực hiện chương trình, bàn công tác của thời gian tới.
Ban còn tổ chức các cuộc kiểm tra, giám sát ở cơ sở, phát hiện những vấn đề để kiến
nghị với cơ sở hoặc trình HĐND quyết định các kiến nghị của ban có giá trị bắt buộc
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cơ quan hữu quan xem xét và thực hiện
kết quả báo cáo lại cho các ban biết. Thường trực HĐND điều hòa, phối hợp hoạt động
của các ban. Các trưởng ban được dự các kì họp hàng tháng của thường trực cùng cấp.
3. Hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân.
3.1. Kì họp Hội đồng nhân dân 8
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Vị trí: Các kì họp chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động của HĐND, vì
đó là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của HĐND. HĐND làm việc tập
trung và có hiệu quả nhất trong các kì họp của mình.
Chuẩn bị và triệu tập kì họp: UBND phối hợp với Thường trực HĐND và các
Ban của HĐND chuẩn bị nội dung các kì họp HĐND, xây dựng đề án trình HĐND
xem xét, quyết định. Trước ngày họp 30 ngày, Thường trực HĐND họp với UBND,
Trưởng phó Ban của HĐND quyết định chương trình và các vấn đề sẽ bàn và giao cho
các cơ quan chuẩn bị. Các báo cáo, đề án và các vấn đề sẽ bàn tại kì họp do Thường
trực HĐND cùng với UBND, các Ban của HĐND (ở tỉnh, huyện), Chủ tịch UBND
cùng Thường trực HĐND (ở xã, phường, thị trấn) chuẩn bị. Tài liệu cần thiết của kì
họp HĐND phải được gửi đến đại biểu HĐND chậm nhất là 5 ngày trước ngày khai mạc kì họp.
Kì họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND có ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì tại kì họp
này sẽ tiến hành thẩm tra tư cách đại biểu HĐND, bầu ra Thường trực HĐND, các ban
của HĐND, UBND cùng cấp. Kì họp thứ nhất được triệu tập chậm nhất 30 ngày kể từ
ngày bầu xong đại biểu HĐND. Ở miền núi, nơi nào đi lại khó khăn thì kì họp thứ nhất
của HĐND tỉnh được triệu tập chậm nhất là 45 ngày kể từ ngày bầu cử đại biểu HĐND.
Kì họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND do chủ tịch HĐND khóa trước triệu tập và
chủ tọa cho đến khi HĐND bầu được Chủ tịch HĐND khóa mới. Trong trường hợp
khuyết Chủ tịch HĐND thì Phó Chủ tịch HĐND triệu tập kì họp thứ nhất của HĐND
khóa mới. Nếu khuyết cả Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND thì thường trực HĐND cấp
trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên để triệu tập và chủ tọa kì họp cho đến khi HĐND
bầu được Chủ tịch HĐND; ở cấp tỉnh thì do Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ định triệu tập viên.
Thời gian họp: HĐND họp thường lệ mỗi năm hai kỳ (trước đây ba tháng một
kỳ). Ngoài kỳ họp thường lệ, HĐND còn tổ chức kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất
thường theo đề nghị của chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND cùng cấp khi có ít nhất một
phần ba tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu. Thường trực HĐND quyết định
triệu tập kỳ họp thường lệ của HĐND chậm nhất là 20 ngày, kỳ họp chuyên đề hoặc
bất thường chậm nhất là mười ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. 9
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
3.2. Thường trực Hội đồng nhân dân.
Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu của mình
tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND. Thường trực HĐND được thành lập ở cả 3
cấp tỉnh, huyện, xã. Thường trực HĐND có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của HĐND
- Đôn đốc, kiểm tra UBND cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương
thực hiện các nghị quyết của HĐND.
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương.
- Điều hòa, phối hợp hoạt động của các ban của HĐND Tiếp dân, đôn đốc, kiểm
tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên thường trực HĐND cấp dưới trực tiếp.
3.3. Các ban của Hội đồng nhân dân.
Các ban của HĐND là hình thức tham gia tập thể của các đại biểu HĐND vào
việc thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của HĐND và để giúp HĐND theo quy định
của pháp luật. Các ban của HĐND có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của HĐND
- Thẩm tra các báo cáo, đề án do HĐND hoặc thường trực HĐND phân công.
- Giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND, hoạt động của TAND, VKSND cùng cấp.
- Giúp HĐND giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân…
3.4. Hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân.
Hoạt động của cá đại biểu HĐND góp phần quan trọng vào việc xây dựng và
thực hiện các chủ trương công tác của HĐND. Đại biểu HĐND không chỉ hoạt động
hạn chế trong các kỳ họp, trong các cơ quan thường trực HĐND và các ban của
HĐND mà còn có những nhiệm vụ và quyền hạn với tư cách là đại biểu của nhân dân
địa phương. Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của
HĐND, tham gia vào thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của đại biểu HĐND. Đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra 10
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
mình, chịu sự giám sát của cử tri, phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện
vọng của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri. Đại biểu HĐND có quyền
tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
trong các kỳ họp, phiên họp của HĐND; tham gia vào bầu cử và có thể được bầu vào
thường trực HĐND, các ban của HĐND hoặc UBND cùng cấp. II. Ủy ban nhân dân
1. Sơ lược về vị trí, tính chất và chức năng của Ủy ban nhân dân
Điều 123 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ủy ban nhân dân do hội đồng nhân
dân bầu là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan
nhà nước các cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân dân”.
Như vậy, về tính chất, ta có thể thấy rõ hai điểm sau:
- Ủy ban Nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng Nhân dân. Điều đó được
thể hiện qua những điểm sau: Ủy ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân cùng cấp lập
ra; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhân dân và trả lời trách vấn
của đại biểu Hội đồng Nhân dân; chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai tổ
chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân, đưa các nghị quyết này vào
thực tế cuộc sống. Ủy ban Nhân dân chịu sự giám sát của Hội đồng Nhân dân. Hội
đồng Nhân dân có quyền bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp
luật của Ủy ban Nhân dân cùng cấp. Nhiệm kì của Ủy ban Nhân dân phải theo nhiệm
kì của Hội đồng Nhân dân.
- Ủy ban Nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bởi: Ủy ban
Nhân dân thực hiện hoạt động quản lí hành chính trên phạm vi toàn lãnh thổ địa
phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã
hội, an ninh quốc phòng; Ủy ban Nhân dân chịu sự lãnh đạo trực tiếp của các cơ quan
nhà nước cấp trên và Hội đồng Nhân dân cùng cấp; Ủy ban Nhân dân phải đảm bảo
cho những quy định và quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và trung
ương được thực hiện tốt ở địa phương; hoạt động của Ủy ban Nhân dân chịu sự giám
sát của cơ quan nhà nước cấp trên và Chính phủ, các quyết định sai trái của Ủy ban 11
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Nhân dân và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân có thể bị chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp trên
trực tiếp hủy bỏ một phần hoặc tất cả.
Về chức năng, Ủy ban Nhân dân có chức năng duy nhất là quản lí hành chính
nhà nước vì quản lí nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của Ủy ban Nhân dân
2. Tổ chức của Ủy ban nhân dân
Vấn đề cơ cấu của Ủy ban Nhân dân được quy định tại Chương IX Hiến pháp
năm 1992 ( từ Điều 123 đến Điều 125 ) và cụ thể hóa tại Điều 119 Mục 4 Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003. Theo đó, cơ cấu tổ chức của Ủy ban Nhân dân bao gồm:
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, Phó Chủ tịch và các Ủy viên của Ủy ban Nhân dân.
2.1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân cùng cấp bầu ra tại kì họp thứ
nhất mỗi khóa theo sự giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng Nhân dân trong số các đại
biểu của Hội đồng Nhân dân. Với quy định như vậy việc bố trí Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân sẽ được dễ dàng hơn trong các trường hợp đặc biệt.
Việc bầu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân được tiến hành theo hình thức bỏ phiếu kín,
người trúng cử phải được quá một phần hai tổng số đại biểu Hội đồng Nhân dân có
mặt biểu quyết tán thành. Trong nhiệm kì nếu khuyết Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thì
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân để Hội đồng Nhân dân cùng cấp bầu. Người được bầu này không nhất thiết phải là
đại biểu Hội đồng Nhân dân. Sở dĩ có quy định này là nhằm tạo ra sự linh hoạ, nhanh
chóng trong việc thay đổi nhân sự của Ủy ban Nhân dân trong những trường hợp đặc biệt.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân có nhiệm vụ lãnh đạo và điều hành công việc của Ủy
ban Nhân dân, giúp cho hoạt động của Ủy ban Nhân dân được nhịp nhàng, thống nhất.
Từ những quy định trên, chúng tôi có một số nhận xét, đánh gia như sau:
- Thứ nhất, quy định: “ Chủ tịch Ủy ban Nhân dân được bầu ra theo sự giới thiệu
của Chủ tịch Hội đồng Nhân dân” có phần thể hiện ý muốn chủ quan của Chủ tịch Hội
đồng Nhân dân trong việc bầu này, từ đó đã phần nào triệt tiêu tính dân chủ trong việc
bầu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Dù các Đại biểu Hội đồng Nhân dân có quyền biểu 12
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
quyết tán thành hay phản đối, nhưng với sự “hậu thuẫn” của Chủ tịch Hội đồng Nhân
dân thì việc người được giới thiệu có khả năng thắng cử là rất cao, do vậy xét ở khía
cạnh nào đó đã triệt tiêu tính dân chủ. Đồng thời với việc quy định Hội đồng Nhân dân
bãi nhiệm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân đã tạo ra một tâm lí nể nang, né tránh, không đạt
được hiệu quả thực sự của quy định bãi nhiệm này. Hiện nay, nhà nước ta đang tiến
hành thí điểm ở một số xã hình thức bầu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã theo phương
thức mới: đó là do dân bầu trực tiếp. Như vậy sẽ thể hiện tính dân chủ tuyệt đối, giống
như việc bầu cử Đại biểu Quốc hội. Cùng với qui định này sẽ là việc bãi nhiệm Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân xã cũng sẽ do dân thực hiện. Nếu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã
nào không còn xứng đáng với sự tính nhiệm của nhân dân sẽ bị nhân dân trực tiếp bãi
nhiệm. Như vậy, các Chủ tịch Ủy ban Nhân dân sẽ cố gắng làm hết trách nhiệm, nhiệm
vụ và làm đúng quyền hạn của mình, sẽ hạn chế được rất nhiều tình trạng quan liêu,
hách dịch, cửa quyền đang là một vấn đề bức xúc hiện nay. Đồng thời các Chủ tịch Ủy
ban Nhân dân cũng phải không ngừng trau dồi tri thức, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao
phẩm chất đạo đức của một người cán bộ. Sau một thời gian thử nghiệm, chúng ta có
thể thấy được hiệu quả rõ rệt của quy định này như : các chương trình, dự án ở địa
phương được tiến hành nhanh gọn, thái độ của các nhân viên chính quyền đối với dân
niềm nở hơn, tình trạng tham ô, hối lộ giảm đi rõ rệt….Tóm lại, đây là một quy định
rất hợp lí và cần được tiến hành đồng loạt trên cả nước trong thời gian tới. Nếu có thể
thì cần tiến hành trên tất cả các cấp chứ không chỉ ở cấp xã, thậm chí Thủ tướng Chính
phủ cũng cần được bầu theo phương thức này.
- Thứ hai: trong Hiến pháp và các văn bản luật không nêu lên tiêu chuẩn cụ thể
để trở thành Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Điều này có thể giải thích lí do là do: khi đại
diện các tầng lớp nhân dân được bầu vào Hội đồng Nhân dân thì ai cũng có cơ hội trở
thành Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, nhằm tạo điều kiện cho tầng lớp nhân dân tham gia
vào công việc quản lí nhà nước. Tuy nhiên, đây là một công việc quan trọng, đòi hỏi
những người có năng lực thật sự, do vậy việc đặt ra các tiêu chuẩn cụ thể cho Chủ tịch
Ủy ban Nhân dân là rất cần thiết như về độ tuổi, trình độ học vấn….
- Thứ ba: về năng lực của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Hiện nay còn một số Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân có trình độ yếu, kinh nghiệm thiếu nên đã không đáp ứng được
yêu cầu của công việc. Do vậy, trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là phải đào tạo được 13
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
một đội ngũ cán bộ có năng lực thật sự, phẩm chất đạo đức tốt, như vậy mới tạo nên
được sự vững mạnh trong bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
2.2. Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp
thứ nhất của mỗi khóa theo sự giới thiệu của chủ tịch Ủy ban Nhân dân theo hình thức
bỏ phiếu kín. Số phó Chủ tịch ở mỗi cấp do Chính phủ quy định, theo đó, ở Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có từ 3 – 4 phó Chủ tịch, cấp huyện có từ 2 – 3 phó Chủ tịch và cấp
xã có 1 phó Chủ tịch, tuy nhiên có trường hợp ngoại lệ có 2 phó Chủ tịch.
Từ những quy định về phó Chủ tịch đã nêu trên, em có một số ý kiến sau:
- Thứ nhất: với quy định: “Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân giới thiệu ra đề bầu” có tác dụng giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể lựa
chọn nhân sự trong Ủy ban, nhằm tang cường quyền hạn của Chủ tịch, giúp các thành
viên của Ủy ban phối hợp với nhau được nhịp nhàng, thống nhất, tuy nhiên quy định
này còn có nguy cơ gây ra tình trạng “gây bè kết phái”, làm giảm hiệu quả hoạt động
của Ủy ban nhân dân. Theo em, giải pháp được đưa ra ở đây là Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cũng do nhân dân địa phương bầu ra, có thể bị nhân dân bãi nhiệm nếu
không còn sự tín nhiệm của nhân dân.
- Thứ hai: cần giảm số lượng phó Chủ tịch ở cấp tỉnh và cấp huyện. Bởi phó Chủ
tịch chỉ là người giúp việc cho Chủ tịch do vậy không cần thiết phải nhiều. Nếu giảm
số lượng phó Chủ tịch sẽ giúp bộ máy nhà nước bớt cồng kềnh, hoạt động được hiệu quả hơn.
2.3. Thành viên và Ủy viên Ủy ban nhân dân
Các thành viên của Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại
kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa theo sự giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân được
bầu theo hình thức bỏ phiếu kín. Kết quả bầu này phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp trên trực tiếp phê chuản. Kết quả bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung Ương phải được Thủ tướng Chính Phủ phê chuẩn. Quy
định này nhằm tạo nên sự thống nhất từ Trung ương xuống địa phương trong hệ thống cơ quan hành chính. 14
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Số lượng các thành viên của Ủy ban nhân dân được Chính phủ quy định cụ thể
như sau: cấp tỉnh có từ 9 – 11 thành viên, riêng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có không ít
hơn 13 thành viên; cấp huyện có từ 7 – 9 thành viên; cấp xã có từ 3 – 5 thành viên.
Ngoài Chủ tịch Ủy ban nhân dân ra, các phó Chủ tịch và các thành viên khác không
thống nhất phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Quy định này nhằm một số mục đích
sau: Thứ nhất, giúp cho việc giám sát của Hội đồng nhân dân với Ủy ban nhân dân
được khách quan hơn, tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Thứ hai, hạn chế
tình trạng kiêm nhiệm từ đó giúp tang cường hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân.
Thứ ba, quy định phó Chủ tịch và các Ủy viên có thể không là đại biểu Hội đồng nhân
dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân, những người có năng lực
thực sự có thể tham gia vào công việc quản lí nhà nước.
Ủy viên Ủy ban nhân dân là thành viên của Ủy ban nhân dân. Được Chủ tịch
phân công phụ trách quản lý những ngành, lĩnh vực chuyên môn nhất định phải chịu
trách nhiệm cá nhân về ngành, lĩnh vực được phân công trước Chủ tịch Ủy ban nhân
dân và cùng với tập thể Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân
cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (không phải là
thành viên của Ủy ban nhân dân) được giao phụ trách quản lý ngành, lĩnh vực chuyên
môn với các tên gọi như: Giám đốc Sở, trưởng phòng, trưởng ban… phải chịu trách
nhiệm lãnh đạo hoạt động của các sở, phòng, ban định kỳ mỗi tháng 1 lần phải báo cáo
hoạt động của các ngành mình, lĩnh vực mình phụ trách trước Ủy ban nhân dân và cơ
quan quản lý chuyên môn cấp trên, trong trường hợp cần thiết phải báo cáo trước Hội
đồng nhân dân cùng cấp.
Số lượng các sở, phòng, ban trực thuộc phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ công tác
trong mỗi giai đoạn cũng như nhận thức của cơ quan có thẩm quyền. Hiện nay các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
khoảng từ 20 đến 26 sở, ban, ngành và các cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân; ngoài
ra, cấp tỉnh còn có một số đầu mối nữa không thuộc Ủy ban nhân dân mà trực thuộc cơ
quan quản lý cấp trên. Như Sở công an, Bộ Chỉ huy quân sự, Tổng cục thống kê, ngân
hàng, bảo hiểm sở hội… Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài các cơ
quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân, còn có một số cơ quan chuyên môn 15
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
mang tính chất thành thị như: Sở nhà đất, văn phòng kiến trúc sư trưởng… Các cơ
quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh) thường có cơ cấu khoảng 10 đến 12 phòng, ban. Ủy ban nhân dân xã (phường, thị
trấn) thường có cơ cấu khoảng 5 ban.
Hiện nay, với xu thế đề cao trách nhiệm cá nhân Chủ tịch Ủy ban nhân dân và sự
phân công chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực công tác của các thành viên Ủy ban
nhân dân, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII: Ủy ban nhân dân cần
được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt số Ủy viên là Thủ trưởng các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân; xác định làm rõ thẩm quyền hành chính cụ thể
cho từng thành viên thuộc Ủy ban nhân dân; điều chính, sắp xếp lại các cơ quan
chuyên môn của Ủy ban nhân dân, tương ứng với việc sắp xếp điều chỉnh lại các bộ,
ngành ở Trung ương theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
3. Hoạt động của Ủy ban Nhân dân
Hoạt động của ủy ban nhân dân được thể hiện thông qua hoạt động của phiên họp
của ủy ban nhân dân, hoạt động của chủ tịch ủy ban nhân dân và hoạt động của các
thành viên khác của ủy ban nhân dân. III.1.
Hoạt động thông qua các phiên họp của ủy ban nhân dân
Đây là hình thức hoạt động quan trọng nhất của ủy ban nhân dân.Bởi thông qua
hoạt động của các phiên họp, ủy ban nhân dân đã thực hiện được phần lớn nhiệm vụ,
quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình.
Ủy ban nhân dân họp thường lệ mỗi tháng một lần do chủ tịch ủy ban nhân dân
triệu tập và chủ tọa.Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, ủy ban nhân dân cũng có thể
họp bất thường theo yêu cầu của chủ tịch ủy ban nhân dân hoặc có ít nhất 1/3 tổng số
thành viên của ủy ban nhân dân. Những trường hợp bất thường này thường xảy ra khi
có những việc bất thường, quan trọng tại địa phương như phòng chống thiên tai, dịch bệnh…
Hoạt động của ủy ban nhân dân thể hiện tính dân chủ. Điều đó được thực hiện
trong thành phần phiên họp, bao gồm thành viên của ủy ban nhân dân và các đại biểu
được mời tham dự. Các đại biểu ở đây bao gồm chủ tịch ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (được mời thường kì) và khi bàn các vấn đề lên quan thì có thể mời thêm người 16
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
đứng đầu hoặc phụ trách đoàn thể của nhân dân cùng cấp; trưởng ban hoặc phó ban
của các ban của hội đồng nhân dân; thủ trưởng của các cơ quan chuyên môn của hội
đồng nhân dân nhưng không phải là thành viên của ủy ban nhân dân.Các đại biểu này
có thể phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết. Quy định này nhằm giúp
phiên họp diễn ra thật sự dân chủ, công khai, đồng thời thông qua đây giúp ủy ban
nhân dân nắm vững thực tế để từ đó có các quyết định chỉ thị đúng đắn.
Nội dung của phiên họp, ủy ban nhân dân thảo luận và quyết định các vấn đề
trong phạm vi quyền hạn nhiệm vụ của mình như:
- Chương trình hoạt động của ủy ban nhân dân trong nhiệm kì và hằng năm.
- Thông qua các dự án về kế hoạch, ngân sách quỹ dự trữ của địa phương để trình
lên hội đồng nhân dân cùng cấp và ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp (hoặc chính phủ
đối với ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố hoặc trực thuộc trung ương).
- Kiểm điểm việc thực hiện các quy định của ủy ban nhân dân cùng cấp cũng như
các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên.
- Thông qua các đề án thành lập mới, sát lập, giải thể các cơ quan chuyên môn
thuộc ủy ban nhân dân và việc phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính địa phương.
- Điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân.
Nguyên tắc của kì họp: tất cả các vấn đề điều được thảo luận tập thể và được
quyết định theo đa số. Như vậy những quyết định này thường vững vàng hơn vì có ý
kiến của nhiều người, từ đó giúp việc thực hiện trên thực tế đạt hiệu quả cao hơn, tránh
được trình trạng ban hành các quyết định xa rời thực tế, khó thực hiện. Các quyết định
của ủy ban nhân dân được thực hiên dưới hình thức văn bản đó là chỉ thị hoặc quyết định.
Qua những phân tích ở trên, ta có thể thấy hoạt động thông qua kì họp là hình
thức hoạt động quan trọng nhất của ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân được họp
thường kì mỗi tháng một nên nhanh chóng nắm bắt được tình hình thực tế, từ đó có thể
đưa ra được những quyết định kịp thời, đáp ứng được sự biến động thường xuyên của cuộc sống. III.2.
Hoạt động của chủ tịch ủy ban nhân dân 17
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
Hoạt động của ủy ban nhân dân thông qua hoạt động của chủ tịch của ủy ban
nhân dân là điểm mới được quy định tại điều 124 hiến pháp 1992.Đây là hình thức
hoạt động thường xuyên và có tác dụng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của ủy ban nhân dân.
Với vị trí là người lãnh đạo và điều hành công tác của ủy ban nhân dân, chủ tịch
của ủy ban nhân dân có quyền hạn và nhiêm vụ sau:
- Có quyền triệu tập và chủ trì phiên họp của ủy ban nhân dân.
- Lãnh đạo công tác của ủy ban nhân dân, thành viên của ủy ban nhân dân và các
cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân.
- Tổ chức triển khai và kiểm tra việc thực hiện hiến pháp pháp luật, các văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của hội đồng nhân dân và quyết định của ủy ban nhân dân.
- Đôn đốc kiểm tra công tác của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân cấp mình.
- Áp dụng biện pháp để cải tiến lề lối làm việc của ủy ban nhân dân và điều hành
quản lý có hiệu quả. Ngăn ngừa và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu,
hách dịch, tham nhũng, lãng phí…
- Tổ chức việc tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Phê chuẩn kết quả bầu thành viên ủy ban nhân dân của cấp dưới trực tiếp.
- Xem xét, bãi bỏ các văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn cấp dưới
mình và văn bản của ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, đình chỉ văn bản trái pháp
luật của hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ.
Các quy định trên nhằm đề cao vị trí, vai trò của chủ tịch ủy ban nhân dân trong
hoạt động quản lí cũng như đảm bảo tính thông nhất của quyền lực nhà nước.
Chủ tịch ủy ban nhân dân có quyền hạn lớn và đảm nhiệm những nhiệm vụ quan
trọng trong bộ máy hành chính.Do vậy cần phải người có năng lực thực sự và phẩm
chất tốt, phải thật sự gần dân, thân dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiếm nguyện vọng của
nhân dân, có như vậy mới có sự tín nhiệm của nhân dân, lãnh đạo công việc của ủy
ban được tốt, có những quyết định sát với thực tế,đáp ứng những nguyện vọng của
nhân dân.Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn không ít chủ tịch ủy ban nhân dân hách dịch, 18
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
tham nhũng, lãng phí, khiến nhân dân địa phương bức xúc.Ví dụ như vụ chủ tịch ủy
ban nhân dân xã Long Xuyên (Bình Giang,Hải Dương) cùng với tổ thợ điện đã móc
ngoặc với nhau nâng giá điện lên gấp đôi.Vụ việc bị phát giác, nhân dân vô cùng phẫn
nộ, đã xảy ra tình trạng kiện cáo vượt cấp, gây mất ổn định xã hội. Tuy nhiên các cán
bộ liên quan chỉ bị khiển trách.Và ngay trong khóa tiếp theo, chủ tịch mắc sai phạm
kia vẫn tiếp tục đắc cử (báo điện tử Vietnamnet). Như vậy đã đặt ra một câu hỏi rất lớn
trong bộ máy chính quyền:”Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân với ủy ban
nhân dân đạt hiệu quả đến đâu?” và “Làm gì để hạn chế được tính hình thức trong việc
bầu các chức danh trong bộ máy chính quyền?”. Đây là vấn đề để các nhà làm luật
đang rất quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên theo chúng tôi, hình thức bầu chủ tịch ủy ban
nhân dân xã đang được thí điểm là một giải pháp tốt để giải quyết những vấn đề trên. III.3.
Hoạt động của các thành viên khác thuộc Ủy ban nhân dân
Đây là hình thức hoạt động thường xuyên và có tác dụng rất lớn đến hiệu qủa
hoạt động của ủy ban nhân dân.
Hoạt động của phó chủ tịch:
Phó chủ tịch là người giúp việc cho chủ tịch ủy ban nhân dân,được chủ tịch ủy
ban nhân dân phân công phụ tách thực hiện công việc nhất định hoặc mảng công việc
nhất định sau: kinh tế,tài chính,thương mại,văn hóa,giáo dục,y tế…Chịu trách nhiệm
cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình trước chủ tịch ủy ban nhân
dân.Thông qua hoạt động cảu các phó chủ tịch giúp chủ tịch ủy ban nhân dân nắm
được toàn bộ hoạt động của ủy ban nhân dân.
Hoạt động của ủy viên ủy ban nhân dân:
Ủy viên được chủ tịch ủy ban nhân dân phân công quản lí những ngành,lĩnh vực
chuyên môn nhất định như:công an,quân sự,tổ chức,thanh tra,kế hoạch tài chính,văn
phòng ủy ban nhân dân…chịu trách nhiệm cá nhân về ngành hoặc lĩnh vực được phân công.
Thủ trưởng của các cơ quan chuyên môn:
Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp ủy
ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lí nhà nước ở địa phương và thực
hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo sự ủy quyền của ủy ban nhân dân cùng cấp và 19
Tiểu luận Pháp luật đại cương – Nhóm 14
theo quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo sự thống nhất trong quản lí của ngành
hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở.
Cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lí về tổ chức,
biên chế, công tác của ủy ban nhân dân cùng cấp,đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên.Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc
ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước ủy ban nhân dân cùng
cấp, cơ quan chuyên môn cấp trên và báo cáo công tác trước hội động nhân dân cùng cấp khi được yêu cầu.
Như vậy, hoạt động của các thành viên khác cũng có vai trò hết sức quan trọng.
Cần có những người có chuyên môn cao,phẩm chất đạo đức tốt, gần dân, thân dân.
Tuy nhiên, một thực trạng phổ biến hiện nay là người cán bộ chưa thể sống bằng lương
tâm của mình,vì vậy họ phải bươn chải bằng những hình thức hợp pháp và không hợp
pháp (mà ta còn gọi là “lậu”). Những hình thức không hợp pháp chính là sự gây nhiễu
loạn cho người dân.Chính vì vậy cần để ý đến việc cải thiện mức lương,tuyên
truyền,nâng cao phẩm chất đạo đức của các cán bộ này,như vậy mới có thể xây
dựng ,một đội ngũ cán bộ trong sạch,xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh. 20