Giáo trình Tổng quan du lịch toàn tập giáo trình | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Giáo trình Tổng quan du lịch toàn tập giáo trình | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng. Tài liệu gồm 198 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Giao thoa văn hóa
Trường: Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh, ThS. Nguyễn Ngọc Nhật Minh (Biên soạn) TỔNG QUAN DU LỊCH
Giáo trình dùng cho sinh viên
Chuyên ngành: tiếng Pháp Du lịch, tiếng Nga Du lịch và tiếng Anh Du lịch
Đà Nẵng, tháng 8 năm 2020 1 Lời nói đầu
Giáo trình “Tổng quan du lịch” được thiết kế 7 chương giảng dạy
bao gồm lý thuyết, thảo luận và thực hành trong 30 tiết (2 tín chỉ), cụ thể như sau: - Mở đầu 4 tiết
- Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch 4 tiết
- Các lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm dịch vụ 4 tiết ngành du lịch - Các loại hình du lịch 5 tiết
- Tài nguyên du lịch và điểm đến du lịch 5 tiết
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động du lịch 4 tiết
- Giải pháp bảo tồn và phát triển di tích lịch sử văn 4 tiết hóa phục vụ du lịch
Mỗi bài, ngoài phần lý thuyết, còn có phần bài tập nhằm củng cố kiến thức đã học.
Đây là Giáo trình được biên soạn giảng dạy cho sinh viên khoa tiếng
Pháp, khoa tiếng Nga, khoa tiếng Anh CN chuyên ngành du lịch, … bậc đại
học các khóa hệ chính quy tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà
Nẵng có tham khảo các công trình: Di tích và thắng cảnh ở Việt Nam, Tác
giả Nguyễn Ngọc Chinh và CS, Nxb Đà Nẵng, 2019; Tổng quan du lịch,
Tác giả Võ Văn Thành, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, 2015; Giáo trình Tổng
quan du lịch, Tác giả Ngô Thị Diệu Anh, Nguyễn Thị Oanh Kiều, Nxb Đà
Nẵng, 2014 và một số tài liệu đã công bố của các tác giả khác trong nước.
Nhân đây tác giả xin có lời cám ơn.
Trong quá trình biên soạn chắc hẳn còn những thiếu sót và sẽ được
hiệu chỉnh trong những lần tiếp theo. Tác giả
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh (CB),
ThS. Nguyễn Ngọc Nhật Minh 2 MỤC LỤC Lời nói đầu 2 Mục lục 3
Danh mục các từ viết tắt 4
Danh mục các bảng, biểu, hình 5 Chương 1: Mở đầu
1.1 Các khái niệm cơ bản về du lịch 6 1.1.1 Du lịch
1.1.2 Khách du lịch
1.1.3 Tài nguyên du lịch
1.1.4 Điểm và khu du lịch
1.1.5 Tuyến du lịch
1.1.6 Xúc tiến du lịch
1.1.7 Du lịch bền vững
1.2 Lịch sử hình thành, phát triển du lịch thế giới và Việt Nam
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển du lịch thế giới [4]
1.2.2 Lịch sử hình thành và phát triển du lịch Việt Nam [7], [5]
1.3 Vai trò của du lịch đối với nền kinh tế xã hội
1.3.1 Đối với kinh tế
1.3.2 Đối với văn hóa
1.3.3 Đối với xã hội
1.3.4 Đối với môi trường
1.3.5 Đối với chính trị
Chương 2: Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch 2.1 Điều kiện chung 34
2.1.1 An ninh chính trị, an toàn xã hội 2.1.2 Kinh tế 2.1.3 Văn hóa
2.1.4 Đường lối phát triển du lịch
2.2 Điều kiện riêng
2.2.1 Tài nguyên du lịch
2.2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn
2.2.4. Nhân lực du lịch
2.2.5. Tư liệu lao động
2.2.6. Cơ sở hạ tầng
2.2.7. Các sự kiện đặc biệt
Chương 3: Các tổ chức du lịch quốc tế, Việt Nam và các lĩnh vực
kinh doanh, sản phẩm dịch vụ ngành du lịch 55 1.
Một số tổ chức du lịch quốc tế và Việt Nam 3
3.1.1. Một số tổ chức du lịch thế giới
3.1.1.1. Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) [8]
3.1.1.2. Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới (WTTC)
3.1.1.3. Hiệp hội Khách sạn quốc tế (IHA)
3.1.1.4. Hiệp hội Vận chuyển Hàng không quốc tế (IATA)
3.1.1.5. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá liên hợp quốc (UNESCO) [4]
3.1.2. Một số tổ chức du lịch trong khu vực
3.1.2.1. Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA)
3.1.2.2. Hiệp hội Du lịch ASEAN (ASEANTA)
3.1.2.3. Trung tâm Thông tin Du lịch ASEAN (ATIC)
3.1.2.4. Hiệp hội Nhà hàng và Khách sạn ASEAN (AHRA)
3.1.3. Các tổ chức quản lý du lịch của Việt Nam
3.1.3.1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
3.1.3.2. Tổng cục Du lịch
3.1.3.3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
3.1.3.4. Hiệp hội Du lịch
3.2. Các lĩnh vực kinh doanh du lịch
3.2.1 Dịch vụ lưu trú 3.2.1.1 Khách sạn 3.2.1.2 Motel
3.2.1.3 Làng du lịch
3.2.1.4 Bungalow [2], [3]
3.2.1.5 Nhà nghỉ, nhà trọ 3.2.1.6 Biệt thự
3.2.1.7 Căn hộ cho thuê 3.2.1.8 Cắm trại
3.2.2. Dịch vụ ăn uống/ẩm thực
3.2.3. Các điểm tham quan du lịch
3.2.4. Các hoạt động vui chơi giải trí
3.2.5. Kinh doanh dịch vụ lữ hành và các hoạt động trung gian
3.2.5.1. Đại lý du lịch
3.2.5.2. Công ty lữ hành
3.3. Sản phẩm, dịch vụ du lịch 3.3.1. Khái niệm 3.3.2. Phân loại 3.3.3. Đặc điểm
3.3.3.1. Đối với sản phẩm du lịch
3.3.3.2. Đối với dịch vụ du lịch 4
Chương 4: Các loại hình du lịch
4.1. Căn cứ theo môi trường tài nguyên 84 4.1.1. Du lịch văn hóa 4.1.2. Du lịch sinh thái
4.2. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ
4.2.1. Du lịch quốc tế [1], [2] 4.2.2. Du lịch nội địa
4.3. Căn cứ theo vị trí địa lí 4.3.1. Du lịch nông thôn 4.3.2. Du lịch thành thị 4.3.3. Du lịch biển 4.3.4. Du lịch miền núi
4.4. Căn cứ theo hình thức tổ chức 4.4.1. Du lịch cá nhân 4.4.2. Du lịch theo đoàn 4.5.
Căn cứ theo phương thức hợp đồng 4.5.1. Du lịch trọn gói
4.5.2. Du lịch từng phần 4.6.
Căn cứ theo phương tiện vận chuyển
4.6.1. Du lịch đường bộ
4.6.2. Du lịch đường hàng không
4.6.3. Du lịch đường thủy 4.7.
Căn cứ vào mục đích chuyến đi
4.7.1. Theo mục đích chung
4.7.2. Theo mục đích riêng [4] 4.7.3. Theo trách nhiệm
Chương 5: Tài nguyên du lịch và điểm đến du lịch
5.1. Tài nguyên du lịch [4] 98
5.1.1. Tài nguyên du lịch thiên nhiên [2], [3] 5.1.1.1. Địa hình 5.1.1.2. Khí hậu 5.1.1.3. Tài nguyên nước
5.1.1.4. Tài nguyên động thực vật
5.1.2. Tài nguyên du lịch nhân tạo
5.1.3. Di sản văn hóa thế giới và di tích lịch sử - văn hóa
5.1.3.1. Di sản văn hóa thế giới
5.1.3.2. Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh 5.1.4. Lễ hội
5.1.5. Đối tượng du lịch gắn với dân tộc học
5.1.6. Đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác 5
5.2. Điểm đến du lịch 5.2.1. Khái niệm 5.2.2. Phân loại
5.2.2.1. Điểm đến cuối cùng
5.2.2.2. Điểm đến trung gian
5.2.3. Các yếu tố cấu thành của điểm đến du lịch
5.2.4. Điểm hấp dẫn du lịch
5.2.5. Giao thông đi lại (khả năng tiếp cận điểm đến) 5.2.6. Nơi ăn nghỉ
5.2.7. Các tiện nghi và dịch vụ bổ trợ
5.2.8. Các hoạt động bổ sung
5.2.9. Chu kỳ phát triển của điểm đến du lịch
5.2.9.1. Quan niệm về chu kỳ phát triển của điểm đến du lịch
5.2.9.2. Các giai đoạn trong chu kỳ phát triển của điểm đến du lịch
5.2.10. Sức chứa của điểm đến du lịch
5.2.11. Tính thời vụ trong du lịch và sự ảnh hƣởng của tính thời vụ
5.2.11.1. Tính thời vụ du lịch
5.2.11.2. Các mùa trong du lịch [6]
5.2.12. Đặc điểm của thời vụ du lịch
5.2.13. Những tác động của thời vụ du lịch
5.2.13.1. Các tác động bất lợi đến cư dân sở tại
5.2.13.2. Các tác động bất lợi đến chính quyền địa phương
5.2.13.3. Các tác động bất lợi đến khách du lịch
5.2.13.4. Các tác động bất lợi đến nhà kinh doanh du lịch
5.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời vụ du lịch 5.3.1.
Các yếu tố ảnh hưởng 5.3.1.1. Tự nhiên
5.3.1.2. Yếu tố kinh tế - xã hội - tâm lý 5.3.2.
Phương hướng giảm những tác động tiêu cực của tính thời vụ
5.3.2.1. Kéo dài mùa vụ du lịch của một loại hình du lịch
5.3.2.2. Đa dạng hóa các loại hình du lịch
5.3.2.3. Các hoạt động hỗ trợ bán
Chương 6: Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động du lịch
6.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch 141 6.1.1. Khái niệm 6.1.2. Đặc điểm
6.1.2.1. Phụ thuộc lớn vào tài nguyên du lịch
6.1.2.2. Có tính đồng bộ trong xây dựng và sử dụng
6.1.2.3. Chi phí cho cơ sở vật chất kỹ thuật chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí kinh doanh 6
6.1.2.4. Được sử dụng trong thời gian tương đối dài
6.1.2.5. Được sử dụng theo thời vụ
6.1.3. Phân loại cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch
6.1.3.1. Căn cứ theo hình thức sở hữu
6.1.3.2. Căn cứ theo qui mô
6.1.3.3. Căn cứ theo tính chất hoạt động
6.2. Lao động trong du lịch
6.2.1. Đặc điểm của lao động trong du lịch
6.2.1.1. Chủ yếu là lao động dịch vụ
6.2.1.2. Có tính chuyên môn hóa cao
6.2.1.3. Có tính thời điểm, thời vụ
6.2.1.4. Có tính chất phức tạp
6.2.1.5. Tỷ lệ lao động trẻ cao
6.2.2. Yêu cầu về lao động trong du lịch
6.2.2.1. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
6.2.2.2. Trình độ ngoại ngữ
6.2.2.3. Một số yêu cầu khác
Chương 7: Giải pháp bảo tồn và phát triển di tích lịch sử, văn hóa phục vụ du lịch 156
7.1. Giải pháp quản lý
7.1.1. Nhận thức, tuyên truyền Luật Di sản Văn hoá
7.1.2. Hoạch định chính sách, tổ chức, quy hoạch và quản lý phát triển
7.1.3. Phát triển và quản lý nguồn nhân lực
7.1.4. Tăng cường quản lý nhà nước và đề ra đường lối chính sách phát triển [2]
7.2. Giải pháp chuyên môn
7.2.1. Thu hút, khuyến khích đầu tư phát triển và tăng cường liên kết
các hoạt động giữa doanh nghiệp du lịch trên địa bàn với địa phương
7.2.2. Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá
7.2.3. Gìn giữ tài nguyên, môi trường
7.2.4. Nghiên cứu thị trường và phát triển các hoạt động dịch vụ
7.2.5. Xã hội hóa bảo tồn và phát triển các di tích lịch sử - văn hóa
7.2.6. Xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển
7.2.7. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
7.2.8. Xây dựng văn hóa giao tiếp, tạo thương hiệu 7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt
Từ viết đầy đủ ASEM
The Asia-Europe Meeting (Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu) ASIAN
Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) CH Cộng hòa CP Chính phủ CS Cộng sự CSVCKTDL
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch DL Du lịch ETC
European Travel Commission (Hiệp hội Du lịch Châu Âu) EU
European Union (Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu) FDI
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
HĐBA LHQ Hội đồng bảo an Liên hợp quốc HĐBT Hội đồng Bộ trưởng HDV Hướng dẫn viên IATA
International Air Transport Assoeiation (Hiệp hội vận
chuyển hàng không quốc tế) IHA
International hotel Association (Hiệp hội khách sạn quốc tế) IUOTO
International Union of Official Travel Organisation OPEC
Organization of Petroleum Exporting Countries (Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu mỏ) PATA
Pacific Asia Travel Association (Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương) SARS
Severe acute respiratory syndrome (Hội chứng hô hấp cấp tính nặng) Tp Thành phố UBND Ủy ban nhân dân UNDP
United Nations Development Programme (Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc) WTO
World Tourism Organisation (Tổ chức du lịch thế giới) WTTC
World Travel and Tourism Council (Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới) 8
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH Số hiệu Nội dung Trang Bảng 1.1
Một số điểm khác nhau giữa điểm du lịch và khu du 10 lịch Bảng 7.1
Số lượng khách du lịch và thu nhập từ dịch vụ du lịch 164
Biểu đồ 5.1 Quy luật thời vụ du lịch tại Tp. Đà Nẵng 124
Biểu đồ 5.2 Quy luật thời vụ du lịch tại Ninh Bình 128 Hình 3.1
Lo go Tổ chức Du lịch thế giới 55 Hình 3.2
Lo go Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa Liên 59 hợp quốc Hình 3.3
Lo go Hiệp hội Du lịch Asean 61 Hình 3.4 Lo go Du lịch Việt Nam 62 Bảng 5.1
Danh sách các di sản thế giới tại Việt Nam 106 9 Chương 1 Mở đầu
1.1. Các khái niệm cơ bản về du lịch
1.1.1. Du lịch
Du lịch (Tourisme, Tourism, Туризм) được hình thành và phát triển
theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa. Ngày nay khi
khoa học kỹ thuật, giao thông, kinh tế phát triển, đời sống con người được
nâng lên thì nhu cầu phát triển du lịch càng lớn. Tùy theo điều kiện kinh tế
mỗi nước, con người đang nghĩ đến việc dành một phần thu nhập của mình
hàng năm cho du lịch; trong số những nhu cầu của con người, nhu cầu về du
lịch chưa bao giờ được thỏa mãn, càng đi du lịch cuộc sống của con người càng được nâng cao.
Du lịch càng phát triển thì khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch,
mức độ chi tiêu của con người tạo nên thị trường du lịch rộng lớn, nó không
còn ở phạm vi một ngành kinh tế hay ở một nước. Ngày nay những máy bay
siêu âm loại lớn với đầy đủ tiện nghi, những tàu thủy có đủ điều kiện cho
con người sống gần với biển cả, những đoàn xe lửa liên quốc gia, những xe
ca chở khách kiểu mới đã tạo cho con người sự thoải mái trong việc di
chuyển trên các tuyến đường du lịch. Bên cạnh có những trung tâm du lịch
được hình thành là những hệ thống khách sạn đầy đủ tiện nghi, những cửa
hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những cửa hàng lưu niệm với
chất lượng cao, những sản phẩm mang tính đặc sản của một vùng, một địa
phương theo thị hiếu quốc tế. Tuy vậy, người đi du lịch không chỉ thỏa mãn
những nhu cầu về vật chất mà còn quan tâm đến cả nhu cầu về văn hóa, tinh
thần [2]. Do đó, ở nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cải tạo các danh lam
thắng cảnh, trùng tu và nâng cao tính thẩm mỹ của những công trình văn
hóa: xây dựng các di tích lịch sử… để đáp ứng các nhu cầu của khách du lịch.
Rõ ràng du lịch đã trở thành một ngành kinh doanh tổng hợp. Hoạt
động kinh doanh du lịch phát triển kéo theo những hoạt động sản xuất kinh
doanh khác phát triển theo, hàng hóa sản xuất ra không chỉ để phục vụ cho
các dịch vụ du lịch mà còn bán cho khách và Trung tâm du lịch đã trở thành
những Trung tâm ngoại thương, xuất khẩu tại chỗ. Hoạt động kinh doanh Du 10
lịch đã góp phần vào mở mang các ngành nghề sản xuất, giải quyết việc làm
cho rất nhiều lao động. Chỉ tính riêng lưu lượng lao động trong ngành Du
lịch, nhiều nơi đã chiếm 50% dân số, nếu tính cả lao động dịch vụ thương
mại ở các Trung tâm du lịch thì tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều.
Một yêu cầu khách quan khác là hoạt động Du lịch đã làm cho đời
sống văn hóa của nhân dân ở các khu du lịch được nâng cao. Khách du lịch
và cả người địa phương đều mang trong lòng ý niệm hành hương, một cảm xúc tốt đẹp.
Tóm lại, nếu nói Du lịch là sự di chuyển của một cá nhân hay một tập
thể từ vùng này đến vùng khác, từ nước này đến nước khác để thỏa mãn
những nhu cầu về vật chất và tinh thần nhằm tạo cho cuộc sống tươi đẹp
thêm thì phục vụ du lịch lại là một guồng máy sản xuất và cung ứng các dịch
vụ từ công tác tuyên truyền quảng cáo, vận chuyển, hướng dẫn đến việc
phục vụ ăn, ngủ, vui chơi giải trí, hoạt động xã hội… đòi hỏi được tiến hành
một cách đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và yêu cầu ngày một được cải tiến,
nâng cao phù hợp với thị hiếu của khách du lịch.
Đối với những người đi du lịch, điều mà họ quan tâm đầu tiên là cảm
tưởng mới mà họ nhận được ở nơi họ đến du lịch, có thể nói ngành Du lịch
là ngành xuất khẩu các cảm tưởng. Do vậy các dịch vụ du lịch phải làm sao
tạo được cảm tưởng mới cho khách, gợi cho họ những cảm tưởng đẹp. Mỗi
đất nước, mỗi dân tộc có những cái đẹp đặc trưng khác nhau, ở nước này dân
tộc này muốn tìm hiểu cái đẹp ở nước khác, dân tộc khác. Vì vậy trong các
dịch vụ du lịch phải mang sắc thái của dân tộc, trong đó tính dân tộc độc đáo
tiêu biểu phải được chọn lọc, nâng cao tạo được cảm xúc tốt đẹp cho khách.
Đây là một yêu cầu lớn của những người làm công tác du lịch. Chính vì vậy
mà Du lịch có thể xem như một dạng nghỉ ngơi tích cực của con người, đồng
thời nó là một thành phần không thể thiếu được trong việc sử dụng thời gian
nhàn rỗi của con người trong thời đại hiện nay [3].
Du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường
hiểu là một cuộc hành trình bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ những
năm 30 của thế kỷ trước có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt
khác nhau của hiện tượng Du lịch để đưa ra một định nghĩa chính xác.
Nhưng nhìn chung việc định nghĩa Du lịch gặp rất nhiều khó khăn vì:
1) Du lịch có 2 nghĩa. Một mặt khi nói đến Du lịch người ta hiểu 11
rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác
(cách xa nơi ở thường xuyên của họ) để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các
nhu câu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ…
Mặt khác Du lịch đ ược hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm
giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người,
thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn
uống, phục vụ hướng dẫn tham quan…. Tất cả những hoạt động nêu trên tạo
nên ngành kinh doanh Du lịch.
2) Năm 1963 Hội nghị do Liên hiệp quốc tổ chức tại Rome (Ý) để
thảo luận về Du lịch đã đi đến kết luận về phạm trù khách du lịch quốc tế
như sau: Khách du lịch là người công dân của một nước sang thăm và lưu trú
tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có
nơi ở thường xuyên. Nhưng cũng quy định không công nhận những người ở
nước ngoài quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp
đồng lao động, hoặc tìm nơi cư trú của mình cũng như những người ở vùng
biên giới, sống ở nước này sang làm việc ở nước khác. Phạm trù “khách Du
lịch” phải xuất phát từ những đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng
nước. Điều này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cơ sở
lý luận cũng như vận dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh của ngành.
Ngày nay lên cạnh việc đi du lịch ở nước ngoài, con người cũng đặt
ra một nhu cầu du lịch trong nước không kém phần phong phú và đa dạng.
Như vậy khái niệm chung về Du lịch cần được nghiên cứu xuất phát từ đối
tượng hoạt động của du lịch, đó là người du khách.
Tóm tại, Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm
liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu,
khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác. [1, điều 3]
1.1.2. Khách du lịch
Đây là khái niệm có nhiều quan niệm đưa ra. Khách du lịch là đối
tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn du lịch của hướng dẫn
viên, là đối tượng của các đơn vị phục vụ và kinh doanh du lich.
Nói đến du lịch, người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú
tạm thời của con người đến nơi khác nhằm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu 12
về nghỉ dưỡng, chữa bệnh, văn hoá, nghệ thuật, thể thao. v.v… Đối với hoạt
động du lịch, con người với vai trò là một du khách có nhu cầu du lịch, rời
khỏi nơi cư trú để thực hiện tour du lịch. Điều này có nghĩa để trở thành một
khách du lịch, con người phải hội tụ các điều kiện sau: - Có thời gian rỗi; - Có khả năng thanh toán; -
Có nhu cầu cần được thoả mãn.
Nhà kinh tế học người Áo, Lozep Stander định nghĩa: Khách du lịch
là hành khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để
thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế.
Kripendort đưa ra cách nhìn nhận chủ quan phiến diện của mình về
du khách như sau: là nhũng kẻ nực cười, ngốc nghếch ít học, những nhà giàu
có, quen thói bóc lột và vô cảm với môi trường.
Năm 1963, Hội nghị do liên hiệp quốc tổ chức tại Rôma (Ý) để thảo
luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch là công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác
trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường
xuyên, nhưng cũng không công nhận những người nước ngoài ở quá một
năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng, hoặc tìm nơi
lưu trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống nước này
sang làm việc nước khác.
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc
kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để nhận thu nhập ở nơi đến. [1, điều 3]
1.1.3. Tài nguyên du lịch
Theo luật Du lịch Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên
nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản
phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Tài
nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa. [2, điều 3]
1.1.4. Điểm và khu du lịch
Đối với quốc gia, vùng, miền và các nhà làm du lịch thì điểm và khu
du lịch được xem là nguồn lực, là một trong những nhân tố quan trọng góp 13
phần cạnh tranh, khai thác nguồn khách và đem lại nguồn thu cho mình. Tuy
nhiên giữa điểm du lịch và khu du lịch có những điểm khác biệt cần phải
nhận thức giúp các nhà quản lý và các doanh nghiệp du lịch có chiến lược
xây dựng, khai thác, phát triển, marketing phù hợp. Vì vậy chúng ta có thể
phân biệt điểm du lịch và khu du lịch dựa trên các cơ sở sau: Giống nhau: -
Gắn liền với nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn; -
Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch; -
Tạo điều kiện công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương; -
Đem lại nguồn thu và quảng bá cho cho đất nước và cộng đồng địa phương. Khác nhau: [1]
Bảng 1.1. Một số điểm khác nhau giữa điểm du lịch và khu du lịch Cơ sở TT Điểm du lịch phân biệt Khu du lịch
Khu du lịch là nơi có tài nguyên
Điểm du lịch là nơi có tài du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài
nguyên du lịch tự nhiên, được
1 Khái niệm nguyên du lịch hấp dẫn,
phục vụ nhu cầu tham quy hoạch, đầu tư phát triển
quan của khách du lịch. nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách du lịch, đem lại hiệu
quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
2 Phân loạt - Điểm du lịch quốc gia - Khu du lịch quốc gia - Điểm du lịch địa
- Khu du lịch địa phương phương
3 Sự đáp ứng Đáp ứng nhu cầu tham Đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhu cầu
quan của khách du lịch là khách du lịch của khách chủ yếu du lịch 14
4 Quy mô và - Đối với điểm du lịch - Đối với khu du lịch quốc gia:
sức chứa quốc gia: Bảo đảm phục Có diện tích tối thiểu một nghìn
du khách vụ ít nhất một trăm nghìn héc ta; bảo đảm phục vụ ít nhất
tối thiểu lượt khách tham quan một một triệu lượt khách du lịch một năm. năm.
- Đối với điểm du lịch - Đối với khu du lịch địa
địa phương: Bảo đảm phương: Có diện tích tối thiểu
phục vụ ít nhất mười hai trăm héc ta; bảo đảm phục
nghìn lượt khách tham vụ ít nhất một trăm nghìn lượt quan một năm. khách du lịch một năm.
Kinh doanh tại điểm và khu du lịch bao gồm nhiều nhiều lĩnh vực
khác nhau. điều này xuất phát từ nhu cầu và đỏi hỏi chính đáng từ khách du
lịch. Các sản phẩm, dịch vụ tại điểm và khu du lịch càng phong phú, độc
đáo, chất lượng, giá cả hợp lý thì càng chiếm được cảm tình, tiêu dùng và
quay lại của du khách. điều này đỏi hỏi những nhà quản lý, người kinh
doanh tại điểm, khu du lịch cần có chính sách về sản phẩm cũng như giá hợp
lý để “kích thích” khả năng tiêu dùng của khách du lịch.
Nhìn chung các lĩnh vực kinh doanh tại điểm và khu du lịch gắn liền
với việc đầu tư, bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, xây dựng kết cấu
hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp, phát triển và bảo vệ tài nguyên
du lịch theo hướng bền vững.
1.1.5. Tuyến du lịch
Đây là khái niệm liên quan đến kinh doanh du lịch lữ hành. Từ
những điểm, khu du lịch có sẵn tại các vùng, địa phương, quốc gia khác
nhau khách du lịch hoặc thông qua các công ty lữ hành vạch ra cho mình
những tuyến du lịch nhăm thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, và hiểu biết
của mình. Có thể chia tuyến du lịch thành: -
Tuyến du lịch quốc tế; -
Tuyến du lịch nội địa; -
Tuyến du lịch ngắn ngày; - Tuyến du lịch dài ngày; - Tuyến du lịch văn hoá; 15 -
Tuyến du lịch danh lam thắng cảnh. ....
Tuy có sự phân chia nhưng nhìn chung trong các tuyến du lịch đều có
sự thống nhất và xen kẽ giữa các yếu tố. Ví dụ khi tham quan tuyến du lịch:
Vũng Tàu – TP Hồ Chí Minh – Cần Thơ (3 ngày 2 đêm) là một tuyến du lịch
ngắn ngày, du khách vừa tham quan các di tích lịch sử văn hoá, vừa thưởng
ngoạn cảnh đẹp, vừa vui chơi giải trí...
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các
khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến
giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không.
1.1.6. Xúc tiến du lịch
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên
truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
1.1.7. Du lịch bền vững
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Du lịch bền vững là sự phát triển du
lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai. 1.2.
Lịch sử hình thành, phát triển du lịch thế giới và Việt Nam
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch thế giới [4]
Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, ngành du lịch
được hình thành sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Lịch sử du lịch có
nhiều bước thăng trầm, cả sự thành công lẫn thất bại. Nhìn chung, tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghiệp đều có ảnh hưởng tích cực đến du lịch.
Chiến tranh, thiên tai, đói kém… là những lí do cơ bản kìm hãm sự phát
triển của du lịch. Những hiểu biết về lịch sử hình thành và phát triển du lịch
trong quá khứ sẽ rất bổ ích cho người là du lịch hôm nay. Lịch sử sẽ cung
cấp nhiều bài học quý báu cho các hoạt động và chính sách du lịch hiện tại.
Về cơ bản, các nhà nghiên cứu về lịch sử du lịch cho rằng sự hình
thành và phát triển ngành du lịch từ khi xã hội loài người bước vào quá trình
phân công lao động, khi nghề thủ công được tách khỏi sản xuất nông nghiệp,
khi xã hội bắt đầu có sự phân công giai cấp. Khả năng tích lũy lương thực là
một yếu tố rất quan trọng cho việc tạo ra nhu cầu du lịch theo nghĩa sơ đẳng 16 nhất.
Thời cổ đại
Trong giai đoạn này có những phát minh quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến việc đi lại. Đó là phát minh ra thuyền buồm của người Ai Cập vào
khoảng thiên niên kỷ thứ tư trước công lịch. Cũng thời gian này súc vật được
thuần hóa không những là nguồn thức ăn dự trữ mà còn được sử dụng để
chuyên chở lương thực, vũ khí và chính con người. Phát minh ra bánh xe của
người Sumeri vào khoảng 3500 TCN là một sự kiện có ý nghĩa vô cúng to
lớn đối với việc đi lại của loài người.
Vào khoảng 3000 năm trước công nguyên, Ai cập là một điểm thu
hút khách du lịch trên thế giới. Họ đến để chiêm ngưỡng các kim tự tháp và
các kỳ quan khác của đất nước văn minh, thịnh vượng này. Ngoài các nhà
hoạt động chính trị, các thương gia, giới quý tộc thường xuyên phải đi lại
trong nước và ra nước ngoài, còn hầu hết những người có nhu cầu đi lại là
những người tín ngưỡng sùng bái tôn giáo. Trong những ngày lễ, hàng ngàn
người đã hành hương đến các nhà thờ, tu viện… để cầu nguyện và cúng bái.
Cuộc hành trình của họ kéo dài từ ngày này sang ngày khác, có khi tới hàng
tháng. Trong thời gian này, khi chưa có hoạt động kinh doanh ăn, nghỉ, thì
những người này thường phải ăn nghỉ nhờ những người quen. Dần dần dọc
theo những con đường dẫn đến các khu Thánh địa, các nhà trọ, quán ăn đã
được xây dựng để phục vụ khách bộ hành ăn nghỉ và bắt đầu hình thành hoạt
động kinh doanh trong du lịch tôn giáo.
Từ thế kỷ IV trước công nguyên, Hy lạp đã phát triển cường thịnh,
giai cấp chủ nô đã đi đến các vùng đất ở địa Trung hải để thoả mãn nhu cầu
tìm hiểu thế giới xung quanh và nhằm mục đích nghỉ dưỡng, chữa bệnh ở
một số nguồn chất khoáng. Phương tiện đi lại chủ yếu là cưỡi la, đi xe bò,
người giàu thì đi bằng xe ngựa, bằng kiệu. Du lịch công vụ cũng rất phát
triển trong thời kỳ Hy lạp cổ đại, các chính khách, thương gia thường xuyên
phải đi để thực thi các nhiệm vụ đặc biệt. Họ được cung cấp đầy đủ các dịch
vụ về ăn uống, nghỉ ngơi, thậm chí có cả người dẫn đường, bào vệ.
Năm 776 trước công nguyên, đại hội thể thao Olimpic đầu tiên tổ
chức ở Hy lạp thu hút nhiều người tham dự. Xung quanh những khu vực thi
đấu người ta xây dựng nhiều cơ sở để phục vụ ăn nghỉ, vui chơi cho các vận
động viên và khán giả. Và loại hình du lịch thể thao đã xuất hiện ở bán đảo 17 này.
Các quan lại giàu có người châu Á lại thích đi du lịch bằng kiệu hoa
trang trí lộng lẫy có cửa chớp hoặc rèm che bao quanh, giá nâng được đặt
trên vai của các phu khiêng kiệu. Bên cạnh đó là hàng đàn lạc đà đưa các du
khách đi theo dọc con đường tơ lụa của Trung Quốc, nối dài từ Bagdad tới
AdenSamarkand và Timbukfu. Kinh Coran đề nghị các chuyến đi nên bắt
đầu vào thứ 6, sau buổi cầu kinh trưa nhưng phần lớn các đoàn lữ hành đều
đi từ sáng sớm đến chiều tối để có thể đi được 25 dặm một ngày. Họ nghỉ
trưa ở các trạm và ngủ đêm trong các căn lều tự dựng bên đường hay các trạm nghỉ.
Trong số những chuyến đi biển đầu tiên, những chuyến đi của cư dân
vùng đông Nam Á đến các khu vực ở Châu đại dương thật đáng ngạc nhiên.
Bằng thuyền độc mộc nhỏ, dài chừng 3m – 4m, họ đã vượt hàng trăm km
đến tận các đảo Marquessas, Toumotu, Society… Thời Trung cổ
Sự suy tàn của các quốc gia cổ đại trong đó có đế quốc La Mã từ thế
kỷ thứ IV và từ khi đế quốc Tây La Mã diệt vong (476) đã làm cho hoạt
động du lịch bị ảnh hưởng sâu sắc. Nhiều kiệt tác kiến trúc, nghệ thuật, xã
hội, văn học bị vứt bỏ, hủy hoại. Phương tiện đi lại trên bộ duy nhất là xe
ngựa và các xe ngựa kéo. Cho tới tận thế kỷ thứ X, du lịch không còn an
toàn, tiện nghi và thoải mái như trước đó. Chiến tranh liên miên, biên giới
biến động làm cho việc đi lại trở nên khó khăn, đường xá trở thành các rãnh,
cống bẩn thỉu và đầy ngập bọn trộm cướp. Vì vậy những chuyến đi du lịch
cũng ít ỏi và khá mạo hiểm.
Thời kỳ này, đạo Thiên Chúa đã trở thành một lực lượng lớn mạnh ở
châu Âu. Nó hậu thuẫn mạnh mẽ cho các cuộc chiến tranh nên đã thay thế và
trở thành tư tưởng thống soái. Du lịch tôn giáo là loại hình chủ yếu trong giai
đoạn này. Những cuộc thập tự chinh tôn giáo, hành hương về thánh địa, nhà
thờ diễn ra một cách rầm rộ. Các quán trọ hai bên đường mọc lên để phục vụ
mọi người không phải vì mục đích kinh tế mà đa phần chỉ như dấu hiệu về
sự đóng góp của con chiên cho sự sáng danh đức Chúa Trời. Xuất hiện
những người chuyên hướng dẫn cho khách đi lại, cách hành lễ…
Thời kỳ này dã xuất hiện những chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của
loài người với những tìm tòi khám phá mới đã phá vỡ tầm hiểu biết hạn hẹp 18
của các cộng đồng Trung cổ và khơi dậy tính hiếu động, tò mò của con
người. Con người đã có những chuyến đi dài ngày nhằm mở rộng “cánh cửa
nhận thức” để được khám phá những vùng đất mới, những nền văn minh nhân loại.
Năm 1275, một thanh niên tên là Marco Polo theo cha và chú sang
Trung Quốc trong một chuyến buôn. Tại đây, Marco Polo được gặp Hốt Tất
Liệt. Bị cuốn hút bởi uy thế của Hoàng đế và một thế giới bí ẩn, khác lạ ở
phương đông, ông đã ở lại đây 17 năm. Khi về nước ông đã viết cuốn:
“Marco Polo phiêu lưu kí” kể về những gì mắt thấy tai nghe ở xứ Trung Hoa
kì bí. Có thể coi đây là một trong những tài liệu hướng dẫn du lịch đầu tiên trên thế giới.
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI những hiểu biết về địa lý, thiên văn,
hải dương và kỷ thuật đi biển đã giúp con người có những phát kiến địa lý
lớn. Từ năm 1492 đến 1504, Christofe Colombo đã tiến hành bốn cuộc hành
trình thám hiểm sang một lục địa mới mà sau này gọi là Châu Mỹ. Những
chuyến đi này không phải vì mục đích du lịch, nhưng trên ý nghĩa nhất định,
đã mở hướng cho hoạt động lữ hành quốc tế trên biển.
Năm 1548, Vasco de Gama đã cùng thủy thủ đoàn đi dọc theo bờ
biển Tây Phi xuống phía Nam. Khi gần đến mũi cực Nam châu Phi, đoàn
thuyền của ông bị bão thổi dạt sang bờ đông của Nam Mỹ. Lúc đó ông
không hề biết rằng đây là một lục địa mới. Ông cho thuyền quay về phía
đông hướng tới Hảo Vọng Giác (Nam Phi). Vượt qua nhiều ngày lênh đênh
trên biển đoàn thuyền của ông đã đến được Ấn độ, Thành công của ông đã
mở ra một chân trời mới trong sự thông thương buôn bán Đông Tây bằng đường biển. Thời Cận đại
Cuộc cách mạng tư sản, bắt đầu bằng cuộc cách mạng ở Netherland
(1564-1609), đến cách mạng tư sản Anh (1642 – 1660), cách mạng tư sản
Mỹ (1776 – 1783), cách mạng tư sản Pháp (1776 – 1883)… đã mở ra cho
con người sự giao lưu mới với thiết chế tự do tư sản.
Vào năm 1784, James Watt đã chế tạo ra động cơ hơi nước liên tục
đầu tiên. Phát minh này châm ngòi nổ cho cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất, mở ra chân trời mới cho ngành vận chuyển và ảnh hưởng trực tiếp đến
sự phát triển du lịch loài người. 19
Năm 1885, một kỹ sư người Đức là Benz đã sáng chế ra chiếc ôtô
đầu tiên. Do tính tiện ích của nó, ngay năm sau, công nghiệp ôtô đã ra đời đã
góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du khách đi du lịch.
Về phương tiện thông tin liên lạc, thời kì này con người đã phát minh
ra các phương tiện truyền tin không gian như điện tín (1876), điện thoại (1884), radio (1895)…
Nhu cầu tích tụ tư bản thúc đẩy giai cấp tư sản cho xây dựng mạng
lưới giao thông lớn cùng với các phương tiện vận chuyển ngày càng hiện đại
và mở rộng các dịch vụ ở nhiều nơi trên thế giới. Những cơ sở hạ tầng đó về
khách quan cũng tạo thuận lợi cho các tuyến lữ hành xuyên quốc gia. Nếu
trước kia, người ta chú ý tới các kỳ quan thế giới như kim tự tháp (Ai Cập),
vườn treo Babilon, đền thờ Nữ thần Artemis ở Ephese, v.v… thì nay đã mở
ra nhiều nơi khác với rừng, bờ biển đẹp và suối khoáng, v.v... Du lịch quốc
tế có xu hướng tăng trong thế kỷ XIII. Đó là chuyến du lịch của các sinh
viên đại học sau khi tốt nghiệp đã đến các nước để kiểm chứng thực tế trong
2-3 năm trở về áp dụng trong các công ty, xí nghiệp của mình.
Cuộc hành trình du lịch tập thể đầu tiên ở Anh do Thomas Cook tổ
chức năm 1841 cho 570 người đi bằng tàu hỏa từ Leicester đến dự hội nghị
của những người chống nghiện rượu tại Laoughborough, cách 12 dặm đánh
dấu một bước ngoặt mới trong ngành kinh doanh du lịch. Một năm sau ông
thành lập Văn phòng du lịch đầu tiên ở Anh nhằm tổ chức cho người Anh đi
du lịch trong nước và ra nước ngoài. Ông bắt đầu có những chuyến du hành
trong phạm vi hẹp ở nước Anh phục vụ cho học sinh, phụ huynh, các cặp vợ
chồng.… tới những nơi mà họ chưa có dịp tới. Nắn bắt nhu cầu muốn đi
nghỉ hè và tham quan du lịch ở pháp, năm 1854, hãng Thomas Cook và các
con đã bắt đầu tổ chức các tuyến du lịch sang châu Âu.
Thành công của Thomas Cook đạt được là do khả năng thông hiểu
nhu cầu về du lịch ở thời đại ông. Ông nắm bắt được những đòi hỏi, mong
muốn và những yếu tố thúc đẩy du lịch để triển khai trong các tour của mình.
Năm 1876, Thomas Cook cho ra mắt một loại hoá đơn đặc biệt gọi là
“Phiếu thanh toán”, tiền thân của sec du lịch hiện nay. Nhờ có hoá đơn này
du khách có thể thanh toán tại hàng trăm khách sạn trong danh mục của Cook.
Công ty lữ hành Thomas Cook trong thời gian 1850 tới 1900 là điềm 20