



Preview text:
HẠN CHẾ BÀI NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, mặc dù đã có những cố gắng để
nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài nhưng do giới hạn về không gian và thời gian nghiên
cứu nên bài nghiên cứu không tránh khỏi những hạn chế nhất định
Thứ nhất: Do thời gian nghiên cứu có hạn đề tài chủ yếu tập trung vào phân tích
báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Đo đạc và Khoàng sản giai đoạn 2017 –
2019, đây là chuỗi thời gian chưa đủ dài để có thể phản ánh hết xu hướng biến
động tài chính của công ty. Để phản ánh được đầy đủ và chính xác về tình hình tài
chính của công ty, tác giả cần thu thập và phân tích dữ liệu trong ít nhất 5 năm tài chính.
Thứ hai: Khi so sánh các chỉ tiêu tài chính mới chỉ đơn thuần so sánh giữa các năm
với nhau mà chưa có sự so sánh các công ty trong cùng ngành hoặc số liệu trung bình ngành.
Thứ ba: Trong quá trình nghiên cứu dù đã rất cố gắng hoàn thiện luận văn nhưng
do hạn chế về năng lực và nguồn lực hiện có của bản thân tác giả nên luận văn
không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong cách tiếp cận, trong phân tích,
nhận xét, đánh giá về kết luận.
Trên đây là một số hạn chế mà đề tài nghiên cứu gặp phải, tác giả rất mong muốn
đấy sẽ là những gợi mở cho những công trình nghiên cứu tiếp theo, vừa khắc phục,
vừa phát triển đề tài nghiên cứu về phân tích báo cáo tài chính công ty cổ phần Đo
đạc và Khoáng sản để đem lại giá trị tốt nhất cho chính đối tượng sử dụng các thông tin liên quan.
Nghiên cứu thực hiện phương pháp cắt ngang mô tả, không giải thích được mối
quan hệ nhân quả của các yếu tố nêu trên. Nghiên cứu cũng có tính đại diện kém
bởi cách thức chọn mẫu thuận tiện. Việc phụ thuộc vào bảng hỏi cho khách thể tự
báo cáo không đảm bảo được tính chính xác của thông tin cần thu thập. Việc thu
thập thông tin không chính xác cũng có thể do chủ đề nghiên cứu nhắm vào các
vấn đề và hành vi tiêu cực, từ đó khi cung cấp thông tin khách thể sẽ có xu hướng phòng vệ.
Yếu tố thời gian sử dụng và số lượng thiết bị sử dụng không có mối liên hệ với các
yếu tố khác trong nghiên cứu này, đây có thể là do quá trình thu thập không đảm
bảo tính khách quan của thời lượng sử dụng và lượng thiết bị mà người tham gia
báo cáo. Việc không kiểm soát nội dung trong thời lượng sử dụng khi thu thập
thông tin cũng góp phần khiến yếu tố này bị nhiễu.
Yếu tố sức khỏe tinh thần trong nghiên cứu được thu hẹp thành việc không mắc
phải các triệu chứng tiêu cực. Do đó, kết luận chỉ nằm trong phạm vi định nghĩa
này, hoàn toàn không có tính tổng quát khi nói về sức khỏe tinh thần. Kết quả
nghiên cứu không có tính dự đoán báo cao do chỉ số giải thích cho mô hình còn 2 thấp (X = .1611).
Đầu tiên, là về thời gian khảo sát và số lượng (mẫu) khảo sát. Phạm vi khảo sát tập
trung chủ yếu ở giới trẻ (cụ thể là sinh viên) và bắt buộc là sinh viên thuộc trường
đại học UEH nên không có quá nhiều thành phần tham gia. Thời gian khảo sát còn
ngắn cùng với việc thu thập khảo sát định lượng thông qua bảng câu hỏi được thực
hiện online với phương pháp chọn mẫu thuận tiện, quả cầu tuyết dẫn đến tỷ lệ phản
hồi còn thấp. Điều này đã khiến mẫu khảo sát có sự phân bố nhân khẩu học không
đều (giới tính nữ nhiều hơn nam…), dẫn đến việc nhóm tác giả không thể nhận
định rõ được về kĩ năng chuyển đổi số theo đặc điểm nhân khẩu học.
Thứ hai, đề tài còn khá mới và chưa thực sự phổ biến nên những chất liệu liên
quan đến đề tài vẫn còn chưa được sát sao nên những nhận định đưa ra từ nhóm
mang hơi hướng chủ quan và không thể tránh khỏi những sai sót.
Thứ ba, từ việc xem xét thực trạng chuyển đổi số trong giáo dục của những bài báo
từ website chính phủ/ trường đại học, xem xét những yếu tố tác động của các
nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề chuyển đổi số, nhóm nghiên cứu nhận định rằng
“Cộng tác chuyên nghiệp” (Sự tương tác người học – người học, người học – giảng
viên) là một yếu tố quan trọng đối với kĩ năng chuyển đổi số. Tuy nhiên, nhóm đã
xây dựng thang đo chưa tốt ảnh hưởng đến việc không thể đưa biến “Cộng tác
chuyên nghiệp” để phân tích hồi quy.
Thứ tư, hệ số R bình phương hiệu chỉnh dưới 0.5 cho thấy mô hình của nhóm chưa
được tốt và mức độ của các biến độc lập và phụ thuộc theo hồi quy chưa cao, vẫn
còn có một số tác động khác có tính chất ảnh hưởng đến kỹ năng chuyển đổi số của
sinh viên mà chưa được nhóm tìm hiểu sâu hơn và đề xuất ra trong bài nghiên cứu này.
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, mặc dù đã có những cố gắng để
nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài nhưng do giới hạn về không gian và thời gian nghiên
cứu nên bài nghiên cứu không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Đầu tiên, do thời gian nghiên cứu có hạn và đề tài tập trung chủ yếu vào những tác
động và ảnh hưởng của mạng xã hội đến sức khỏe tâm lý của sinh viên trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi khảo sát hiện tập trung chủ yếu vào giới trẻ (cụ
thể là sinh viên) trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt diễn ra trong dịp Tết
Nguyên Đán nên gây bất tiện cho nhóm tác giả và có thể không có quá nhiều thành
phần tham gia. Thời gian khảo sát còn ngắn cùng với thu thập khảo sát định lượng
thông qua bảng câu hỏi được thực hiện online với phương pháp chọn mẫu thuận
tiện dẫn đến tỷ lệ phản hồi còn thấp. Điều này đã khiến mẫu khảo sát có sự phân bố
nhân khẩu học không đều (giới tính nữ nhiều hơn nam…), dẫn đến việc không
phản ánh hết những tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tâm lý của sinh viên
theo đặc điểm nhân khẩu học.
Thứ hai, đề tài nghiên cứu về các tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tâm lý
của sinh viên, là một đề tài khá mới và chưa thực sự được quan tâm tại Việt Nam
nên những chất liệu liên quan đến đề tài vẫn còn chưa được sát sao nên những
nhận định của nhóm tác giả mang hơi hướng chủ quan và không thể tránh khỏi những sai sót
Thứ ba, trong quá trình làm bài nghiên cứu dù đã rất cố gắng để hoàn thiện nhưng
do hạn chế về năng lực và nguồn lực hiện có của bản thân nhóm tác giả nên bài
nghiên cứu không tránh khỏi những hạn chế nhất định trong cách tiếp cận, trong
phân tích, nhận xét, đánh giá và kết luận.
NGHIÊN CỨU CÁC TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐẾN
SỨC KHỎE TÂM LÝ CỦA SINH VIÊN TP.HCM HIỆN NAY