


Preview text:
lOMoAR cPSD| 59773 091 1. Hạn chế:
a. Nguồn nguy hiểm cao độ:
Một là cụm từ “các nguồn nguy hiểm khác do pháp luật quy định” tại Khoản 1 Điều
601 Bộ luật Dân sự 2015 đã tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể nói, với quy định này,
pháp luật đã dự trù được những trường hợp có thể phát sinh ra những nguồn nguy hiểm cao
độ mới cũng như không thể xác định được hết những nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên,
chính quy định mở này đã gây ra rất nhiều tranh cãi khác nhau. Có rất nhiều ý kiến xoay
xung quanh việc xác định đâu là nguồn nguy hiểm cao độ. Ví dụ như “Cá sấu có phải nguồn
nguy hiểm cao độ không?”; “Ong có phải nguồn nguy hiểm cao độ không?” Những ý kiến
này khiến cho việc áp dụng pháp luật vào việc xác định nguồn nguy hiểm cao độ trở nên
khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực tiễn
Hai là chưa có một định nghĩa cụ thể nào về đối tượng “thú dữ”. Hiện nay, khái niệm
“thú dữ” vẫn chưa được luật hóa một cách cụ thể mà chỉ được định nghĩa thông qua các từ
điển tiếng Việt. Chính điều này đã đem tới nhiều cách hiểu khác nhau về thú dữ, dẫn đến
việc khó xác định được động vật nào được xếp vào nhóm thú dữ.
=> Với 2 điểm hạn chế được nêu trên, trên thực tế, đã có rất nhiều sự khó khăn trong việc
phân biệt và xác định các trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ là thú dữ gây ra
với thiệt hại do súc vật gây ra. Ví dụ như việc nếu như ong vò vẽ được nuôi để làm thuốc
gây ra thiệt hại thực tế thì trường hợp này nên xác định là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ là thú dữ gây ra hay thiệt hại do súc vật gây ra.
Ba là Khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 mới chỉ quy định về trách nhiệm của
chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chứ chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của người
được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Điều này mâu thuẫn
với Khoản 2, 3, 4 điều này về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của những đối tượng này.
Nếu như không có quy định cụ thể về trách nhiệm thì rất khó để có thể xác định mức bồi
thường của họ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của người chịu thiệt hại
Bốn là quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ giao cho chiếm hữu, sử dụng gây ra nhiều luồng ý kiến khác nhau,
gây khó khăn trong việc áp dụng. Như đã nói ở trên, rất khó trong việc xác định mức bồi
thường của người được chủ sở hữu giao cho chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Không chỉ vì chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của họ mà cũng chưa có những quy
định rõ ràng về mối quan hệ giữa nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu và người được giao
quyền chiếm hữu, sử dụng. Bên cạnh việc gây khó khăn trong xác định trách nhiệm bồi
thường của đối tượng này, sự bất cập nói trên còn gây ra khó khăn trong việc xác định trách
nhiệm liên đới đối với chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Chủ sở hữu có thể dựa vào
điểm này để trốn tránh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. lOMoAR cPSD| 59773 091
Năm là trên thực tế, có nhiều trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại
do lỗi của bên thứ ba. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể nào về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong trường hợp lỗi thuộc về bên thứ ba. b. Súc vật:
Một là chưa có định nghĩa cụ thể nào về “súc vật”. Điều này tương tự như những bất
cập về chưa có định nghĩa rõ ràng nào về “thú dữ”
Cũng giống như trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, quy định
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được chủ sở hữu súc vật giao cho chiếm hữu,
sử dụng gây ra nhiều luồng ý kiến khác nhau, gây khó khăn trong việc áp dụng. Hiện nay,
pháp luật chưa có những quy định rõ ràng về mối quan hệ giữa súc vạt, chủ sở hữu và người
được giao quyền chiếm hữu, sử dụng. Bên cạnh việc gây khó khăn trong xác định trách
nhiệm bồi thường của đối tượng này, sự bất cập nói trên còn gây ra khó khăn trong việc xác
định trách nhiệm liên đới đối với chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Chủ sở hữu có thể
dựa vào điểm này để trốn tránh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
2. Giải pháp hoàn thiện:
a. Nguồn nguy hiểm cao độ:
Xác định rõ đúng bản chất về khái niệm của nguồn nguy hiểm cao độ, điểu này pháp
luật chưa được nêu ra. Việc đưa ra một quy định nêu được tổng quát bản chất vể nguồn
nguy hiểm cao độ là hết sức cẩn thiết. Cụ thể như: nguồn nguy hiểm cao độ là những vật
chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn những nguy cơ cao gây nguy hiểm cho
con người và môi trường xung quanh, nó phải đang được vận hành và hoạt động để khai
thác các lợi ích đáp ứng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng chúng.
Cần đưa ra các tiêu chí cụ thể nhằm xác định khi nào thì chủ sở hữu, người chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu trái pháp luật. Nhóm tác giả cho rằng, cần bổ sung các tiêu chí để xác định lỗi
trên như sau: biết rõ việc chiếm hữu đó là trái pháp luật nhưng vẫn chuyển giao, chuyển
giao không thông qua một giao dịch dân sự nào.
Tại khoản 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về các loại chủ thể phải
chịu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ hoặc người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Việc quy định trên là phù hợp,
bởi trong thực tế không nhất thiết chủ sở hữu lúc nào cũng là người trực tiếp chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, quy định này cũng còn thiếu xót và là nguyên
nhân dẫn đến việc lúng túng trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan xét xử. Bởi lẽ,
trong loại chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguổn nguy hiểm cao độ gây ra
là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ chưa được phân định rõ
ràng. Việc phân định giữa chủ thể chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ lOMoAR cPSD| 59773 091
là thông qua giao dịch dân sự hay chỉ là thực hiện nhiệm vụ cho chu sở hữu la vô cùng quan
trọng. Như vậy, một trong những thiếu xót của pháp luật hiện hành là chưa có sự phân định
ở hai trường hợp này. Chính vì vậy, đặt ra vấn đề cần phải có những quy định cụ thể cũng
như phân định rõ ràng 2 trường hợp này.
Cần phải có những quy định cụ thể về thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
trong trường hợp lỗi của người thứ ba b. Súc vật:
Cần có quy định cụ thể về khái niệm súc vật cũng như hướng dẫn xác định và phân
loại súc vật một cách cụ thể.
Cần phân định rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu, súc vật và người được giao sở hữu
sử dụng để có những quy định cụ thể về trách nhiệm nói chung cũng như trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp súc vật gây ra của mỗi bên.