




Preview text:
Hệ thống Bretton Woods là gì? Nội dung và sự sụp đổ Bretton Woods
Hệ thống BRETTON WOODS là hệ thống Tiền tệ Quốc tế được lập năm 1944 tại Hội nghị quốc
tế gồm 44 nước tại Bretton Woods, New Hampshire. Kết quả của hội nghị này là việc thành lặp
quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng quốc tế về tái thiết và phát triển (được biết phổ biển là ngân
hàng thế giới - World Bank) và tỷ giá hối đoái cố định tồn tại mãi đến thập niên 1970. Thỏa thuận
ban đầu, trở thành luật tại Hoa Kỳ nàm 1945, được bổ sung năm 1971, khi hệ thống hối đoái theo
mệnh giá được thay thế bởi hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi.
1. Sự ra đời của hệ thống tiền tệ Bretton Woods
Trước khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods ra đời, vàng là thước đo tài chính duy nhất để trao đổi
tiền tệ và mỗi quốc gia đặt ra tỷ giá hối đoái của đồng tiền quốc gia một cách độc lập tương ứng
với giá trị của vàng. Khi đó một loạt các cuộc khủng hoảng kinh tế và Chiến tranh thế giới thứ II
cho thấy hệ thống tiền tệ của nền kinh tế thế giới cần được nâng cấp.
Nhiều quốc gia bắt đầu từ bỏ “bản vị vàng“, dừng việc tự do chuyển đổi tiền tệ quốc gia sang vàng.
Ngoài ra, việc phá giá tiền tệ cũng trở nên thường xuyên hơn trong giai đoạn này, gây bất ổn lớn
cho nền kinh tế thế giới.
Vào tháng 7 năm 1944, trước khi chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt, các đại biểu từ 44 quốc gia
Đồng Minh đã tập trung tại một khu nghỉ mát trên núi ở Bretton Woods, New Hamsphire, Mỹ
tham gia Hội nghị Tài chính và Tiền tệ của Liên hợp quốc để thảo luận về một trật tự tiền tệ quốc tế mới.
Mục tiêu của hội nghị là khôi phục nền kinh tế thế giới, cải tổ hệ thống tiền tệ quốc tế tránh được
những sai lầm trước đây, tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế trong khi vẫn bảo vệ các mục tiêu
chính sách tự trị của các quốc gia riêng lẻ, cũng như tạo ra một trật tự tiền tệ quốc tế mới để tránh
sự tan rã các mối quan hệ tiền tệ trên phạm vi quốc tế vào những năm 1930.
Tại hội nghị xuất hiện 2 luồng quan điểm trái chiều từ phần lớn bị chi phối bởi lợi ích của hai
cường quốc kinh tế vĩ đại tại thời điểm đó là Anh và Mỹ.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các nước Châu Âu bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế rơi vào khủng
hoảng nghiêm trọng. Vào thời điểm đó, Vương quốc Anh đang là quốc gia mang nợ lớn nên muốn
tỷ giá hối đoái thả nổi tự do nhằm tách khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ, để có sự linh hoạt hơn về tỷ giá
hối đoái nhằm cải thiện cán cân thanh toán đang nghiêng hẳn sang một bên của Anh Quốc.
Trong khi đó, tiềm lực kinh tế của nước Mỹ lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, trong vòng hai
thập kỷ đầu sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ là trung tâm tài chính, kinh tế duy nhất của thế giới,
đặc biệt Mỹ nắm đến 70% trữ lượng vàng thế giới. Với vai trò là chủ nợ lớn của thế giới, Mỹ muốn
mở cửa thị trường thế giới để xuất khẩu, ưu tiên việc tạo thuận lợi cho thương mại tự do thông qua
sự ổn định của tỷ giá cố định.
Cuối cùng, Hội nghị kết thúc với một thỏa ước quốc tế quan trọng mang tên Chế độ tiền tệ Bretton
Woods được xây dựng chủ yếu trên cơ sở của Mỹ.
2. Hệ thống Bretton Woods (Bretton Woods System) là gì?
Bretton Woods là một địa điểm ở New Hamsphire, Mỹ, nơi diễn ra Hội nghị Tài chính và Tiền tệ
của Liên hợp quốc vào năm 1944. Hội nghị này thảo luận các vấn đề về thanh toán quốc tế sau thế
chiến 2. Sau khi xem xét các khuyến nghị khác nhau do chính phủ Canada, Mỹ và Anh đưa ra, Hội
nghị đã nhất trí thành lập Ngân hàng Tái thiết và Phát triển (gọi tắt là Ngân hàng thế giới - WB)
và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Khái niệm hệ thống Bretton Wood (Bretton Woods System) thường được dùng để ám chỉ hệ
thống tiền tệ quốc tế và các định chế tài chính có liên quan do hội nghị này lập ra
3. Nội dung của hệ thống tiền tệ Bretton Woods
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là phần cốt lõi của hệ thống Bretton Woods. Nhiệm vụ của IMF là
hướng dẫn và chỉ đạo các chính sách tiền tệ quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tăng cường thực
hiện các quy định, theo dõi, giám sát hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế.
Còn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế – IBRD (mà sau này được gọi là Ngân hàng Thế
giới – WB) chịu trách nhiệm tài trợ cho những dự án phát triển, hỗ trợ cho những nước Châu Âu
phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh và huy động vốn từ những nước phát triển để cho vay lại với
lãi suất thấp ở những nước nghèo, kém phát triển nhằm giúp họ phát triển nền kinh tế.
Cũng trong cuộc hội nghị, các quốc gia đã thống nhất những quy định cho hệ thống Bretton Woods.
Cụ thể là các quốc gia xây dựng chính sách ngang giá dựa trên đồng Đô la Mỹ, còn đồng Đôla Mỹ
được định giá theo vàng là 35$ = 1 ounce. Các quốc gia phải cam kết theo đuổi chính sách kinh tế
và tiền tệ để có trách nhiệm giữ tỷ giá hối đoái giao động ±1% so với giá trị ngang giá đã được
thỏa thuận bằng cách mua hoặc bán ngoại hối khi cần thiết. Chỉ với những quốc gia có tình trạng
mất cân đối nghiêm trọng mới có thể được thay đổi ngang giá cho đồng tiền của họ. Và khi các
quốc gia phá giá hoặc nâng giá tiền tệ >5% phải có sự đồng ý trước của IMF.
Hệ thống Bretton Woods quy định đô la Mỹ là đơn vị tiền tệ duy nhất có đầy đủ khả năng chuyển
đổi ra vàng, các đồng tiền khác không được chuyển đổi trực tiếp ra vàng. Các nước dùng vàng
hoặc đô la Mỹ làm phương tiện thanh toán quốc tế. Có thể nói hệ thống Bretton Woods là hệ thống
bản vị hối đoái vàng dựa trên đô la Mỹ.
Các quốc gia theo hệ thống Bretton Woods sẽ có nguồn dự trữ ngoại hối dưới dạng tiền tệ của một
nước duy nhất và chỉ có nước đó mới thực sự theo hệ thống bản vị vàng. Hệ thống hối đoái này
cho phép các nước thành viên tiết kiệm được vàng vì họ có thể dùng vàng hoặc ngoại hối làm
phương tiện thanh toán quốc tế. Hệ thống này còn cho phép các nước thành viên hưởng thu nhập
trong việc nắm giữ ngoại hối, trong cất trữ vàng không đem lại thu nhập. Ngoài ra các nước còn
giảm được chi phí giao dịch do việc chuyển dịch vàng giữa các nước với nhau.
4. Sự sụp đổ của chế độ Bretton Woods
Trong giai đoạn 1950 – 1960, Mỹ đã chịu thâm hụt mậu dịch nặng nề với các nước khác. Nguồn
dự trữ vàng của Mỹ suy giảm, đi kèm với sự thâm hụt khi duy trì cân bằng cho toàn thế giới, cùng
tham vọng muốn cả thế giới dự trữ đô la Mỹ chứ không phải vàng, chính tham vọng này đã đe dọa
sự ổn định của hệ thống Bretton Woods. Tổng dự trữ vàng của Mỹ giảm thấp so với trị giá đô la
ngoại tệ. Trong khi đó, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle thúc đẩy ngân hàng Pháp bán vàng gửi
trong ngân khố Mỹ nhằm tháo gỡ nguồn dự trữ đô la của họ. Đồng đô la Mỹ cũng đứng trước sức
ép phá giá so với vàng cũng phải đối mặt với sự tấn công mạnh mẽ của những nhà đầu cơ tiền tệ trên thế giới.
Tuy nhiên, vì các thỏa ước của hệ thống Bretton Woods với chế độ tỷ giá cố định, đồng USD
không thể phá giá so với vàng. Trong khi đó các nước có cán cân vãng lai thặng dư cũng không
muốn tăng giá đồng tiền của mình hay thực hiện chính sách tiền tệ thu hẹp. Điều này khiến cho
tình trạng dư thừa USD ngày càng sâu sắc hơn, hệ thống Bretton Woods đứng trước nguy cơ khủng hoảng.
Nhằm tránh những khủng hoảng cho hệ thống, vào đồng USD, năm 1962, “Thỏa thuận chung về
vay mượn – GAB” ra đời. Mỹ và 9 nước khác thỏa thuận cho IMF vay những khoảng vốn bổ sung
trong trường hợp một trong các nước thành viên có nhu cầu vốn với quy mô lớn. Ngoài ra, NHTW
Mỹ và 7 nước công nghiệp phát triển khác còn có những thỏa hiệp can thiệp lên giá vàng trên thị
trường thế giới nhằm giữ giá vàng ở mức 35$/ounce. Tuy nhiên, đến năm 1967, người ta phát hiện
ra rằng tổng lượng vàng dự trữ của Mỹ nhỏ hơn tài sản nợ của Mỹ tính bằng USD, và nếu NHTW
các nước vẫn tiếp tục chuyển đổi USD ra vàng thì toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ. Vì vậy, các NHTW
các nước quyết định ngừng không chuyển đổi USD ra vàng và ngừng can thiệp vào giá vàng trên
thị trường thế giới. Từ đó hình thành hai giá vàng.
Tuy nhiên vào đầu những năm 1970s, cuộc tấn công của những nhà đầu cơ vào đồng USD thật sự
trở nên mạnh mẽ khi họ nhận ra USD và một số đồng tiền được định giá quá cao trong khi một số
đồng tiền khác lại bị định giá quá thấp. Đô la Mỹ mất giá rõ rệt, nhất là trong tương quan với Mác
Đức và Yên Nhật. Do vậy các NHTW Đức và Nhật đã phải can thiệp mạnh vào thị trường hối đoái
để bảo vệ giá trị ngang giá của mình. Tuy nhiên, tình hình mất giá của Đô la Mỹ vẫn không được
cải thiện. Cuối cùng trước sức ép của làn sóng đầu cơ vào USD, ngày 15/08/1971, tổng thống
Richard Nixon đã tuyên bố chấm dứt việc chuyển đổi Đô la Mỹ ra vàng và trên thực tế hệ thống
Bretton Woods đã sụp đổ.
5. Tại sao hệ thống Bretton Woods lại sụp đổ?
Giáo sư Robert Triffin đã lên tiếng cảnh báo nguy cơ sụp đổ về lâu dài đối với chế độ hối đoái
vàng. Do nhu cầu dự trữ ngày càng tăng, Hoa Kỳ phải liên tục chịu thâm hụt cán cân thanh toán
và dần dần niềm tin vào đồng Đô la Mỹ sẽ bị thương tổn làm bùng nổ việc săn lùng Đô la. Các
nước khác cũng phải dự trữ ngoại tệ để giải quyết thâm hụt cán cân thanh toán và nếu thâm hụt
kéo dài sẽ đưa đến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods. Mặt khác, nếu Mỹ áp dụng các biện
pháp nhằm cải thiện cán cân thanh toán thì sẽ dẫn đến thiếu hụt thanh khoản của hệ thống, tạo áp
lực thiểu phát nền kinh tế thế giới. Mâu thuẫn này được gọi là nghịch lý Triffin và đã bộc lộ rõ đầu
những năm 70 và chế độ hối đoái này dựa trên Đô la Mỹ đã hoàn toàn sụp đổ.
6. Một số thuật ngữ khác liên quan đến hệ thống tiền tệ
6.1 Hệ thống tiền tệ quốc tế là gì?
Hệ thống tiền tệ quốc tế (international monetary system) là hệ thống được thiết lập để thúc đẩy
thương mại và chuyên môn hoá quốc tế, đồng thời đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán dài hạn
của các nước. Để phát huy tác dụng, hệ thống tiền tệ quốc tế phải có khả năng (1) tạo ra một hệ
thống tỷ giá giữa các đồng tiền quốc gia, (2) tạo ra cơ chế điều chỉnh cho phép loại trừ các trường
hợp mất cân bằng cán cân thanh toán và (3) hình thành một lượng dự trữ quốc tế để thanh toán các
khoản thâm hụt cán cân thanh toán. Người ta đã thử nghiệm nhiều hệ thống tiền tệ quốc tế khác
nhau, trong đó có chế độ bản vị đồng vàng và hiện nay là hệ thống Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
6.2 Hệ thống Tiền tệ Châu Âu (EMS) là gì?
Hệ thống Tiền tệ Châu Âu (EUROPEAN MONETARY SYSTEM - EMS) là thỏa thuận 1979 bởi
các quốc gia Châu Âu, liên kết các đồng tiền, với mục đích hạn chế biến động tiền tệ trong phạm
vi hẹp và giữ lạm phát ở mức có thể kiểm soát. Tiền thân của liên minh Châu Âu ngày nay, EMS
thực sự bị áp lực bởi những chính sách kinh tế khác nhau của các thành viên và trong những năm
đầu của thập niên 1990, bởi sự rút lui của Anh Quốc. Những khác biệt này dẫn đến sự hình thành
Viện Tiền tệ Châu Âu vào năm 1994, bước tạm thời hướng đến chính sách kinh tế chung, và vào
năm 1998 là Ngân hàng trung ương Châu Âu.
6.3 Hệ thống tiền tệ hay chế độ tiền tệ là gì?
Hệ thống tiền tệ hay chế độ tiền tệ (monetary system or monetary regime) là những chính sách và
công cụ mà một nước sử dụng để điều tiết cung ứng tiền tệ. Hình dạng hiện vật của cung ứng tiền
tệ (tiền giấy, tiền xu), đặt tên cho giá trị của các đơn vị tiền tệ (đồng, hào, xu) và tổng quy mô cung
ứng tiền tệ là những lợi chính sách cơ bản. Ngân hàng trung ương của hầu hết các nước đều dựa
vào 3 công cụ chủ yếu để tác động vào mức hoạt động kinh tế là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết
khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
Khi một nước có mối quan hệ thương mại với các nước khác, chế độ tiền tệ còn bao gồm những
quy định nhằm điều chỉnh quan hệ tiền lệ với nước ngoài, chẳng hạn chế độ tỷ giá hối đoái, khả
năng chuyển đổi của đồng tiền trong nước và dự trữ quốc tế.