Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ xuất chúng nhất của thơ mới, ông sống ngắn ngủi trong đời nhưng lại bất tử trong thơ. Ông viết thơ theo phong cách “thơ Điên”, theo lối siêu thực tượng trưng, từ thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang thơ mới lãng mạn. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
5 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ xuất chúng nhất của thơ mới, ông sống ngắn ngủi trong đời nhưng lại bất tử trong thơ. Ông viết thơ theo phong cách “thơ Điên”, theo lối siêu thực tượng trưng, từ thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang thơ mới lãng mạn. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ D
Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tài liu hu ích
nhm giúp cho các em lp 11 t hc mt cách thun li, đc bit là trong vic chun b bài
nhà trước khi đến lp. T đó đạt được kết qu cao trong các bài kim tra, bài thi sp ti. Hãy
cùng tham kho bài viết dưới đây chia s nhé!
Mục lục bài viết
Bài văn "Phân tích hình nh thiên nhiên con người trong bài thơ Đây thôn d"
Bài văn "Phân tích hình ảnh thiên nhiên con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ
dạ"
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ xuất chúng nhất của thơ mới, ông sống ngắn ngủi trong
đời nhưng lại bất tử trong thơ. Ông viết thơ theo phong cách “thơ Điên”, theo lối siêu thực tượng
trưng, từ thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang thơ mới lãng mạn. Qua những bài thơ phức tạp
và đầy ẩn ý của Hàn Mặc Tử, người ta vẫn nhìn thấy rõ một tình yêu khổ đau với cuộc sống hiện
thực. Bài thơ Đây thôn dạ được viết năm 1938, in trong tập “Đau thương”, đây cũng chính
tiếng vang trong sáng từ bản giao hưởng đau buồn ấy. Sự ra đời của bài thơ liên quan đến
tình cảm đơn phương của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc - một gái quê Dạ, một
làng nhỏ bên sông Hương xHuế yên bình trữ tình. Trong nỗi nhớ niềm yêu với người
con gái xứ Huế, bài thơ còn khắc họa một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời nơi thôn Vĩ, qua đó
cũng phản ánh sâu sắc sự cô độc, tiếc thương và những nỗi buồn chất ngất trong lòng tác giả.
Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh tuyệt m của thiên nhiên
thôn Vĩ lúc bình minh:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ đầu tiên là câu hỏi tu từ đa ý nghĩa, ở đó có cả lời gợi nhớ, mời gọi, oán trách dịu dàng và
âu yếm. Người đặt ra câu hỏi ấy có thể là một cô gái thôn Vĩ trong tưởng tượng của tác giả, cũng
thể tác giả tự hỏi bản thân. Câu hỏi đầu tiên cũng là cái cớ nghệ thuật để giới thiệu về thôn
Vĩ. Ba câu thơ tiếp theo mỗi u thơ một nét vẻ đẹp hợp thành một bức tranh vườn tược kdiệu.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Nét riêng của thôn quê hương người con i được gợi mở câu đầu tiên đã được miêu tả
nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện ra trước mắt người đọc. Nắng ở đây là nắng mới lên,
những tia nắng đầu tiên của một ngày, mang lại bao nét mới lạ, trong sáng rực rỡ mà vẫn êm
dịu. Những ngọn cau cao vút bỗng nhiên trở nên tươi thắm lộng lẫy, tràn đầy sức sống trước
ánh nắng bình minh. Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng quê quê
hương đến thế. Câu thơ này bất ngờ khiến ta liên tưởng tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài
“Xuân lòng". Nắng mới, nắng xuân xuyên qua từng kẽ lá làm tan chảy những hạt sương đêm, nhỏ
giọt xanh như ngọc. Thiên nhiên xứ Huế xanh đẹp, sức sống tràn trề “màu xanh như ngọc”, tác giả
như bị cuốn hút sức sống, vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cô gái trách móc nhân vật trữ tình bằng
giọng nói nhẹ nhàng, nhưng đầy tình cảm và tế nhị. Câu trách của cô không làm người khác cảm
thấy khó chịu hay oán giận, chỉ toát lên sự quan tâm yêu thương. Sau câu trách ấy một
bức tranh thiên nhiên lãng mạn được miêu tả. Tác giả đã không chỉ dùng ngôn ngữ để vẽ tranh,
mà còn dùng cả cảm xúc trong lòng để tạo nên bức tranh đẹp đến ngỡ ngàng. Thiên nhiên trở nên
rực rỡ, tươi mới tràn đầy sức sống. Từ “nắng mới lên” khiến người đọc liên tưởng đến ánh nắng
ban mai ấm áp, dịu dàng và thanh thoát. Nắng mới lên chiếu sáng hàng cau xanh biếc, tạo nên một
khung cảnh mát mẻ và trong lành.
Đối với tác giả, tình yêu say đắm ông dành cho nơi đây đã tạo nên những vần thơ đẹp, đầy cảm
xúc trong m hồn thi sĩ, nhẹ nhàng đi vào lòng người. Không phải xanh biếc, cũng không phải
xanh khai màn chỉ “xanh như ngọc" mới diễn tả được vẻ đẹp sum suê, sự sống của vườn
tược. Một màu xanh quý phái, không một chút ng, một màu xanh tỏa sáng tạo nên vẻ đẹp lấp
lánh, trong suốt làm cho vườn cây càng óng ánh lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng
không khí đang còn run rẩy sự thanh khiết nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy
làm hiện hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mắt thường chúng ta bỏ qua, Dạ - một làng
quê nằm bên bờ Hương Giang thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng,
những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn
hiện sau hàng cau, khóm trúc, đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn
tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ
Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng thiết tha yêu thương. Xa cách Huế Dạ đã bao năm
tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở
nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cổ đô thăm cảnh người xưa. Bức
tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
Bức tranh thiên nhiên hiện ra đẹp tuyệt vời và hài hòa tuyệt vời với hình ảnh con người. Con người
ở đây không xuất hiện một cách rõ ràng, không khoe khoang, cũng không phải những mặc khách
tạo nhân. Đó là những gương mặt hiền hậu, chân thành chân chất vẫn toát lên vẻ giản dị mộc
mạc chân phương, nét chữ diễn cứng cáp hài hòa với sự dịu dàng, nhẹ nhàng và cảnh đẹp nên thơ,
nên nhạc của xHuế: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhánh lá trúc
khuôn mặt chữ điền sao lại mối liên quan bất ngờ đẹp thế: những chiếc trúc thanh
thoát, duyên dáng che ngang khuôn mặt chữ điền. “Mặt chữ điền- khuôn mặt y chỉ hiện ra
thoáng qua sau lá trúc mơ hồ, ảo ảo thực thực. Thôn Vĩ nằm gần ngay bờ ng Hương em đếm nên
chắc chắn nhịp sống của con người đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm đềm của sông Hương:
“Dòng sông Hương vẫn êm đềm lững lờ trôi” - nhẹ nhàng mà cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng
quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm lưu luyến, nỗi mong nhớ, sầu muộn
hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên
bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:
“ Gió theo lối gió, mây đường mây
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Có chở trăng về kịp tối nay
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Thực tại phiêu diêu bắt đầu bao phủ cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió”
và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào
thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn của kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính đã tự
làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay
xa cách nhau, không còn bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn do để gặp nhau.
Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình
người yêu và cũng thể sự xa cách đó vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã một phế nhân,
đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như đoạn
trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất.
Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện
pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng.
“Dòng nước buồn” tự mang trong lòng một m trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió -
mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của
người dân nơi đây: một lối sống êm đềm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu
hắt một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, y đến dòng nước hoa bắp
trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn
xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả y giờ chỉ hư ảo trong mộng tưởng. Đêm đến, nỗi buồn
ấy kết hợp với cảnh lại càng thấm sâu, lan rộng hơn, như thấu vào tận tâm can của thi sĩ. Ánh
trăng bao trùm khắp không gian tạo nên dòng sông trăng, bến sông trăng thuyền chở trăng. Theo
phong cách thơ của Hàn Mặc Tử, ta cũng có thể hiểu là ánh trăng tạo nên một dòng sông, một con
thuyền, một bến đỗ. Không gian ở đây thật đẹp nhưng lạnh lẽo và hiu quạnh. Hình ảnh thuyền chở
trăng mang ý nghĩa biểu tượng khác với hình ảnh:
‘Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Trăng là bạn tri âm tri kỷ, thuyền chở trăng là biểu tượng cho khát khao được giao lưu, khát khao
được hạnh phúc của Hàn Mặc Tử. Tác giả hy vọng trăng schẳng như gió, y đang rời xa tác
giả mà trăng sẽ từ nơi xa để trở về. Tối nay là tối nào ta không biết rõ chỉ biết rằng thời gian của
tối nay sắp hết. Nếu thuyền chở trăng về kịp, tác giả sẽ được hạnh phúc, được sự sẻ chia
đồng cảm còn ngược lại tác giả sẽ chết đắm trong biển sầu cô độc, Trong tối nay, trăng như một
vị cứu tinh và tâm trạng của tác giả với trăng được thể hiện tập trung trong từ kịp”. Ở từ ngữ giản
dị này, ta thấy có sự đợi chờ trông ngóng, có hy vọng mong manh, có phấp phỏng lo âu. Từ “ kịp”
thể hiện tâm thể sống vội vàng của Hàn Mặc Tử. Nếu Xuân Diệu hoàn toàn chủ động trong sự vội
vàng và vội vàng vì muốn tận hưởng tất cả thì Hàn Mặc Tử lại hoàn toàn bị động trong sự vội vàng
sự vội vàng đó xuất phát từ nhận thức về một cái chết đang cận kề. biết thể sẽ ra đi bất
cứ lúc nào, biết rằng thời gian không còn nhiều, nên giờ đây thi nhân đang vô cùng khao khát, và
mọi niềm khao khát của Hàn Mặc Tử đều quy tụ về hình ảnh con người.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Con người đây được gọi “em” khách”, người em thôn nào đó. Nếu cách dùng từ
“em” thể hiện sự thân thiết, gần gũi thì cách dùng từ khách lại gợi sự xa lạ. Khách lại ở trên đường
xa, đi cùng với điệp khúc: "khách đường xa” nên càng xa lạ, xa cách hơn. Cách nói “ áo em trắng
quá nhìn không ravừa cách cực tả sắc trắng đến mức thị giác phải bất lực, vừa nhẫn mạnh
khoảng cách giữa nhân vật trữ tình em. Khách lại xuất hiện trong mơ, được nhìn qua sương
khói nên thêm phẩm hư ảo nhạt nhòa. “ Ở đây" là không gian gắn liền với cuộc sống của Hàn Mặc
Tử trong hiện tại, là nơi của cô độc, của bệnh tật giày vò. Nó hoàn toàn đối lập với ngoài kia bởi
ngoài kia đông vui, là hạnh phúc. Sương khói của cuộc đời đã tạo nên một khoảng cách cùng,
không thể nào thu hẹp, chẳng thể nào vượt qua giữa “ở đây” và “ngoài kia”. Nhận thức về điều đó,
Hàn Mặc Tử để thể hiện nỗi băn khoăn” Ai biết tình ai có đậm đà?” Đại từ “ai” có thể hiểu là tác
giả cũng có thể hiểu là người ngoài kia. Điều khiến thi sĩ băn khoăn ở đây chính là sự đậm đà của
tình người.
Với thể thơ thất ngôn, lời thơ biểu tượng siêu thực của phương Tây, nghệ thuật nhân hóa, bút pháp
gợi tả, bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con
người tha thiết yêu đời, yêu người. Qua bài thơ “Đây thôn Dạ” chúng ta phần nào thấy được
một bức tranh xHuế đẹp mộng mơ, tao nhã. Và trong cái khung cảnh đó, trái tim của người nghệ
sĩ, nhà thơ như Hàn Mặc Tử hay bất kỳ ai yêu thiên nhiên cũng thể bộc lộ được cái m trạng
cảm xúc của mình. Một xứ Huế đẹp mộng qua hình ảnh thôn “Vĩ Dạ” nhưng lại đượm buồn,
nhung nhớ. Bài thơ mượn hình ảnh thiên nhiên, để gột tả nên tâm trạng một con người đang
đơn và chờ đợi. Thôn chính là một hình ảnh đẹp về một vùng đất của xứ Huế sẽ làm say đắm
lòng người, và sẽ làm mê mẩn những tâm hồn thi sĩ. Bài thơ thể hiện một tình yêu thiên nhiên
tâm trạng của Hàn Mặc Tử thực sự rất sâu sắc bởi chính ông.
| 1/5

Preview text:

Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tài liệu hữu ích
nhằm giúp cho các em lớp 11 tự học một cách thuận lợi, đặc biệt là trong việc chuẩn bị bài ở
nhà trước khi đến lớp. Từ đó đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi sắp tới. Hãy
cùng tham khảo bài viết dưới đây chia sẻ nhé!

Mục lục bài viết
 Bài văn "Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ dạ"
Bài văn "Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ dạ"
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ xuất chúng nhất của thơ mới, ông sống ngắn ngủi trong
đời nhưng lại bất tử trong thơ. Ông viết thơ theo phong cách “thơ Điên”, theo lối siêu thực tượng
trưng, từ thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang thơ mới lãng mạn. Qua những bài thơ phức tạp
và đầy ẩn ý của Hàn Mặc Tử, người ta vẫn nhìn thấy rõ một tình yêu khổ đau với cuộc sống hiện
thực. Bài thơ Đây thôn vĩ dạ được viết năm 1938, in trong tập “Đau thương”, và đây cũng chính
là tiếng vang trong sáng từ bản giao hưởng đau buồn ấy. Sự ra đời của bài thơ có liên quan đến
tình cảm đơn phương của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc - một cô gái quê ở Vĩ Dạ, một
làng nhỏ bên sông Hương ở xứ Huế yên bình và trữ tình. Trong nỗi nhớ và niềm yêu với người
con gái xứ Huế, bài thơ còn khắc họa một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời nơi thôn Vĩ, qua đó
cũng phản ánh sâu sắc sự cô độc, tiếc thương và những nỗi buồn chất ngất trong lòng tác giả.
Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh tuyệt mỹ của thiên nhiên thôn Vĩ lúc bình minh:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ đầu tiên là câu hỏi tu từ đa ý nghĩa, ở đó có cả lời gợi nhớ, mời gọi, oán trách dịu dàng và
âu yếm. Người đặt ra câu hỏi ấy có thể là một cô gái thôn Vĩ trong tưởng tượng của tác giả, cũng
có thể là tác giả tự hỏi bản thân. Câu hỏi đầu tiên cũng là cái cớ nghệ thuật để giới thiệu về thôn
Vĩ. Ba câu thơ tiếp theo mỗi câu thơ là một nét vẻ đẹp hợp thành một bức tranh vườn tược kỳ diệu.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Nét riêng của thôn Vĩ quê hương người con gái được gợi mở ở câu đầu tiên đã được miêu tả rõ
nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện ra trước mắt người đọc. Nắng ở đây là nắng mới lên,
những tia nắng đầu tiên của một ngày, nó mang lại bao nét mới lạ, trong sáng rực rỡ mà vẫn êm
dịu. Những ngọn cau cao vút và bỗng nhiên trở nên tươi thắm lộng lẫy, tràn đầy sức sống trước
ánh nắng bình minh. Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng quê quê
hương đến thế. Câu thơ này bất ngờ khiến ta liên tưởng tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài
“Xuân lòng". Nắng mới, nắng xuân xuyên qua từng kẽ lá làm tan chảy những hạt sương đêm, nhỏ
giọt xanh như ngọc. Thiên nhiên xứ Huế xanh đẹp, sức sống tràn trề “màu xanh như ngọc”, tác giả
như bị cuốn hút sức sống, vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cô gái trách móc nhân vật trữ tình bằng
giọng nói nhẹ nhàng, nhưng đầy tình cảm và tế nhị. Câu trách của cô không làm người khác cảm
thấy khó chịu hay oán giận, mà chỉ toát lên sự quan tâm và yêu thương. Sau câu trách ấy là một
bức tranh thiên nhiên lãng mạn được miêu tả. Tác giả đã không chỉ dùng ngôn ngữ để vẽ tranh,
mà còn dùng cả cảm xúc trong lòng để tạo nên bức tranh đẹp đến ngỡ ngàng. Thiên nhiên trở nên
rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Từ “nắng mới lên” khiến người đọc liên tưởng đến ánh nắng
ban mai ấm áp, dịu dàng và thanh thoát. Nắng mới lên chiếu sáng hàng cau xanh biếc, tạo nên một
khung cảnh mát mẻ và trong lành.
Đối với tác giả, tình yêu say đắm mà ông dành cho nơi đây đã tạo nên những vần thơ đẹp, đầy cảm
xúc trong tâm hồn thi sĩ, nhẹ nhàng đi vào lòng người. Không phải xanh biếc, cũng không phải
xanh khai màn mà chỉ có “xanh như ngọc" mới diễn tả được vẻ đẹp sum suê, sự sống của vườn
tược. Một màu xanh quý phái, không một chút sóng, một màu xanh tỏa sáng tạo nên vẻ đẹp lấp
lánh, trong suốt làm cho vườn cây càng óng ánh lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng
không khí đang còn run rẩy sự thanh khiết nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy
làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua, Vĩ Dạ - một làng
quê nằm bên bờ Hương Giang thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng,
những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn
hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn
tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ
Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng thiết tha yêu thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm
tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở
nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cổ đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức
tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
Bức tranh thiên nhiên hiện ra đẹp tuyệt vời và hài hòa tuyệt vời với hình ảnh con người. Con người
ở đây không xuất hiện một cách rõ ràng, không khoe khoang, cũng không phải những mặc khách
tạo nhân. Đó là những gương mặt hiền hậu, chân thành chân chất mà vẫn toát lên vẻ giản dị mộc
mạc chân phương, nét chữ diễn cứng cáp hài hòa với sự dịu dàng, nhẹ nhàng và cảnh đẹp nên thơ,
nên nhạc của xứ Huế: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhánh lá trúc
và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh
thoát, duyên dáng che ngang khuôn mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” - khuôn mặt ấy chỉ hiện ra
thoáng qua sau lá trúc mơ hồ, ảo ảo thực thực. Thôn Vĩ nằm gần ngay bờ sông Hương em đếm nên
chắc chắn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm đềm của sông Hương:
“Dòng sông Hương vẫn êm đềm lững lờ trôi” - nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng
quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm lưu luyến, nỗi mong nhớ, sầu muộn
hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên
bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:
“ Gió theo lối gió, mây đường mây
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Có chở trăng về kịp tối nay”
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Thực tại phiêu diêu bắt đầu bao phủ cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió”
và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào
thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự
làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay
xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lý do gì để gặp nhau.
Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình
và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân,
đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn
trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất.
Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện
pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng.
“Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió -
mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của
người dân nơi đây: một lối sống êm đềm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu
hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp
trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn
xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Đêm đến, nỗi buồn
ấy kết hợp với cảnh lại càng thấm sâu, lan rộng hơn, nó như thấu vào tận tâm can của thi sĩ. Ánh
trăng bao trùm khắp không gian tạo nên dòng sông trăng, bến sông trăng và thuyền chở trăng. Theo
phong cách thơ của Hàn Mặc Tử, ta cũng có thể hiểu là ánh trăng tạo nên một dòng sông, một con
thuyền, một bến đỗ. Không gian ở đây thật đẹp nhưng lạnh lẽo và hiu quạnh. Hình ảnh thuyền chở
trăng mang ý nghĩa biểu tượng khác với hình ảnh:
‘Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Trăng là bạn tri âm tri kỷ, thuyền chở trăng là biểu tượng cho khát khao được giao lưu, khát khao
được hạnh phúc của Hàn Mặc Tử. Tác giả hy vọng trăng sẽ chẳng như gió, mây đang rời xa tác
giả mà trăng sẽ từ nơi xa để trở về. Tối nay là tối nào ta không biết rõ chỉ biết rằng thời gian của
tối nay sắp hết. Nếu thuyền chở trăng về kịp, tác giả sẽ có được hạnh phúc, có được sự sẻ chia
đồng cảm còn ngược lại tác giả sẽ chết đắm trong biển sầu cô độc, Trong tối nay, trăng như một
vị cứu tinh và tâm trạng của tác giả với trăng được thể hiện tập trung trong từ “ kịp”. Ở từ ngữ giản
dị này, ta thấy có sự đợi chờ trông ngóng, có hy vọng mong manh, có phấp phỏng lo âu. Từ “ kịp”
thể hiện tâm thể sống vội vàng của Hàn Mặc Tử. Nếu Xuân Diệu hoàn toàn chủ động trong sự vội
vàng và vội vàng vì muốn tận hưởng tất cả thì Hàn Mặc Tử lại hoàn toàn bị động trong sự vội vàng
và sự vội vàng đó xuất phát từ nhận thức về một cái chết đang cận kề. Vì biết có thể sẽ ra đi bất
cứ lúc nào, biết rằng thời gian không còn nhiều, nên giờ đây thi nhân đang vô cùng khao khát, và
mọi niềm khao khát của Hàn Mặc Tử đều quy tụ về hình ảnh con người.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Con người ở đây được gọi là “em” là “ khách”, là người em thôn Vĩ nào đó. Nếu cách dùng từ
“em” thể hiện sự thân thiết, gần gũi thì cách dùng từ khách lại gợi sự xa lạ. Khách lại ở trên đường
xa, đi cùng với điệp khúc: "khách đường xa” nên càng xa lạ, xa cách hơn. Cách nói “ áo em trắng
quá nhìn không ra” vừa là cách cực tả sắc trắng đến mức thị giác phải bất lực, vừa nhẫn mạnh
khoảng cách giữa nhân vật trữ tình và em. Khách lại xuất hiện trong mơ, được nhìn qua sương
khói nên thêm phẩm hư ảo nhạt nhòa. “ Ở đây" là không gian gắn liền với cuộc sống của Hàn Mặc
Tử trong hiện tại, là nơi của cô độc, của bệnh tật giày vò. Nó hoàn toàn đối lập với ngoài kia bởi
ngoài kia là đông vui, là hạnh phúc. Sương khói của cuộc đời đã tạo nên một khoảng cách vô cùng,
không thể nào thu hẹp, chẳng thể nào vượt qua giữa “ở đây” và “ngoài kia”. Nhận thức về điều đó,
Hàn Mặc Tử để thể hiện nỗi băn khoăn” Ai biết tình ai có đậm đà?” Đại từ “ai” có thể hiểu là tác
giả cũng có thể hiểu là người ngoài kia. Điều khiến thi sĩ băn khoăn ở đây chính là sự đậm đà của tình người.
Với thể thơ thất ngôn, lời thơ biểu tượng siêu thực của phương Tây, nghệ thuật nhân hóa, bút pháp
gợi tả, bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con
người tha thiết yêu đời, yêu người. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chúng ta phần nào thấy được
một bức tranh xứ Huế đẹp mộng mơ, tao nhã. Và trong cái khung cảnh đó, trái tim của người nghệ
sĩ, nhà thơ như Hàn Mặc Tử hay bất kỳ ai yêu thiên nhiên cũng có thể bộc lộ được cái tâm trạng
cảm xúc của mình. Một xứ Huế đẹp mộng mơ qua hình ảnh thôn “Vĩ Dạ” nhưng lại đượm buồn,
nhung nhớ. Bài thơ mượn hình ảnh thiên nhiên, để gột tả nên tâm trạng một con người đang cô
đơn và chờ đợi. Thôn Vĩ chính là một hình ảnh đẹp về một vùng đất của xứ Huế sẽ làm say đắm
lòng người, và sẽ làm mê mẩn những tâm hồn thi sĩ. Bài thơ thể hiện một tình yêu thiên nhiên và
tâm trạng của Hàn Mặc Tử thực sự rất sâu sắc bởi chính ông.