Hình thức cấu trúc nhà nước là gì? Phân tích hình thức nhà nước

Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chức và phân bố quyền lực nhà nước theo lãnh thổ, mối quan hệ giữa các chú thể lãnh thổ đó của quyền lực nhà nước. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:
Trường:

Tài liệu khác 747 tài liệu

Thông tin:
9 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Hình thức cấu trúc nhà nước là gì? Phân tích hình thức nhà nước

Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chức và phân bố quyền lực nhà nước theo lãnh thổ, mối quan hệ giữa các chú thể lãnh thổ đó của quyền lực nhà nước. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

7 4 lượt tải Tải xuống
Hình thức cấu trúc nhà nước là gì? Phân tích hình thức nhà
nước
Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chức và phân bố quyền lực nhà nước theo lãnh thổ, mối quan
hệ giữa các chú thể lãnh thổ đó của quyền lực nhà nước. Bài viết phân tích về hình thức cấu trúc của nhà
nước và sự biến đối của hình thức cấu trúc qua các kiểu nhà nước:
1. Một số vấn đề chung về hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc là một trong ba yếu tố cấu thành hình thức nhà nước: hình thức cấu trúc, hình thức
chính thể, chế độ chính trị. Có 3 hình thức cấu trúc: nhà nước đơn nhất, nhà nước liên bang và nhà nước
liên minh.
1. Nhà nước đơn nhất là một nhà nước thống nhất, trong đó, lãnh thổ quốc gia được chia thành các đơn vị
hành chính lãnh thổ. Gọi là đơn nhất vì trong cấu trúc của nhà nước chỉ có một Hiến pháp; một hệ thống
duy nhất các cơ quan thể hiện quyển lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp; một hệ thống pháp luật
thống nhất; một quy chế công dân duy nhất; một chế độ quốc tịch. Đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay
có hình thức cấu trúc đơn nhất như: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Pháp, Nhật, Hàn
Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cuba...
2. Nhà nước liên bang là sự liên kết, hợp thành từ các bang, các vùng lãnh thổ có chủ quyền, các nhà nước
thành viên thành một nhà nước thống nhất, trong mỗi bang, vùng lãnh thổ có chủ quyền, mỗi nhà nước
thành viên có Hiến pháp, có Quốc hội, Chính phủ, Toà án tối cao; có quy chế công dân, quốc tịch riêng. Các
nước như. Nga, Đức, Hoa Kì, Ôxtrâylia, Canađa, Malaixia... là những nhà nước liên bang.
3. Nhà nước liên minh là nhà nước được hình thành từ sự liên kết của các quốc gia có chủ quyền, tự
nguyện hợp thành một liên minh tự nguyện nhằm thoả mãn những lợi ích chung nhất định về nhiệm vụ
chính trị, kinh tế hoặc quốc phòng. Nhà nước liên minh có thể chỉ là một liên minh nhất thời như liên minh
các bang Bắc Mĩ trong thời gian từ năm 1781 đến năm 1787, để sau đó được tổ chức lại thành một Nhà
nước liên bang. Liên minh Thụy Sĩ, liên minh các bang của Đức thế kỉ XIX cũng mang tính chất tương tự.
Nhà nước liên minh hiện nay đang tồn tại là Liên minh châu Âu (EU).
2. Phân tích hình thức của nhà nước thông qua các kiểu nhà
nước?
Hình thức nhà nước của các nước chịu sự tác động của nhiều yếu tố, bởi vậy, từ quốc gia này sang quốc
gia khác, từ thời đại này sang thời đại khác, hình thức nhà nước có nhiều khác biệt. Có thể thấy rõ điều này
khi xem xét sự biến đổi của tất cả các yếu tố cấu thành hình thức nhà nước qua các kiểu nhà nước.
2.1 Hình thức chính thể
Hình thức chính thể của nhà nước rất đa dạng, phong phú với những biểu hiện khác nhau qua các kiểu nhà
nước, điều đó thế hiện rõ qua sự biến đổi của từng dạng chính thể cơ bản.
Thứ nhất, sự biến đổi của chinh thể quân chủ
Chính thể quân chủ tồn tại trong ba kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản, song biểu hiện của chính
thể này trong mỗi kiểu nhà nước lại có những nét riêng. Trong nhà nước chủ nô, chính thể quân chủ chỉ có
dạng quân chủ tuyệt đối và chủ yếu tồn tại ở phương Đông, ở phương Tây, chính thể quân chủ hình thành
tương đối muộn, nó xuất hiện khi chính thể cộng hoà không còn đáp ứng được đòi hỏi của tình hình thực
tiễn lúc bấy giờ.
Sang thời kì phong kiến, phổ biến là chính thể quân chủ tuyệt đối, tất nhiên chính thể này có biểu hiện khác
nhau ở các giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến cũng như ở các khu vực khác nhau trên thế giới, ở
phương Đông, nhìn chung các nhà nước đều có chính thể quân chủ tuyệt đối. Ở phương Tây thời kì phân
quyền cát cứ, về mặt pháp lí, toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhà vua, các lãnh chúa phải
tuyệt đối thần phục nhà vua, phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, triều cống cho nhà vua. Tuy nhiên, trên thực
tế, sự thần phục đó chỉ mang tính hình thức, khi thế lực của lãnh chúa ngày càng lớn mạnh, họ tìm cách
thoát khỏi vòng kiềm toả của nhà vua, không phục tùng nhà vua và thậm chí còn khống chế cả nhà vua. Khi
chế độ trung ương tập quyền được thiết lập thì quyền lực nhà nước mới thực sự tập trung vào trong tay nhà
vua. Sự thiết lập chế độ trung ương tập quyền được giải thích bằng nhiều lí do, có thể là do sự đấu tranh
của tầng lóp thị dân, những người làm nghề thủ công và buôn bán; do sự đẩu tranh của các lãnh chúa nhỏ
và vừa; do nhu cầu phải tập trung lực lượng để chống lại các cuộc khởi nghĩa chống chế độ phong kiến
ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt...
Chính thể quân chủ đại diện đẳng cấp hình thành ở các nước châu Âu trong thế kỉ XIII, XIV. Bên cạnh vua
còn có một cơ quan gồm đại diện của các đẳng cấp trong xã hội, nó được thành lập ra để nhà vua tham vấn
ý kiến khi cần thiết, nhất là trong việc ban hành các quy định về thuế... Cơ quan đại diện các đẳng cấp chính
là tiền thân của nghị viện sau này. Sự tồn tại của thiết chế này cho thấy đã có những dấu hiệu ban đầu về
việc hạn chế quyền lực của nhà vua.
Trong các nhà nước tư sản, chính thể quân chủ tuyệt đối hầu như không còn tồn tại. Thực tế cho thấy,
chính thể quân chủ trong nhà nước tư sản chỉ bao gồm hình thức quân chủ hạn chế với hai dạng cụ thể là
quân chủ nhị họp và quân chủ đại nghị. Chính thể quân chủ hạn chế trong nhà nước tư sản còn được gọi là
chính thể quân chủ lập hiến vì sự ra đời của chính thể này gắn liền sự xuất hiện của hiến pháp và chính
hiến pháp là phương tiện để hạn chế quyền lực của nhà vua.
Chỉnh thể quân chủ nhị hợp có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Quyền lực nhà nước về cơ bản được chia cho hai cơ quan là nghị viện và nhà vua, trong đó nghị viện
nắm quyền lập pháp và nhà vua nắm quyền hành pháp. Nhà vua bị hạn chế quyền lực trong lĩnh vực lập
pháp nhưng vẫn trực tiếp nắm quyền hành pháp.
+ Nhà vua vừa đứng đầu quốc gia, vừa đứng đầu chính phủ, có toàn quyền bổ nhiệm các bộ trưởng. Các
bộ trưởng được gọi là bộ trưởng của nhà vua, vừa chịu trách nhiệm trước nhà vua, vừa phải chịu trách
nhiệm trước nghị viện. Bộ trưởng có thể bị nhà vua cách chức, bên cạnh đó, nếu bị nghị viện bất tín nhiệm,
bộ trưởng phải từ chức, do vậy, bộ trưởng được ví là “nàng dâu có hai bà mẹ chồng”.
+ Nhà vua có quyền phủ quyết các đạo luật do nghị viện thông qua và ngược lại, nghị viện có quyền luận tội
nhà vua và các bộ trưởng.
Chính thể này đã tồn tại ở nước Anh trong thể kỉ XVII, XVIII, ở Đức theo Hiến pháp năm 1871 và ở Nhật
theo Hiến pháp năm 1889.
Chỉnh thể quân chủ đại nghị (quân chủ nghị viện) có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Quyền lực của nhà vua bị hạn chế trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lập pháp
thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về chính phủ, đứng đầu là thủ tướng.
+ Quyền lực của nhà vua chỉ mang tính chất hình thức, nghi lễ và tượng trưng. Nhà vua là nguyên thủ quốc
gia, người đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội và đối ngoại, nhưng không
trực tiếp giải quyết các công việc của nhà nước, không có thực quyền. Mọi hoạt động của nhà vua chỉ là sự
chính thức hoá về mặt nhà nước các hoạt động “đã rồi” của cả nghị viện và chính phủ. Nhà vua được coi là
biểu tượng cho truyền thống và sự vững bền của dân tộc, sự thống nhất của quốc gia, nhà vua “ngự trị
nhưng không cai trị”. Nhà vua có thể được hưởng những đặc quyền nhất định, kể cả đặc quyền “vô trách
nhiệm”, nghĩa là nhà vua không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về các hoạt động của mình.
+ Chính phủ được hình thành bằng con đường nghị viện dựa trên kết quả bầu cử nghị viện (hạ nghị viện),
chính phủ phải chịu
trách nhiệm trước nghị viện. Thủ tướng thực sự là nhân vật trung tâm của bộ máy nhà nước, là người
hoạch định và thực thi đường lối quốc gia.
Hình thức chính thể này hiện đang tồn tại ở một số nhà nước tư sản như Anh, Nhật, Thụy Điển...
Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa thì chính thể quân chủ hoàn toàn không còn tồn tại.
Thứ hai, sự biến đổi của chinh thể cộng hoà
Tương tự như chính thể quân chủ, chính thể cộng hoà cũng có sự biến đổi qua các kiểu nhà nước. Ở nhà
nước chủ nô, chính thể cộng hoà có cả hai dạng là cộng hoà quý tộc và cộng hoà dân chủ. Chính thể cộng
hoà quý tộc đã tồn tại ở Nhà nước La Mã từ thế kỉ IV đến I TCN và ở Nhà nước sparte từ thế kỉ VII đến thế
kỉ IV TCN. Trong Nhà nước Sparte, về mặt pháp lí, Đại hội nhân dân là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà
nước, nhưng vai trò của cơ quan này rất hạn chế vì quyền lực của nó chỉ mang tính hình thức trong việc
quyết định các vấn đề quan trọng. Trên thực tế, quyền lực thuộc về Hội đồng trưởng lão do tầng lóp quý tộc
bầu ra gồm 28 thành viên đại diện cho 28 bộ lạc do giới quý tộc bầu ra từ hàng ngũ quý tộc. Hội đồng
trưởng lão có quyền ban hành pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng, mặc dù các vấn đề này phải
được đưa ra trước Đại hội nhân dân để họ thông qua hoặc phản đối. Giới quý tộc bầu ra hai “vua” (thủ lĩnh)
có quyền lực ngang nhau và ngang quyền với Hội đồng trưởng lão. Ngoài ra, Nhà nước Sparte còn có Hội
đồng giám sát gồm năm người, là đại diện cho tầng lớp quý tộc giàu có lớp trên được giới quý tộc bầu ra và
có quyền lực rất lớn, có thể kiểm soát hoạt động của cả Hội đồng trưởng lão và cả hai “vua”. Nhà nước La
Mã cũng có Đại hội nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất của quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, quyền lực
của Đại hội nhân dân cũng chỉ mang tính hình thức vì thực quyền nằm trong tay Viện nguyên lão, bao gồm
các nhà quý tộc có thế lực nhất từ 60 tuổi trở lên và được bầu giữ chức vụ suốt đời. Viện nguyên lão có
quyền quyết định về cơ bản những vấn đề trọng yếu của nhà nước như xem xét trước các dự luật, phê
chuẩn các nghị quyết của Đại hội nhân dân. Một Hội đồng chấp chính được bầu ra từ hàng ngũ đại quý tộc
làm nhiệm vụ điều hành đất nước và quản lí xã hội theo nhiệm kì một năm.
Chính thể cộng hoà dân chủ đã xuất hiện ở Athens, trong thời gian từ thế kỉ V đến thế kỉ IV TCN. Ở đây, các
cơ quan quyền lực nhà nước đều được hình thành bằng con đường bầu cử và hoạt động theo nhiệm kì. Đại
hội nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bao gồm tất cả những nam công dân từ 18 tuổi trở
lên. Đại hội họp theo định kì, có quyền thảo luận và biểu quyết tất cả những vấn đề hệ trọng của đất nước,
thông qua hay phủ quyết các dự luật, bầu các viên chức của bộ máy nhà nước. Mỗi công dân đều có quyền
bày tỏ quan điểm của mình về tất cả các vấn đề mà họ quan tâm, có quyền yêu cầu đại hội huỷ bỏ các đạo
luật nếu nội dung của nó làm tổn hại tới nền dân chủ. Cơ quan hành chính cao nhất là một hội đồng do Đại
hội nhân dân bầu ra với nhiệm kì một năm. Toà án là cơ quan xét xử chuyên nghiệp (có tới 6000 thẩm
phán). Tất cả mọi người tham dự phiên toà đều có quyền công khai kết tội hoặc bào chữa cho bị can. Đe
ngăn chặn những mưu đồ phá hoại nền dân chủ, nhà nước đặt ra chế độ bỏ phiếu bằng vỏ sò để chỉ ra
những người có hành vi quá khích không có lợi cho nền dân chủ, quy định các nhà soạn luật phải chịu trách
nhiệm về nội dung và hậu quả của những dự luật do họ soạn thảo. Để mở rộng quyền dân chủ cho các
công dân, nhà nước đã thực hành chế độ bầu cử các quan chức nhà nước bằng phương pháp bốc thăm.
Có thể nói, nhà nước Athens là đỉnh cao của nền dân chủ cổ đại, niềm tự hào và kinh nghiệm của nhân loại.
Tuy nhiên đó vẫn chỉ là nền dân chủ của giai cấp chủ nô, nền chuyên chính của giai cấp thống trị, do vậy,
nhà nước Athens vẫn còn nhiều hạn chế. Quyền tự do dân chủ trong xã hội chỉ thuộc về thiểu số dân tự do
trong khi nô lệ, kiều dân chiếm đại đa số, họ là lực lượng sản xuất cơ bản nuôi sống toàn bộ xã hội Athens
nhưng không có quyền công dân. Mặt khác, chỉ những nam công dân từ 18 tuổi trở lên và có cha mẹ đều là
người Athens mới được tham dự Đại hội nhân dân để thực hiện quyền tự do dân chủ. Dân tự do có nguồn
gốc là những nô lệ được giải phóng, những người có bố hoặc mẹ không phải là người Athens, phụ nữ
không được tham gia bầu cử.
Trong nhà nước phong kiến, chính thể cộng hoà chỉ được thiết lập ở một số thành phố lớn của châu Âu
trong thế kỉ XVI. Sau khi giành được quyền tự trị từ tay lãnh chúa bằng các con đường khác nhau như mua
bằng tiền từ tay lãnh chúa; chiến thắng trong các cuộc đấu tranh quân sự chống lãnh chúa; trả tiền cho nhà
vua để nhà vua bảo vệ quyền tự quản của thành phố, cư dân thành phố thành lập ra Hội đồng thành phố
bằng con đường bầu cử dân chủ. Hội đồng giao quyền quản lí từng lĩnh vực cụ thể cho các uỷ viên của Hội
đồng, do vậy nó mang tính chất của chính thể cộng hoà dân chủ.
Chính thể cộng hòa trong các nhà nước tư sản chỉ bao gồm cộng hoà dân chủ với ba hình thức cơ bản là
cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị (cộng hòa nghị viện) và cộng hoà hỗn họp (cộng hoà lưỡng tính).
Cộng hoà tổng thống là hình thức tổ chức bộ máy nhà nước thể hiện sự áp dụng nguyên tắc phân quyền
một cách cứng rắn, rõ rệt nhất. Hình thức này được hình thành ở Mỹ theo Hiến pháp năm 1787, sau đó, nó
được áp dụng ở một số nước khác như các nước ở Trung và Nam Mỹ, Philippines và một số nước khác. Ở
các nhà nước có chính thể cộng hoà tổng thống, quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc
về tổng thống và quyền tư pháp thuộc về hệ thống toà án, điều này được minh định cụ thể trong hiến pháp.
Chính thể cộng hoà tổng thống có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Tổng thống vừa là người đứng đầu quốc gia, vừa là người đứng đầu chính phủ, trong bộ máy nhà nước
không có chức vụ thủ tướng. Tổng thống có quyền lực rất lớn, vừa là trung tâm của bộ máy nhà nước, vừa
là trung tâm quyết sách của chính phủ.
+ Tổng thống nắm toàn quyền hành pháp. Tổng thống thành lập nội các từ số các chính khách không phải
là nghị sĩ để bảo đảm sự độc lập giữa nghị viện và chính phủ. Tổng thống tự mình lựa chọn, bổ nhiệm và
miễn nhiệm các bộ trưởng và nghị viện sẽ phê chuẩn sự lựa chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm đó.
+ Tổng thống và nghị viện đều do cử tri bầu ra nên có thể độc lập với nhau, tổng thống chỉ chịu trách nhiệm
trước cử tri mà không phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, về mặt pháp lí, tổng thống không có quyền nêu
sáng kiến xây dựng luật và không có quyền giải tán nghị viện trước thời hạn, đồng thời, nghị viện cũng
không có quyền lật đổ chính phủ.
+ Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật mà nghị viện đã thông qua, ngược lại, nghị viện có quyền
khởi tô và xét xử tổng thống và các thành viên của chính phủ theo thủ tục “đàn hặc” khi những người này vi
phạm công quyền.
Cộng hoà đại nghị (cộng hoà nghị viện) là hình thức chính thể có nhiều nét tương tự như chính thể quân
chủ đại nghị (quân chủ nghị viện). Chính thể cộng hoà đại nghị có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Trong bộ máy nhà nước vừa có chức vụ tổng thống, vừa có chức vụ thủ tướng, tổng thống đứng đầu nhà
nước, thủ tướng đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp do hai bộ phận nắm giữ là tổng thống và chính phủ
(mà chủ yếu là nội các).
+ Tổng thống do nghị viện bầu ra, được Hiến pháp quy định khá nhiều quyền song đó chỉ là những quyền
có tính chất đại diện cho nhà nước, còn trên thực tế tổng thống không có thực quyền, không trực tiếp tham
gia giải quyết các công việc của nhà nước. Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong việc điều hành nhà nước
chỉ mang tính chất hình thức, nghi lễ và tượng trưng. Tổng thống bổ nhiệm các thành viên của chính phủ
không phải theo ý minh mà từ đại diện của đảng hoặc liên minh của các đảng có đa số ghế trong nghị viện.
Tổng thống thực hiện các quyền của mình theo ý chí của chính phủ, kể cả quyền giải tán nghị viện trước
thời hạn. Mọi hoạt động của tổng thống chỉ là sự phê chuẩn các hoạt động đã rồi của chính phủ.
+ Tổng thống có thể “vô trách nhiệm” về chính trị, tức là không phải chịu tường trình trước quốc hội về
những việc mình làm và trả lời chất vấn của quốc hội, đồng thời có thể “vô trách nhiệm” về hình sự, tức là
không phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của mình trừ khi phạm phải một số tội hình nghiêm trọng
như phản bội tổ quốc, xâm phạm hiến pháp... Tuy nhiên, cũng có nước quy định tổng thống phải chịu trách
nhiệm trước quốc hội, ví dụ, Điều 142 Hiến pháp Áo quy định: “Tổng thống Liên bang chịu trách nhiệm về
việc thực hiện các chức năng của mình trước Quốc hội Liên bang”.
+ Chính phủ là cơ quan nắm quyền hành pháp, chính phủ được thành lập từ phe đa số trong nghị viện. Thủ
tướng là người đứng đầu chính phủ, cũng là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Thủ tướng là lãnh tụ của
đảng cầm quyền, người chủ trì các cuộc họp chính phủ, định ra các chính sách, lựa chọn các nhân viên
chính phủ... Nội các là trụ cột và trung tâm quyết sách của toàn bộ các cơ quan hành chính nhà nước nên
chính thể này còn được gọi là chế độ nội các.
+ Nghị viện có quyền lực tối cao, chính phủ do nghị viện lập ra và chịu sự giám sát của nghị viện. Nghị viện
có quyền bất tín nhiệm chính phủ, khi đó chính phủ có thể phải từ chức. Các bộ trưởng phải chịu trách
nhiệm trước nghị viện, kể cả trách nhiệm liên đới và trách nhiệm cá nhân.
Cộng hoà hỗn hợp (cộng hoà lưỡng tỉnh) là hình thức chính thể vừa có những đặc trưng của chính thể cộng
hoà tổng thống, vừa có những đặc trưng của cộng hoà đại nghị. Chính thể cộng hoà hỗn hợp hiện đang tồn
tại ở Pháp, Bồ Đào Nha, Nga. Chính thể này có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Tổng thống là nhân vật trung tâm của quyền lực nhà nước. Tổng thống có quyền lực rất lớn, kể cả quyền
giải tán nghị viện trước thời hạn. Tổng thống có tác động khá mạnh mẽ và nhiều khi có ý nghĩa quyết định
đối với việc ban hành luật. Có nước còn cho phép tổng thống ban hành các văn bản quy phạm có giá trị
như luật trong những lĩnh vực không thuộc thẩm quyền ban hành luật của nghị viện, hoặc nghị viện có thể
uỷ quyền cho tổng thống ban hành luật trong những trường hợp nhất định.
+ Chính phủ do tổng thống bổ nhiệm, về mặt pháp lí, tổng thống không đứng đầu chính phủ mà người đứng
đầu chính phủ là thủ tướng, song tổng thống lại có quyền điều hành các hoạt động của chính phủ. Mặc dù
pháp luật quy định chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, song khả năng của nghị viện trong việc
kiểm tra các hoạt động của chính phủ rất hạn chế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có chính thể cộng hoà dân chủ, tuy nhiên ở những nước khác nhau, chính
thể cộng hoà dân chủ xã hội chủ nghĩa có những biếu hiện khác nhau. Ớ các nước đang trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đồng thời là cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân do cử tri cả nước trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu và có
thể bị nhân dân bãi miễn. Cơ quan này có quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của nhà
nước, thành lập các cơ quan cấp cao khác của nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
đó...
Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tồn tại các dạng chính thể cộng hoà đó là:
Công xã Pari là Nhà nước ra đời sau cuộc khởi nghĩa của công nhân lao động Pari ngày 18/3/1871 với sự
trợ giúp của đội Vệ binh cộng hoà của Chính phủ Thiers. Sau khi giành được chính quyền, theo nguyên tắc
bầu cử phổ thông, nhân dân lao động Pari đã bầu ra Hội đồng công xã là cơ quan quyền lực cao nhất của
Công xã, bao gồm các uỷ viên xuất thân từ công nhân, họ có thể bị Hội đồng bãi miễn khi không còn xứng
đáng. Hội đồng công xã vừa là cơ quan đại diện vừa là cơ quan hành động, vừa lập pháp vừa hành pháp,
việc quản lí các lĩnh vực hoạt động của Công xã do các uỷ ban của Hội đồng thực hiện.
Cộng hoà Xô Viết xuất hiện ở nước Nga lần đầu tiên năm 1905, sau đó được thiết lập lại ở đây vào năm
1917, sau Cách mạng tháng Mười Nga. Xô Viết là các hội đồng đại biểu các tầng lớp nhân dân. Trong thời
gian đầu (từ năm 1917 - 1936), chỉ có Xô Viết quận, huyện trở xuống mới được hình thành bằng con đường
bầu cử trực tiếp; trong thời kì này quyền bầu cử các Xô Viết được ưu tiên cho giai cấp công nhân - Nhà
nước Xô Viết tước quyền bầu cử của tầng lớp bóc lột cũ, công khai quy định quyền ưu tiên trong bầu cử
cho công nhân, quy định tỉ lệ đại biểu/cử tri ở thành phố là 1/25000, ở nông thôn là 1/125000; các Xô Viết
cấp trên tồn tại dưới hình thức Đại hội Xô Viết do Xô Viết cấp dưới bầu ra và chỉ có quyền lực trong thời
gian đại hội. Sau khi hoàn thành cải tạo tư sản, theo Hiến pháp năm 1936, nền dân chủ được mở rộng, Nhà
nước Xô Viết có một hệ thống các cơ quan Xô Viết từ trung ương tới địa phương được hình thành theo
nguyên tắc bầu cử phổ thông. Trong đó, Xô Viết tối cao giữ vai trò rất quan trọng, thực chất quyền lực tối
cao của nhà nước hầu như tập trung trong tay Xô Viết tối cao.
Cộng hoà dân chủ nhân dân là hình thức nhà nước đã được thành lập ở các nước Đông Âu, Trung Quốc,
Việt Nam... Đa số các nhà nước nói trên ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai, cách mạng ở các nước này
thường trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống
chính trị của những nước này luôn tồn tại tổ chức mặt trận đoàn kết dân tộc và có sự hiệp thương giữa các
lực lượng xã hội khác nhau để tổ chức chính quyền. Ngay từ thời kì mới ra đời, các nhà nước này đều đã
có một hệ thống cơ quan đại diện từ trung ương tới địa phương được hình thành theo nguyên tắc bầu cử
bình đẳng phổ thông.1
Cộng hoà Cuba được thiết lập ở Cuba ngày 01/01/1959. Cách mạng Cuba chuyển nhanh từ cách mạng dân
chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính quyền ở đây được xây dựng chủ yếu dựa vào lực
lượng quân đội. Trong thời gian đầu Tổng thống và Chính phủ cùng cầm quyền, vừa lập pháp vừa hành
pháp, Nhà nước không có hệ thống cơ quan đại diện từ trung ương tới địa phương, nên phải sử dụng
phương pháp dân chủ trực tiếp. Đến năm 1992, chế độ bầu cử bình đẳng phổ thông mới được thiết lập ở
Cuba.
2.2 Hình thức cấu trúc nhà nước
Các nhà nước chủ nô, phong kiến hầu như đều có cấu trúc đơn nhất, hãn hữu mới gặp cấu trúc liên bang.
Ở Trung Quốc hiện nay, cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu đại hội nhân dân cấp cơ SỞ; sau đó, đại hội đại biểu
nhân dân cấp dưới bầu ra đại hội đại biểu nhân dân cấp trên; đại hội đại biểu nhân dân cấp tỉnh bầu ra đại
hội đại biểu nhân dân toàn quốc… Có tài liệu cho rằng, Nhà nước Cộng hoà Gugenôtốp thế kỉ XVI (thuộc
phía Nam nước Pháp ngày nay) là một nhà nước liên bang. Khi nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ
nghĩa ra đời, hình thức cấu trúc liên bang mới trở thành phổ biến.
Nhiều nhà nước chủ nô khi mới hình thành, chưa biết tổ chức quyền lực nhà nước thành các cấp theo đơn
vị hành chính lãnh thổ. Cùng với sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ, lãnh thổ quốc gia được mở rộng,
dần cư ngày càng đông đảo hơn, chức năng nhà nước trở nên phức tạp hơn... các nhà nước từng bước tổ
chức chính quyền theo đơn vị hành chính lãnh thổ, hình thành nên bộ máy nhà nước từ trung ương xuống
địa phương. Ở nhiều nhà nước chủ nô, ngay từ đầu đã thiết lập chế độ trung ương tập quyền, địa phương
là cấp dưới của trung ương, phục tùng trung ương một cách tuyệt đối. Ở một số quốc gia phương Đông,
ngay trong thời kì cổ đại đã tồn tại chế độ phân quyền cát cứ. Các thế lực chư hầu ban đầu được nhà vua
trung ương phong chức tước và ban cấp đất đai, trực tiếp cai quản phần lãnh thổ được phân phong đó. Tuy
nhiên, về sau, thế lực của các chư hầu ngày càng lớn mạnh, chèn ép các chư hầu khác, lấn át chính quyền
nhà vua trung ương.
Trong nhà nước phong kiến, ở phương Đông, trong suốt quá trình phát triển của chế độ phong kiến, mặc dù
yếu tố phân quyền cát cứ có xuất hiện và tồn tại trong những thời gian nhất định, tuy nhiên xu hướng chung
đều là trung ương tập quyền với sự phục tùng tuyệt đối của chính quyền địa phương đối với chính quyền
trung ương. Ngược lại, ở phương Tây, nhà nước phong kiến đã phát triển qua hai giai đoạn, ban đầu là thời
kì phân quyền cát cứ, về sau yếu tố trung ương tập quyền mới được thiết lập.
Hình thức cấu trúc của nhà nước tư sản và nhà nước xã hội • chủ nghĩa khá đa dạng, phong phú. Nhìn
chung, các nhà nước này đều có hiến pháp và các quy định pháp luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước.
Nhờ vậy, mô hình tổ chức, sự phân định thẩm quyền, mối quan hệ giữa trung ương với địa phương cũng
như giữa các cấp chính quyền địa phương đều được xác lập và điều chỉnh bằng pháp luật.
Thực tế cho thấy, cách thức tổ chức chính quyền địa phương các nhà nước đương đại khá đa dạng và
phức tạp, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước. Tựu trung lại có thể chia thành một số mô hình tổ chức
chính quyền địa phương: Một là, địa phương đơn thuần là cấp dưới của trung ương, phục tùng trung ương
một cách tuyệt đối. Việc tổ chức chính quyền địa phương là do trung ương quy định, địa phương không có
quyền ban hành pháp luật, chỉ thực hiện thẩm quyền do trung ương quy định. Hai là, địa phương không
hoàn toàn phụ thuộc vào trung ương. Việc tổ chức chính quyền địa phương là do trung ương quy định,
nhưng địa phương không chỉ đơn thuần thực hiện thẩm quyền theo quy định do trung ương ban hành, ở
một số lĩnh vực nó có thể có quyền ban hành pháp luật, và quản lí điều hành theo quy định đó. Nói cách
khác, thẩm quyền của địa phương vừa do trung ương quy định, vừa do chính nó quy định. Ba là, địa
phương phụ thuộc hạn chế vào trung ương về chính trị; các lĩnh vực kinh tế xã hội khác do địa phương
hoàn toàn tự quản. Bổn là, địa phương gần như một nhà nước hoàn toàn độc lập, nó chỉ phụ thuộc vào
trung ương về quốc phòng.
Có thể nói, nhà nước liên bang chỉ xuất hiện sau khi nhà nước tư sản ra đời. Hình thức cấu trúc này tồn tại
khá phổ biến trong các nhà nước đương đại. Tùy thuộc vào con đường hình thành liên bang mà ở mỗi nhà
nước liên bang, mối quan hệ giữa chính quyền liên bang và chính quyền các bang có những đặc thù riêng.
Ở một số nhà nước liên bang, các bang vốn là những nhà nước hoàn toàn độc lập, khi gia nhập liên bang,
một phần chủ quyền quốc gia của các nhà nước thành viên được chuyển giao cho nhà nước liên bang, tuy
nhiên các nhà nước thành viên vẫn nắm giữ chủ quyền của mình ở mức độ nhất định. Ở nhiều nhà nước
liên bang khác, các bộ phận họp thành liên bang có vị thế tương đối yếu. Ở một số nhà nước liên bang,
pháp luật cho phép tự do gia nhập, tự do tách khỏi liên bang; ở một số nước khác pháp luật không cho
phép tự ý tách ra khỏi liên bang để trở thành nhà nước độc lập.
2.3 Chế độ chính trị
Trong nhà nước chủ nô đã tồn tại cả chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ. Tuy nhiên,
chế độ dân chủ trong nhà nước chủ nô còn nhiều hạn chế, mang đậm dấu ấn của nền dân chủ nguyên thủy.
Trong nhà nước phong kiến, chế độ chính trị ở hầu hết các nhà nước đều là phản dân chủ.
Trong nhà nước tư sản, chế độ chính trị cũng tồn tại cả hai dạng là dân chủ và phản dân chủ. Chế độ dân
chủ tư sản được hình thành và củng co ở những nước có phong trào dân chủ phát triển mạnh. Chế độ này
có các dấu hiệu cơ bản sau: có sự thừa nhận về mặt pháp lí quyền tự do chính trị của công dân, mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật; công dân có điều kiện thực tế để sử dụng các quyền tự do dân chủ của
mình; trong xã hội có sự tồn tại công khai của các tổ chức chính trị với những xu hướng chính trị khác nhau;
trong bộ máy nhà nước có sự tồn tại của các cơ quan đại diện được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu
phiếu (nghị viện, quốc hội); trong đời sống nhà nước và xã hội có sự tồn tại của nền pháp chế... Tuy nhiên,
nền dân chủ tư sản có sự thăng ưầm qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, có nơi, có lúc các
quyền tự do dân chủ của công dân bị chà đạp hoặc bị hạn chế đến mức tối đa. Quyền bầu cử và ứng cử
của công dân được quy định trong Hiến pháp bị hạn chế bởi nhiều điều kiện như giới tính, nghề nghiệp, thời
gian cư trú... Ở Mỹ năm 1921 phụ nữ mới được bầu cử; ở Anh năm 1928, Pháp năm 1944, Italia năm 1956
và ở Thuỵ Sỹ năm 1971 phụ nữ mới được thực hiện quyền này… Ngay cả ưong giai đoạn hiện nay, khi nền
dân chủ tư sản có xu hướng mở rộng hơn nhiều so với trước đây thì đó vẫn là một nền dân chủ hạn chế,
chủ yếu là dân chủ với các nhà tư bản vì họ mới có đủ điều kiện để thực hiện các quyền tự do dân chủ của
mình một cách đầy đủ nhất. Đối với nhiều người lao động, nhiều quyền tự do dân chủ được quy định trong
pháp luật vẫn chỉ mang tính hình thức, chưa trở thành hiện thực.
Chế độ phản dân chủ ở các nhà nước tư sản thường hình thành khi các lực lượng dân chủ, tiến bộ ở đó bị
suy yếu, mâu thuẫn trong lòng xã hội rất gay gắt và nhà nước nằm trong tay các phần tử cực đoan hay hiếu
chiến... Ở đó, các quyền tự do dân chủ của công dân bị chà đạp hoặc bị hạn chế đến mức tối đa; các tố
chức dân chủ bị cấm hoạt động, bị giải tán hoặc bị khủng bố; nhà nước do các nhóm tư bản lũng đoạn chi
phối... Ngày nay, chế độ phản dân chủ ở các nước tư bản chưa hoàn toàn bị thủ tiêu.
Chế độ chính trị ở tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là chế độ dân chủ, đó là một nền dân chủ rộng
rãi và thực chất. Đó là nền dân chủ đối với đại đa số dân cư, dân chủ với những người lao động; đó là một
nền dân chủ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, giáo
dục...; công dân có đầy đủ điều kiện để thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình. Trong thời kì quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, các nhà nước đều đang tích cực củng cố và mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền
tự do dân chủ của công dân không ngừng mở rộng và trở thành hiện thực trong đời sống.
| 1/9

Preview text:

Hình thức cấu trúc nhà nước là gì? Phân tích hình thức nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chức và phân bố quyền lực nhà nước theo lãnh thổ, mối quan
hệ giữa các chú thể lãnh thổ đó của quyền lực nhà nước. Bài viết phân tích về hình thức cấu trúc của nhà
nước và sự biến đối của hình thức cấu trúc qua các kiểu nhà nước:
1. Một số vấn đề chung về hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc là một trong ba yếu tố cấu thành hình thức nhà nước: hình thức cấu trúc, hình thức
chính thể, chế độ chính trị. Có 3 hình thức cấu trúc: nhà nước đơn nhất, nhà nước liên bang và nhà nước liên minh.
1. Nhà nước đơn nhất là một nhà nước thống nhất, trong đó, lãnh thổ quốc gia được chia thành các đơn vị
hành chính lãnh thổ. Gọi là đơn nhất vì trong cấu trúc của nhà nước chỉ có một Hiến pháp; một hệ thống
duy nhất các cơ quan thể hiện quyển lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp; một hệ thống pháp luật
thống nhất; một quy chế công dân duy nhất; một chế độ quốc tịch. Đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay
có hình thức cấu trúc đơn nhất như: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Pháp, Nhật, Hàn
Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cuba...
2. Nhà nước liên bang là sự liên kết, hợp thành từ các bang, các vùng lãnh thổ có chủ quyền, các nhà nước
thành viên thành một nhà nước thống nhất, trong mỗi bang, vùng lãnh thổ có chủ quyền, mỗi nhà nước
thành viên có Hiến pháp, có Quốc hội, Chính phủ, Toà án tối cao; có quy chế công dân, quốc tịch riêng. Các
nước như. Nga, Đức, Hoa Kì, Ôxtrâylia, Canađa, Malaixia... là những nhà nước liên bang.
3. Nhà nước liên minh là nhà nước được hình thành từ sự liên kết của các quốc gia có chủ quyền, tự
nguyện hợp thành một liên minh tự nguyện nhằm thoả mãn những lợi ích chung nhất định về nhiệm vụ
chính trị, kinh tế hoặc quốc phòng. Nhà nước liên minh có thể chỉ là một liên minh nhất thời như liên minh
các bang Bắc Mĩ trong thời gian từ năm 1781 đến năm 1787, để sau đó được tổ chức lại thành một Nhà
nước liên bang. Liên minh Thụy Sĩ, liên minh các bang của Đức thế kỉ XIX cũng mang tính chất tương tự.
Nhà nước liên minh hiện nay đang tồn tại là Liên minh châu Âu (EU).
2. Phân tích hình thức của nhà nước thông qua các kiểu nhà nước?
Hình thức nhà nước của các nước chịu sự tác động của nhiều yếu tố, bởi vậy, từ quốc gia này sang quốc
gia khác, từ thời đại này sang thời đại khác, hình thức nhà nước có nhiều khác biệt. Có thể thấy rõ điều này
khi xem xét sự biến đổi của tất cả các yếu tố cấu thành hình thức nhà nước qua các kiểu nhà nước.
2.1 Hình thức chính thể
Hình thức chính thể của nhà nước rất đa dạng, phong phú với những biểu hiện khác nhau qua các kiểu nhà
nước, điều đó thế hiện rõ qua sự biến đổi của từng dạng chính thể cơ bản.
Thứ nhất, sự biến đổi của chinh thể quân chủ
Chính thể quân chủ tồn tại trong ba kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản, song biểu hiện của chính
thể này trong mỗi kiểu nhà nước lại có những nét riêng. Trong nhà nước chủ nô, chính thể quân chủ chỉ có
dạng quân chủ tuyệt đối và chủ yếu tồn tại ở phương Đông, ở phương Tây, chính thể quân chủ hình thành
tương đối muộn, nó xuất hiện khi chính thể cộng hoà không còn đáp ứng được đòi hỏi của tình hình thực tiễn lúc bấy giờ.
Sang thời kì phong kiến, phổ biến là chính thể quân chủ tuyệt đối, tất nhiên chính thể này có biểu hiện khác
nhau ở các giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến cũng như ở các khu vực khác nhau trên thế giới, ở
phương Đông, nhìn chung các nhà nước đều có chính thể quân chủ tuyệt đối. Ở phương Tây thời kì phân
quyền cát cứ, về mặt pháp lí, toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung trong tay nhà vua, các lãnh chúa phải
tuyệt đối thần phục nhà vua, phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, triều cống cho nhà vua. Tuy nhiên, trên thực
tế, sự thần phục đó chỉ mang tính hình thức, khi thế lực của lãnh chúa ngày càng lớn mạnh, họ tìm cách
thoát khỏi vòng kiềm toả của nhà vua, không phục tùng nhà vua và thậm chí còn khống chế cả nhà vua. Khi
chế độ trung ương tập quyền được thiết lập thì quyền lực nhà nước mới thực sự tập trung vào trong tay nhà
vua. Sự thiết lập chế độ trung ương tập quyền được giải thích bằng nhiều lí do, có thể là do sự đấu tranh
của tầng lóp thị dân, những người làm nghề thủ công và buôn bán; do sự đẩu tranh của các lãnh chúa nhỏ
và vừa; do nhu cầu phải tập trung lực lượng để chống lại các cuộc khởi nghĩa chống chế độ phong kiến
ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt...
Chính thể quân chủ đại diện đẳng cấp hình thành ở các nước châu Âu trong thế kỉ XIII, XIV. Bên cạnh vua
còn có một cơ quan gồm đại diện của các đẳng cấp trong xã hội, nó được thành lập ra để nhà vua tham vấn
ý kiến khi cần thiết, nhất là trong việc ban hành các quy định về thuế... Cơ quan đại diện các đẳng cấp chính
là tiền thân của nghị viện sau này. Sự tồn tại của thiết chế này cho thấy đã có những dấu hiệu ban đầu về
việc hạn chế quyền lực của nhà vua.
Trong các nhà nước tư sản, chính thể quân chủ tuyệt đối hầu như không còn tồn tại. Thực tế cho thấy,
chính thể quân chủ trong nhà nước tư sản chỉ bao gồm hình thức quân chủ hạn chế với hai dạng cụ thể là
quân chủ nhị họp và quân chủ đại nghị. Chính thể quân chủ hạn chế trong nhà nước tư sản còn được gọi là
chính thể quân chủ lập hiến vì sự ra đời của chính thể này gắn liền sự xuất hiện của hiến pháp và chính
hiến pháp là phương tiện để hạn chế quyền lực của nhà vua.
Chỉnh thể quân chủ nhị hợp có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Quyền lực nhà nước về cơ bản được chia cho hai cơ quan là nghị viện và nhà vua, trong đó nghị viện
nắm quyền lập pháp và nhà vua nắm quyền hành pháp. Nhà vua bị hạn chế quyền lực trong lĩnh vực lập
pháp nhưng vẫn trực tiếp nắm quyền hành pháp.
+ Nhà vua vừa đứng đầu quốc gia, vừa đứng đầu chính phủ, có toàn quyền bổ nhiệm các bộ trưởng. Các
bộ trưởng được gọi là bộ trưởng của nhà vua, vừa chịu trách nhiệm trước nhà vua, vừa phải chịu trách
nhiệm trước nghị viện. Bộ trưởng có thể bị nhà vua cách chức, bên cạnh đó, nếu bị nghị viện bất tín nhiệm,
bộ trưởng phải từ chức, do vậy, bộ trưởng được ví là “nàng dâu có hai bà mẹ chồng”.
+ Nhà vua có quyền phủ quyết các đạo luật do nghị viện thông qua và ngược lại, nghị viện có quyền luận tội
nhà vua và các bộ trưởng.
Chính thể này đã tồn tại ở nước Anh trong thể kỉ XVII, XVIII, ở Đức theo Hiến pháp năm 1871 và ở Nhật theo Hiến pháp năm 1889.
Chỉnh thể quân chủ đại nghị (quân chủ nghị viện) có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Quyền lực của nhà vua bị hạn chế trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lập pháp
thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về chính phủ, đứng đầu là thủ tướng.
+ Quyền lực của nhà vua chỉ mang tính chất hình thức, nghi lễ và tượng trưng. Nhà vua là nguyên thủ quốc
gia, người đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội và đối ngoại, nhưng không
trực tiếp giải quyết các công việc của nhà nước, không có thực quyền. Mọi hoạt động của nhà vua chỉ là sự
chính thức hoá về mặt nhà nước các hoạt động “đã rồi” của cả nghị viện và chính phủ. Nhà vua được coi là
biểu tượng cho truyền thống và sự vững bền của dân tộc, sự thống nhất của quốc gia, nhà vua “ngự trị
nhưng không cai trị”. Nhà vua có thể được hưởng những đặc quyền nhất định, kể cả đặc quyền “vô trách
nhiệm”, nghĩa là nhà vua không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về các hoạt động của mình.
+ Chính phủ được hình thành bằng con đường nghị viện dựa trên kết quả bầu cử nghị viện (hạ nghị viện), chính phủ phải chịu
trách nhiệm trước nghị viện. Thủ tướng thực sự là nhân vật trung tâm của bộ máy nhà nước, là người
hoạch định và thực thi đường lối quốc gia.
Hình thức chính thể này hiện đang tồn tại ở một số nhà nước tư sản như Anh, Nhật, Thụy Điển...
Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa thì chính thể quân chủ hoàn toàn không còn tồn tại.
Thứ hai, sự biến đổi của chinh thể cộng hoà
Tương tự như chính thể quân chủ, chính thể cộng hoà cũng có sự biến đổi qua các kiểu nhà nước. Ở nhà
nước chủ nô, chính thể cộng hoà có cả hai dạng là cộng hoà quý tộc và cộng hoà dân chủ. Chính thể cộng
hoà quý tộc đã tồn tại ở Nhà nước La Mã từ thế kỉ IV đến I TCN và ở Nhà nước sparte từ thế kỉ VII đến thế
kỉ IV TCN. Trong Nhà nước Sparte, về mặt pháp lí, Đại hội nhân dân là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà
nước, nhưng vai trò của cơ quan này rất hạn chế vì quyền lực của nó chỉ mang tính hình thức trong việc
quyết định các vấn đề quan trọng. Trên thực tế, quyền lực thuộc về Hội đồng trưởng lão do tầng lóp quý tộc
bầu ra gồm 28 thành viên đại diện cho 28 bộ lạc do giới quý tộc bầu ra từ hàng ngũ quý tộc. Hội đồng
trưởng lão có quyền ban hành pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng, mặc dù các vấn đề này phải
được đưa ra trước Đại hội nhân dân để họ thông qua hoặc phản đối. Giới quý tộc bầu ra hai “vua” (thủ lĩnh)
có quyền lực ngang nhau và ngang quyền với Hội đồng trưởng lão. Ngoài ra, Nhà nước Sparte còn có Hội
đồng giám sát gồm năm người, là đại diện cho tầng lớp quý tộc giàu có lớp trên được giới quý tộc bầu ra và
có quyền lực rất lớn, có thể kiểm soát hoạt động của cả Hội đồng trưởng lão và cả hai “vua”. Nhà nước La
Mã cũng có Đại hội nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất của quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, quyền lực
của Đại hội nhân dân cũng chỉ mang tính hình thức vì thực quyền nằm trong tay Viện nguyên lão, bao gồm
các nhà quý tộc có thế lực nhất từ 60 tuổi trở lên và được bầu giữ chức vụ suốt đời. Viện nguyên lão có
quyền quyết định về cơ bản những vấn đề trọng yếu của nhà nước như xem xét trước các dự luật, phê
chuẩn các nghị quyết của Đại hội nhân dân. Một Hội đồng chấp chính được bầu ra từ hàng ngũ đại quý tộc
làm nhiệm vụ điều hành đất nước và quản lí xã hội theo nhiệm kì một năm.
Chính thể cộng hoà dân chủ đã xuất hiện ở Athens, trong thời gian từ thế kỉ V đến thế kỉ IV TCN. Ở đây, các
cơ quan quyền lực nhà nước đều được hình thành bằng con đường bầu cử và hoạt động theo nhiệm kì. Đại
hội nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bao gồm tất cả những nam công dân từ 18 tuổi trở
lên. Đại hội họp theo định kì, có quyền thảo luận và biểu quyết tất cả những vấn đề hệ trọng của đất nước,
thông qua hay phủ quyết các dự luật, bầu các viên chức của bộ máy nhà nước. Mỗi công dân đều có quyền
bày tỏ quan điểm của mình về tất cả các vấn đề mà họ quan tâm, có quyền yêu cầu đại hội huỷ bỏ các đạo
luật nếu nội dung của nó làm tổn hại tới nền dân chủ. Cơ quan hành chính cao nhất là một hội đồng do Đại
hội nhân dân bầu ra với nhiệm kì một năm. Toà án là cơ quan xét xử chuyên nghiệp (có tới 6000 thẩm
phán). Tất cả mọi người tham dự phiên toà đều có quyền công khai kết tội hoặc bào chữa cho bị can. Đe
ngăn chặn những mưu đồ phá hoại nền dân chủ, nhà nước đặt ra chế độ bỏ phiếu bằng vỏ sò để chỉ ra
những người có hành vi quá khích không có lợi cho nền dân chủ, quy định các nhà soạn luật phải chịu trách
nhiệm về nội dung và hậu quả của những dự luật do họ soạn thảo. Để mở rộng quyền dân chủ cho các
công dân, nhà nước đã thực hành chế độ bầu cử các quan chức nhà nước bằng phương pháp bốc thăm.
Có thể nói, nhà nước Athens là đỉnh cao của nền dân chủ cổ đại, niềm tự hào và kinh nghiệm của nhân loại.
Tuy nhiên đó vẫn chỉ là nền dân chủ của giai cấp chủ nô, nền chuyên chính của giai cấp thống trị, do vậy,
nhà nước Athens vẫn còn nhiều hạn chế. Quyền tự do dân chủ trong xã hội chỉ thuộc về thiểu số dân tự do
trong khi nô lệ, kiều dân chiếm đại đa số, họ là lực lượng sản xuất cơ bản nuôi sống toàn bộ xã hội Athens
nhưng không có quyền công dân. Mặt khác, chỉ những nam công dân từ 18 tuổi trở lên và có cha mẹ đều là
người Athens mới được tham dự Đại hội nhân dân để thực hiện quyền tự do dân chủ. Dân tự do có nguồn
gốc là những nô lệ được giải phóng, những người có bố hoặc mẹ không phải là người Athens, phụ nữ
không được tham gia bầu cử.
Trong nhà nước phong kiến, chính thể cộng hoà chỉ được thiết lập ở một số thành phố lớn của châu Âu
trong thế kỉ XVI. Sau khi giành được quyền tự trị từ tay lãnh chúa bằng các con đường khác nhau như mua
bằng tiền từ tay lãnh chúa; chiến thắng trong các cuộc đấu tranh quân sự chống lãnh chúa; trả tiền cho nhà
vua để nhà vua bảo vệ quyền tự quản của thành phố, cư dân thành phố thành lập ra Hội đồng thành phố
bằng con đường bầu cử dân chủ. Hội đồng giao quyền quản lí từng lĩnh vực cụ thể cho các uỷ viên của Hội
đồng, do vậy nó mang tính chất của chính thể cộng hoà dân chủ.
Chính thể cộng hòa trong các nhà nước tư sản chỉ bao gồm cộng hoà dân chủ với ba hình thức cơ bản là
cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị (cộng hòa nghị viện) và cộng hoà hỗn họp (cộng hoà lưỡng tính).
Cộng hoà tổng thống là hình thức tổ chức bộ máy nhà nước thể hiện sự áp dụng nguyên tắc phân quyền
một cách cứng rắn, rõ rệt nhất. Hình thức này được hình thành ở Mỹ theo Hiến pháp năm 1787, sau đó, nó
được áp dụng ở một số nước khác như các nước ở Trung và Nam Mỹ, Philippines và một số nước khác. Ở
các nhà nước có chính thể cộng hoà tổng thống, quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc
về tổng thống và quyền tư pháp thuộc về hệ thống toà án, điều này được minh định cụ thể trong hiến pháp.
Chính thể cộng hoà tổng thống có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Tổng thống vừa là người đứng đầu quốc gia, vừa là người đứng đầu chính phủ, trong bộ máy nhà nước
không có chức vụ thủ tướng. Tổng thống có quyền lực rất lớn, vừa là trung tâm của bộ máy nhà nước, vừa
là trung tâm quyết sách của chính phủ.
+ Tổng thống nắm toàn quyền hành pháp. Tổng thống thành lập nội các từ số các chính khách không phải
là nghị sĩ để bảo đảm sự độc lập giữa nghị viện và chính phủ. Tổng thống tự mình lựa chọn, bổ nhiệm và
miễn nhiệm các bộ trưởng và nghị viện sẽ phê chuẩn sự lựa chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm đó.
+ Tổng thống và nghị viện đều do cử tri bầu ra nên có thể độc lập với nhau, tổng thống chỉ chịu trách nhiệm
trước cử tri mà không phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, về mặt pháp lí, tổng thống không có quyền nêu
sáng kiến xây dựng luật và không có quyền giải tán nghị viện trước thời hạn, đồng thời, nghị viện cũng
không có quyền lật đổ chính phủ.
+ Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật mà nghị viện đã thông qua, ngược lại, nghị viện có quyền
khởi tô và xét xử tổng thống và các thành viên của chính phủ theo thủ tục “đàn hặc” khi những người này vi phạm công quyền.
Cộng hoà đại nghị (cộng hoà nghị viện) là hình thức chính thể có nhiều nét tương tự như chính thể quân
chủ đại nghị (quân chủ nghị viện). Chính thể cộng hoà đại nghị có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Trong bộ máy nhà nước vừa có chức vụ tổng thống, vừa có chức vụ thủ tướng, tổng thống đứng đầu nhà
nước, thủ tướng đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp do hai bộ phận nắm giữ là tổng thống và chính phủ
(mà chủ yếu là nội các).
+ Tổng thống do nghị viện bầu ra, được Hiến pháp quy định khá nhiều quyền song đó chỉ là những quyền
có tính chất đại diện cho nhà nước, còn trên thực tế tổng thống không có thực quyền, không trực tiếp tham
gia giải quyết các công việc của nhà nước. Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong việc điều hành nhà nước
chỉ mang tính chất hình thức, nghi lễ và tượng trưng. Tổng thống bổ nhiệm các thành viên của chính phủ
không phải theo ý minh mà từ đại diện của đảng hoặc liên minh của các đảng có đa số ghế trong nghị viện.
Tổng thống thực hiện các quyền của mình theo ý chí của chính phủ, kể cả quyền giải tán nghị viện trước
thời hạn. Mọi hoạt động của tổng thống chỉ là sự phê chuẩn các hoạt động đã rồi của chính phủ.
+ Tổng thống có thể “vô trách nhiệm” về chính trị, tức là không phải chịu tường trình trước quốc hội về
những việc mình làm và trả lời chất vấn của quốc hội, đồng thời có thể “vô trách nhiệm” về hình sự, tức là
không phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của mình trừ khi phạm phải một số tội hình nghiêm trọng
như phản bội tổ quốc, xâm phạm hiến pháp... Tuy nhiên, cũng có nước quy định tổng thống phải chịu trách
nhiệm trước quốc hội, ví dụ, Điều 142 Hiến pháp Áo quy định: “Tổng thống Liên bang chịu trách nhiệm về
việc thực hiện các chức năng của mình trước Quốc hội Liên bang”.

+ Chính phủ là cơ quan nắm quyền hành pháp, chính phủ được thành lập từ phe đa số trong nghị viện. Thủ
tướng là người đứng đầu chính phủ, cũng là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Thủ tướng là lãnh tụ của
đảng cầm quyền, người chủ trì các cuộc họp chính phủ, định ra các chính sách, lựa chọn các nhân viên
chính phủ... Nội các là trụ cột và trung tâm quyết sách của toàn bộ các cơ quan hành chính nhà nước nên
chính thể này còn được gọi là chế độ nội các.
+ Nghị viện có quyền lực tối cao, chính phủ do nghị viện lập ra và chịu sự giám sát của nghị viện. Nghị viện
có quyền bất tín nhiệm chính phủ, khi đó chính phủ có thể phải từ chức. Các bộ trưởng phải chịu trách
nhiệm trước nghị viện, kể cả trách nhiệm liên đới và trách nhiệm cá nhân.
Cộng hoà hỗn hợp (cộng hoà lưỡng tỉnh) là hình thức chính thể vừa có những đặc trưng của chính thể cộng
hoà tổng thống, vừa có những đặc trưng của cộng hoà đại nghị. Chính thể cộng hoà hỗn hợp hiện đang tồn
tại ở Pháp, Bồ Đào Nha, Nga. Chính thể này có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Tổng thống là nhân vật trung tâm của quyền lực nhà nước. Tổng thống có quyền lực rất lớn, kể cả quyền
giải tán nghị viện trước thời hạn. Tổng thống có tác động khá mạnh mẽ và nhiều khi có ý nghĩa quyết định
đối với việc ban hành luật. Có nước còn cho phép tổng thống ban hành các văn bản quy phạm có giá trị
như luật trong những lĩnh vực không thuộc thẩm quyền ban hành luật của nghị viện, hoặc nghị viện có thể
uỷ quyền cho tổng thống ban hành luật trong những trường hợp nhất định.
+ Chính phủ do tổng thống bổ nhiệm, về mặt pháp lí, tổng thống không đứng đầu chính phủ mà người đứng
đầu chính phủ là thủ tướng, song tổng thống lại có quyền điều hành các hoạt động của chính phủ. Mặc dù
pháp luật quy định chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, song khả năng của nghị viện trong việc
kiểm tra các hoạt động của chính phủ rất hạn chế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có chính thể cộng hoà dân chủ, tuy nhiên ở những nước khác nhau, chính
thể cộng hoà dân chủ xã hội chủ nghĩa có những biếu hiện khác nhau. Ớ các nước đang trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đồng thời là cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân do cử tri cả nước trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu và có
thể bị nhân dân bãi miễn. Cơ quan này có quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của nhà
nước, thành lập các cơ quan cấp cao khác của nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan đó...
Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tồn tại các dạng chính thể cộng hoà đó là:
Công xã Pari là Nhà nước ra đời sau cuộc khởi nghĩa của công nhân lao động Pari ngày 18/3/1871 với sự
trợ giúp của đội Vệ binh cộng hoà của Chính phủ Thiers. Sau khi giành được chính quyền, theo nguyên tắc
bầu cử phổ thông, nhân dân lao động Pari đã bầu ra Hội đồng công xã là cơ quan quyền lực cao nhất của
Công xã, bao gồm các uỷ viên xuất thân từ công nhân, họ có thể bị Hội đồng bãi miễn khi không còn xứng
đáng. Hội đồng công xã vừa là cơ quan đại diện vừa là cơ quan hành động, vừa lập pháp vừa hành pháp,
việc quản lí các lĩnh vực hoạt động của Công xã do các uỷ ban của Hội đồng thực hiện.
Cộng hoà Xô Viết xuất hiện ở nước Nga lần đầu tiên năm 1905, sau đó được thiết lập lại ở đây vào năm
1917, sau Cách mạng tháng Mười Nga. Xô Viết là các hội đồng đại biểu các tầng lớp nhân dân. Trong thời
gian đầu (từ năm 1917 - 1936), chỉ có Xô Viết quận, huyện trở xuống mới được hình thành bằng con đường
bầu cử trực tiếp; trong thời kì này quyền bầu cử các Xô Viết được ưu tiên cho giai cấp công nhân - Nhà
nước Xô Viết tước quyền bầu cử của tầng lớp bóc lột cũ, công khai quy định quyền ưu tiên trong bầu cử
cho công nhân, quy định tỉ lệ đại biểu/cử tri ở thành phố là 1/25000, ở nông thôn là 1/125000; các Xô Viết
cấp trên tồn tại dưới hình thức Đại hội Xô Viết do Xô Viết cấp dưới bầu ra và chỉ có quyền lực trong thời
gian đại hội. Sau khi hoàn thành cải tạo tư sản, theo Hiến pháp năm 1936, nền dân chủ được mở rộng, Nhà
nước Xô Viết có một hệ thống các cơ quan Xô Viết từ trung ương tới địa phương được hình thành theo
nguyên tắc bầu cử phổ thông. Trong đó, Xô Viết tối cao giữ vai trò rất quan trọng, thực chất quyền lực tối
cao của nhà nước hầu như tập trung trong tay Xô Viết tối cao.
Cộng hoà dân chủ nhân dân là hình thức nhà nước đã được thành lập ở các nước Đông Âu, Trung Quốc,
Việt Nam... Đa số các nhà nước nói trên ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai, cách mạng ở các nước này
thường trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống
chính trị của những nước này luôn tồn tại tổ chức mặt trận đoàn kết dân tộc và có sự hiệp thương giữa các
lực lượng xã hội khác nhau để tổ chức chính quyền. Ngay từ thời kì mới ra đời, các nhà nước này đều đã
có một hệ thống cơ quan đại diện từ trung ương tới địa phương được hình thành theo nguyên tắc bầu cử bình đẳng phổ thông.1
Cộng hoà Cuba được thiết lập ở Cuba ngày 01/01/1959. Cách mạng Cuba chuyển nhanh từ cách mạng dân
chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính quyền ở đây được xây dựng chủ yếu dựa vào lực
lượng quân đội. Trong thời gian đầu Tổng thống và Chính phủ cùng cầm quyền, vừa lập pháp vừa hành
pháp, Nhà nước không có hệ thống cơ quan đại diện từ trung ương tới địa phương, nên phải sử dụng
phương pháp dân chủ trực tiếp. Đến năm 1992, chế độ bầu cử bình đẳng phổ thông mới được thiết lập ở Cuba.
2.2 Hình thức cấu trúc nhà nước
Các nhà nước chủ nô, phong kiến hầu như đều có cấu trúc đơn nhất, hãn hữu mới gặp cấu trúc liên bang.
Ở Trung Quốc hiện nay, cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu đại hội nhân dân cấp cơ SỞ; sau đó, đại hội đại biểu
nhân dân cấp dưới bầu ra đại hội đại biểu nhân dân cấp trên; đại hội đại biểu nhân dân cấp tỉnh bầu ra đại
hội đại biểu nhân dân toàn quốc… Có tài liệu cho rằng, Nhà nước Cộng hoà Gugenôtốp thế kỉ XVI (thuộc
phía Nam nước Pháp ngày nay) là một nhà nước liên bang. Khi nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ
nghĩa ra đời, hình thức cấu trúc liên bang mới trở thành phổ biến.
Nhiều nhà nước chủ nô khi mới hình thành, chưa biết tổ chức quyền lực nhà nước thành các cấp theo đơn
vị hành chính lãnh thổ. Cùng với sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ, lãnh thổ quốc gia được mở rộng,
dần cư ngày càng đông đảo hơn, chức năng nhà nước trở nên phức tạp hơn... các nhà nước từng bước tổ
chức chính quyền theo đơn vị hành chính lãnh thổ, hình thành nên bộ máy nhà nước từ trung ương xuống
địa phương. Ở nhiều nhà nước chủ nô, ngay từ đầu đã thiết lập chế độ trung ương tập quyền, địa phương
là cấp dưới của trung ương, phục tùng trung ương một cách tuyệt đối. Ở một số quốc gia phương Đông,
ngay trong thời kì cổ đại đã tồn tại chế độ phân quyền cát cứ. Các thế lực chư hầu ban đầu được nhà vua
trung ương phong chức tước và ban cấp đất đai, trực tiếp cai quản phần lãnh thổ được phân phong đó. Tuy
nhiên, về sau, thế lực của các chư hầu ngày càng lớn mạnh, chèn ép các chư hầu khác, lấn át chính quyền nhà vua trung ương.
Trong nhà nước phong kiến, ở phương Đông, trong suốt quá trình phát triển của chế độ phong kiến, mặc dù
yếu tố phân quyền cát cứ có xuất hiện và tồn tại trong những thời gian nhất định, tuy nhiên xu hướng chung
đều là trung ương tập quyền với sự phục tùng tuyệt đối của chính quyền địa phương đối với chính quyền
trung ương. Ngược lại, ở phương Tây, nhà nước phong kiến đã phát triển qua hai giai đoạn, ban đầu là thời
kì phân quyền cát cứ, về sau yếu tố trung ương tập quyền mới được thiết lập.
Hình thức cấu trúc của nhà nước tư sản và nhà nước xã hội • chủ nghĩa khá đa dạng, phong phú. Nhìn
chung, các nhà nước này đều có hiến pháp và các quy định pháp luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước.
Nhờ vậy, mô hình tổ chức, sự phân định thẩm quyền, mối quan hệ giữa trung ương với địa phương cũng
như giữa các cấp chính quyền địa phương đều được xác lập và điều chỉnh bằng pháp luật.
Thực tế cho thấy, cách thức tổ chức chính quyền địa phương các nhà nước đương đại khá đa dạng và
phức tạp, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước. Tựu trung lại có thể chia thành một số mô hình tổ chức
chính quyền địa phương: Một là, địa phương đơn thuần là cấp dưới của trung ương, phục tùng trung ương
một cách tuyệt đối. Việc tổ chức chính quyền địa phương là do trung ương quy định, địa phương không có
quyền ban hành pháp luật, chỉ thực hiện thẩm quyền do trung ương quy định. Hai là, địa phương không
hoàn toàn phụ thuộc vào trung ương. Việc tổ chức chính quyền địa phương là do trung ương quy định,
nhưng địa phương không chỉ đơn thuần thực hiện thẩm quyền theo quy định do trung ương ban hành, ở
một số lĩnh vực nó có thể có quyền ban hành pháp luật, và quản lí điều hành theo quy định đó. Nói cách
khác, thẩm quyền của địa phương vừa do trung ương quy định, vừa do chính nó quy định. Ba là, địa
phương phụ thuộc hạn chế vào trung ương về chính trị; các lĩnh vực kinh tế xã hội khác do địa phương
hoàn toàn tự quản. Bổn là, địa phương gần như một nhà nước hoàn toàn độc lập, nó chỉ phụ thuộc vào
trung ương về quốc phòng.
Có thể nói, nhà nước liên bang chỉ xuất hiện sau khi nhà nước tư sản ra đời. Hình thức cấu trúc này tồn tại
khá phổ biến trong các nhà nước đương đại. Tùy thuộc vào con đường hình thành liên bang mà ở mỗi nhà
nước liên bang, mối quan hệ giữa chính quyền liên bang và chính quyền các bang có những đặc thù riêng.
Ở một số nhà nước liên bang, các bang vốn là những nhà nước hoàn toàn độc lập, khi gia nhập liên bang,
một phần chủ quyền quốc gia của các nhà nước thành viên được chuyển giao cho nhà nước liên bang, tuy
nhiên các nhà nước thành viên vẫn nắm giữ chủ quyền của mình ở mức độ nhất định. Ở nhiều nhà nước
liên bang khác, các bộ phận họp thành liên bang có vị thế tương đối yếu. Ở một số nhà nước liên bang,
pháp luật cho phép tự do gia nhập, tự do tách khỏi liên bang; ở một số nước khác pháp luật không cho
phép tự ý tách ra khỏi liên bang để trở thành nhà nước độc lập.
2.3 Chế độ chính trị
Trong nhà nước chủ nô đã tồn tại cả chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ. Tuy nhiên,
chế độ dân chủ trong nhà nước chủ nô còn nhiều hạn chế, mang đậm dấu ấn của nền dân chủ nguyên thủy.
Trong nhà nước phong kiến, chế độ chính trị ở hầu hết các nhà nước đều là phản dân chủ.
Trong nhà nước tư sản, chế độ chính trị cũng tồn tại cả hai dạng là dân chủ và phản dân chủ. Chế độ dân
chủ tư sản được hình thành và củng co ở những nước có phong trào dân chủ phát triển mạnh. Chế độ này
có các dấu hiệu cơ bản sau: có sự thừa nhận về mặt pháp lí quyền tự do chính trị của công dân, mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật; công dân có điều kiện thực tế để sử dụng các quyền tự do dân chủ của
mình; trong xã hội có sự tồn tại công khai của các tổ chức chính trị với những xu hướng chính trị khác nhau;
trong bộ máy nhà nước có sự tồn tại của các cơ quan đại diện được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu
phiếu (nghị viện, quốc hội); trong đời sống nhà nước và xã hội có sự tồn tại của nền pháp chế... Tuy nhiên,
nền dân chủ tư sản có sự thăng ưầm qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, có nơi, có lúc các
quyền tự do dân chủ của công dân bị chà đạp hoặc bị hạn chế đến mức tối đa. Quyền bầu cử và ứng cử
của công dân được quy định trong Hiến pháp bị hạn chế bởi nhiều điều kiện như giới tính, nghề nghiệp, thời
gian cư trú... Ở Mỹ năm 1921 phụ nữ mới được bầu cử; ở Anh năm 1928, Pháp năm 1944, Italia năm 1956
và ở Thuỵ Sỹ năm 1971 phụ nữ mới được thực hiện quyền này… Ngay cả ưong giai đoạn hiện nay, khi nền
dân chủ tư sản có xu hướng mở rộng hơn nhiều so với trước đây thì đó vẫn là một nền dân chủ hạn chế,
chủ yếu là dân chủ với các nhà tư bản vì họ mới có đủ điều kiện để thực hiện các quyền tự do dân chủ của
mình một cách đầy đủ nhất. Đối với nhiều người lao động, nhiều quyền tự do dân chủ được quy định trong
pháp luật vẫn chỉ mang tính hình thức, chưa trở thành hiện thực.
Chế độ phản dân chủ ở các nhà nước tư sản thường hình thành khi các lực lượng dân chủ, tiến bộ ở đó bị
suy yếu, mâu thuẫn trong lòng xã hội rất gay gắt và nhà nước nằm trong tay các phần tử cực đoan hay hiếu
chiến... Ở đó, các quyền tự do dân chủ của công dân bị chà đạp hoặc bị hạn chế đến mức tối đa; các tố
chức dân chủ bị cấm hoạt động, bị giải tán hoặc bị khủng bố; nhà nước do các nhóm tư bản lũng đoạn chi
phối... Ngày nay, chế độ phản dân chủ ở các nước tư bản chưa hoàn toàn bị thủ tiêu.
Chế độ chính trị ở tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là chế độ dân chủ, đó là một nền dân chủ rộng
rãi và thực chất. Đó là nền dân chủ đối với đại đa số dân cư, dân chủ với những người lao động; đó là một
nền dân chủ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, giáo
dục...; công dân có đầy đủ điều kiện để thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình. Trong thời kì quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, các nhà nước đều đang tích cực củng cố và mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền
tự do dân chủ của công dân không ngừng mở rộng và trở thành hiện thực trong đời sống.