Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính | Văn mẫu lớp 9

TOP 19 bài Phân tích hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính SIÊU HAY, giúp các em học sinh lớp 9 khám phá vẻ đẹp tâm hồn người lính trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
86 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính | Văn mẫu lớp 9

TOP 19 bài Phân tích hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính SIÊU HAY, giúp các em học sinh lớp 9 khám phá vẻ đẹp tâm hồn người lính trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Mời bạn đọc đón xem!

115 58 lượt tải Tải xuống
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1
Sơ đồ tư duy Hình tượng người lính lái xe Trường Sơn
Dàn ý hình tượng người chiến sĩ lái xe
Dàn ý 1
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Nêu vẻ đẹp của những người chiến sĩ trong bài thơ.
II. Thân bài
1. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe
- Trước hoàn cảnh kkhăn bởi những chiếc xe không kính, thế của người
lính lái xe: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Cho
thấy thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Trong mưa
bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía trước.
- Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt
hơn:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
2
Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường
bay vào mắt - từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.
Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa”
vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ.
Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.
2. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó
khăn
Họ phải đối mặt với khó khăn khi chiếc xe không có kính, nhưng thái độ
thật thản nhiên như một điều bình thường: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.
Cách nói “không có… ừ thì” cho thấy một thái độ sẵn sàng chấp nhận
mọi khó khăn của người lính.
Hành động của người lính trước khó khăn: “phì phèo châm điếu thuốc”,
“nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi”: cho thấy sự
ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời bất chấp những gian
khổ phải đối mặt.
3. Tình động đội của những người lính
Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội”: những chiếc xe từ trong
mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là
những đồng đội cùng chung một lý tưởng.
Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết phản ánh chân thực tình
cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức
mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.
“Bếp Hoàng Cầm dựng đứng giữa trời”: Cuộc chiến tranh khốc liệt khiến
họ phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi nên một cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày vất vả.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
3
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Họ gắn bó giống như những
người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột
thịt. Giọng thơ đầy hồn nhiên, vui vẻ.
Trên hành trình không ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng.
Giấc ngủ chập chờn không yên.
Những vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” - Điệp từ “lại đi”
giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.
Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương
lai phía trước. Niềm tin và trái tim nhiệt huyết vào tương lai tươi sáng của
dân tộc.
4. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc
Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn,
không có mui xe, thùng xe có xước…
Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính: xe vẫn cứ
chạy vì miền Nam phía trước, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống
nhất.
Chỉ cần trong xe có một trái tim: hình ảnh “một trái tim” là hình ảnh hoán
dụ, chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục
lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách
mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người
lính.
III. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.
Tài năng khắc họa, miêu tả của Phạm Tiến Duật.
Dàn ý 2
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
4
1. M bài:
Gii thiu v tác gi Phm Tiến Dut, tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe
không kính" và hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ.
2. Thân bài:
a. Trình bày khái quát v tác gi Phm Tiến Dut tác phm "Bài thơ về
tiểu đội xe không kính":
Phm Tiến Duật (1941) nhà thơ tiêu biu ca thi kháng chiến
chng M cứu nước.
Ông thường hay viết v hình nh thế h tr trong cuc kháng chiến vi
giọng điệu tr trung, sôi nổi nhưng vô cùng sâu sắc.
Tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" tác phm thuc chùm
thơ của Phm Tiến Dut viết v anh b đội c H hiên ngang, dũng cảm,
tr trung và nhit huyết.
b. thế ung dung, hiên ngang của người lính kh thơ thứ nht th
hai:
Thái độ lc quan, hóm hnh của người lính: "Không có kính không phi vì
xe không có kính/ Bom git, bom rung kính v đi rồi".
hin thực bom đạn khc liệt đến mức nào nhưng ngưi lính vn
"ung dung" nhìn thng vào hin thực để tiếp tc chiến đấu.
c. Người lính lái xe có tinh thần dũng cảm, bt chp mi gian kh để tiến v
phía trước:
Xe không có kính khiến cho những người lính phi chu bi, chịu mưa rét
nhưng vẫn nhìn nhau cười "ha ha" bi vi h nim vui ln nht chính
đưc chiến đấu bo v T quc.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
5
H luôn đón nhận mọi khó khăn vi tâm thế sẵn sàng và coi đó như
mt yếu t khách quan mà h phi vượt qua.
d. nh đồng chí, đồng đội gn kết gia những người lính đến t mi min
đất nước:
Nim vui ln nht ca những người lính được gp lại đồng đội ca
mình ch cn mt cái "bắt tay" để thêm sc mạnh, động lc cho
cuc chiến đấu.
Tình đồng chí, đồng đội đã gắn kết những con người xa l thành mt gia
đình chung bát, chung đũa.
Những người lính đã t động viên nhau màu xanh hy vng phía trước:
"Lại đi lại đi trời xanh thêm".
e. Tinh thần yêu nước mãnh lit của người lính:
Khó khăn ngày càng đưc nhân lên gp bội nhưng những người lính vn
bt chp mọi khó khăn để băng băng "xe chạy vì miền Nam phía trước".
Trái tim nhit huyết, trái tim yêu c nng nàn, sc sôi chiến đấu
min Nam thân yêu của người lính.
f. Đánh giá:
Người lính lái xe được hin lên vi v đẹp ngang tàng, dũng cảm đáng
ngợi ca. Đây cũng hình nh tiêu biu ca thế h tr Vit Nam trong
thi k kháng chiến chng gic ngoi xâm.
Hình tượng người lính lái xe được Phm Tiến Dut khc ha bng nhng
ngôn t hóm hnh, lc quan, nhiu màu sắc. Nhà thơ đã s dng bin
pháp hoán d, hình ảnh giàu ý nghĩa đ miêu t nhng phm chất cao đp
của người lính.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
6
3. Kết bài:
Khái quát li hình ảnh người lính lái xe trong "Bài thơ v tiểu đội xe
không kính".
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 1
Nhắc đến Phm Tiến Dut nhắc đến mt trong những nhà thơ tiêu biu ca
những năm tháng kháng chiến chng M đại. một người tng tri, li trc
tiếp nm tay lái trên tuyến đường Trường Sơn nhà thơ đã to nên nhng vần thơ
cùng mi m. Vừa nét đó tinh nghịch, hóm hnh li không kém phn
suy tư. Với bài thơ “Bài thơ v tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã làm
sng dy c nhng năm tháng hào hùng của dân tc.
“X dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Bài thơ nhan đ cùng độc đáo góp phần th hin tâm hn cùng lc
quan yêu đi ca nhng chiến lái xe tiếp vin cho tin tuyến. Nhng con
người đầy ngang tàng, nhưng cũng không kém phn gin d chun mc. Hình
nh ca những ngưi chiến lái xe gắn lin vi nhng chiếc xe không kính,
mt hình nh miêu t cùng chân thực. Bom đạn ca giặc đã khiến cho nhng
chiếc xe tr nên thiếu hụt đủ thứ: không đèn, không kính , không mui thm chí
còn xước xác....
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom git bom rung kính v đi rồi”
Thế nhưng chính vì không có kính nên hình ảnh những người chiến sĩ lái xe mới
hin lên mt cách chân thực tài tình đến vy. Những con người bt chp s
thiếu thốn, khó khăn vẫn băng băng lao về phía trước mt lòng vì tin tuyến:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
7
Ung dung bung lái ta ngi
Nhìn đất, nhìn tri, nhìn thng
Nhìn thy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chy thng vào tim
Thy sao trời và đt ngt cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Đến đây ta thấy nhịp thơ trở nên dn dậpnhanh đến l như là nhng nhp
xe chạy trên đường vy. Chính xe không có kính nên các anh mi có th cm
nhn nht nhng th đang ngoài đến vy: thy gió, thấy con đường, cánh
chim, sao tri.... Ch những con người đã trải qua thc tế mi th có
nhng cảm nghĩ chân thực đến vy. Gió ùa vào làm xoa dịu đi mắt đng. Mt
đắng đây không phải do bi do thiếu ng, chính cơn gió ùa vào nơi ca
đã giúp các anh trở nên tnh táo minh mẫn hơn khi cầm lái. Tt c nhng
cnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong đ các anh th nhìn thy
c con đường chy thng vào tim. Thế nhưng thiếu thốn đến vậy khó khăn
đến vy tâm hn người lính vn hết sc lc quan và ngang tàng:
Không có kính, thì có bi
Bi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuc.
Nhìn nhau mt lấm cười ha ha.
Không có kính, thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số na.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
8
ln bình lun v kh thơ này nhà thơ Xuân Diệu t ra không hài lòng vi
cm t ời “ha ha”. Thế nhưng biết làm sao đưc. thế mi to nên khí
phách ca các anh thế mi cm nhn hết s sng khoái hn nhiên ca mt
tinh thần đầy lc quan trong những năm tháng kháng chiến gian kh.
Bếp Hoàng Cm ta dng gia tri
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Du cho phi trải qua ngàn khó khăn ngàn gian kh thì ch cần con người còn
nim tin còn có say thì xe vn chy thng v phía trước. Bu trời kia như
xanh thêm khi có các anh có n i ca các anh.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vn chy vì miền Nam phía trước
Ch cn trong xe có mt trái tim.
Kh thơ cuối cùng mang đến cho người đọc nhiu suy ngẫm đặc bit. Trong
khói la hoang tàn ca chiến tranh mi th đều b phá hy. Chiếc xe thm hi vì
không có kính, chẳng có đèn, không có mui mà lại còn xước thế nhưng bom đạn
ca k thù dường như chng th thng nổi ý chí con người. Ch cn trong bung
lái vn còn một trái tim còn đp còn mt tinh thn bt dit thì xe vn còn chy.
Đó chính là điều mà nhà thơ muốn gi gm, tinh thần yêu nước s tr thành mt
ngn la bt dit chiến thng mi k thù, vượt lên trên hết c những mũi tên
hòn đạn, đạp lên mi k thù tàn bo.
Hình ảnh người chiến lái xe hình ảnh đại din cho s lớp người chiến
trong khói la chiến tranh. Tinh thn của các anh cũng chính thứ tình yêu
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
9
c thiết tha c dân tc thi by gi đang hừng hc. Chiến tranh tuy đã lùi
xa hơn ba mươi năm thế nhưng hình tượng người chiến sĩ ấy vn sng mãi trong
lòng độc gi. tr thành nhng bức tượng đài bất dit v tinh thần yêu nước
và s qu cm trong những năm tháng đau thương mà anh hùng của dân tc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 2
Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt vẻ đẹp của những cô gái thanh niên
xung phong, của những người lính trên tuyến đường Trường Sơn trở thành một
đề tài hết sức hấp dẫn, luôn nhận được sự quan tâm, sáng tác của nhiều tác giả.
trong những tác phẩm ấy, ta không thể không nhắc đến những người lính
trên chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến
Duật. Chân dung họ hiện lên với những khám phá mới mẻ vẫn cùng
thống nhất.
Nếu như, trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu hình ảnh người lính nông dân
hiện lên trong sđồng cam cộng khổ, thấu hiểu những nỗi niềm của nhau, nhớ
cây đa, bến nước, cùng nhau vượt qua thiếu thốn : Áo anh rách vai/ Quần tôi
vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay . Thì người lính trong tác phẩm này lại hiện lên với một chân dung mới
lạ, khác hẳn. Họ là những con người trẻ trung mang trong mình vẻ ung dung,
hiên ngang trước những thử thách trên tuyến đường Trường Sơn:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng
Trong cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt, nhưng người lính vẫn giữ được phong
thái ung dung, với cái nhìn thẳng đầy tự tin, tràn đầy nhiệt huyết. Nhịp thơ 2/2/2
kết hợp với từ láy ung dung được đảo lên đầu câu nhấn mạnh vào thế hiên
ngang, làm chủ chiến trường của những người lính. Cái nhìn thẳng của họ
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
10
không chỉ nhìn vào con đường phía trước với sự tập trung cao độ đó còn
cái nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh khốc liệt, tinh thần sẵn sàng tiến lên
phía trước. Sau cái nhìn đó cảm nhận của người chiến sĩ trên tuyến đường
Trường Sơn: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng/ Thấy con đường chạy thẳng vào
tim/ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/ Như sa như ùa vào buồng lái.
Bốn câu thơ vừa khắc họa khung cảnh hiện thực nhưng đồng thời cũng hết sức
nên thơ, lãng mạn. Những chiếc xe không kính di chuyển trên đường nên tất yếu
các cơn gió sẽ ùa vào khoang lái, gió bụi ùa vào khiến họ cảm thấy bỏng rát,
nhất là vào những trưa hè. Nhưng dưới con mắt lãng mạn của người chiến thì
những ngọn gió đó vào xoa dịu những vất vả của họ. Hình ảnh con đường chạy
thẳng vào tim một trường liên tưởng cùng thú vị. Diễn tả được tốc độ di
chuyển nhanh của những chiếc xe không kính, lao mình trong mưa bom bão
đạn, không sợ hiểm nguy.
Không chỉ vậy, dưới con mắt đầy thi của người chiến sĩ, họ còn thấy những
chú chim và sao trời sa, ùa vào buồng lái, làm bạn với họ trên quãng đường đầy
gian khổ, ác liệt. Với nghệ thuật nhân hóa, sdụng động từ mạnh sa, ùa tác giả
đã cho thấy cái nhìn lạc quan của những người lính: thiên nhiên không phải trở
ngại, cản bước họ tiến lên trở thành người bạn thân thiết, chia svới họ
những gian lao trên con đường tiến vào miền Nam.
Không chỉ những con người ung dung, hiên ngang, trong tâm hồn những
người lính trẻ ấy còn mang trong mình nhiệt huyết cách mạng, dũng cảm, coi
thường nguy hiểm, gian khổ và một tinh thần trẻ trung, sôi nổi, lạc quan. Khổ
thơ thứ ba và thứ tư đã cho thấy những khó khăn người lính phải đối mặt: không
kính khiến bụi, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Đây những câu thơ
miêu tả hết sức chân thực những khó khăn người lính phải trải qua trên con
đường Trường Sơn cùng nguy hiểm. Các động từ tuôn, xối, phun càng nhấn
mạnh hơn nữa sự khắc nghiệt thiên nhiên đang thử thách các anh. Nhưng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
11
trái lại, những người lính đáp lại bằng câu nói nhẹ nhàng, dường như đó chẳng
phải là vấn đề đáng bận tâm: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Các anh sẵn sàng đối mặt
với tất cả thử thách bằng tinh thần hiên ngang, cứng cỏi, bằng giọng điệu vui
đùa, trẻ trung.
Không chỉ vậy họ còn hết sức tinh nghịch, trẻ trung. bụi lùa vào khoang lái
họ vẫn những tiếng cười thật rộn rã: nhìn nhau mặt lấm cười ha ha, tiếng
cười khoan khoái đã giúp họ xóa tan bao cực nhọc, tiếp thêm sức mạnh để họ
vững bước lên đường. Tinh thần lạc quan yêu đời chính là biểu hiện nét nhất
của lòng dũng cảm, của sức mạnh tinh thần ở người chiến sĩ. Khổ thơ đã tạc lên
chân dung đẹp đẽ, những phẩm chất thật quý báu của người lính.
Trong những năm tháng kháng chiến, phải sống xa gia đình, thì tình cảm đồng
chí đồng đội gắn thật đáng quý và đáng trân trọng. Nguồn sức mạnh tinh
thần ấy sẽ giúp họ vượt qua mọi kkhăn, trở ngại. Những người lính lái xe
cũng vậy, qua những ô cửa kính vỡ chỉ cần cái bắt tay vội vã nồng ấm tình
thương cũng khiến những con người xa lạ trở nên gần gũi với nhau hơn. Và còn
điều gì tuyệt vời hơn, khi tranh thủ cùng ăn bát cơm trắng đạm bạc với nhau
giữa rừng. Những lúc đó họ không chỉ còn những người bạn đường nữa
đã trở thành gia đình của nhau: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/ Chung bát
đĩa nghĩa gia đình đấy. Chính những bữa cơm ấy giúp họ xích lại gần nhau
hơn, gắn bó với nhau như những người trong gia đình. Tình cảm đồng chí, đồng
đội, tình cảm gia đình gắn chính nguồn động lực tiếp sức họ lên đường:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy/ Lại đi lại đi trời xanh thêm. Với tinh
thần, ý chí chiến đấu kiên cường họ vẫn kiên gan, bền bỉ lại đi, lại đi màu
xanh hi vọng, độc lập ở phía trước.
Đối lập với những khó khăn, thiếu thốn vật chất bên ngoài là sức mạnh tinh thần
bền bỉ, mạnh mẽ của người lính với trái tim nhiệt thành, cháy bỏng: Xe vẫn
chạy miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe một trái tim. Những chiếc xe
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
12
không chỉ chạy bằng nhiên liệu còn chạy bằng ý chí, nghị lực phi thường
của những người lính. Chỉ cần trái tim lạc quan, mang trong mình niềm tin
chiến thắng thì người lính có thể đưa đoàn xe đến mọi nẻo đường.
Với ngôn ngữ giọng điệu độc đáo tác giả đã khắc họa lên tượng đài người
lính lái xe vừa hiên ngang, dũng cảm vừa hóm hỉnh, lạc quan yêu đời. Họ
những hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam Xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước/ lòng phơi phới dậy tương lai. Đó thế hệ anh hùng, hiên ngang,
dũng cảm, quyết đem cả tính mạng, tuổi trẻ của mình để cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 3
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Đó là ý chí của những chiến Trường Sơn. Các anh hiện lên trên trang thơ thật
dỏm, thật yêu đời. Khi gian khổ tưởng chừng không thể nào vượt qua được,
khi cái chết tới gần. Vậy nụ cười lạc quan vẫn hiện hữu trên khuôn mặt các
anh, nụ cười ấy rất ngang tàng cũng đầy tinh nghịch. Nhắc tới họ, ta không
thể quên người chiến lái xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không
kính của Phạm Tiến Duật. Không biết nhà thơ bao nhiêu lần trực tiếp lái
chiếc xe nthế ông lại viết ra được những dòng thơ hết sức chân thực
sống động đến vậy:
Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Đó là lời giới thiệu của các anh, hết sức giản dị, rất thật. Trên chiếc xe không có
kính đó người lính lái xe tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
13
khốc liệt. Bom giật bom rung họ vẫn vững tay lái, nhấn ga cho xe băng băng lao
ra chiến trận.
Chúng ta hãy lắng nghe các anh kết chuyện về mình với giọng điệu thật vui v
và hài hước:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh thế bình tĩnh, đường hoàng,
hiên ngang, ttin khi họ phải lái một chiếc xe không kính. Nhìn thẳng nhìn
vào gian khổ, hy sinh không run sợ, không tránh bởi họ chiến đấu chính
nghĩa. Lái xe không kính, gặp phải khó khăn nhưng những khó khăn lại thật
bất ngờ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ rất thực, thực đến từng chi tiết. Xe không kính chắn gió lại
chạy với tốc độ cao nên người lính lái xe phải đối mặt với bao nguy hiểm: gió
xoa mắt đắng, con đường ngược lại chạy thẳng vào tim, sao trên trời, chim dưới
đất bất ngờ như sa, như ùa, như rơi, rung, quăng, ném vào buồng lái... Những
câu tchân thực, sống động, đầy ấn tượng như chính nhà thơ đang cầm
lăng mà lái.
Bao khó khăn thử thách nhưng người lính lái xe vẫn không run sợ, hoảng hốt.
Trái lại, tư thế của các anh rất hiên ngang, ung dung tự tại, tinh thần của các anh
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
14
vẫn vững vàng. Bởi các anh vẫn quyết tâm vượt qua gian khổ, để hoàn thành
nhiệm vụ lớn lao.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người g
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Nhà thơ lại tiếp tục khắc họa những khó khăn, gian khổ của những người lính
lái xe. Những câu thơ như những lời nói thường ngày, không gắn liền với những
tiếng nói bỗ bã, đầy chất lính ngang tàng song cũng rất đáng yêu như bật lên từ
tình cảm thực của những người lính lái xe. Kkhăn thế vẫn chấp nhận là
tất yếu: “ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” nhưng cũng với thái độ rất thản nhiên:
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
15
Sự bình thản của những người lính lái xe đến vô tư. Câu thơ cân đối, nhịp nhàng
theo độ rung của bánh xe lăn, các thanh bằng, trắc phối hợp linh hoạt, giọng thơ
pha chút ngang tàng thường thấy ở người lái xe.
Hai khổ thơ làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe: dũng cảm, hiên
ngang, phớt đời, bất chấp hiểm nguy trước biết bao thử thách. Họ đạp bằng gian
khó tiến vphía trước với một quyết tâm giải phóng miền Nam. Đúng chiến
tranh ác liệt thể tàn phá những phương tiện kỹ thuật vật chất nhưng không
thể đè bẹp được sức mạnh tinh thần của con người. Trái lại, nó chỉ càng làm nổi
rõ thêm tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu để giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước của họ mà thôi:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Trong hoàn cảnh ác liệt, những người lính lái xe cùng một mục đích, cùng
chung lý tưởng nên ở hđã hình thành nên tình cảm đồng chí, đồng đội tốt đẹp,
ấm cúng như trong một gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi đã gợi lên ý nghĩa về người lính lái
xe gan góc vượt qua gian nan thử thách. Khi gặp nhau tình cảm giao lưu của họ
thật là đặc biệt:
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
16
Để rồi:
Lại đi, lại đi trời thêm xanh.
Khổ thơ cuối cùng có một cái gì đó thật lãng mạn và lạc quan:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe không có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng đến trơ trụi: không kính, không đèn,
không mui... Nhưng đoàn xe vẫn cứ chạy một mục đích cao cả: miền Nam
ruột thịt, thống nhất nước nhà. Thì ra mọi cội nguồn tạo ra sức mạnh của
đoàn xe được tích tụ lại ở trái tim gan góc, kiên cường giàu bản lĩnh nhưng chan
chứa tình yêu thương người cầm lái. Chính tình yêu Tổ quốc, tình thương
đồng bào đã khích lệ, động viên người lính lái xe đạp bằng gian khó, lạc quan,
bình tĩnh, nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe tới đích. Khổ
thơ cho ta thấy chân của cuộc đời: sức mạnh không chỉ khí, là vật chất
chính con người. Con người mang trái tim nồng cháy, yêu thương, ý
chí kiên cường chiến đấu là con người chiến thắng:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Câu thơ làm tỏa sáng hình tượng người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường
Sơn, là linh hồn của cả bài thơ.
Bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người chiến lái xe thật đẹp, thật dỏm, thật
lính. Đó hình ảnh tiêu biểu của thế htrẻ trong thời kháng chiến chống đế
quốc Mỹ một thế hệ anh hùng, sống đẹp giàu tưởng. Họ sẵn sàng làm bất
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
17
cứ việc gì, đi bất cứ đâu mà Tổ quốc cần, trong gian khổ vẫn giữ vững một niềm
tin, một niềm lạc quan tin tưởng vào chiến thắng. Đó chủ nghĩa anh hùng
cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 4
thể nói, thơ Phạm Tiến Duật như một luồng gió mới thổi vào vườn thơ cách
mạng với một phong cách cùng sáng tạo. Với quan niệm "chủ yếu đi tìm cái
đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống", ông đã đưa tất cả những
chất liệu của hiện thực đời sống chiến trường vào trong thơ ca. Tuyến đường
Trường sơn khói lửa tuyến đường của mưa bom bão đạn, của chiến tranh tàn
khốc và của lòng nhiệt huyết tuổi trẻ. "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng
phơi phới dậy tương lai” niềm vui đó như ánh sáng chói chang soi sáng tâm
hồn nhà thơ để tạo thành một hồn thơ chiến rất lạ, rất mới, rất độc đáo. "Bài
thơ v tiểu đội xe không kính" là tác phẩm tiêu biểu của ông viết về những
người lính lái xe can trường, dũng cảm, lạc quan, yêu đời trong mưa bom, bão
đạn. Họ quyết chiến đấu hi sinh vì lý tưởng giải phóng miền Nam, thống nhất tổ
quốc. Đó là tiếng nói chân thành của người trong cuộc với một tâm hồn đấy chất
thơ.
lẽ chất thơ Phạm Tiến Duật hay bởi cái mới mẻ, sáng tạo, bởi hồn thơ chiến
trẻ trung, tếu táo. Thơ ông không phản ánh một cách chân thực, giản dị đời
sống cách mạng như thơ Chính Hữu phả vào đó một luồng chất thơ, chất
tinh nghịch của tuổi trẻ. Ông đã thi vị hóa cái hiện thực để tạo được hình ảnh
thơ sống động, độc đáo, đó "những chiếc xe không kính". Đây chỉ thứ
tưởng chừng như khô khan, trần trụi nhưng lại được Phạm Tiến Duật nhìn với
con mắt rất thơ. Những chiếc xe không kính chắn gió ư? Phải chăng đây
kết quả của một hành trình vượt qua mưa bom bão đạn? "Bom giật, bom rung
kính vỡ đi rồi" một lời giải chân thực, gần như văn xuôi lại pha thêm chút
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
18
giọng thản nhiên khiến người đọc nhận ra chất thơ ngay từ hình ảnh đó. Những
chiếc xe đã vượt qua bom đạn thử thách để rồi mang trong mình đầy thương
tích. Mặc cho gian khổ, đoàn xe vẫn băng băng ra chiến trường miền Nam
phía trước độc lập tự do của Tổ Quốc. Phải chăng qua hình ảnh ấy, Phạm
Tiến Duật muốn làm nổi bật vẻ đẹp của những con người cầm lái?
Phải nói rằng, tác giả đã dùng cách mở hết sức tài tình. Bài thơ này đâu phải
viết về những chiếc xe không kính. sao vây? Bởi hình ảnh đó tượng trưng
cho những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến. Ông đã tạo nên một hình
tượng người lính nơi hội tụ những phẩm chất cao đẹp. Trên những chiếc xe
không kính, họ vẫn cầm lái với thế ung dung, hiên ngang giữa trời đất. Họ
thiếu thốn về phương tiện, vật chất. Điều đó đã không còn là trở ngại lớn lao bởi
họ biết biến nó thành "cơ hội" để hưởng thụ, để tiếp cận thiên nhiên. Phạm Tiến
Duật đã lấy cái khó khăn, gian khổ làm cơ hội để bộc lộ được những phẩm chất
cao đẹp của người lính cách mạng:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Cái ngồi "ung dung" đàng hoàng làm chủ tình thế một tư thế chiến đấu rất đẹp
Mặc cho mưa đạn khói lửa, mặc cho khó khăn thử thách, các anh vẫn bình tĩnh,
tự tin, đưa hàng ra tiền tuyến. Để rồi, họ nhìn một cái nhìn khoáng đạt bao la
giữa đất trời: "Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng". Họ không thẹn với đất trời, họ
không run sợ hay tránh nhìn thẳng vào gian khổ, vào tương lai để lần
theo ánh sáng tưởng cách mạng. Nhìn qua khung cửa vỡ họ nhìn thấy cả
một không gian rộng lớn, thấy những cung đường chiến lược phía trước. Đoàn
xe vẫn vun vút bươn trải, vẫn lao nhanh với tốc độ phi thường. Dường như
chính nhà thơ cũng đang cầm lái những chiếc xe không kính đó nên câu chữ
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
19
mới sinh động, cụ thể, gợi cảm như vậy. Lời thơ nhịp nhàng, trong sáng như
văng vẳng tiếng hát vút cao giữa chiến trường bom đạn.
Ở những người lính trẻ ấy còn sáng bừng lên tinh thần lạc quan, thái độ bất chấp
mọi kkhăn gian khổ. Nếu hai khổ thơ trên những cảm giác về khó khăn
thử thách thì giờ đây những khó khăn thử thách lại ập đến một cách cụ thể, trực
tiếp. Đó "bụi phun tóc trắng" "mưa tuôn mưa xối". Phải chăng đó chính là
cái hậu quả tất yếu của những chiếc xe không kính? Nhưng những khó khăn đó
đâu làm họ nao núng. Họ đã chấp nhận nmột thử thách mới để rồi bình
thản, cố gắng vượt lên trên hoàn cảnh. Nếu bài thơ "Đồng chí" của Chính
Hữu, tiếng "mặc kệ" cất lên biểu thị thái độ sẵn sàng chấp nhận thì bài này
cũng vậy, trước khó khăn gian khổ, những người lính trẻ vang tiếng "ừ thì" thật
nhẹ nhõm. "Bụi phun tóc trắng", "mưa tuôn mưa xối" ư? Điều đó chẳng
đối với những con người can trường, lạc quan này. Họ "chưa cần rửa", "chưa
cần thay" để rồi “phì phèo châm điếu thuốc” “nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha”. Phải chăng đây sức mạnh của tinh thần lạc quan, thái đbất chấp mọi
hiểm nguy? Nhà thơ đã xây dựng hình tượng người lính vừa mang nét giản dị,
phong trần nhưng lại không thiếu phần kiêu hùng, lãng mạn. Phải nói rằng, câu
thơ Phạm Tiến Duật chẳng những hay về hình ảnh còn hay về âm điệu.
Những thanh bằng, trắc được phối hợp linh hoạt, phô diễn được cái nghiệt ngã
của người lính trong chiến tranh: "Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi" hay "Nhìn
nhau mặt lấm cười ha ha" câu thơ với sáu thanh bằng gợi sự nhẹ nhõm, yên
trong tâm hồn người lái xe. Phải chăng đó nốt nhạc vui sôi nổi vang dậy cả
Trường Sơn.
Hình tượng người lính lái xe còn được Phạm Tiến Duật phát hiện thêm một nét
đẹp nữa, đó tình đồng đội gắn bó, chia ngọt sbùi. Những con người dũng
cảm ấy đã vượt qua bao khó khăn thử thách, họ đến "từ trong bom rơi", để rồi
những chiếc xe không kính ấy "đã về đây họp thành tiểu đội". Nhưng hiểm
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
20
nguy, gian khổ hội để họ gần nhau hơn trở thành bạn để rồi "bắt tay
nhau qua cửa kính vỡ rồi" cái bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi" cái bắt tay
đầy ý nghĩa, thắm tình đồng đội. Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính,
nhưng mỗi thời mỗi khác, anh chiến trong thời chống Pháp thì "thương nhau
tay nắm lấy bàn tay". Nhưng tất cả cái bắt tay ấy đều xuất phát từ bao gian khổ,
hiểm nguy mở ra một tình bạn cách mạng cao cả. Để rồi, ánh sáng của tình
đồng chí, đồng đội đã làm ấm cả chiến trường bom đạn lạnh lẽo.
Cuộc đời người lính rất bình dị nhưng cũng cùng sang trọng. Giữa chiến
tranh bom đạn, họ vẫn ung dung "Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời". Bữa cơm
gia đình thật ấm áp, khiến tình đồng chí, đồng đội đã trở thành tình cảm gia
đình. Dường như giữa họ không hề tồn tại một sự ngăn cách nào. "Chung bát
đũa nghĩa là chung gia đình đấy" một cách định nghĩa tếu táo sâu nặng
nghĩa tình. Trong thơ Xuân Diệu, hai từ "nghĩa là" cũng được thi vị hóa trở nên
óng ánh chất thơ:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Dưới ngòi bút Phạm Tiến Duật, hai chữ "nghĩa là" lại trở nên đậm đà; chan chứa
cái tình của người lính. Nhà thơ đã thực sự thành công khi thổi hồn vào ngôn từ,
vào câu chữ. Chỉ với hai tthôi tình đồng đội đã rút ngắn mọi khoảng cách
để trở thành tình cảm anh em ruột thịt. Phải chăng tình cảm ấy nguồn sức
mạnh to lớn để họ tiếp tục lên đường? Những người lính trẻ vẫn tiếp tục ra mặt
trận trong không khí hồ hởi của cuộc kháng chiến: "Lại đi, lại đi, trời xanh
thêm" đoàn xe vẫn không ngừng lăn bánh trên tuyến đường Trường Sơn khói
lửa. Điệp ngữ "lại đi" như nhấn mạnh nhịp hành quân đều đặn. "Trời xanh thêm
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
21
cũng chính niềm lạc quan yêu đời, chan chứa hy vọng của người lính. Vậy
nếu có niềm tin thì chẳng có việc gì là họ không làm được.
Trải qua bom đạn kẻ thù, những chiếc xe giđây không còn nguyên vẹn
mang đầy thương tích. Xe không kính, không đèn, không mui đó
những khía cạnh của cái "không có" Phạm Tiến Duật đã phát hiện một cách
tài tình. Nhưng hoàn cảnh đó đâu làm nản chí những con người kiên cường kia.
Họ vẫn đàng hoàng ung dung, đoàn xe vẫn lăn bánh đều đặn ra mặt trận. Vì sao
vậy? Bởi lẽ trong cái mảng "không có" mịt vẫn còn lóe lên một cái "có"
đó là "trái tim” của người cầm lái.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Thì ra cội nguồn sức mạnh để họ vượt qua khó khăn gian khổ, đọng kết lại
"trái tim" gan góc, kiên cường chan chứa yêu thương này. Đó trái tim
nồng nàn yêu nước, sẵn sàng hi sinh sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước "Chỉ cần trong xe một trái tim" câu thơ nhẹ nhàng kiên
quyết, làm tỏa sáng và chói ngời cả bài thơ "trái tim ấy" "trái tim" nhiệt huyết
của người lính "trái tim" vĩnh hằng bất biến của tổ quốc. Vậy sức mạnh quyết
định chiến thắng đâu phải là vũ khí, công cụ! Đó niềm tin hy vọng về một
ngày mai độc lập, tự do. Qua đây, vẻ đẹp của người lính đã được hoàn thiện qua
nét vẽ của nhà thơ.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 5
“Bài tvtiểu đội xe không kính” tác phẩm tiêu biểu của Phạm Tiến Duật.
Qua bài thơ này, tác giả đã khắc họa cho người đọc thấy được vẻ đẹp của những
người lính lái xe”.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
22
Tứ thơ được hình thành từ một hình tượng, một chi tiết độc đáo: những chiếc xe
không kính chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Lời thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường
hàng ngày. Cái gian khổ nguy hiểm của nơi chiến trường khốc liệt “bom giật,
bom rung” làm vỡ kính xe được anh kể lại một cách tự nhiên như không. Đó
chuyện quá bình thường đối với người lính lái xe trong thời chiến. Ngay khổ thơ
mở đầu nhà thơ đã phác họa trước mắt người đọc tư thế hiên ngang của họ. Điệp
từ “nhìn" được nhấn mạnh ba lần trong một câu kết hợp với cách ngắt nhịp
2/2/2: “nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng” đã diễn tả được cái thế hiên ngang ấy.
Mặc bom đạn trên đầu, mặc mặt đường sạt lở cây cối ngổn ngang, phải
qua bao dốc cao, vực thẳm họ vẫn giữ nguyên tư thế ung dung, hiên ngang, như
chẳng có việc gì xảy ra. Không có kính hóa ra lại hay, bởi vì:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Phải người trong cuộc mới viết được những câu thơ vừa hay vừa chính xác đến
như thế. Tâm hồn các chiến lái xe thật lãng mạn. Nhờ không kính sao
trời, cánh chim “như sa, như ùa" vào buồng lái. “Sao chim” đã trở thành
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
23
người bạn đường của họ. Đặc biệt nhất hình ảnh “nhìn thấy con đường chạy
thẳng vào tim” tả rất đúng cảm giác của người lái xe không kính, đồng thời còn
nói được sự gắn bó của họ đối với con đường Trường Sơn, con đường đánh Mỹ:
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những chiến lái xe thật trẻ, thật hồn nhiên, pha một chút ngang tàng đáng
yêu, đúng là kiểu ngang tàng của lính lái xe:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Cụm từ “không có… thì” được nhắc lại tới hai lần cho thấy dường như đó
chuyện quá bình thường không đáng kể. Cái dáng điệu “phì phèo châm điếu
thuốc” tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ trung càng làm nổi bật thế hiên
ngang, tâm hồn lạc quan của họ trong những năm tháng vô cùng ác liệt.
Họ đã coi gian khổ như không có gì:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
“Mưa tuôn, mưa xối nngoài trời” thì cũng chẳng sao. Tất cả rồi sẽ nhanh
chóng qua đi: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi?”... Vẫn cái chất giọng ngang
tàng đáng yêu của lính lái xe.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
24
Tình cảm gắn bó giữa các chiến sĩ lái xe cũng được diễn tả rất đúng, rất hợp cái
phong cách ngang tàng đáng yêu của họ:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội,
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Trong chặng hành trình gian khổ, những người lính phải trải qua những phút
giây nguy hiểm như nhau nên quá đỗi thấu hiểu. Cái bắt tay chào nhau chứa
đựng sự cảm thông, chia sẻ và đầy tin cậy. Sự gắn bó thân thiết ấy còn được nhà
thơ diễn tqua bữa ăn chiến của họ: “Chung bát đũa nghĩa gia đình đấy”.
Hoàn cảnh khó khăn, người lính phải dựng bếp ăn giữa đường. Những bữa ăn
đơn giản nhưng chứa chan tình cảm thắm thiết. Họ coi nhau như anh em trong
gia đình, cùng san sẻ với nhau bao khó khăn, vất vả. Đời sống chiến đấu càng
thiếu thốn, gian khổ càng xích họ lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
chỉ được nghỉ ngơi trong chốc lát, họ vẫn mong muốn không mệt mỏi.
Điệp ngữ “lại đi” dường như đã trở thành một nhịp điệu. Họ vẫn tiến về phía
trước với một niềm tin “trời xanh thêm” - hy vọng về tương lai độc lập, hạnh
phúc.
Bài thơ kết thúc bằng sự nhận thức rất sâu sắc của người lính lái xe:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
25
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
thể còn nhiều gian khổ, còn nhiều mất mát, còn nhiều hy sinh... Nhưng
không thể ngăn cản được bước tiến của người lái xe nói riêng của dân tộc ta nói
chung. “Trái tim” - một hình ảnh hoán dụ mang tính biểu tượng cao. Trái tim
đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã nguyện chiến
đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” một chất giọng riêng đáng quý. Chất
giọng tự nhiên pha chút ngang tàng rất phù hợp với các chiến lái xe thời
chiến. Qua đó giúp người đọc hiểu được đời sống chiến đấu hết sức gian khổ
thiếu thốn của họ, hiểu được tư thế hiên ngang, tâm hồn trẻ trung lãng mạn và ý
chí cao đẹp của họ. Với bài thơ này, Phạm Tiến Duật đã góp phần khắc họa thật
chân thực hình ảnh người những chiến sĩ lái xe trong những năm chống Mỹ thật
khốc liệt.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 6
Phạm Tiến Duật gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ trẻ trong giai đoạn
chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong các tác phẩm của ông “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính”. Với bài thơ này, nhà thơ đã khắc họa hình tượng những người
lính lái xe Trường Sơn trong thời kháng chiến chống Mỹ với thế hiên
ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm nơi
chiến trường.
Hình ảnh của người lính lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
26
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
trước hết, hình ảnh người lính hiện lên với thế hiên ngang của họ khi đối
mặt với hiểm nguy. Câu thơ mở đầu: “Không kính không phải xe không
kính” - điệp ngữ “không có… không… không có…” như muốn nhấn mạnh
hình ảnh những chiếc xe không kính. Các động từ mạnh “giật”, “rung” kết hợp
với hình ảnh “bom” khắc họa sự khốc liệt nơi chiến trường. Từ đó giải thích
nguồn gốc của những chiếc xe không kính. Vốn những chiếc xe vận tải chở
hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, nhưng lại bị bom đạn của kẻ thù bắn phá nên
kính xe vỡ đi trở thành những chiếc xe không kính. Trước hoàn cảnh đó, người
lính lái xe vẫn: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Hình ảnh trên cho thấy thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm
nguy. Trong mưa bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía
trước. Với những chiếc xe không kính, khó khăn của những chặng đường dường
như tăng lên gấp bội. Đó “gió vào xoa mắt đắng” - những chiếc xe không
kính khiến cho bụi đường bay vào mắt, với từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác. Con đường chạy
thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không
kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ. Tất cả đã trở thành người bạn đồng
hành của các chiến sĩ lái xe. Nhưng dù khó khăn là vậy người lính vẫn không sợ
hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.
Không chỉ vậy, họ còn giữ được tinh thần lạc quan trước hoàn cảnh nguy hiểm
đó. Giọng điệu đầy thản nhiên, mà còn có chút hài hước, tinh nghịch:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
27
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp ngữ “không có… thì…” cho thấy thái độ thản nhiên đối mặt với khó
khăn những chiếc xe không kính mang đến. Chiếc xe không kính khiến họ
phải đối mặt với bụi đường, với mưa gió nhưng h vẫn sẵn sàng chấp nhận
những điều đó như một điều bình thường. Thậm chí họ coi đó như một điều
đem đến những niềm vui thú vị. Những hình ảnh “bụi phun tóc trắng như người
già”, “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa
khô mau thôi” cho thấy sự ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời.
Giữa những gian khổ, người lính lái xe vẫn sáng ngời một tình đồng đội:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
28
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội” gợi ra những chiếc xe từ trong
mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là những
đồng đội cùng chung một tưởng. Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vrồi” - chi
tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp
thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.
cuộc chiến tranh khốc liệt khiến người lính phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi
nên một cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả. Để rồi họ gắn giống như
những người thân trong gia đình, gắn với nhau thân thiết như tình cảm ruột
thịt. Giọng thơ ở đây thật hồn nhiên, yêu đời biết bao. Trên hành trình ấy, họ chỉ
thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng. Giấc ngủ chập chờn không yên. Nhưng
vẫn lạc quan bước đến “lại đi, lại đi trời xanh thêm”, điệp ngữ “lại đi” giống
như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân. Còn hình ảnh
“trời xanh thêm” gợi ra tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía
trước - tương lai của độc lập, tự do.
Khổ thơ cuối cùng đã thể hiện một lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt đã giúp
những người lính lái xe có thêm quyết tâm chiến đấu về miền Nam ruột thịt:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
29
Hai câu đầu vẫn những khó khăn từ những chiếc xe: không đèn, không
mui xe, thùng xe xước… Nhưng khó khăn ấy chẳng thcản nổi ý chí của
người lính khi “xe vẫn cứ chạy miền Nam phía trước”, niềm tin tất thắng
nước nsẽ thống nhất. Bởi trong xe luôn một trái tim, đó hình ảnh
hoán dụ đchỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn ssống, cũng như sôi sục
lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng,
lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Như vậy, qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã khắc họa
được hình ảnh người lính lái xe với những nét đẹp tiêu biểu cho người lính
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 7
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất
diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”
ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho Miền Nam
ruột thịt.
Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận chàng trai trẻ Phạm Tiến
Duật. Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ
chiến sĩ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du
dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc,
độc đáo đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” một bài
thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .
Xuyên suốt bài thơ hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe những người
chiến lái xe. Những chiếc xe không kính nguyên nhân của được giới
thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua lẽ trước tác
giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
30
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .
Cách giải đơn giản, ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc. Cảm hứng thơ bắt
đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung” giúp ta hình
dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy cùng dữ
dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại sở để người lái
xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các
anh khó bảo đảm. Vậy thái độ của các anh bình thản tự tin đến không
ngờ. Trong thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn cả niềm
kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên
nhiên. Nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình
ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận. Cái vất vả, gian khổ
hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dtrung thực đến từng chi
tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin, người lái xe không chỉ cảm thấy
còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chquá đỗi trìu mến, dịu dàng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
31
thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay thiếu ngủ. hơn thế
nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời.
Điệp t“ừ thì”, “chưa cần", hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”, giọng “cười
haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị anh hùng của những chàng trai trẻ
biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái. Qua đó làm
sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực bất chấp gian khó của những người
biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh. lẽ ai đã từng đến Trường sơn
mới thấu hết nỗi gian nan của người cầm lái. Đường Trường Sơn gập
ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước, mùa khô xe chạy bụi trời. Bom đạn
của quân tkhông làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên
khắc nghiệt nào đáng kể chi. Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng
người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt của nhà thơ, sự hiểm nguy của những
chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp
nhau, bởi họ thể không cần phải xuống xe vẫn thể bắt tay nhau thể
hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng những phút nghỉ ngơi của
những người lính lại vô cùng giản dị :
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
32
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính
không chỉ đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn những người cùng trong
một gia đình. Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công
việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Chỉ điều
càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra:
“không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.
Như vậy cả “không có” “có ”đều là tổn thất, đều hại. Điệp ngữ “không
có” được nhắc lại ba lần nnhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của
chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải.
Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy
thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường. Kì lạ thay:
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
“Trái tim” một hoán dụ chỉ người chiến lái xe yêu nước căm thù giặc sống
trẻ trung, sôi nổi lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng
chiến. Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra. Ta chợt nhận ra người
chiến sỹ lái xe một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn
của xe. trái tim chiếc xe thành một thể sống ,thành một khối thống nhất
với người chiến sĩ. Ta hiểu sao cả đoàn xe thể vượt qua dãy Trường Sơn
khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
33
cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương. Có lẽ vì thế mà nhiều người cho
rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái.
Đến với bài tta thú vnhận ra cái giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt
nguồn từ sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến Việt Nam chính
tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi,
hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong t
đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 8
Phạm Tiến Duật nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước. Năm
1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học phạm Nội I. Ông vào bộ đội
và xung phong vào tuyến lửa khu Bốn. Từng là lính lái xe nên ông có những bài
thơ viết rất hay về binh chủng này. “ Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu
biểu. Bài thơ khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện
thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm
vụ.
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng
cả một tiểu đội xe không kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận.
độc đáo thật, chỉ gặp Việt Nam, những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống
Mỹ. Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Nguyên nhân xe không kính vậy. Đấy một hiện thực trần trụi tác giả
không thể hư cấu.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
34
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp.
Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay,
thế nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất chủ
động, hiên ngang vượt lên tất cả. Nói đến người lái xe nói đến con mắt, nói
đến cái nhìn. đậm cái nhìn của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả
đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo
sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca
bin không kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động,
cụ thể đối với người lái xe:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện cái
thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được đậm. Cái tài của Phạm Tiến
Duật trong khổ thơ này cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp
nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn
cảnh của người lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
35
Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” lẽ đương nhiên, xe
không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên.
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý thức
được mà còn rất quen với những gian khổ đó.
Chính vì thế:
“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đây những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần cuộc sống
của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy vụng về nhưng
sao đáng yêu thế?. Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi
người sao rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu tnày giúp ta hiểu
được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng
đánh Mỹ. Đó cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh
thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận tải
trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ giọng điệu riêng, đậm
chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí,
đồng đội trong kháng chiến. hai khổ thơ này, tác giả vẫn đậm cái hình
tượng thơ “xe không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
36
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều như
một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính tương lai còn tiểu đội
xe không đèn, không mui xe,... Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết
sức ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử
thách: “Không nh rồi xe không đèn, không mui, thùng xe xước”
nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ
miền Nam thân yêu họ sẵn một nhiệt tình cách mạng, một trái tim
quả cảm trái tim người lính Bác Hồ.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài thơ bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh người chiến sĩ đã được thể hiện rất
ràng chân thật. Qua các hình ảnh ấy, ta thấy được sự khó khăn gian
khổ của những người nh oai hùng thêm yêu mến, thêm biết ơn đối với các
vị anh hùng dân tộc đã ra đi để đất nước được vẹn tròn.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 9
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ
trẻ thời kháng chiến chống Mỹ, đã từng trải nghiệm cuộc sống trên tuyến đường
Trường Sơn nên tcủa Phạm Tiến Duật hầu như chỉ viết về những người lính
trẻ những thanh niên xung phong. Thơ ông chinh phục trái tim bạn đọc
bằng những giọng điệu sôi nổi trẻ trung, ngang tàng và mang đậm chất lính.
“Bài thơ tiểu đội xe không kính” đã in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc
đáo ấy. Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ này vào năm 1969 trong thời điểm gay
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
37
go, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thi phẩm nằm trong
chùm thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Trong thi
phẩm, Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công vẻ đẹp của người lính lái xe
Trường Sơn - hình ảnh cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Chân dung người lái xe Trường Sơn được tác giả khắc họa qua hình ảnh những
chiếc xe không kính một giọng thơ ngang tàng, trẻ trung, gần gũi. Cảm hứng
về những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá
của mình về vẻ đẹp của những chiến sỹ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời
chống Mỹ. Đó là tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, đó còn là lòng lạc quan,
yêu đời, tình đồng chí đồng đội thắm thiết lòng yêu nước nồng nàn, tưởng
chiến đấu cao đẹp. Cái nhìn lạc quan của người lính về sự ác liệt của chiến tranh
được thể hiện rất rõ qua cách lý giải về những chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Điệp từ “không” khiến câu thơ giãn ra, tạo nhịp điệu khoan thai, đặc biệt từ
“rồi” khép lại câu thơ thứ hai đã làm nên một giọng điệu rất nhẹ. Người lính nói
về những chiếc xe không kính chính nói về cuộc chiến khốc liệt họ phải
trải qua. Vậy mà người lính lái xe lại kể về tất cả những điều ấy bằng một giọng
thản nhiên đến lạ lùng. Điều này cho thấy rất cái nhìn bình thản của người
lính về những mất mát của bom đạn kẻ thù đã gây ra. Đó là cái nhìn lạc
quan của bản lĩnh anh hùng. Phẩm chất anh hùng của một người lái xe Trường
Sơn ngời sáng qua tư thế ung dung:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
38
“Ung dung" thế thoải mái, tâm trạng bình thản thái độ bình tĩnh, t
tin. Đặt vào hoàn cảnh chiến tranh ác liệt lại lái những chiếc xe không kính thì
sự ung dung này chính biểu hiện cho lòng dũng cảm của người lính lái xe.
Điệp t“nhìn” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ đã họa lên thế hiên ngang của
người lính. thế ấy một sthách thức với bom đạn của kẻ thù. Phải chăng
nhờ những chiếc xe không kính người lính mới điều kiện bộc lộ phẩm
chất anh hùng và nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao của mình. Miêu tả cảm giác
của người lính khi lái những chiếc xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã
mở ra một thế giới tâm hồn phong phú, đẹp đẽ của họ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Không còn kính chắn gió, người lái xe lại có cái thú vị là được tiếp xúc trực tiếp
với thế giới bên ngoài. Qua khung cửa không còn kính, không chỉ mặt đất mà cả
bầu trời với “sao trời” “cánh chim” cũng như “ùa vào buồng lái”. Nhà thơ
Phạm Tiến Duật đã miêu tả rất chính xác cái cảm giác mạnh đột ngột khi
ngồi trên chiếc xe không kính lao nhanh về phía trước. Nhịp thơ dồn dập, khỏe
khoắn, gợi cảm giác về tốc độ của tiểu đội xe không kính, vừa mở ra tâm
trạng hồ hởi, háo hức của người lính trên đường ra trận. Với người chiến sỹ
Trường Sơn “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Bởi niềm hạnh phúc lớn nhất
được mặt trên trận tuyến đánh quân thù. Với những câu thơ này, Phạm Tiến
Duật đã làm dậy khí thế của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Cái nhìn của người lính lái xe vào thiên nhiên trụ cái nhìn đậm chất lãng
mạn chỉ có ở những người can đảm, biết vượt lên những thử thách khốc liệt. Lái
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
39
xe không kính không phải không gặp những khó khăn nào “Gió vào xoa
mắt đắng”, rồi những thứ bên ngoài như quăng như quật vào người lái xe nhưng
chủ yếu vẫn cảm giác thú vị về thiên nhiên trụ bỗng trở nên thật gần gũi.
Hóa thân vào những người chiến sỹ lái xe, tác giả đã nhìn hiện thực chiến tranh
bằng con mắt của người lính. Đó cái nhìn lãng mạn, trẻ trung, yêu đời. Trước
những thách thức khốc liệt do những chiếc xe không kính mang lại, người lính
đã tỏ thái độ bất chấp, coi thường hiểm nguy.
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người g
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay thái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Hai khổ t đầy ắp những chi tiết hiện thực, đó một kiểu hút thuốc “phì
phèo” rất lính, rồi tiếng cười “ha ha” tư, sảng khoái, đó là “bụi phun”, “mưa
tuôn”, “mưa xối”. Những chi tiết rất thực rất sống động ấy đưa ta đến cuộc
sống gian khổ nhưng đầy ắp niềm vui tiếng cười của những người lính trẻ.
Hiện thực đời lính đã được Phạm Tiến Duật tái hiện bằng những câu thơ đậm
chất văn xuôi và một giọng thơ ngang tàng, hồn nhiên rất lính.
Thực tế những bánh xe lăn những gian khổ, những hiểm nguy. Đó những
thách thức rất thực những người lính lái xe không kính đã trải qua trên
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
40
đường chiến trường. Nhưng với họ, gian khổ chả ý nghĩa gì. Điệp từ “ừ
thì” “chưa cần” đã làm bật lên thái độ thách thức, bất chấp hiểm nguy của
người lái xe. Đây thái độ của con người đứng cao hơn hoàn cảnh, coi thử
thách hội để thể hiện mình. Không phải người lính gồng mình lên để
vượt qua gian khổ, các anh đã chiến thắng thử thách khốc liệt một cách hết
sức nhẹ nhàng bằng tiếng cười “ha ha” đầy sảng khoái. Đó tiếng cười của
niềm lạc quan yêu đời, chất chứa trong đó biết bao hồn nhiên, trong sáng tuổi
trẻ. Bằng ống kính điện ảnh, nhà thơ đã ghi lại được những khoảnh khắc xúc
động của tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính Trường Sơn.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Phạm Tiến Duật đã khéo léo đưa những chiếc xe không kính vào thơ để làm
sở nảy nở tình cảm giữa những người lính lái xe. Mới đầu chỉ là những chiếc xe
không kính, nhưng về sau đã hợp thành cả một tiểu đội xe không kính. Từ “tiểu
đội” cho ta hiểu rằng tình cảm giữa những người chiến sĩ lái xe trước hết tình
đồng đội giữa những con người cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước. Qua hình ảnh tiểu đội xe không kính, nhà thơ
vừa gợi được sác liệt của chiến tranh, vừa tạo ra được tình huống để người
lính lái xe bộc lộ tình đồng chí đồng đội.
Nhờ xe không kính người lính dễ dàng giao lưu với nhau hơn. Không
kính tưởng như thô sơ, hỏng hóc nhưng đến đây đã làm bật lên vẻ đẹp riêng của
nó. Gặp nhau trên con đường Trường Sơn huyết mạch, người lính bắt tay nhau
qua cửa kính vỡ như một cách bộc lộ tình cảm. Cái bắt tay nồng ấm tình đồng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
41
chí này không nhẹ nhàng như cái nắm tay giữa những người nông dân trong bài
thơ “Đồng chí” của Chính Hữu một cái đó thật mạnh mẽ ngang
tàng. Đây cái bắt tay này còn cả những tiếng cười hồn nhiên trong sáng
cái sôi nổi của tuổi trẻ mang theo vào chiến trường. Đầu tiên giữa những người
lính lái xe chỉ tình đồng đội giữa những người cùng một tiểu đội, về sau đã
phát triển thành bạn bè và hơn thế nữa thành tình cảm gia đình.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Bếp Hoàng Cầm bếp chiến do anh nuôi tên Hoàng Cầm chế tạo ra. Đây
là loại bếp được đặt sâu trong lòng đất để hạn chế sự tỏa khói, tránh bị địch phát
hiện. Nhưng đi vào trang thơ Phạm Tiến Duật, cái bếp của người lính đã được
“dựng giữa trời”, thật sừng sững, thật ngang tàng như thách thức kẻ thù. Trong
thơ Phạm Tiến Duật, bếp hoàng cầm đã trở thành tín hiệu của sự sum họp, đoàn
tụ. nơi nào bếp Hoàng Cầm nơi đó một gia đình lính, bởi theo họ
“chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Câu thơ giọng điệu rất dỏm
thoáng nụ cười hồn nhiên rất chất lính. Ở đây tác giả đã một cách định nghĩa
rất độc đáo về gia đình.
Đối với những người lính lái xe, không nhất thiết phải chung huyết thống
chỉ cần chung bát, chung đũa thì đã gia đình rồi. Bát đũa bình thường giản dị
đã trở thành vật thiêng liêng gắn kết tình cảm giữa những người lính xa nhà
chỉ cần được quay quần xung quanh bếp Hoàng Cầm, cùng chia sẻ bữa cơm
đạm bạc họ đã được tận hưởng cảm giác ấm cùng của gia đình. Dường như
với những người lính Trường Sơn, tình đồng chí đồng đội cũng đẹp đẽ, thiêng
liêng chẳng khác nào tình cảm gia đình. Lý tưởng chiến đấu cao đẹp và niềm tin
vào chiến thắng của dân tộc ở người lính lái xe được thể hiện thật chân thành và
xúc động trong những vần thơ giản dị.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
42
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Tác giả đã miêu tả hết sức chân thực giấc ngủ của người lính lái xe. Giấc ngủ
“chông chênh” vì đường xe chạy gập ghềnh, từ láy “chông chênh” đã góp phần
đậm cuộc sống gian khổ của người lính Trường Sơn. Câu thơ cuối ngắt nhịp
2/2/3 đã làm nên âm hưởng phơi phới. Đặc biệt điệp ngữ “lại đi” khiến câu thơ
như một tiếng reo vui, chất chứa trong đó bao nhiêu hồ hởi, háo hức của
người lính lúc lên đường ra trận. Người lính hiểu mỗi chuyến xe vào chiến
trường đcho “trời xanh thêm”. Hình ảnh “trời xanh” ẩn dụ cho hòa bình,
cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Đến đây tưởng chiến đấu của người lính Trường Sơn đã sáng ngời.
Người chiến sĩ thấy “trời xanh thêm” là đã tin tưởng vào ngày chiến thắng đang
đến gần, niềm tin ấy đã làm nên nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao cho cả tiểu
đội xe không kính. Vđẹp của người lính lái xe Trường Sơn kết đọng lòng
yêu nước cháy bỏng và ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉcần trong xe có một trái tim.
Điệp ngữ “không có” đã làm nên âm điệu nhanh, mạnh, khỏe khoắn, dồn dập
cho cả đoạn thơ. Ta cảm nhận thấy trong nhịp điệu ấy khí thế khẩn trương, hối
hả của những đoàn xe ra trận cả sự ác liệt trong cuộc chiến. Tác giả đã sử
dụng thành công nghệ thuật liệt “không kính”, đồng nghĩa với sự chồng
chất những mất mát, hi sinh của người lính. Đến đây hình tượng những chiếc xe
không kính đã phát triển ở mức cao hơn. Xe không chỉ “không có kính”, mà còn
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
43
“không đèn”, “không mui xe”, chiếc xe đã trở lên hỏng hóc, méo
biến dạng như một thứ đồ phế thải.
Tưởng chừng xe không thể chạy được, nhưng thật kì diệu “Xe vẫn chạy vì miền
Nam phía trước”. Đây một điều bất ngờ, hơn thế nữa những phi thường,
một sự bất chấp đầy thách thức. Tại sao lại điều diệu ấy? Nhà thơ Phạm
Tiến Duật đã phát hiện rằng: “Chỉ cần trong xe một trái tim” thì thế o
xe vẫn cứ chạy. Không cách giải nào cụ thể thuyết phục hơn thể “Chỉ
cần” nghĩa yếu tố duy nhất để xe vẫn cứ chạy chính trái tim người lính.
Chỉ có trái tim quả cảm, giàu lòng yêu nước của người chiến sĩ lái xe thì mọi
khó khăn đã lùi lại phía sau. Đặc biệt nhà thơ đã phát hiện ra cả tiểu đội xe
không kính vẫn chạy “miền Nam phía trước”, một nửa đất nước đang rên
xiết dưới gót giày xâm lược của đế quốc Mỹ. Ý chí chiến đấu sự nghiệp giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước của người lính Trường Sơn đến đây đã
ngời sáng.
Đẹp nhất trong bài thơ “trái tim” người lính. Hình ảnh này được đặt trong thể
đối lập với ba cái “không”: “không kính”, “không đèn”, “không mui”. Đây
chính sự đối lập giữa cái ác liệt của cuộc chiến với tinh thần, khí phách, tấm
lòng của người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” chính là hoán dụ cho người chiến
Trường Sơn yêu nước dũng cảm. Với nh ảnh giàu ý nghĩa này, nhà thơ
Phạm Tiến Duật đã mở ra một góc nhìn mới cho hình tượng người lính lái xe
không kính. Phải chăng “trái tim” cội nguồn sức mạnh của cả tiểu đội xe
không kính, gốc rễ phẩm chất anh hùng của người lính Trường Sơn. Thình
ảnh “trái tim” cầm lái, nhà thơ đã khẳng định một chân lí của thời đại chống Mĩ,
đó sức mạnh quyết định chiến thắng không phải phương tiện, khí
con người với trái tim yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường dũng cảm. Có thể
nói hình ảnh “trái tim” đã làm bật lên chủ đề của bài thơ làm ngời sáng vẻ
đẹp của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
44
Hình ảnh người lính lái xe không kính đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc
họa bằng chất liệu hiện thực sống động của cuộc sống chiến trường. Ngôn ngữ
giọng điệu thơ tự nhiên, khỏe khoắn, mang cái ngang tàng của những người
trẻ. Chọn hình ảnh những chiếc xe không kính, Phạm Tiến Duật đã xây dựng
thành một hình tượng điển hình nhằm phản ánh hiện thực chiến tranh biểu
dương tinh thần, ý chí của người lính Trường Sơn. Đặc biệt tác giả đã khắc họa
thành công chân dung người lính lái xe với nhiều phẩm chất cao quý. Đó
thế hiên ngang, dũng cảm, thái độ bất chấp, coi thường nguy hiểm. Đó còn
vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội và lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng, ý chí
chiến đấu sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Với những
phẩm chất cao đẹp ấy, người lính lái xe trong bài thơ đã trở thành biểu tượng
đẹp cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã góp một tiếng nói
mới mẻ về người lính, về tuổi trẻ Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thi
phẩm đã đem đến cho nhiều thế hệ bạn đọc những hiểu biết về những đóng góp
hi sinh của thế hệ cha anh, đồng thời giáo dục thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm đối
với Tổ quốc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 10
Nói đến thơ ca thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, không thể không nhắc đến một
người, đó nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ông như thể được sinh ra để làm thơ về
cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ tay sai của toàn Đảng, toàn
quân toàn dân ta để trở thành đỉnh cao của thơ ca thời kỳ này. một
trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống cứu
nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh
nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính giọng điệu sôi nổi,
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
45
trẻ trung, dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến lái xe Trường Sơn
ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời.
Không giống các nhà thơ khác, Phạm Tiến Duật đã thể hiện tính cách khác
người của mình ngay hai câu thơ mở đầu. Không lhóa, không dùng hình
ảnh thiên nhiên đẹp đẽ để so sánh, không trau chuốt, không bóng bẩy, hình ảnh
chiếc xe trong tPhạm Tiến Duật rất trần trụi, bình dị, bị bom đạn không còn
nguyên vẹn: Không kính không phải xe không kính. Đơn giản
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi nên xe không còn nguyên vẹn nữa. Thế
nhưng, chiếc xe không kính ấy vẫn băng băng ra chiến trường làm nhiệm vụ.
Chiếc xe đầy tự tin, không hlo sợ trước bom đạn khủng khiếp của giặc Mĩ.
Khác với những trần trụi bên ngoài, đây một chiếc xe dũng cảm, hiên
ngang băng băng chạy. Xe vẫn băng ra tiền tuyến trên những đoạn đường đầy
hiểm nguy. khác chăng đó hình tượng những anh chiến lái xe Trường
Sơn. xe không kính nên các anh được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên
ngoài. Gió, sao trời, cánh chim, cả bầu trời rộng cũng ùa vào buồng lái, hòa
cùng nhịp thở nhộn nhịp của các anh chiến sĩ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Không một sràng buộc hay rào cản nào ngăn cách các anh tiếp xúc với đất
trời. Mà cả thiên nhiên cũng muốn hòa mình với khí thế ấy. Chính vì thế mà các
anh thể nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng một cách cùng thoải mái, tự nhiên.
Không kính thì điều kiện chiến đấu cũng thiếu thốn nhưng các anh vẫn yêu
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
46
đời, vẫn tự tin vào chiến thắng. Các anh xem mọi trở ngại chỉ hội để thử
thách bản thân:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp cấu trúc không kính t...chưa cần thể hiện tính cách ngang tàng,
bất chấp tất cả khó khăn, gian khổ của hình tượng người lính trong bài thơ này.
Không có kính chắn bụi thì đương nhiên phải có bụi bám lên tóc, nhưng các anh
vẫn không lo, cứ để vậy nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha. Không kính che
mưa thì nhiên phải ướt áo, áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ đvậy
lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy,
hiên ngang sao yêu đời quá đi thôi! thiếu thốn, cực khổ đến đâu, các
anh vẫn yêu thương, chia sẻ cho nhau tình yêu thương cao cả:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Dường như trong chiến đấu gian khổ giúp chiến sĩ tôi rèn ý chí và giúp cho tình
đồng đội của các anh thêm gắn kết, keo sơn. Dù vào sinh ra tử nhưng người lính
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
47
vẫn hồn nhiên, lạc quan tin tưởng. Chỉ một cái bắt tay qua khung kính
vỡ rồi nhưng cũng đủ gieo vào nhau những tình cảm tốt đẹp, các anh động viên
nhau tiến bước quân hành. Tình cảm ấy đã làm các anh cảm thấy đầm ấm khi
cùng chung một tiểu đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tiểu đội của các anh như một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Ở đó có vẻ đẹp của sự
sum họp, chan hòa. Các anh chung một điểm tựa, tâm hồn nên gia đình
chiến trường của các anh đều cùng chung một nhiệm vụ thiêng liêng. Các anh
luôn tin tưởng vào tương lai đang chờ đợi họ phía trước. Câu thơ lại đi, lại đi
trời xanh thêm với năm thanh bằng điệp ngữ lại đi đã tạo nên một âm điệu
thanh thản, nhẹ nhàng. Điều làm nên chiến thắng của các anh chính lòng yêu
nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
các anh stương phản rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài
bên trong, giữa cái không cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không
kính rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần
trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn… Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
48
có, đó trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng
những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không
nguyên vẹn ấy băng về phía trước, vì miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng
mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.
Với chất liệu hiện thực độc đáo, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe
không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh cao quý của người lính lái xe
Trường Sơn trong thời kháng chiến chống cứu nước. Qua bài thơ, ta càng
thấy rõ phẩm chất của người lính Trường Sơn: mộc mạc, giản dị đại.
Chúng ta càng biết ơn các anh chiến dũng cảm. Thế hệ trẻ Việt Nam nguyện
tiếp bước các anh gìn giữ Tổ quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 11
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước, hình ảnh những chiến
lái xe vận tải đã “để thương để nhớ” cho tâm tưởng nhà thơ tài hoa Phạm
Tiến Duật. Bởi vậy nên dẫu chẳng một ngày làm lính lái xe nhưng những trang
thơ Phạm Tiến Duật luôn ầm ì tiếng động chạy máy giòn tan tiếng cười
nói của những chàng lính lái xe “trẻ măng tơ” Người đọc khó có thể quên những
chàng trai ngang tàng, tinh nghịch nhưng đầy tưởng ấy trong bài thơ "Bài thơ
về tiểu đội xe không kính".
Bài thơ ra đời năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống cứu nước đang
bước vào những năm tháng khốc liệt nhất. Con đường Trường Sơn đã được khai
phá đtừng dòng người, dòng xe ngày đêm chi viện cho miền Nam ruột thịt.
Trên những dặm đường loang lổ hố bom, trên những đèo cao trập trùng, hiểm
trở,... dù ở đâu trên con đường huyền thoại ấy cũng hiện lên hình ảnh những anh
lính lái xe vững vàng tay lái. Họ đến với chiến trường từ những giảng đường đại
học, từ những mái trường phổ thông còn vương những cánh phượng rơi. Tâm
hồn họ phơi phới tuổi xuân và những tưởng đẹp đẽ của tuổi trẻ. Trở thành
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
49
những anh lính lái xe, họ đã làm vui, làm đẹp, làm vững chắc hơn cho con
đường huyết mạch của cuộc kháng chiến. Các anh tự giới thiệu về những người
bạn đường thủy chung gắn bó của mình:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”…
Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: Những chiếc xe
không kính. Mặt khác, lời giải thích của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy
cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe đã bị phá huỷ bởi
"bom giật, bom rung" - những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh ý thơ. Hai
câu thơ thật tự nhiên, không hình ảnh hoa mĩ, tráng lệ, không hình ảnh
tượng trưng, giọng thơ chút đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu đầy ấn
tượng cho bài thơ. Càng lạ lùng hơn nữa là hình ảnh chủ nhân những chiếc xe kì
lạ ấy:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Với các anh, sự lạ đối với mọi người lại trở thành sự thường trong đời sống.
“Bom giật, bom rung” để lại thương tích loang lổ trên xe nhưng lại chẳng mảy
may nhìn thấy dấu hiệu của tàn phá trên dáng hình người chiến sĩ. Họ "ung
dung" ngồi, “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Sự khốc liệt của chiến tranh không
khiến con người bị đui chột về tâm hồn và ý chí. Là những con người như lời đề
trên bức tường kỉ niệm chiến thắng phát xít Đức của Hồng quân Liên Xô: “Nơi
đây mọi sắt thép đều tan chảy chỉ con người vững vàng đi qua”. Câu thơ
ngắn, nhanh, điệp từ "nhìn" lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động. Rồi trên
con đường thần thánh ấy, các anh còn “nhìn thấy” bao điều khác nữa:
“Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
50
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”…
Bởi xe “không kính” nên quá nhiều bất tiện: “gió xoa vào mắt đắng”
nhưng cũng bởi không kính nên nhiều khi ngồi trong ca bin người lính được
đón nhận những cảm giác thật lạ lùng: “Thấy con đường chạy thẳng vào tim
/Thấy sao trời và đột ngột cánh chim / Như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh
thơ rất táo bạo và khỏe khoắn thể hiện tâm hồn trẻ trung, mạnh mẽ nhưng không
kém phần mộng của những chàng lính lái xe. Khi chiếc xe đã bị phá huỷ,
nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ "không
kính"
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người g
Và:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời.
Thế nhưng, "không kính" thì tác giả lại "có bụi” rồi có "mưa tuôn, mưa xối".
Cấu trúc thơ lặp đi lặp lại - "ừ thì" - đã làm toát lên thái độ bất chấp, không hề
run sợ, coi thường mọi khó khăn. Câu thơ như vang lên tiếng cười vui vẻ, các
anh cười để lạc quan yêu đời, để phớt lờ mọi khó khăn, cười để động viên mình,
và động viên đồng đội. Và niềm lạc quan ấy còn được thể hiện bằng hành động.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
51
Và :
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi
mươi. Những người lính trẻ ấy thật kiên cường trẻ trung, hóm hỉnh. Không
chỉ vậy, họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn, khăng khít:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Bạn bè gặp nhau suốt đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết! Vậy giờ đây, trong gian
khổ, họ thân thiết gắn bó, chào nhau như những người bạn đã quen. rồi, kỉ
niệm như ùa vtrong tâm tnhà thơ. lẽ ông cũng một người lính nên
ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
"Gia đình" - hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết
thống. Họ, những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu
nóng - dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
52
Tuy chiếc xe bị phá huỷ, nát tan đến mức nào, gian khổ kkhăn bao
nhiêu, nhưng "chỉ cần trong xe một trái tim" - Đúng vậy! Chính tình yêu Tổ
quốc đã cầm lái, đã động lực thúc đẩy, giúp những người lính thêm sức
mạnh trước mỗi khó khăn. Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch,
gọn ghẽ. Câu thơ kết của bài thơ có lẽ là câu thơ hay nhất, vừa kết lại sức mạnh
của con người chính tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào
tình yêu hthành ý chí - kiên cường vững bền. Nhưng đồng thời, cũng
mở ra, gợi ra cánh cửa ánh sáng: Miền Nam, nơi mà đồng bào đang trông ngóng
cách mạng trong từng khoảnh khắc.
Bài thơ giọng điệu phóng khoáng, ngang tàng như tâm hồn chàng trai tuổi
đôi mươi. Phạm Tiến Duật đã không phải dụng công gọt giũa ngôn từ, nhiều
câu thơ trong bài thơ như lời nói hàng ngày nhưng chính sự giản dị, chân thành
của cảm xúc đã làm nên những câu thơ lôi cuốn người đọc. Ngoài ra còn phải kể
đến nhiều hình ảnh thơ táo bạo, giàu sức gợi tả cùng các điệp từ, điệp ngữ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành
công hình ảnh những người lính trong kháng chiến chống cứu nước. Hình
ảnh ấy tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Chiến
trường ác liệt, hiểm nguy tâm hồn các anh, các chị vẫn ngời ngời sự lạc
quan, trẻ trung, yêu đời. Nhưng trên hết vẫn tấm lòng yêu mến, thiết tha với
đồng đội, với đất nước, vẻ đẹp tâm hồn cao quý gieo vào lòng người đọc niềm
tin yêu, sự trân trọng, cảm phục lời nguyện cầu tiếp bước. Khi xưa các anh
các chị “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thì hôm nay thế hệ trẻ sẽ “chuẩn bị
hành trang” đầy đủ để đưa đất nước tiến “vào thế kỉ mới” phát triển, sôi động và
đầy thách thức.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 12
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
53
Nói đến Phạm Tiến Duật nói đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế
hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ. Từng chiến đấu trong đội ngũ
những người chiến vận tải dọc đường Trường Sơn, chở khí quân trang từ
hậu phương ra tiền tuyến. Thơ ông giọng điệu khỏe khoắn tràn trề sức sống,
tinh nghịch vui tươi giàu chất suy tưởng. Thật vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” - một bài ttiêu biểu của Phạm Tiến Duật đã nêu lên hình tượng
những người chiến lái xe vui vẻ tếu táo đĩnh đạc hiên ngang can đảm,
thắm tình đồng đội bạn bè bền vững ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.
Bài thơ nhan đề thật độc đáo ấy biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của những người
chiến lái xe Trường Sơn. Đó chính những con người dũng cảm đến ngang
tàng mà giản dị, yêu đời và lạc quan rất mực.
Hình ảnh các anh gắn liền với hình những chiếc xe không kính. Đây là hình ảnh
thực. Bom đạn của chiến tranh ác liệt thời đó đã khiến cho những chiếc xe
không chỉ không kính còn trần trụi hơn nữa không đèn, không mui
xe, thùng xe có xước:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Nhà tmiêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi bật nh ảnh những
người lái xe trên đó. Tuy công việc đầy hiểm nguy gian khổ, nhưng những anh
chiến trẻ này dưới bom đạn triền miên vẫn luôn giữ một thế ung dung lạc
quan tươi trẻ. Phạm Tiến Duật trong bài thơ này đã miêu tả những cảm xúc
rất cụ thể của họ khi ngồi trên chiếc xe không có kính.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
54
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ nhịp điệu nhanh gấp vẫn nhịp nhàng đều đặn này gợi đến
nhịp tiếng bánh xe bon bon chạy trên đường dài. thực sự ung dung nhìn đất,
nhìn trời không chút lo âu hốt hoảng trước bom đạn cận kề thì anh chiến sĩ trẻ
của chúng ta mới thể nhìn thấy đến đủ đầy như thế. Anh từ nhìn thấy gió,
nhìn thấy con đường đến nhìn thấy cả sao trời và cánh chim... từ buồng lái đã vỡ
hết kính chắn gió, gió vào xoa mắt đắng. Làn gió đã ùa vào như thể làm giảm đi
vị đắng nơi khoé mắt. Mắt đắng mắt đã thức nhiều đêm đlái xe liên tục từ
đêm này sang đêm khác. Tất cả thế giới bên ngoài ấy đã ùa vào buồng lái của
anh với tốc độ làm chóng mặt. Con đường cũng vì thế như chạy ngược về phía
người lái và trở thành: “Con đường chạy thẳng vào tim”.
Trong tư thế hiên ngang chủ động đó, người chiến lái xe đã bình thản coi
thường mọi khó khăn, nguy hiểm và gian khổ. Giọng điệu của anh thật ngang
tàn, tếu táo:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
55
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Các anh còn những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn lạc quan thể hiện qua
cái nhìn: “Bụi phun tóc trắng như người già” đặc biệt tiếng cười sảng
khoái đầy trẻ trung hồn nhiên yêu đời: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” dẫu
là sinh hoạt từ cái ăn, cái ngủ bình thường của các anh đều có tính tạm bợ, nhiều
gian khổ:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
“Trời xanh thêm” phải chăng bởi vì lòng người đã phơi phới thêm, say mê thêm
trước những chặng đường đã đi, những chặng đường đang đến.
Cái đã làm nên sức mạnh ấy? Đấy chính ý chí chiến đấu để giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước, tình yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ Việt
Nam thời đánh Mỹ:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tuy bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng: “không kính, không đèn, không
mui xe, thùng xe xước” nhưng chiếc xe ấy vẫn chạy miền Nam phía
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
56
trước, nghĩa là vẫn băng băng ra tiền tuyến. Tác giả đã lý giải về điều ấy thật bất
ngờ cũng chí lý: “Chỉ cần trong xe một trái tim”. Đó trái tim nồng nàn
yêu nước, sôi nổi yêu đời, một trái tim dũng cảm.
Tóm lại, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã thành công
trong việc khắc hohình tượng những chiến lái xe trên đường Trường Sơn
đầy gay go thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai
đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống cứu nước. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ đã thành công hơn ba mươi năm qua nhưng hình tượng tiêu biểu của
một thế hệ trẻ lạc quan yêu đời, hồn nhiên, coi thường thiếu thốn gian khổ, sôi
nổi, đầy quyết tâm chiến đấu miền Nam ruột thịt ngày nào vẫn chưa mờ phai
trong lòng mỗi người Việt Nam chúng ta.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 13
Phạm Tiến Duật nhà thơ tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ
ông giọng điệu hóm hỉnh, ngang tàn. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy của ông, được sáng tác năm 1969.
Đặc biệt để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc hình ảnh người chiến
lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt, mang vẻ đẹp tinh nghịch, lạc quan,
yêu đời, yêu dân tộc và một trái tim nhiệt huyết.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, ác liệt
người chiến sĩ phải ngày ngày trải qua, đối mặt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
57
ràng xe chiến đấu phải được trang bị cẩn trọng, lượng nhưng những
chiếc xe của người lính Trường Sơn lại bthiệt hại nghiêm trọng, hỏng hóc đến
tàn tạ. Nhưng cũng chính những chiếc xe ấy đã cho ta thấy được sự ác liệt
sức phá hủy khủng khiếp của chiến tranh. Trên chiếc xe ấy, các chiến của xe
không kính vẫn hiên ngang, ngang tàn thậm chí chút tinh nghịch, yêu đời.
Hai từ “ung dung”, điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần càng cho thấy được thái
độ thản nhiên, bình thản trước khó khăn như một điều tất yếu của người chiến
sĩ, thay vào đó họ ung dung, tự tại hòa mình vào hoàn cảnh, vượt lên trên hoàn
cảnh, không để khó khăn chế ngự. thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến
cho thấy sự chủ động, tự tin, bình tĩnh trong không khí căng thẳng “bom giật,
bom rung”. Chỉ thể là người chiến với kinh nghiệm chiến đấu đay dặn,
từng trải mới được thái độ, thế ấy. Những thử thách tiếp tục ập tới một
cách trực tiếp, mạnh mẽ hơn những người chiến sĩ lại lấy chính khó khăn ấy làm
niềm lạc quan, tin tưởng, yêu đời và hóm hỉnh đùa nghịch:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người g
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Không cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi.
Câu thơ vút lên tràn đầy niềm lạc quan, sôi nổi như cái sôi nổi rất mới, rất trẻ
của tuổi hai mươi. Những tiếng “ừ thì” vang lên liên tiếp như một sự thách thức,
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
58
một thái độ cứng cỏi. Dường như những gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh
không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ lại như một dịp để họ thử
sức mình. Vậy một lần nữa người chiến trong thơ lại hiện lên vẻ đẹp trẻ
trung, sôi nổi, tinh nghịch, yêu đời tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Nhưng đó
đâu phải vẻ đẹp duy nhất, trên hành trình dưới mưa bom lửa đạn của tuyến
đường Trường Sơn ác liệt thì họ đã coi nhau như anh em ruột thịt, như người
nhà, gắn với bếp Hoàng Cầm để cùng chia nhau những bát cơm chan chứa
yêu thương “chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy”. Vâng, những chiếc xe từ trong
bom rơi, đã về đây họp thành tiểu đội, gặp bạn suốt dọc đường đi tới, bắt tay
nhau qua cửa kính vỡ rồi. Những cái bắt tay ấy ta cũng đã gặp trong “Đồng
Chí” để sưởi ấm cho nhau trong những đêm đông lạnh giá, còn ở đây cái bắt tay
này thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, tinh thần lạc quan vượt lên trên những hỏng
hóc, đổ nát của chiến tranh. Để rồi càng về cuối, vẻ đẹp của những người chiến
sĩ càng thêm rõ nét:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Đoàn xe đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù, hăm hở tiến ra phía trước với một
tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”. Vậy là vì tình yêu thương đồng bào, đồng
chí đau khổ đã khích lệ người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn, nguy hiểm để luôn
bình tĩnh, lạc quan, nắm chắc tay lái nhìn thật đúng hướng để xe khẩn trương tới
đích. đơn giản, chỉ đơn giản rằng: “Chỉ cần trong xe một trái tim”. Trong
bao nhiêu cái không tình phía trên bỗng nổi bật lên cái mãnh liệt của
“trái tim” nhiệt thành, gan góc, kiên cường giàu bản lĩnh của người chiến lái
xe. Câu thơ vang lên nhẹ nhàng như lời khẳng định chắc nịch, gan dạ của những
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
59
trái tim yêu nước cháy bỏng. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, phẩm
chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, kết đọng lại cái “trái tim” này, trái
tim nồng nàn yêu thương, ý chí sắt đá niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc.
Như thế chiếc xe vận tải ngộ nghĩnh, độc đáo không phải chỉ chạy bằng xăng
dầu còn chạy bằng ý chí sắt đá, bằng quyết tâm cao độ, bằng tưởng
vẻ đẹp chói ngời. Phải chăng chính “trái tim” của người chiến sĩ đã cầm lái?
Như vậy bằng cách vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật so sánh,
ẩn dụ, nhân hóa những từ láy biểu cảm, Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành
công hình ảnh người chiến cách mạng dũng cảm, gan dạ, lạc quan, mang
vẻ đẹp hóm hỉnh yêu đời của tuổi trẻ. Những vđẹp của những trái tim yêu
nước ấy sẽ mãi vầng sáng trong suốt chặng đường kháng chiến, trong suốt
những trang hoa, tờ hoa về người chiến sĩ cách mạng.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 14
Phạm Tiến Duật nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
cứu nước. Ông người lính trực tiếp cầm súng ra mặt trận người chiến
lái xe vận tải chở khí, lương thực ào ào trên tuyến lửa Trường Sơn đầy bom
rơi, đạn lạc. Vì thế, hiện thực khốc liệt của chiến tranh đã trở thành chất xúc tác,
khơi nguồn mạch chảy cảm xúc văn chương cho Phạm Tiến Duật, để rồi hình
tượng người lính và các cô gái thanh niên xung phong cứ lặng lẽ, tự nhiên, chân
thật đi vào trong thơ ông mà tạo nên biết bao thi phẩm tuyệt tác, độc đáo.
một trong các bài thơ đó "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" một tác
phẩm hay, rất tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn, tươi vui, tràn đầy sức sống,
đậm đà chất lính của nhà thơ. Tác phẩm nằm trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc
thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, sau được đưa vào tập thơ “Vầng trăng
quầng lửa". Qua bài thơ, người đọc thấy được hiện thực khốc liệt của chiến
tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, thế hiên ngang, bất khuất, ý chiến đấu
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
60
ngoan cường, mạnh mẽ của những người lính lái xe trong công cuộc giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. thể nói, bài thơ bức tượng đài tráng lệ,
thiêng liêng về người lính lái xe anh hùng trên tuyến đường Trường Sơn thời
chống Mĩ cứu nước.
Trước hết, hình tượng người lính hiện lên những chàng trai dũng cảm, hiên
ngang, ung dung, bất khuất trong thế lái những chiếc không kính. Mặc
những chiếc xe bị bom đạn hủy hoại, tàn phá nhưng các anh vẫn rất hiên ngang,
ngạo nghễ vững tay lái cho xe lăn bánh bon bon ra chiến trường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên
cùng khách quan, chân thực. Không kính nên các anh chiến phải đối diện
với biết bao nhiêu sự nguy hiểm, khó khăn: nào "gió", nào "cánh chim",
nào "sao trời"... tất cả “như sa, như ùa" vào mặt, vào người, vào trong buồng
lái; các động từ mạnh như “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy
những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy người lính lái xe
phải đối diện. Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ,
hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
61
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy thế rất tự
tin, bình thản phần ngang tàng của người lính. Điệp từ “nhìn”, “thấy”
được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc lại,
thu vào đôi mắt của người lính. Điều đó không chỉ cho thấy sự tập trung cao độ
của một tinh thần trách nhiệm lớn lao còn cho thấy được tâm hồn lãng mạn,
hiên ngang, mở lòng đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua ô cửa kính
vỡ. Chưa dừng lại đó, trên dọc đường lái xe ra tiền tuyến, người lính còn chịu
rất nhiều những khó khăn từ ngoại cảnh như gió, mưa và bụi:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn xối như ngoài trời”
Nhưng với tinh thần quả cảm, mạnh mẽ, bất chấp, khó khăn, gian khổ người
lính đã vượt qua tất cả:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Điệp ng“Không kính, thì…”; “chưa cần…” lối nói mang đậm tính
khẩu khí ngang tàng. Với cách nói nôm na, thông thường mà cứng cỏi, mạnh mẽ
họ đã biến những khó khăn thành những điều thú vị. Người đọc như nghe thấy
tiếng cười sạch mọi gian khổ của người lính. Những chi tiết hình ảnh: “phì
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
62
phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây nữa… khô mau thôi” đã
cho thấy tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của họ. Cảm giác như những
khó khăn ấy cũng không thể nào dập tắt đi chất trẻ trung, tinh thần lạc quan
dũng cảm của người lính.
Người lính lái xe không chỉ hiện lên những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất
khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm họ còn là những người
chiến trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. thể nói, khó
khăn, ththách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí,
nghị lực kiên cường còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ
thêm gắn bó, keo sơn:
Những chiếc xe từ trong bom rời
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ đi rồi.
Trên dọc đường thậu phương ra tiền tuyến biết bao nhiêu những chiếc xe
không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua
ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm
đồng chí đồng đội. Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên
cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả. Họ coi nhau như anh em
ruột già máu mủ trong gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
63
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của PTD về gia đình về mối quan hệ thiết
thân của những người lính trong chiến tranh, đó là: chung bát đũa, chung bếp
lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung con đường chiến đấu… Tất cả những
điều ấy đã khiến những con người vốn xa lạ nhưng lại hóa quen nhau, thân thiết
gắn keo sơn, đoàn kết cùng nhau tưởng cách mạng cao đẹp. Chính tình
cảm đồng chí, đồng đội đã tiếp sức cho những người lính tiến lên phía trước:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” có ý nghĩa nhấn mạnh đến những
đoàn xe không kính không ngừng tiến lên phía trước.
Hình ảnh “trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời,
chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống,
của cách mạng. Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàn sôi
nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một
mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi
hiểm nguy, chông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đlẫn nhau
cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều
trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.
Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất
chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù người chiến đó
chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom, đạn thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè
bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa
hình ảnh hoán dụ, vừa hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dũng cảm, niềm
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
64
lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính. Chính “trái tim” của họ
là một động hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên
trên của những chiếc xe hỏng, trần trụi. Tất cả một mục tiêu cao cả
người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người
lính lái xe trong bài thơ một bức tượng đài rực rỡ chói sáng, một biểu
tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kháng cứu
nước với tinh thần:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Điều đó cho thấy tinh thần yêu nước sâu sắc sự ý thức trách nhiệm công dân
cao độ của những người lính khi tổ quốc lâm nguy.
Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết
hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc
điệu...Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành ng những chiếc xe không kính
làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng
cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước
mạnh mẽ, sắt son. chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước
sang trang mới: tự do độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn
phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mĩ vẫn mãi sống với thời
gian năm tháng và trong lòng mỗi người Việt.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 15
Phm Tiến Dut là mt trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thi kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Xut thân là mt thầy giáo, do điều kin lch
s thúc bách, ông đem ngòi bút của mình phc v cho cuc chiến đấu anh hùng
ca dân tc. Phm Tiến Dut ch yếu viết v cuc sng và chiến đấu ca thanh
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
65
niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Thơ ông phóng khoáng,
tinh nghịch, tràn đầy nim lạc quan, tin tưởng. Phong cách y th hin sâu sc
qua Bài thơ về tiểu đội xe không kính viết năm 1969, ngay khi cuộc chiến
chng k thù đang trong giai đoạn ác lit nht.
Tuy đến muộn trong đề tài viết v người thanh niên xung phong, thế nhưng
Phm Tiến Duật cũng kịp để li nhng du ấn đậm nét. Có th nói ông là mt
trong những nhà thơ trẻ ni bậc và có đóng góp nhiều nhất trong phong trào thơ
ca kháng chiến chng M cứu nước.
Tập thơ Vầng trăng vầng lửa ra đời năm 1970 làm tên tuổi Phm Tiến Dut
đưc chú ý nhiều. Ông còn được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn
huyn thoại”, “cây săng lẻ ca rừng già”, “nhà thơ lớn nht thi chng Mỹ”.
Thơ ông thời chng M từng được đánh giá là “có sức mnh ca mt sư đoàn”.
Làm nên giá tr y là bi những bài thơ của Phm Tiến Dut luôn bám sát và
phn ánh kp thi, chân thc cuc sng và chiến đấu ca b đội Trường Sơn.
Mt khác, ông la chn phn ánh hin thc chiến tranh khc lit bng mt
giọng thơ hóm hỉnh, sôi nổi, vui tươi và đầy tinh nghch. Ging thơ ấy t ra gn
gũi và phù hợp với tâm lí và tính cách người lính. Nó có sc mnh c vũ tinh
thn chiến đấu, hi sinh, ý chí quyết chiến quyết thng k thù của con người
trong hoàn cnh khc nghit nht. Nó truyền cho người lính nim tin và sc
mnh chiến đấu kiên cường.
Điều đó chứng thc rõ ràng trong cách Phm Tiến Dut nhìn nhn v hin thc.
Ông t ra tài tình khi miêu t nhng chiếc xe không kính, mt hình nh thường
thy trên tuyến đường Trường Sơn thuở ấy. Hình tượng nhng chiếc xe không
kính hin lên chân thc, rõ ràng vi tt c nhng tổn thương thảm khc do bom
đạn k thù gây ra:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
66
Không có kính không phi vì xe không có kính
Bom git, bom rung kính v đi rồi
Đâu chỉ có thế, chiếc xe còn b hy hoại đến thảm thương:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Bình thường, nhng chiếc xe không kính không th gọi là cái đẹp nhưng tác giả
đã lấy hình tượng đó làm cảm hng xuyên suốt bài thơ. Hình tượng độc đáo
nhưng hợp lý này có tác dng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm ni bt phm
chất dũng cảm, s lc quan và quyết tâm giành chiến thng ca anh lính lái xe
thi chống Mĩ.
Nhng chiếc “xe không kính” , “không có đèn”, “không có mui, “thùng xe có
c” y đã gợi lên nhng nguy him cn kề; “bom giật, bom rung” làm vỡ
kính xe…
Hình tượng nhng chiếc xe không kính cũng đã góp phần c th hóa nhng khó
khăn gian khổ mà anh b đội lái xe phi chịu đựng. Điệp ngữ: “không có kính”
đầu các kh thơ vừa có tác dng nhn mnh cho ta cm nhận được gian kh,
nguy him s khc lit ca hin thc cuc chiến đối với người lính Trường Sơn
va khc họa được nét tiêu biu ca con người Vit Nam: dù thiếu thn, k
khăn vẫn kiên cường chiến đấu. S hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gn nhng
ngưi lính:
Ung dung bung lái ta ngi,
Nhìn đất, nhìn tri, nhìn thng.
Trong him nguy, gian kh nhưng người lính vn luôn tư thế hiên ngang, tinh
thần dũng cảm, bt chp mọi khó khăn nguy hiểm, nim vui sôi ni ca tui tr
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
67
và ý chí chiến đấu vì min Nam. Vi ý chí chiến đấu cùng nim lc quan ca
tui tr, với người lính, mi hiểm nguy, gian khó đã không hiện hình. Trước
mt h là c bu tri rng ln vi biết bao điều kì thú. Phm Tiến Dut đã dành
hết ba kh thơ để miêu t tinh thn lạc quan, yêu đời, ý chí vượt khó vượt kh,
đạp bng him nguy của người lính:
Nhìn thy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chy thng vào tim
Thy sao trời và đt ngt cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Không có kính, thì có bi,
Bi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuc
Nhìn nhau mt lấm cười ha ha.
Không có kính, thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số na
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Với người khác, có l đó là một s xa sỉ. Nhưng với Phm Tiến Duật, điều đó
rt cn thiết. Đối vi ông, người lính lái xe không có kính thì đó là những tr
ngi rt ln. Gió, cn vt, bụi, mưa,… là những k thù vô hình. Nó có th gây
nguy him tc thi nếu người lính không chú ý. Thế nhưng, giờ đây, những
điu him nguy y gần gũi và thân thiết như những người bạn đường. H bình
tâm đón nhận và vui cười hn h. Thiên nhiên khc nghit gi đây lại hết sc
thân thin, bao dung, che ch cho h trên đoạn đường ra mt trn.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
68
Trong bom đạn khc lit ca chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn gi vững tư thế hiên
ngang hướng v phía trước, thc hin khu hiệu: “tất c vì tin tuyến, tt c
min Nam rut thịt”. Những t ng chn lọc; “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn
trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong cách anh b đội lái xe trên đường ra
trn.
Vi h thng ngôn ngnh dị, âm điệu vui tươi thể hin nim lạc quan yêu đời
ca tui tr sống có lý tưởng và tư thế hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên
sc mnh ca anh b đội. Sc mnh ấy còn được nhân lên gp bi vì cành anh
còn có c tp th anh hùng. T trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không
kính” được hình thành, bao gi những con người t bốn phương chung lý tưởng,
gp nhau thành bn bè.
Nhưng dù khó khăn ác liệt đến my, ý chí chiến đấu vì min Nam rut tht ca
anh b đội vn không h lay chuyn:
Xe vn chy vì miền Nam phía trước.
Ch cn trong xe có mt trái tim.
Cách nói ngn gn mà chc nch kiu lính ca các chiến sĩ lái xe khiến cho ta
càng tin tưởng hơn ở sc mnh chiến thng ca dân tc. Ta bng nhn ra sc
mnh làm nên chiến thng ca dân tộc đâu chỉ vũ khí và tài năng chiến đấu
ca nhân dân mà còn nim tin không bao gi lay chuyển được đang ngự tr
trong trái tim ca mỗi con người Việt Nam trước ti ác và hành động xâm lược
ca k thù.
Thành công ca Phm Tiến Dut ch ông viết thơ mà như nói. Cái giọng
thơ ngang tàn, có cả cht nghch ngm, rt phù hp vi những đối tượng miêu
t là người lính vn rt tinh nghch, không câu n hình thc. Kết hp linh hot
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
69
th thơ 7 chữ và 8 ch, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần vi li nói t nhiên, sinh
động. Tính nhc t đó cũng nảy sinh.
Cm nhận tình yêu nước của người lính lái xe qua kh cuối Bài thơ về tiểu đội
xe không kính
Vi những ưu điểm ấy, bài thơ đã rất thành công trong vic khc ha hình nh
nhng anh b đội lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy gay go, th thách,
mt lực lượng tiêu biu cho thế h tr Vit Nam trong giai đoạn ác lit nht ca
cuc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. H dâng hiến tui xuân không tiếc máu
xương để góp phn đưa non sông ta thu về mt…
Bút pháp lãng mn cách mạng đã giúp tác giả Bài thơ về tiểu đội xe không kính
đã tìm thấy, phát hin, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp hình tượng người lính lái
xe ngay trong hin thực đời sống bình thường nht, thm chí trn tri, khc lit
nht, ngay c trong s tàn phá d di, ác lit ca chiến tranh. Đó cũng là dư âm
còn động li và mãi mãi lan ta trong mi thế h người đọc Việt Nam khi đọc
bài thơ này.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 16
Phm Tiến Dut là cây bút xut hin trong thi kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ
anh ch yếu viết v nhng chiến sĩ, những cô thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn. Là người trong cuộc nhà thơ rất hiu cuc sng chiến đấu,
đời sng tâm hn ca h. Nguyên là mt thành viên của đoàn 559, Phạm Tiến
Duật đặc biệt quan tâm đến những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn
khc lit. Phm Tiến Duật đã thể hiện được tư thế hiên ngang, tinh thần dũng
cm bt chấp khó khăn nguy hiểm, nim vui sôi nổi tươi trẻ và ý chí chiến đấu
vì min Nam ca họ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ khá tiêu biểu
cho ch đề y ca anh. T thơ được hình thành t một hình tượng, mt chi tiết
độc đáo: những chiếc xe không kính chn gió vẫn băng băng trên đường ra trn:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
70
Không có kính không phi vì xe không có kính
Bom git, bom rung kính v đi rồi.
Ung dung bung lái ta ngi
Nhìn đất, nhìn tri, nhìn thng.
Lời thơ của Phm Tiến Dut hết sc t nhiên chng khác gì lời nói bình thường
hàng ngày. Cái gian kh nguy him: bom git làm v kính xe được anh k li
mt cách t nhiên như không. Đó là chuyện quá bình thường đối với người lính
lái xe trong thi chiến. Ngay kh thơ mở đầu nhà thơ đã phác họa trước mt
người đọc tư thế hiên ngang ca họ. Điệp t “nhìn" được nhn mnh ba ln
trong mt câu kết hp vi cách ngt nhp hai - hai - hai: “nhìn đất, nhìn tri,
nhìn thẳng” đã diễn t được cái tư thế hiên ngang y. Mặc dù bom đạn trên đầu,
mc dù mặt đường st l cây ci ngn ngang, phi qua bao dc cao, vc thm
h vn gi nguyên tư thế ung dung, hiên ngang, như chẳng có vic gì xy ra.
Không có kính hóa ra li hay, bi vì:
Nhìn thy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chy thng vào tim
Thy sao trời và đt ngt cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Phải người trong cuc mi viết được những câu thơ vừa hay vừa chính xác đến
như thế. Tâm hn các chiến sĩ lái xe thật lãng mn. Nh không có kính mà sao
trời, cánh chim “như sa, như ùa" vào buồng lái. Sao và chim tr thành người
bạn đường ca họ. “Nhìn thấy con đường chy thẳng vào tim” tả rất đúng cảm
giác của người lái xe không kính, đồng thời còn nói được s gn bó ca h đối
với con đường Trường Sơn, con đường đánh Mĩ: giải phóng min Nam, thng
nhất đất nước. Nhng chiến sĩ lái xe thật tr, tht hn nhiên, pha mt chút ngang
tàng đáng yêu, đúng là kiểu ngang tàng ca lính lái xe:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
71
Không có kính, thì có bi,
Bi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuc
Nhìn nhau mt lấm cười ha ha!
Có ln, bình kh thơ này, Xuân Diệu t ra không thích lm v tiếng cười “ha
ha”. Biết làm sao được! Đó là quyền của người thưởng thức. Nhưng cánh lính
lái xe chc là rt khoái vì Phm Tiến Duật đã vẽ đưc rất đúng chân dung của
họ. Cái dáng “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” thoải mái, tr
trung càng làm ni bật tư thế hiên ngang, tâm hn lc quan ca h trong nhng
năm tháng vô cùng ác liệt.
Những người lái xe coi gian kh như không:
Không có kính, thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số na
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!.
“Ừ thì ướt áo” chuyện quá bình thường không đáng kể. “Mưa tuôn, mưa xối
như ngoài trời” thì cũng chẳng sao. Tt c ri s nhanh chóng qua đi: “Mưa
ngừng, gió lùa khô mau thôi?”... Vn cái cht giọng ngang tàng đáng yêu ca
lính lái xe.
Tình cm gn bó gia các chiến sĩ lái xe cũng được din t rất đúng, rất hp cái
phong cách ngang tàng đáng yêu của h:
Nhng chiếc xe t trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội,
Gp bè bn sut dọc đường đi tới
Bt tay qua ca kính v ri.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
72
H đều vt v gian kh như nhau, họ phi tri qua nhng phút giây nguy him
như nhau, họ chào nhau bng cái bt tay cm thông và tin cậy. “Bắt tay qua ca
kính v rồi” mang rất nhiều ý nghĩa. Sự gn bó thân thiết ấy còn được nhà thơ
din t qua bữa ăn dã chiến ca họ: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Họ
coi nhau như anh em trong một nhà, cùng san s với nhau bao khó khăn, vất v.
Đời sng chiến đấu càng thiếu thn, gian kh càng xích h li gần nhau hơn.
Bài thơ kết thúc bng s nhn thc rt sâu sc của người lính lái xe:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vn chy vì miền Nam phía trước:
Ch cn trong xe có mt trái tim.
Có th còn nhiu gian kh, còn nhiu mt mát, còn nhiều hi sinh... nhưng không
th ngăn cản được bước tiến của người lái xe nói riêng ca dân tc ta nói chung.
“Trái tim”ở đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã
nguyn chiến đấu vì s nghip giải phóng đất nước.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính có mt cht giọng riêng đáng quý. Chất ging
t nhiên pha chút ngang tàng rt phù hp vi các chiến sĩ lái xe thời chiến. Bài
thơ đã giúp người đọc hiểu được đi sng chiến đấu hết sc gian kh thiếu thn
ca h, hiểu được tư thế hiên ngang, tâm hn tr trung lãng mn và ý chí cao
đẹp ca h. Phm Tiến Duật đã có những đóng góp đáng quý cho nền thơ ca
chống Mĩ cứu nưc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mu 17
Hình nh những người lính chiến đấu t lâu đã đi vào văn thơ kháng chiến và
ngun cm hng mnh m cho các thi sĩ . Ta không thể nào quên được hình nh
người lính đầy bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng. Tình đồng chí thm
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
73
thiết, bn cht, cùng s chia khó khăn gian khổ trong Đồng Chí ca Chính Hu
hay hình nh những gái thanh niên xung phong đy nhiệt thành nhưng cũng
không kém phần mộng ca tui tr trong Nhng ngôi sao xa xôi ca
Minh Khuê. Tt c đã khắc ha nên v đẹp trong bc tranh chân dung ca
những người lính ra đi độc lp ca T quc thật đẹp đ biết bao. Bài thơ về
tiểu đội xe không kính cũng một mng màu trong bc tranh ấy, bài thơ đã
khc ha chân dung những người lính lái xe đy hiên ngang lc quan trên
con đường hành quân gian kh.
Bài thơ được Phm Tiến Dut viết vào năm 1969, đó những năm tháng kháng
chiến chống oanh liệt. Khi đạn bom địch xi x trút xung bao con
đưng, bao cánh rng mà chiến sĩ đi qua:
"Không có kính không phi vì xe không có kính
Bom git, bom rung kính v đi rồi
Ung dung bung lái ta ngi,
Nhìn đất, nhìn tri, nhìn thng".
Bao nhiêu bom đạn đch nh xung khiến ta thit hi nng n, nhng chiếc xe
hành quân vn lành lặn đã bị chúng phá hy - nhng chiếc xe không kính. Tht
khó khăn biết bao, tưởng chừng như bom đạn gn k trước mt, vậy người
lính vn ung dung tay lái, tp trung vào công vic chng qun him nguy. Gia
trời đất bao la, đôi mắt y vẫn dõi theo, hướng ti T quốc, hướng v nhim v.
"Nhìn thy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chy thng vào tim
Thy sao trời và đt ngt cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái"
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
74
Gia khong không mênh mông ca chiến trận, mưa bom và gió đạn, người lính
vn gi trong tâm hn s t tin đy kiêu hãnh. Cm nhn thy nhng khó
khăn và thách thức, những đợt gió bụi lùa đắng mt, những con đường đầy him
nguy trước mắt. Nhưng con đường không ch huyết mch giao thông
con đường ca nim tin ca ngh lực phi thưng. Những sao đêm trên bu
tri, những cánh chim đột ngt ùa xung buồng lái đu nhng hình nh rt
chân thc. Chiến trường đâu chỉ him nguy bởi súng đạn giặc thôi đâu
còn có c nhng khc nghiệt khó khăn của thi tiết.
"Không có kính, thì có bi,
Bi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuc
Nhìn nhau mt lấm cười ha ha."
Bụi đường không làm mất đi lòng lạc quan, tin yêu nơi người lính. "Chưa cần
rửa phì phèo châm điếu thuc, nhìn nhau mt lấm cười ha ha". "Mưa ngng, gió
lùa mau khô thôi"..... Mt tinh thần vượt lên tt thy nhng thách thc, bao
him nguy ba vây vn gi trong mình tiếng cười sôi ni, tiếng cười ca t do,
ca nim tin. Nếu tình đồng chí trong Đồng Chí ca Chính Hu những người
lính chân cht, mc mạc ra đi từ những vùng đt nghèo với tưởng cách mng
cao cả. Thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng chứa chan tình đồng
đội, tình anh em nơi chiến trường gian khó. H những người lính tr ra đi
nhn nhim v vi mục đích chung, họ rất đỗi lc quan,tình anh em thân thiết
gắn keo sơn đưc th hin qua nhng hình nh rt mc gin d thân
thương.
"Nhng chiếc xe t trong bom rơi
Ðã v đây họp thành tiểu đội
Gp bè bn sut dọc đường đi tới
Bt tay qua ca kính v ri".
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
75
Đó là những s yêu thương, s chia đắng cay, ngt bùi cùng nhau, mt tinh thn
dũng cảm, hiên ngang, một tình đồng chí đy tr trung, sôi nổi. Đó những cái
bt tay vi vàng, nhng bữa cơm chung gia bu trời bom đn. tình thân
gn kết cùng nhau trên chặng đường gian khó, vẫn hướng v bu trời xanh, nơi
đó có hoà bình, có tự do cho T quc thân yêu.
"Bếp Hoàng Cm ta dng gia tri
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm"
"Ch cn trong xe có mt trái tim" hình ảnh đẹp, đó trái tim hướng v min
Nam rut thịt, trái tim hướng v ngày đất nước thng nht khi min Nam
đưc gii phóng. Là mt trái tim ca hàng triu trái tim chung nhịp đp, trái
tim chứa đựng mt tinh thn thép, mt nim lc quan và nim tin vào ngày mai.
Là trái tim của tình đồng đội gn kếts chia. Là trái tim ca ý chí, quyết tâm
phi thường.
Những câu thơ đm cht hin thc, vch rõ ti ác ca k thù và giàu sc thái tr
tình đã tạo nên nét đặc sc, ni bt, giọng điệu thơ tinh nghch, tr trung như
mt bài ca thúc giục, động viên, ca ngi những người lính tr Trường Sơn. Qua
đó, em thêm biết ơn t hào v những người chiến sĩ đã ngã xuống lòng
yêu T quc. Học được bài hc v tinh thn lạc quan trưc những khó khăn của
cuc sng, gia vng nim tin hy vọng tương lai, thêm yêu quê hương, đất
c.
Vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe
không kính
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
76
Có th nói, trong các nhà thơ trẻ thi kháng chiến chng M cứu nước, Phm
Tiến Duật là nhà thơ có tâm hồn tr trung, tinh nghch nht. Ông sinh Phú Th,
học trường đại học sư phạm Hà Ni nên sm mang trong mình cái v hào hoa
sôi ni và lc quan ca lớp thanh niên yêu nước. Bi thế, thơ ông có giọng điệu
sôi ni, tr trung và có cái “tinh nghịch”, hồn nhiên nhưng cũng rất tinh tế, sâu
sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính khc họa đậm nét hình tượng người lính
lái xe, th hiện rõ nét phong cách thơ ấy.
Xut thân là mt nhà giáo, Phm Tiến Duật đến với thơ hơi muộn so vi các
nhà thơ khác. Đóng góp lớn nht của nhà thơ Phạm Tiến Duật đó là mảng t
viết v người lính. Năm 1970, ông xuất hin cùng vi tập thơ Vầng trăng vầng
la và lp tc gây chú ý vi tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Ln
đầu tiên trong văn học, người ta thy mt hình tượng người lính tr trung, yêu
đời, lạc quan và giàu lòng yêu nước đến thế.
Vi tập thơ này, ông được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền
thoại”, “cây săng lẻ ca rừng già”, “nhà thơ lớn nht thi chng Mỹ”. Thơ ông
thi chng M từng được đánh giá là “có sức mnh ca mt sư đoàn”. Đây quả
tht là một đánh giá đầy ý nghĩa đối vi một nhà thơ đã sống và chiến đấu hết
mình vì s nghip giải phóng đất nước.
Thc tế, Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phm Tiến
Duật được tng gii Nht cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài
thơ được tác gi đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970). Với giọng thơ
hóm hỉnh, vui tươi, bài thơ khắc họa đậm nét hình tượng nhng chiếc xe không
kính và hình tượng người lính lái xe dũng cảm, kiên cường trên tuyến đường
Trường Sơn khói lửa.
Ấn tượng đầu tiên thú v và sâu sc nht có l là hình tượng nhng chiếc xe
không kính. Bình thường, xe thì phải có kính. Kính để chn bi, chn gió, chn
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
77
mưa tạt, gió lùa. Thế nhưng ở đây, những chiếc xe đã không còn kính nữa. Tác
gi lí giải điều “bất thường” ấy một cách đơn giản đến bt ng:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom git, bom rung kính v đi rồi”.
Nhng chiếc xe không kính không th gọi là cái đẹp. Nhưng tác giả đã lấy hình
ợng đó làm cảm hng xuyên suốt bài thơ. Cái nguyên nhân khiến cho xe
không có kính đó chính là do bom đạn ca k thù. k thù muốn ngăn chặn bánh
xe lăn. Chúng tuôn xuống biết bao bom đạn để hòng tiêu dit cuc tiếp vn ca
quân dân min Bc. Ti ác y khc sâu trên nhng chiếc xe, trên nhng quãng
đường đầy hm h và mnh v.
Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này có tác dng gây ấn tượng mnh. Nhng
chiếc xe không kính như chứng tích lch s t cáo s tàn bo và man r ca k
thù. Nó gi lên nhng nguy him cn k người lính. S hi sinh, mt mát; him
nguy và cái chết đã đâu đó, rất gn rt gần. Đây cũng là cơ sở để làm ni bt
phm chất dũng cảm, s lc quan và quyết tâm giành chiến thng ca anh lính
lái xe thi chống Mĩ.
Hình tượng nhng chiếc xe không kính cũng đã góp phần c th hóa nhng khó
khăn gian khổ mà anh b đội lái xe phi chịu đựng. Điệp ng “không có kính” ở
đâu các khổ thơ vừa có tác dng nhn mnh cho ta cm nhận được gian kh,
nguy him s khc lit ca hin thc cuc chiến đối với người lính Trường Sơn
va khc họa được nét tiêu biu ca con người Vit Nam: dù thiếu thn, k
khăn vẫn kiên cường chiến đấu.
Bom đạn ca k thù đâu chỉ làm vnh xe. Nó còn tàn phá chiếc xe mt cách
kinh khng. Chiếc xe vẫn đêm đêm băng trên các nẻo đường dù “không có đèn”.
Chiếc xe vn chuyên ch nhng chuyến hàng ra mt trận dù “không có mui xe”.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
78
“Thùng xe có xước”, vết đạn còn nguyên nhưng không hề gì. Cm t “xe vẫn
chạy” gây cho người đọc nhiu n tượng mnh m. Dù có b tổn thương đến thế
nào thì xe vn chy ti, bt chp tt c.
Qua hình tượng chiếc xe không kính, tác gi đã tạo ấn tượng cho người đọc mt
cách c th và sâu sc v hin thc chiến tranh khc lit, d dội. Đồng thi làm
ni bc cuc chiến đấu gian kh mà người lính phi tri qua. Hình nh nhng
chiếc xe không kính vn chng hiếm trong chiến tranh. Song phi có mt hn
thơ nhạy cm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Dut mi phát hin
ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chng
Mĩ.
Bên cạnh hình tưng chiếc xe, hình nh những người lính lái xe Trường Sơn
cũng được khc họa đậm nét. H vn là những chàng trai đô thành xung phong
đi chiến đấu. Nhim v ca h đưa những chuyến hàng t bc vào nam, kp
thi phc v cho cuc kháng chiến chng M ca c dân tc.
Những chàng trai mang trong mình lý tưởng yêu nước và lòng nhit huyết sôi
sc. H bt chp hiểm nguy, vượt qua khó khăn trở ngại để hoàn thành nhim
v đưc giao. H sẵn sàng hi sinh vì đất nước mà không h hi tiếc. Bi cuc
chiến đấu đối vi h đâu chỉ là th thách lòng kiên trung. Cuc chiến đấu đối
vi h là mt s nghiệp vĩ đại ca dân tc. Sng và chiến đấu hết mình là trách
nhim ca mi công dân trong thi kì chiến tranh cứu nước.
Mỗi bước đi mỗi bước him nguy. Thế nhưng, người lính không h run s. H
vn vững tâm cho xe đi tới. Hình nh ấy được th hin ngay đầu bài thơ:
“Ung dung buồng lái ta ngi,
Nhìn đất, nhìn tri, nhìn thẳng”.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
79
H vn ung dung ngi trong bung lái, linh hoạt điều khiển cho xe vượt qua
những đoạn đường đầy hiểm nguy. Xe không có kính, dường như cả thiên nhiên
vũ trụ hiện ra trước mt h. H nhìn mặt đất để xe khi lắc lư. Họ nhìn bu tri
để quan sát k địch. H nhìn thng v phía trước như đang nhìn về min Nam
rut tht mà nhắc mình đi cho mau chóng.
Trong bom đạn, anh chiến sĩ vẫn gi vững tư thế hiên ngang hướng v phía
trước. H khc ct ghi khu hiệu: “tất c vì tin tuyến, tt cmin Nam rut
thịt”. Miền nam yêu thương trở thành động lc lớn lao giúp anh kiên cường
vng tay lái.
Bi xe không có kính che chn nên ch người lái xe ngi chng khác gì ngoài
tri. Tt c c xi, c ùa vào, gây nên biết bao khó khăn. Hết “gió vào xoa mắt
đắng”, rồi thêm “bụi phun tóc trắng như người già”. Lại đến “mưa tuôn, mưa
xối như ngoài trời”.
Đó thực s là nhng tr ngi ln lao. Thm chí có thy nguy hiểm cho người
lính. Công việc căng thẳng mà còn đối mt vi những thay đổi bất thường. Điều
y y d khiến người lính khó chu. Thế mà, tht bt ngờ, người lính xem đó
chuyện thường. H còn thấy đẹp, thy d chu, thy tht lãng mng:
“Nhìn thấy con đường chy thng vào tim
Thy sao trời và đt ngt cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
H thy thiên nhiên và cuc sống đang ở rt gần. Thiên nhiên đang đồng hành
cùng h trên mi chặng đường. H thy nhng tr ngi của thiên nhiên làm tăng
thêm nim vui ca h.
Lúc bụi bám đầy mt, h vẫn vui cười:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
80
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuc
Nhìn nhau mt lấm cười ha ha”.
Lúc b cơn mưa dội ướt, h vn thản nhiên đi tới:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số na
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
ờng như có một sc mạnh siêu nhiên nào đó đang ngự tr trong h. Hay là
Phm Tiến Duật đã nói quá lên ở đim này. Nhng tr ngi y có th làm cn
kit sinh lc của người lính ch đâu phải chuyện đùa. Có lẽ, nhà thơ đã gạn lc
những điều ấy, để m cho hình tượng người lính sáng ngi v đẹp của lý tưởng,
ca tm lòng kiên trung, quyết chiến quyết thng k thù.
Trên những quãng đường xe chy, h gp những đồng đi ca mình. Nhng
người đồng đội va hoàn thành nhim v tr v. H vừa vượt qua cái chết để v
đây và kể cho nhau nghe hành trình “phiêu lưu” ấy:
“Nhng chiếc xe t trong bom rơi
Ðã v đây họp thành tiểu đội
Gp bè bn sut dọc đường đi tới”.
Nhng chiếc xe của đồng đội anh cũng gánh chịu bom đạn ca k thù. Không
chiếc nào được lành ln. Và hầu như chiếc xe nào cũng “không có kính”. Bởi
thế, hth thoải mái “bắt tay qua ca kính v rồi”.
Nhng ln ngh ngơi là những ln t họp. Đối với người lính, những người đồng
đội đều thân thiết, thâm tình, gn bó. Dù h nhiu min quê, thuc nhiều đơn
v khác nhau nhưng họ có cùng chung nhim vụ, cùng chung lý tưởng. Bi thế,
cuc chung vui ngn ngi trên tuyến đường Trường Sơn không khác gì là cuộc
hi vui ca những người anh em, bn hữu thân tình, khăng khít:
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
81
“Bếp Hoàng Cm ta dng gia tri
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Rồi sau đó họ lại lên đường. Nhng chiếc xe lại lăn bánh. Cuộc chiến chưa kết
thúc, đất nước chưa được gii phóng, h cũng chưa thể ngh ngơi. Cụm t “li
đi, lại đi” khẳng định mnh m ý chí kiên cường bt khut của người lính. Nhp
thơ khỏe khon tạo âm hưởng thanh thn, nh nhàng, th hin nim lc quan, tin
ng của người lính v s tt thng ca cuc kháng chiến chng Mỹ. Ý thơ
trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu h gi li cho
cuộc đời.
Còn gì đẹp hơn khi tâm hồn h đã dành cả cho dân tộc, cho đất nước. H chính
là hin thân ca ch nghĩa anh hùng cách mạng. H đích thực là hình tượng đẹp
nht ca thế k “Như Thạch Sanh ca thế k hai mươi” (Tố Hu).
Không ch khc họa thành công hình tượng nhng chiếc xe không kính và người
lính lái xe, bài thơ còn rất thành công trong ngh thut biu hin. Ngh thut t
s hòa quyn trong bút pháp tr tình to nên sc hp dn mnh m của bài thơ.
Ngôn ng bình dị, âm điệu vui tươi, câu thơ khỏe khon th hin nim lc quan
yêu đời ca tui tr sống có lý tưởng.
Ngay cái tiêu đề ng gây sự chú ý đối với người đọc. Bài thơ về tiu đội xe
không kính vn có nhiu t dư thừa. Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác gi
li ghi thêm hai ch “Bài thơ” . Nhìn qua, cách ghi như thế có v hơi thừa. Vi
lại, nói đến thơ là nói đến cái đẹp, cái rung cm. Còn nhng chiếc xe không
kính thì có gì đẹp đâu. Ấy vậy mà, cái tiêu đề y nó c thu hút, c làm cho ta
thy thú v vô cùng.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
82
Hai ch “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thc ca tác gi. Không
phi ch viết v nhng chiếc xe không kính hay là cái hin thc khc lit ca
chiến tranh. Phm Tiến Dut ch yếu mun nói v chất thơ của hin thc ấy. Đó
là chất thơ của tui tr Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên nhng thiếu
thn, gian kh,khc nghit ca chiến tranh.
Đây rõ ràng là một dng ý ngh thut ca Phm Tiến Duật. Dường như, tác giả
đã tìm thấy, phát hin, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nm ngay trong hin
thực đời sống bình thường nht. Thm chí trn tri, khc lit nht, ngay c trong
s tàn phá d di, ác lit ca chiến tranh.
Viết v người lính Phm Tiến Duật đã có những phát hiện đầy mi m. Ông
không nhng nhìn thấy được hin thc khc lit mà còn nhìn thm sâu vào linh
hồn con người. Ông phát hin ra ngun sc mạnh vĩnh cửu đang cuộn chy
trong con người. Ông nhìn thấy được sc mnh ca truyn thống nghìn năm hội
t trong cuc chiến này. Bi thế, bài thơ đâu chỉ nói v tiểu đội xe không
kính,nó phn ánh c khí thế quyết tâm gii phóng min Nam ca toàn quân
toàn dân ta, khẳng định rng ý chí của con người mnh hơn cả st thép.
Chân dung người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không
kính
Phm Tiến Dut một nhà thơ tiêu biểu ca thế h nhà thơ trẻ trong cuc
kháng chiến chống cứu nước. Nhà thơ đã từng cm súng chiến đu công
tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận ti ch vũ khí ra tiền tuyến:
Niềm vui hăm hở ca tui tr như cuộc sng chói chang chiếu sáng tâm hn ca
ngưi chiến sĩ, thi khiến thơ ông giọng điu khe khon, t nhiên, tràn tr
sc sng, rt tinh nghch vui tươi đầy chất lính. Điều này đã được Phm Tiến
Dut th hiện nâng cao hơn trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
83
kính . Bài thơ đã ca ngợi những người chiến lái xe thế hiên ngang dũng
cm, bt chp gian kh, sng lạc quan yêu đời, quyết tâm chiến đấu min
Nam yêu thương.
Trước hết đọc tác phẩm điều mi chúng ta cm thy khâm phc, t hào
cũng nét bao trùm ni bt của người chiến lái xe trong bài là s ung dung,
thanh thn tuyt vi trong một thế hiên ngang, bt khut, bt chp mi khó
khăn, thử thách. Mc dù:
Không có kính không phi vì xe không có kính
Bom git bom rung kính v đi rồi...
...Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe thùng xe có xước...
Những người lính lái xe phi lái nhng chiếc xe trn tri, xấu xí là vì bom đạn
của đế quốc Mĩ đã làm cho những chiếc xe biến dạng, làm cho đồng chí đồng
đội ca các anh ngã xung. Chiến tranh qu là khc lit thế nhưng các anh vẫn
lái nhng chiếc xe y băng ra ngoài mặt trn, ch vũ khí, lương thực t hu
phương lớn ra tin tuyến ln bi các anh có những trái tim yêu nước cháy bng.
Đế quốc Mĩ đã gây bao tội ác cho đồng bào min Nam, bắt đoàn xe phải ngng
hoạt động, gây biết bao khó khăn cho kháng chiến. Song những người lính vn
vng vàng tay lái bt chấp bom đạn ca k thù vi tâm hn lạc quan như niềm
tin chc chn vào chiến thng:
Ung dung bung lái ta ngi...
Nhìn đất, nhìn tri, nhìn thng...
Đoạn thơ hay cả v âm điệu, hình nh, cách nói. Những câu thơ nhanh, gấp mà
vn nhịp nhàng như bánh xe đang lăn đều đặn trên đường. Những câu thơ như
bt ra t trái tim người lái xe đang ngồi sau tay lái. Hin thực đầy p chính xác
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
84
đến tng chi tiết, nhưng đằng sau hin thc y là mt tâm trng, một tư thế, mt
bản lĩnh chiến sĩ. Xe không có kính mà họ vn ung dung, thanh thn, vn tp
trung cao độ, vẫn bình tĩnh tự tin để đưa hàng xe ra tiền tuyến vi mt cái nhìn
đầy ngo mn của lòng dũng cảm. Có l, tác gi phải là người trong cuc mi
sáng tác được những câu thơ hay và chính xác như thế. Tâm hn các chiến sĩ lái
xe tht lãng mn, nh không có kính mà nhìn thy sao tri, cánh chim sa, gió c
ùa vào bung lái và tr thành người bạn đường ca họ. Thiên nhiên con người
như hòa vào làm một câu thơ rất thc li mang chút ngh sĩ đáng yêu của người
lính. C đoạn thơ như ào ra từ cuc sng thực để nói lên tinh thần cao đẹp ca
ngưi chiến sĩ đường ra trận mùa này đẹp lắm. Đây phải chăng là con đường
cách mạng, con đường hàng vn, hàng triệu con người Vit Nam đang xây đắp
ch ngày "khai trương". Bằng lời thơ giản d mà chân thành tác gi li viết tiếp:
Không có kính thì có bi
Bi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuc
Nhìn nhau mt lấm cười ha ha
Những câu thơ ngồn ngn cht sng hin thc chiến trường, tác gi như nhìn
thy bi trng, b mt lm lem của người lính và nghe rõ tiếng cười sng khoái
của người lính. Nhưng đằng sau nhng dòng buông đùa đáng yêu này cũng là
mt bản lĩnh chiến đấu rt vng vàng ca h, bi không vng vàng thì không
th đùa vui như vậy. Điều đó càng làm cho chúng ta thấm thía hơn sự đối lp
giữa người già câu trên vi tiếng cười ha h hồn nhiên, yêu đời và tr trung
đến l lùng u dưới. Điệp t thì như một s chp nhn những khó khăn đã
được nhà thơ miêu tả khá rõ nét. Mc dù bụi đường phun tóc trng nhưng người
lính vn không h nao núng, vẫn bình tĩnh coi thường khó khăn, gian khổ. Mc
dù Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời song người lính vẫn chưa cần. Vậy đó,dù
trong khó khăn các anh vẫn cười tươi để động viên nhau c gng.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
85
ờng như khó khăn, thử thách không ch giúp con người ta tôi rèn ý chí mà
còn giúp cho tình bn thêm gắn bó keo sơn. Phạm Tiến Duật đã phát hiện và ghi
lại điều đó về v đẹp ca những người lính lái xe và nhng hình ảnh thơ độc đáo:
Nhng chiếc xe t trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gp bn bè sut dọc đường đi
Bt tay qua ca kính v ri
Nhng c xe đã chiến thng vi những vũ khí tối tân của Mĩ và hoàn thành
nhim v mt cách xut sc, h đã gặp nhau, động viên nhau bng mt cái bt
tay thân thin, cái bt tay ấy đâu ch là mt cái bắt tay đơn thuần mà là c mt
nim tin vào chiến thắng. Nó giúp cho con người xích li gần nhau, nó như một
si dây ni lin tâm hn tình cm ca những người lính. Phm Tiến Duật đã
dành cho tình đồng đội của người lính mt kh thơ chân thật và xúc động.
Bếp Hoàng Cm ta dng gia tri
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chy
Lại đi lại đi trời xanh thêm
Đời người lính là đi, nhất là người lính lái xe. Nhưng trong cái giây phút dừng
chân ngn ngi y, ta càng cm thy rõ s gn bó t nhiên mà cao đẹp ca tình
đồng đội. Chbếp Hoàng Cm , là võng mắc chông chênh mà chung bát đũa
nghĩa là gia đình ấy, câu thơ đẹp c v tính cách, cách nhìn, cách nghĩ của người
chiến sĩ. Có khác gì câu thơ nói về tình đồng chí ca Chính Hữu hơn hai mươi
năm trước đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ và có phải tình đồng đội đã ngân
lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp nhng chặng đưng mi lại đi, lại
đi trời xanh thêm.
Văn mẫu lp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
86
ờng như chính vì tình yêu thương đùm bọc mà người lính đã quyết chiến đấu
vi gic. Phm Tiến Duật đã kết thúc bài thơ bằng mt s nhn thc sâu sc ca
ngưi lính lái xe cho dù các anh có phải đối mt với bao khó khăn của cuc
chiến đấu nhưng các anh vẫn chy vì miền Nam phía trước. Và đoàn xe của các
anh đã chiến thắng, các anh đã ra tiền tuyến bng mt tình cm thiêng liêng vì
min Nam thân yêu, vì chiến đấu giành lại độc lp t do và thng nhất đất nước.
Điều này đã được các anh thc hin bng trái tim ca mình: ch cn trong xe có
một trái tim. Đó là một hình nh ta sáng chói ngời đã đúc kết li phong cách
của người lính gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh chứa chan tình yêu thương
với đồng đội, đất nước. Chính lí do này đã khích lệ người lính vượt qua mi th
thách. Dường như quyết định chiến thng không phải là vũ khí, công cụ mà là
con người - con người mang trái tim, nồng nàn yêu thương, ý chí, lòng dũng
cm và có nim tin vng chc.
Bài thơ mang chất lính rất đượm, là tiếng nói hồn nhiên thường ngày của người
lính đã đi vào trong thơ ca. Nhưng đy là tính cách lính tr ca thi kháng chiến
chống Mĩ, họhc thc, có bản lĩnh chiến đấu, có cuc sng ni tâm hết sc
phong phú. Qua bài thơ ta càng khâm phục và hc tp các anh nét hn nhiên
và tình yêu đời, yêu đất nước tha thiết.
| 1/86

Preview text:

Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Sơ đồ tư duy Hình tượng người lính lái xe Trường Sơn
Dàn ý hình tượng người chiến sĩ lái xe Dàn ý 1 I. Mở bài
● Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
● Nêu vẻ đẹp của những người chiến sĩ trong bài thơ. II. Thân bài
1. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe
- Trước hoàn cảnh khó khăn bởi những chiếc xe không kính, tư thế của người
lính lái xe: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Cho
thấy tư thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Trong mưa
bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía trước.
- Những chiếc xe không kính khiến cho những khó khăn càng thêm khắc nghiệt hơn: 1
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
● Gió vào xoa mắt đắng: những chiếc xe không kính khiến cho bụi đường
bay vào mắt - từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác.
● Con đường chạy thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa”
vào buồng lái. Không có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ.
● Nhưng người lính vẫn không sợ hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.
2. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn
● Họ phải đối mặt với khó khăn khi chiếc xe không có kính, nhưng thái độ
thật thản nhiên như một điều bình thường: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”.
● Cách nói “không có… ừ thì” cho thấy một thái độ sẵn sàng chấp nhận
mọi khó khăn của người lính.
● Hành động của người lính trước khó khăn: “phì phèo châm điếu thuốc”,
“nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa khô mau thôi”: cho thấy sự
ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời bất chấp những gian khổ phải đối mặt.
3. Tình động đội của những người lính
● Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội”: những chiếc xe từ trong
mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là
những đồng đội cùng chung một lý tưởng.
● Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết phản ánh chân thực tình
cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp thêm cho nhau sức
mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.
● “Bếp Hoàng Cầm dựng đứng giữa trời”: Cuộc chiến tranh khốc liệt khiến
họ phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi nên một cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả. 2
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
● “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Họ gắn bó giống như những
người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột
thịt. Giọng thơ đầy hồn nhiên, vui vẻ.
● Trên hành trình không ấy, họ chỉ có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng.
Giấc ngủ chập chờn không yên.
● Những vẫn lạc quan: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” - Điệp từ “lại đi”
giống như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân.
● Hình ảnh “trời xanh thêm”: tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương
lai phía trước. Niềm tin và trái tim nhiệt huyết vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
4. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc
● Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn,
không có mui xe, thùng xe có xước…
● Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của người lính: xe vẫn cứ
chạy vì miền Nam phía trước, vì niềm tin tất thắng và nước nhà sẽ thống nhất.
● Chỉ cần trong xe có một trái tim: hình ảnh “một trái tim” là hình ảnh hoán
dụ, chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục
lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách
mạng, lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính. III. Kết bài
● Khẳng định lại vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.
● Tài năng khắc họa, miêu tả của Phạm Tiến Duật. Dàn ý 2 3
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính 1. Mở bài:
• Giới thiệu về tác giả Phạm Tiến Duật, tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe
không kính" và hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ. 2. Thân bài:
a. Trình bày khái quát về tác giả Phạm Tiến Duật và tác phẩm "Bài thơ về
tiểu đội xe không kính":
• Phạm Tiến Duật (1941) là nhà thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
• Ông thường hay viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến với
giọng điệu trẻ trung, sôi nổi nhưng vô cùng sâu sắc.
• Tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là tác phẩm thuộc chùm
thơ của Phạm Tiến Duật viết về anh bộ đội cụ Hồ hiên ngang, dũng cảm,
trẻ trung và nhiệt huyết.
b. Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính ở khổ thơ thứ nhất và thứ hai:
• Thái độ lạc quan, hóm hỉnh của người lính: "Không có kính không phải vì
xe không có kính/ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi".
• Dù hiện thực bom đạn có khốc liệt đến mức nào nhưng người lính vẫn
"ung dung" nhìn thẳng vào hiện thực để tiếp tục chiến đấu.
c. Người lính lái xe có tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi gian khổ để tiến về phía trước:
• Xe không có kính khiến cho những người lính phải chịu bụi, chịu mưa rét
nhưng vẫn nhìn nhau cười "ha ha" bởi với họ niềm vui lớn nhất chính là
được chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. 4
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
• Họ luôn đón nhận mọi khó khăn với tâm thế sẵn sàng và coi đó như là
một yếu tố khách quan mà họ phải vượt qua.
d. Tình đồng chí, đồng đội gắn kết giữa những người lính đến từ mọi miền đất nước:
• Niềm vui lớn nhất của những người lính là được gặp lại đồng đội của
mình và chỉ cần một cái "bắt tay" để có thêm sức mạnh, động lực cho cuộc chiến đấu.
• Tình đồng chí, đồng đội đã gắn kết những con người xa lạ thành một gia
đình chung bát, chung đũa.
• Những người lính đã tự động viên nhau vì màu xanh hy vọng phía trước:
"Lại đi lại đi trời xanh thêm".
e. Tinh thần yêu nước mãnh liệt của người lính:
• Khó khăn ngày càng được nhân lên gấp bội nhưng những người lính vẫn
bất chấp mọi khó khăn để băng băng "xe chạy vì miền Nam phía trước".
• Trái tim nhiệt huyết, trái tim yêu nước nồng nàn, sục sôi chiến đấu vì
miền Nam thân yêu của người lính. f. Đánh giá:
• Người lính lái xe được hiện lên với vẻ đẹp ngang tàng, dũng cảm đáng
ngợi ca. Đây cũng là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong
thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
• Hình tượng người lính lái xe được Phạm Tiến Duật khắc họa bằng những
ngôn từ hóm hỉnh, lạc quan, nhiều màu sắc. Nhà thơ đã sử dụng biện
pháp hoán dụ, hình ảnh giàu ý nghĩa để miêu tả những phẩm chất cao đẹp của người lính. 5
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính 3. Kết bài:
• Khái quát lại hình ảnh người lính lái xe trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 1
Nhắc đến Phạm Tiến Duật là nhắc đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của
những năm tháng kháng chiến chống Mỹ vĩ đại. Là một người từng trải, lại trực
tiếp nắm tay lái trên tuyến đường Trường Sơn nhà thơ đã tạo nên những vần thơ
vô cùng mới mẻ. Vừa có nét gì đó tinh nghịch, hóm hỉnh lại không kém phần
suy tư. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã làm
sống dậy cả những năm tháng hào hùng của dân tộc.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Bài thơ có nhan đề vô cùng độc đáo nó góp phần thể hiện tâm hồn vô cùng lạc
quan yêu đời của những chiến sĩ lái xe tiếp viện cho tiền tuyến. Những con
người đầy ngang tàng, nhưng cũng không kém phần giản dị chuẩn mực. Hình
ảnh của những người chiến sĩ lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính,
một hình ảnh miêu tả vô cùng chân thực. Bom đạn của giặc đã khiến cho những
chiếc xe trở nên thiếu hụt đủ thứ: không đèn, không kính , không mui thậm chí còn xước xác....
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Thế nhưng chính vì không có kính nên hình ảnh những người chiến sĩ lái xe mới
hiện lên một cách chân thực và tài tình đến vậy. Những con người bất chấp sự
thiếu thốn, khó khăn vẫn băng băng lao về phía trước một lòng vì tiền tuyến: 6
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Đến đây ta thấy nhịp thơ trở nên dồn dập và nhanh đến lạ nó như là những nhịp
xe chạy trên đường vậy. Chính vì xe không có kính nên các anh mới có thể cảm
nhận rõ nhất những thứ đang ở ngoài đến vậy: thấy gió, thấy con đường, cánh
chim, sao trời.... Chỉ có những con người đã trải qua thực tế mới có thể có
những cảm nghĩ chân thực đến vậy. Gió ùa vào làm xoa dịu đi mắt đắng. Mắt
đắng ở đây không phải do bụi mà là do thiếu ngủ, chính cơn gió ùa vào nơi cửa
đã giúp các anh trở nên tỉnh táo và minh mẫn hơn khi cầm lái. Tất cả những
cảnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong để các anh có thể nhìn thấy
cả con đường chạy thẳng vào tim. Thế nhưng dù thiếu thốn đến vậy khó khăn
đến vậy tâm hồn người lính vẫn hết sức lạc quan và ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi! 7
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Có lần bình luận về khổ thơ này nhà thơ Xuân Diệu tỏ ra không hài lòng với
cụm từ cười “ha ha”. Thế nhưng biết làm sao được. Có thế mới tạo nên khí
phách của các anh có thế mới cảm nhận hết sự sảng khoái hồn nhiên của một
tinh thần đầy lạc quan trong những năm tháng kháng chiến gian khổ.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Dẫu cho phải trải qua ngàn khó khăn ngàn gian khổ thì chỉ cần con người còn
có niềm tin còn có say mê thì xe vẫn chạy thẳng về phía trước. Bầu trời kia như
xanh thêm khi có các anh có nụ cười của các anh.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm đặc biệt. Trong
khói lửa hoang tàn của chiến tranh mọi thứ đều bị phá hủy. Chiếc xe thảm hại vì
không có kính, chẳng có đèn, không có mui mà lại còn xước thế nhưng bom đạn
của kẻ thù dường như chẳng thể thắng nổi ý chí con người. Chỉ cần trong buồng
lái vẫn còn một trái tim còn đập còn một tinh thần bất diệt thì xe vẫn còn chạy.
Đó chính là điều mà nhà thơ muốn gửi gắm, tinh thần yêu nước sẽ trở thành một
ngọn lửa bất diệt chiến thắng mọi kẻ thù, nó vượt lên trên hết cả những mũi tên
hòn đạn, đạp lên mọi kẻ thù tàn bạo.
Hình ảnh người chiến sĩ lái xe là hình ảnh đại diện cho vô số lớp người chiến sĩ
trong khói lửa chiến tranh. Tinh thần của các anh cũng chính là thứ tình yêu 8
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
nước thiết tha mà cả dân tộc thời bấy giờ đang hừng hực. Chiến tranh tuy đã lùi
xa hơn ba mươi năm thế nhưng hình tượng người chiến sĩ ấy vẫn sống mãi trong
lòng độc giả. Nó trở thành những bức tượng đài bất diệt về tinh thần yêu nước
và sự quả cảm trong những năm tháng đau thương mà anh hùng của dân tộc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 2
Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt vẻ đẹp của những cô gái thanh niên
xung phong, của những người lính trên tuyến đường Trường Sơn trở thành một
đề tài hết sức hấp dẫn, luôn nhận được sự quan tâm, sáng tác của nhiều tác giả.
Và trong những tác phẩm ấy, ta không thể không nhắc đến những người lính
trên chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến
Duật. Chân dung họ hiện lên với những khám phá mới mẻ mà vẫn vô cùng thống nhất.
Nếu như, trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu hình ảnh người lính nông dân
hiện lên trong sự đồng cam cộng khổ, thấu hiểu những nỗi niềm của nhau, nhớ
cây đa, bến nước, cùng nhau vượt qua thiếu thốn : Áo anh rách vai/ Quần tôi có
vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay . Thì người lính trong tác phẩm này lại hiện lên với một chân dung mới
lạ, khác hẳn. Họ là những con người trẻ trung mang trong mình vẻ ung dung,
hiên ngang trước những thử thách trên tuyến đường Trường Sơn:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng
Trong cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt, nhưng người lính vẫn giữ được phong
thái ung dung, với cái nhìn thẳng đầy tự tin, tràn đầy nhiệt huyết. Nhịp thơ 2/2/2
kết hợp với từ láy ung dung được đảo lên đầu câu nhấn mạnh vào tư thế hiên
ngang, làm chủ chiến trường của những người lính. Cái nhìn thẳng của họ 9
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
không chỉ là nhìn vào con đường phía trước với sự tập trung cao độ mà đó còn
là cái nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh khốc liệt, tinh thần sẵn sàng tiến lên
phía trước. Sau cái nhìn đó là cảm nhận của người chiến sĩ trên tuyến đường
Trường Sơn: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng/ Thấy con đường chạy thẳng vào
tim/ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/ Như sa như ùa vào buồng lái.
Bốn câu thơ vừa khắc họa khung cảnh hiện thực nhưng đồng thời cũng hết sức
nên thơ, lãng mạn. Những chiếc xe không kính di chuyển trên đường nên tất yếu
các cơn gió sẽ ùa vào khoang lái, gió bụi ùa vào khiến họ cảm thấy bỏng rát,
nhất là vào những trưa hè. Nhưng dưới con mắt lãng mạn của người chiến sĩ thì
những ngọn gió đó vào xoa dịu những vất vả của họ. Hình ảnh con đường chạy
thẳng vào tim là một trường liên tưởng vô cùng thú vị. Diễn tả được tốc độ di
chuyển nhanh của những chiếc xe không kính, lao mình trong mưa bom bão
đạn, không sợ hiểm nguy.
Không chỉ vậy, dưới con mắt đầy thi sĩ của người chiến sĩ, họ còn thấy những
chú chim và sao trời sa, ùa vào buồng lái, làm bạn với họ trên quãng đường đầy
gian khổ, ác liệt. Với nghệ thuật nhân hóa, sử dụng động từ mạnh sa, ùa tác giả
đã cho thấy cái nhìn lạc quan của những người lính: thiên nhiên không phải trở
ngại, cản bước họ tiến lên mà trở thành người bạn thân thiết, chia sẻ với họ
những gian lao trên con đường tiến vào miền Nam.
Không chỉ là những con người ung dung, hiên ngang, trong tâm hồn những
người lính trẻ ấy còn mang trong mình nhiệt huyết cách mạng, dũng cảm, coi
thường nguy hiểm, gian khổ và một tinh thần trẻ trung, sôi nổi, lạc quan. Khổ
thơ thứ ba và thứ tư đã cho thấy những khó khăn người lính phải đối mặt: không
có kính khiến bụi, mưa tuôn mưa xối như ở ngoài trời. Đây là những câu thơ
miêu tả hết sức chân thực những khó khăn mà người lính phải trải qua trên con
đường Trường Sơn vô cùng nguy hiểm. Các động từ tuôn, xối, phun càng nhấn
mạnh hơn nữa sự khắc nghiệt mà thiên nhiên đang thử thách các anh. Nhưng 10
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
trái lại, những người lính đáp lại bằng câu nói nhẹ nhàng, dường như đó chẳng
phải là vấn đề đáng bận tâm: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Các anh sẵn sàng đối mặt
với tất cả thử thách bằng tinh thần hiên ngang, cứng cỏi, bằng giọng điệu vui đùa, trẻ trung.
Không chỉ vậy họ còn hết sức tinh nghịch, trẻ trung. Dù bụi lùa vào khoang lái
họ vẫn có những tiếng cười thật rộn rã: nhìn nhau mặt lấm cười ha ha, tiếng
cười khoan khoái đã giúp họ xóa tan bao cực nhọc, tiếp thêm sức mạnh để họ
vững bước lên đường. Tinh thần lạc quan yêu đời chính là biểu hiện rõ nét nhất
của lòng dũng cảm, của sức mạnh tinh thần ở người chiến sĩ. Khổ thơ đã tạc lên
chân dung đẹp đẽ, những phẩm chất thật quý báu của người lính.
Trong những năm tháng kháng chiến, phải sống xa gia đình, thì tình cảm đồng
chí đồng đội gắn bó thật đáng quý và đáng trân trọng. Nguồn sức mạnh tinh
thần ấy sẽ giúp họ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Những người lính lái xe
cũng vậy, qua những ô cửa kính vỡ chỉ cần cái bắt tay vội vã mà nồng ấm tình
thương cũng khiến những con người xa lạ trở nên gần gũi với nhau hơn. Và còn
điều gì tuyệt vời hơn, khi tranh thủ cùng ăn bát cơm trắng đạm bạc với nhau
giữa rừng. Những lúc đó họ không chỉ còn là những người bạn đường nữa mà
đã trở thành gia đình của nhau: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/ Chung bát
đĩa nghĩa là gia đình đấy. Chính những bữa cơm ấy giúp họ xích lại gần nhau
hơn, gắn bó với nhau như những người trong gia đình. Tình cảm đồng chí, đồng
đội, tình cảm gia đình gắn bó chính là nguồn động lực tiếp sức họ lên đường:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy/ Lại đi lại đi trời xanh thêm. Với tinh
thần, ý chí chiến đấu kiên cường họ vẫn kiên gan, bền bỉ lại đi, lại đi vì màu
xanh hi vọng, độc lập ở phía trước.
Đối lập với những khó khăn, thiếu thốn vật chất bên ngoài là sức mạnh tinh thần
bền bỉ, mạnh mẽ của người lính với trái tim nhiệt thành, cháy bỏng: Xe vẫn
chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim. Những chiếc xe 11
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
không chỉ chạy bằng nhiên liệu mà còn chạy bằng ý chí, nghị lực phi thường
của những người lính. Chỉ cần có trái tim lạc quan, mang trong mình niềm tin
chiến thắng thì người lính có thể đưa đoàn xe đến mọi nẻo đường.
Với ngôn ngữ và giọng điệu độc đáo tác giả đã khắc họa lên tượng đài người
lính lái xe vừa hiên ngang, dũng cảm vừa hóm hỉnh, lạc quan yêu đời. Họ là
những hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam Xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Đó là thế hệ anh hùng, hiên ngang,
dũng cảm, quyết đem cả tính mạng, tuổi trẻ của mình để cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 3
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Đó là ý chí của những chiến sĩ Trường Sơn. Các anh hiện lên trên trang thơ thật
dí dỏm, thật yêu đời. Khi gian khổ tưởng chừng không thể nào vượt qua được,
khi cái chết tới gần. Vậy mà nụ cười lạc quan vẫn hiện hữu trên khuôn mặt các
anh, nụ cười ấy rất ngang tàng và cũng đầy tinh nghịch. Nhắc tới họ, ta không
thể quên người chiến sĩ lái xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không
kính của Phạm Tiến Duật. Không biết nhà thơ dã bao nhiêu lần trực tiếp lái
chiếc xe như thế mà ông lại viết ra được những dòng thơ hết sức chân thực và sống động đến vậy:
Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Đó là lời giới thiệu của các anh, hết sức giản dị, rất thật. Trên chiếc xe không có
kính đó người lính lái xe ở tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng 12
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
khốc liệt. Bom giật bom rung họ vẫn vững tay lái, nhấn ga cho xe băng băng lao ra chiến trận.
Chúng ta hãy lắng nghe các anh kết chuyện về mình với giọng điệu thật vui vẻ và hài hước:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh tư thế bình tĩnh, đường hoàng,
hiên ngang, tự tin khi họ phải lái một chiếc xe không kính. Nhìn thẳng là nhìn
vào gian khổ, hy sinh không run sợ, không né tránh bởi họ chiến đấu vì chính
nghĩa. Lái xe không kính, là gặp phải khó khăn nhưng những khó khăn lại thật bất ngờ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ rất thực, thực đến từng chi tiết. Xe không có kính chắn gió lại
chạy với tốc độ cao nên người lính lái xe phải đối mặt với bao nguy hiểm: gió
xoa mắt đắng, con đường ngược lại chạy thẳng vào tim, sao trên trời, chim dưới
đất bất ngờ như sa, như ùa, như rơi, rung, quăng, ném vào buồng lái... Những
câu thơ chân thực, sống động, đầy ấn tượng như chính nhà thơ đang cầm vô lăng mà lái.
Bao khó khăn thử thách nhưng người lính lái xe vẫn không run sợ, hoảng hốt.
Trái lại, tư thế của các anh rất hiên ngang, ung dung tự tại, tinh thần của các anh 13
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
vẫn vững vàng. Bởi các anh vẫn quyết tâm vượt qua gian khổ, để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Nhà thơ lại tiếp tục khắc họa những khó khăn, gian khổ của những người lính
lái xe. Những câu thơ như những lời nói thường ngày, không gắn liền với những
tiếng nói bỗ bã, đầy chất lính ngang tàng song cũng rất đáng yêu như bật lên từ
tình cảm thực của những người lính lái xe. Khó khăn là thế và vẫn chấp nhận là
tất yếu: “ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” nhưng cũng với thái độ rất thản nhiên:
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. 14
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Sự bình thản của những người lính lái xe đến vô tư. Câu thơ cân đối, nhịp nhàng
theo độ rung của bánh xe lăn, các thanh bằng, trắc phối hợp linh hoạt, giọng thơ
pha chút ngang tàng thường thấy ở người lái xe.
Hai khổ thơ làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe: dũng cảm, hiên
ngang, phớt đời, bất chấp hiểm nguy trước biết bao thử thách. Họ đạp bằng gian
khó tiến về phía trước với một quyết tâm giải phóng miền Nam. Đúng là chiến
tranh ác liệt có thể tàn phá những phương tiện kỹ thuật vật chất nhưng không
thể đè bẹp được sức mạnh tinh thần của con người. Trái lại, nó chỉ càng làm nổi
rõ thêm tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu để giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước của họ mà thôi:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Trong hoàn cảnh ác liệt, những người lính lái xe có cùng một mục đích, cùng
chung lý tưởng nên ở họ đã hình thành nên tình cảm đồng chí, đồng đội tốt đẹp,
ấm cúng như trong một gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi đã gợi lên ý nghĩa về người lính lái
xe gan góc vượt qua gian nan thử thách. Khi gặp nhau tình cảm giao lưu của họ thật là đặc biệt:
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi 15
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính Để rồi:
Lại đi, lại đi trời thêm xanh.
Khổ thơ cuối cùng có một cái gì đó thật lãng mạn và lạc quan:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe không có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng đến trơ trụi: không kính, không đèn,
không mui... Nhưng đoàn xe vẫn cứ chạy vì một mục đích cao cả: vì miền Nam
ruột thịt, vì thống nhất nước nhà. Thì ra mọi cội nguồn tạo ra sức mạnh của
đoàn xe được tích tụ lại ở trái tim gan góc, kiên cường giàu bản lĩnh nhưng chan
chứa tình yêu thương ở người cầm lái. Chính tình yêu Tổ quốc, tình thương
đồng bào đã khích lệ, động viên người lính lái xe đạp bằng gian khó, lạc quan,
bình tĩnh, nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe tới đích. Khổ
thơ cho ta thấy chân lý của cuộc đời: sức mạnh không chỉ là vũ khí, là vật chất
mà chính là con người. Con người mang trái tim nồng cháy, yêu thương, có ý
chí kiên cường chiến đấu là con người chiến thắng:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Câu thơ làm tỏa sáng hình tượng người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường
Sơn, là linh hồn của cả bài thơ.
Bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người chiến sĩ lái xe thật đẹp, thật dí dỏm, thật
lính. Đó là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống đế
quốc Mỹ một thế hệ anh hùng, sống đẹp và giàu lí tưởng. Họ sẵn sàng làm bất 16
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
cứ việc gì, đi bất cứ đâu mà Tổ quốc cần, trong gian khổ vẫn giữ vững một niềm
tin, một niềm lạc quan tin tưởng vào chiến thắng. Đó là chủ nghĩa anh hùng
cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 4
Có thể nói, thơ Phạm Tiến Duật như một luồng gió mới thổi vào vườn thơ cách
mạng với một phong cách vô cùng sáng tạo. Với quan niệm "chủ yếu đi tìm cái
đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống", ông đã đưa tất cả những
chất liệu của hiện thực đời sống chiến trường vào trong thơ ca. Tuyến đường
Trường sơn khói lửa – tuyến đường của mưa bom bão đạn, của chiến tranh tàn
khốc và của lòng nhiệt huyết tuổi trẻ. "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng
phơi phới dậy tương lai” – niềm vui đó như ánh sáng chói chang soi sáng tâm
hồn nhà thơ để tạo thành một hồn thơ chiến sĩ rất lạ, rất mới, rất độc đáo. "Bài
thơ về tiểu đội xe không kính" là tác phẩm tiêu biểu của ông viết về những
người lính lái xe can trường, dũng cảm, lạc quan, yêu đời trong mưa bom, bão
đạn. Họ quyết chiến đấu hi sinh vì lý tưởng giải phóng miền Nam, thống nhất tổ
quốc. Đó là tiếng nói chân thành của người trong cuộc với một tâm hồn đấy chất thơ.
Có lẽ chất thơ Phạm Tiến Duật hay bởi cái mới mẻ, sáng tạo, bởi hồn thơ chiến
sĩ trẻ trung, tếu táo. Thơ ông không phản ánh một cách chân thực, giản dị đời
sống cách mạng như thơ Chính Hữu mà phả vào đó một luồng chất thơ, chất
tinh nghịch của tuổi trẻ. Ông đã thi vị hóa cái hiện thực để tạo được hình ảnh
thơ sống động, độc đáo, đó là "những chiếc xe không kính". Đây chỉ là thứ
tưởng chừng như khô khan, trần trụi nhưng lại được Phạm Tiến Duật nhìn với
con mắt rất thơ. Những chiếc xe không có kính chắn gió ư? Phải chăng đây là
kết quả của một hành trình vượt qua mưa bom bão đạn? "Bom giật, bom rung
kính vỡ đi rồi" – một lời lý giải chân thực, gần như văn xuôi lại pha thêm chút 17
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
giọng thản nhiên khiến người đọc nhận ra chất thơ ngay từ hình ảnh đó. Những
chiếc xe đã vượt qua bom đạn thử thách để rồi mang trong mình đầy thương
tích. Mặc cho gian khổ, đoàn xe vẫn băng băng ra chiến trường vì miền Nam
phía trước vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Phải chăng qua hình ảnh ấy, Phạm
Tiến Duật muốn làm nổi bật vẻ đẹp của những con người cầm lái?
Phải nói rằng, tác giả đã dùng cách mở hết sức tài tình. Bài thơ này đâu phải
viết về những chiếc xe không kính. Vì sao vây? Bởi hình ảnh đó tượng trưng
cho những gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến. Ông đã tạo nên một hình
tượng người lính – nơi hội tụ những phẩm chất cao đẹp. Trên những chiếc xe
không kính, họ vẫn cầm lái với tư thế ung dung, hiên ngang giữa trời đất. Họ
thiếu thốn về phương tiện, vật chất. Điều đó đã không còn là trở ngại lớn lao bởi
họ biết biến nó thành "cơ hội" để hưởng thụ, để tiếp cận thiên nhiên. Phạm Tiến
Duật đã lấy cái khó khăn, gian khổ làm cơ hội để bộc lộ được những phẩm chất
cao đẹp của người lính cách mạng:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Cái ngồi "ung dung" đàng hoàng làm chủ tình thế – một tư thế chiến đấu rất đẹp
Mặc cho mưa đạn khói lửa, mặc cho khó khăn thử thách, các anh vẫn bình tĩnh,
tự tin, đưa hàng ra tiền tuyến. Để rồi, họ nhìn – một cái nhìn khoáng đạt bao la
giữa đất trời: "Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng". Họ không thẹn với đất trời, họ
không run sợ hay né tránh mà nhìn thẳng vào gian khổ, vào tương lai để lần
theo ánh sáng lý tưởng cách mạng. Nhìn qua khung cửa vỡ – họ nhìn thấy cả
một không gian rộng lớn, thấy những cung đường chiến lược phía trước. Đoàn
xe vẫn vun vút bươn trải, vẫn lao nhanh với tốc độ phi thường. Dường như
chính nhà thơ cũng đang cầm lái những chiếc xe không kính đó nên câu chữ 18
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
mới sinh động, cụ thể, gợi cảm như vậy. Lời thơ nhịp nhàng, trong sáng như
văng vẳng tiếng hát vút cao giữa chiến trường bom đạn.
Ở những người lính trẻ ấy còn sáng bừng lên tinh thần lạc quan, thái độ bất chấp
mọi khó khăn gian khổ. Nếu ở hai khổ thơ trên là những cảm giác về khó khăn
thử thách thì giờ đây những khó khăn thử thách lại ập đến một cách cụ thể, trực
tiếp. Đó là "bụi phun tóc trắng" và "mưa tuôn mưa xối". Phải chăng đó chính là
cái hậu quả tất yếu của những chiếc xe không kính? Nhưng những khó khăn đó
đâu làm họ nao núng. Họ đã chấp nhận nó như một thử thách mới để rồi bình
thản, cố gắng vượt lên trên hoàn cảnh. Nếu ở bài thơ "Đồng chí" của Chính
Hữu, tiếng "mặc kệ" cất lên biểu thị thái độ sẵn sàng chấp nhận thì ở bài này
cũng vậy, trước khó khăn gian khổ, những người lính trẻ vang tiếng "ừ thì" thật
nhẹ nhõm. "Bụi phun tóc trắng", "mưa tuôn mưa xối" ư? Điều đó chẳng là gì
đối với những con người can trường, lạc quan này. Họ "chưa cần rửa", "chưa
cần thay" để rồi “phì phèo châm điếu thuốc” và “nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha”. Phải chăng đây là sức mạnh của tinh thần lạc quan, thái độ bất chấp mọi
hiểm nguy? Nhà thơ đã xây dựng hình tượng người lính vừa mang nét giản dị,
phong trần nhưng lại không thiếu phần kiêu hùng, lãng mạn. Phải nói rằng, câu
thơ Phạm Tiến Duật chẳng những hay về hình ảnh mà còn hay về âm điệu.
Những thanh bằng, trắc được phối hợp linh hoạt, phô diễn được cái nghiệt ngã
của người lính trong chiến tranh: "Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi" hay "Nhìn
nhau mặt lấm cười ha ha" – câu thơ với sáu thanh bằng gợi sự nhẹ nhõm, yên ả
trong tâm hồn người lái xe. Phải chăng đó là nốt nhạc vui sôi nổi vang dậy cả Trường Sơn.
Hình tượng người lính lái xe còn được Phạm Tiến Duật phát hiện thêm một nét
đẹp nữa, đó là tình đồng đội gắn bó, chia ngọt sẻ bùi. Những con người dũng
cảm ấy đã vượt qua bao khó khăn thử thách, họ đến "từ trong bom rơi", để rồi
những chiếc xe không kính ấy "đã về đây họp thành tiểu đội". Nhưng hiểm 19
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
nguy, gian khổ là cơ hội để họ gần nhau hơn và trở thành bạn bè để rồi "bắt tay
nhau qua cửa kính vỡ rồi" – cái bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi" – cái bắt tay
đầy ý nghĩa, thắm tình đồng đội. Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính,
nhưng mỗi thời mỗi khác, anh chiến sĩ trong thời chống Pháp thì "thương nhau
tay nắm lấy bàn tay". Nhưng tất cả cái bắt tay ấy đều xuất phát từ bao gian khổ,
hiểm nguy và mở ra một tình bạn cách mạng cao cả. Để rồi, ánh sáng của tình
đồng chí, đồng đội đã làm ấm cả chiến trường bom đạn lạnh lẽo.
Cuộc đời người lính rất bình dị nhưng cũng vô cùng sang trọng. Giữa chiến
tranh bom đạn, họ vẫn ung dung "Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời". Bữa cơm
gia đình thật ấm áp, khiến tình đồng chí, đồng đội đã trở thành tình cảm gia
đình. Dường như giữa họ không hề tồn tại một sự ngăn cách nào. "Chung bát
đũa nghĩa là chung gia đình đấy" – một cách định nghĩa tếu táo mà sâu nặng
nghĩa tình. Trong thơ Xuân Diệu, hai từ "nghĩa là" cũng được thi vị hóa trở nên óng ánh chất thơ:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Dưới ngòi bút Phạm Tiến Duật, hai chữ "nghĩa là" lại trở nên đậm đà; chan chứa
cái tình của người lính. Nhà thơ đã thực sự thành công khi thổi hồn vào ngôn từ,
vào câu chữ. Chỉ với hai từ thôi mà tình đồng đội đã rút ngắn mọi khoảng cách
để trở thành tình cảm anh em ruột thịt. Phải chăng tình cảm ấy là nguồn sức
mạnh to lớn để họ tiếp tục lên đường? Những người lính trẻ vẫn tiếp tục ra mặt
trận trong không khí hồ hởi của cuộc kháng chiến: "Lại đi, lại đi, trời xanh
thêm" – đoàn xe vẫn không ngừng lăn bánh trên tuyến đường Trường Sơn khói
lửa. Điệp ngữ "lại đi" như nhấn mạnh nhịp hành quân đều đặn. "Trời xanh thêm 20
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
cũng chính là niềm lạc quan yêu đời, chan chứa hy vọng của người lính. Vậy
nếu có niềm tin thì chẳng có việc gì là họ không làm được.
Trải qua bom đạn kẻ thù, những chiếc xe giờ đây không còn nguyên vẹn mà
mang đầy thương tích. Xe không có kính, không có đèn, không có mui – đó là
những khía cạnh của cái "không có" mà Phạm Tiến Duật đã phát hiện một cách
tài tình. Nhưng hoàn cảnh đó đâu làm nản chí những con người kiên cường kia.
Họ vẫn đàng hoàng ung dung, đoàn xe vẫn lăn bánh đều đặn ra mặt trận. Vì sao
vậy? Bởi lẽ trong cái mảng "không có" mịt mù vẫn còn lóe lên một cái "có" –
đó là "trái tim” của người cầm lái.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Thì ra cội nguồn sức mạnh để họ vượt qua khó khăn gian khổ, đọng kết lại ở
"trái tim" gan góc, kiên cường mà chan chứa yêu thương này. Đó là trái tim
nồng nàn yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước "Chỉ cần trong xe có một trái tim" – câu thơ nhẹ nhàng mà kiên
quyết, làm tỏa sáng và chói ngời cả bài thơ "trái tim ấy" – "trái tim" nhiệt huyết
của người lính – "trái tim" vĩnh hằng bất biến của tổ quốc. Vậy sức mạnh quyết
định chiến thắng đâu phải là vũ khí, công cụ! Đó là niềm tin và hy vọng về một
ngày mai độc lập, tự do. Qua đây, vẻ đẹp của người lính đã được hoàn thiện qua nét vẽ của nhà thơ.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 5
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu của Phạm Tiến Duật.
Qua bài thơ này, tác giả đã khắc họa cho người đọc thấy được vẻ đẹp của những người lính lái xe”. 21
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Tứ thơ được hình thành từ một hình tượng, một chi tiết độc đáo: những chiếc xe
không kính chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Lời thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường
hàng ngày. Cái gian khổ nguy hiểm của nơi chiến trường khốc liệt “bom giật,
bom rung” làm vỡ kính xe được anh kể lại một cách tự nhiên như không. Đó là
chuyện quá bình thường đối với người lính lái xe trong thời chiến. Ngay khổ thơ
mở đầu nhà thơ đã phác họa trước mắt người đọc tư thế hiên ngang của họ. Điệp
từ “nhìn" được nhấn mạnh ba lần trong một câu kết hợp với cách ngắt nhịp
2/2/2: “nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng” đã diễn tả được cái tư thế hiên ngang ấy.
Mặc dù bom đạn trên đầu, mặc dù mặt đường sạt lở cây cối ngổn ngang, phải
qua bao dốc cao, vực thẳm họ vẫn giữ nguyên tư thế ung dung, hiên ngang, như
chẳng có việc gì xảy ra. Không có kính hóa ra lại hay, bởi vì:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Phải người trong cuộc mới viết được những câu thơ vừa hay vừa chính xác đến
như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái xe thật lãng mạn. Nhờ không có kính mà sao
trời, cánh chim “như sa, như ùa" vào buồng lái. “Sao và chim” đã trở thành 22
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
người bạn đường của họ. Đặc biệt nhất là hình ảnh “nhìn thấy con đường chạy
thẳng vào tim” tả rất đúng cảm giác của người lái xe không kính, đồng thời còn
nói được sự gắn bó của họ đối với con đường Trường Sơn, con đường đánh Mỹ:
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những chiến sĩ lái xe thật trẻ, thật hồn nhiên, pha một chút ngang tàng đáng
yêu, đúng là kiểu ngang tàng của lính lái xe:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Cụm từ “không có… ừ thì” được nhắc lại tới hai lần cho thấy dường như đó là
chuyện quá bình thường không đáng kể. Cái dáng điệu “phì phèo châm điếu
thuốc” và tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ trung càng làm nổi bật tư thế hiên
ngang, tâm hồn lạc quan của họ trong những năm tháng vô cùng ác liệt.
Họ đã coi gian khổ như không có gì:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
“Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” thì cũng chẳng sao. Tất cả rồi sẽ nhanh
chóng qua đi: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi?”... Vẫn cái chất giọng ngang
tàng đáng yêu của lính lái xe. 23
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Tình cảm gắn bó giữa các chiến sĩ lái xe cũng được diễn tả rất đúng, rất hợp cái
phong cách ngang tàng đáng yêu của họ:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội,
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Trong chặng hành trình gian khổ, những người lính phải trải qua những phút
giây nguy hiểm như nhau nên quá đỗi thấu hiểu. Cái bắt tay chào nhau chứa
đựng sự cảm thông, chia sẻ và đầy tin cậy. Sự gắn bó thân thiết ấy còn được nhà
thơ diễn tả qua bữa ăn dã chiến của họ: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Hoàn cảnh khó khăn, người lính phải dựng bếp ăn giữa đường. Những bữa ăn
đơn giản nhưng chứa chan tình cảm thắm thiết. Họ coi nhau như anh em trong
gia đình, cùng san sẻ với nhau bao khó khăn, vất vả. Đời sống chiến đấu càng
thiếu thốn, gian khổ càng xích họ lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Và dù chỉ được nghỉ ngơi trong chốc lát, họ vẫn mong muốn không mệt mỏi.
Điệp ngữ “lại đi” dường như đã trở thành một nhịp điệu. Họ vẫn tiến về phía
trước với một niềm tin “trời xanh thêm” - hy vọng về tương lai độc lập, hạnh phúc.
Bài thơ kết thúc bằng sự nhận thức rất sâu sắc của người lính lái xe: 24
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Có thể còn nhiều gian khổ, còn nhiều mất mát, còn nhiều hy sinh... Nhưng
không thể ngăn cản được bước tiến của người lái xe nói riêng của dân tộc ta nói
chung. “Trái tim” - một hình ảnh hoán dụ mang tính biểu tượng cao. Trái tim ở
đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã nguyện chiến
đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có một chất giọng riêng đáng quý. Chất
giọng tự nhiên pha chút ngang tàng rất phù hợp với các chiến sĩ lái xe thời
chiến. Qua đó giúp người đọc hiểu được đời sống chiến đấu hết sức gian khổ
thiếu thốn của họ, hiểu được tư thế hiên ngang, tâm hồn trẻ trung lãng mạn và ý
chí cao đẹp của họ. Với bài thơ này, Phạm Tiến Duật đã góp phần khắc họa thật
chân thực hình ảnh người những chiến sĩ lái xe trong những năm chống Mỹ thật khốc liệt.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 6
Phạm Tiến Duật là gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ trẻ trong giai đoạn
chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong các tác phẩm của ông là “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính”. Với bài thơ này, nhà thơ đã khắc họa hình tượng những người
lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kháng chiến chống Mỹ với tư thế hiên
ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm nơi chiến trường.
Hình ảnh của người lính lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính: 25
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Mà trước hết, hình ảnh người lính hiện lên với tư thế hiên ngang của họ khi đối
mặt với hiểm nguy. Câu thơ mở đầu: “Không có kính không phải vì xe không
có kính” - điệp ngữ “không có… không… không có…” như muốn nhấn mạnh
hình ảnh những chiếc xe không kính. Các động từ mạnh “giật”, “rung” kết hợp
với hình ảnh “bom” khắc họa sự khốc liệt nơi chiến trường. Từ đó giải thích
nguồn gốc của những chiếc xe không kính. Vốn là những chiếc xe vận tải chở
hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, nhưng lại bị bom đạn của kẻ thù bắn phá nên
kính xe vỡ đi trở thành những chiếc xe không kính. Trước hoàn cảnh đó, người
lính lái xe vẫn: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Hình ảnh trên cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động sẵn sàng đối mặt với hiểm
nguy. Trong mưa bom, bão đạn nhưng họ vẫn nhìn thẳng về con đường phía
trước. Với những chiếc xe không kính, khó khăn của những chặng đường dường
như tăng lên gấp bội. Đó là “gió vào xoa mắt đắng” - những chiếc xe không
kính khiến cho bụi đường bay vào mắt, với từ “đắng” được sử dụng theo lối ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác làm nổi bật sự khắc nghiệt về thể xác. Con đường chạy
thẳng vào tim, sao trời, cánh chim. Tất cả như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Không
có kính khiến mội khoảng cách bị xóa bỏ. Tất cả đã trở thành người bạn đồng
hành của các chiến sĩ lái xe. Nhưng dù khó khăn là vậy người lính vẫn không sợ
hãi mà hiên ngang đối mặt với mọi thứ.
Không chỉ vậy, họ còn giữ được tinh thần lạc quan trước hoàn cảnh nguy hiểm
đó. Giọng điệu đầy thản nhiên, mà còn có chút hài hước, tinh nghịch: 26
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp ngữ “không có… ừ thì…” cho thấy thái độ thản nhiên đối mặt với khó
khăn mà những chiếc xe không kính mang đến. Chiếc xe không kính khiến họ
phải đối mặt với bụi đường, với mưa gió nhưng họ vẫn sẵn sàng chấp nhận
những điều đó như một điều bình thường. Thậm chí họ coi đó như một điều
đem đến những niềm vui thú vị. Những hình ảnh “bụi phun tóc trắng như người
già”, “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hay “gió lùa
khô mau thôi” cho thấy sự ngang tàng cũng như một tinh thần vui vẻ, yêu đời.
Giữa những gian khổ, người lính lái xe vẫn sáng ngời một tình đồng đội:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời 27
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Hình ảnh “những chiếc xe họp thành tiểu đội” gợi ra những chiếc xe từ trong
mưa bom, bão đạn đã tập hợp lại thành một tiểu đội xe không kính. Họ là những
đồng đội cùng chung một lý tưởng. Họ “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” - chi
tiết phản ánh chân thực tình cảm của người lính, qua cái bắt tay người lính tiếp
thêm cho nhau sức mạnh, động lực để tiếp tục những chặng đường phía trước.
Và cuộc chiến tranh khốc liệt khiến người lính phải dựng bếp ăn giữa trời, gợi
nên một cuộc sống sinh hoạt hàng ngày vất vả. Để rồi họ gắn bó giống như
những người thân trong gia đình, gắn bó với nhau thân thiết như tình cảm ruột
thịt. Giọng thơ ở đây thật hồn nhiên, yêu đời biết bao. Trên hành trình ấy, họ chỉ
có thể nghỉ ngơi trên những chiếc võng. Giấc ngủ chập chờn không yên. Nhưng
vẫn lạc quan bước đến “lại đi, lại đi trời xanh thêm”, điệp ngữ “lại đi” giống
như nhịp bước hành quân của người lính trên đường hành quân. Còn hình ảnh
“trời xanh thêm” gợi ra tinh thần lạc quan, yêu đời hướng về tương lai phía
trước - tương lai của độc lập, tự do.
Khổ thơ cuối cùng đã thể hiện một lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt đã giúp
những người lính lái xe có thêm quyết tâm chiến đấu về miền Nam ruột thịt:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim. 28
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Hai câu đầu vẫn là những khó khăn từ những chiếc xe: không có đèn, không có
mui xe, thùng xe có xước… Nhưng khó khăn ấy chẳng thể cản nổi ý chí của
người lính khi “xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước”, vì niềm tin tất thắng
và nước nhà sẽ thống nhất. Bởi vì trong xe luôn có một trái tim, đó là hình ảnh
hoán dụ để chỉ người lính. Trái tim họ luôn căng tràn sự sống, cũng như sôi sục
lòng căm thù giặc sâu sắc. Trái tim còn tượng trưng cho nhiệt huyết cách mạng,
lòng trung thành với Đảng và tình yêu nước sâu đậm của người lính.
Như vậy, qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã khắc họa
được hình ảnh người lính lái xe với những nét đẹp tiêu biểu cho người lính
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 7
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất
diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”
ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt.
Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến
Duật. Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ
chiến sĩ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du
dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc,
độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài
thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe và những người
chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới
thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác
giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ : 29
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .
Cách lý giải đơn giản, ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc. Cảm hứng thơ bắt
đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung” giúp ta hình
dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ
dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái
xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các
anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không
ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm
kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên
nhiên. Nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình
ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận. Cái vất vả, gian khổ
hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin, người lái xe không chỉ cảm thấy mà
còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến, dịu dàng và 30
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ. Và hơn thế
nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời.
Điệp từ “ừ thì”, “chưa cần", hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”, giọng “cười
haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ
biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái. Qua đó làm
sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người
biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh. Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn
mới thấu hết nỗi gian nan của người cầm lái. Đường Trường Sơn gập
ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước, mùa khô xe chạy bụi mù trời. Bom đạn
của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên
khắc nghiệt nào có đáng kể chi. Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng
người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt của nhà thơ, sự hiểm nguy của những
chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp
nhau, bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể
hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng những phút nghỉ ngơi của
những người lính lại vô cùng giản dị :
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời 31
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính
không chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong
một gia đình. Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công
việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Chỉ có điều
càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra:
“không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.
Như vậy cả “không có” và “có ”đều là tổn thất, đều là hư hại. Điệp ngữ “không
có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của
chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải.
Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy
thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường. Kì lạ thay:
Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống
trẻ trung, sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng
chiến. Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra. Ta chợt nhận ra người
chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn
của xe. Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất
với người chiến sĩ. Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn
khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên 32
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương. Có lẽ vì thế mà nhiều người cho
rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái.
Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt
nguồn từ sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính
tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi,
hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ
đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 8
Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước. Năm
1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội
và xung phong vào tuyến lửa khu Bốn. Từng là lính lái xe nên ông có những bài
thơ viết rất hay về binh chủng này. “ Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu
biểu. Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện
thực dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ.
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng
là cả một tiểu đội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà
độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống
Mỹ. Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Nguyên nhân xe không kính là vậy. Đấy là một hiện thực trần trụi mà tác giả không thể hư cấu. 33
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp.
Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay,
thế nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất chủ
động, hiên ngang vượt lên tất cả. Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói
đến cái nhìn. Tô đậm cái nhìn của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả
đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo
sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca
bin không kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động,
cụ thể đối với người lái xe:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện cái
thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm Tiến
Duật trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp
nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn
cảnh của người lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt. 34
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe
không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên.
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý thức
được mà còn rất quen với những gian khổ đó. Chính vì thế:
“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc sống
của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng
sao đáng yêu thế?. Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi
người sao mà rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu
được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng
đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh
thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận tải
trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm
chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí,
đồng đội trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình
tượng thơ “xe không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới 35
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều như
một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là tiểu đội
xe không đèn, không mui xe,... Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết
sức ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử
thách: “Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước”
nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ
là miền Nam thân yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim
quả cảm trái tim người lính Bác Hồ.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh người chiến sĩ đã được thể hiện rất
rõ ràng và chân thật. Qua các hình ảnh ấy, ta thấy rõ được sự khó khăn và gian
khổ của những người lính oai hùng và thêm yêu mến, thêm biết ơn đối với các
vị anh hùng dân tộc đã ra đi để đất nước được vẹn tròn.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 9
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ
trẻ thời kháng chiến chống Mỹ, đã từng trải nghiệm cuộc sống trên tuyến đường
Trường Sơn nên thơ của Phạm Tiến Duật hầu như chỉ viết về những người lính
trẻ và những cô thanh niên xung phong. Thơ ông chinh phục trái tim bạn đọc
bằng những giọng điệu sôi nổi trẻ trung, ngang tàng và mang đậm chất lính.
“Bài thơ tiểu đội xe không kính” đã in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc
đáo ấy. Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ này vào năm 1969 trong thời điểm gay 36
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
go, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thi phẩm nằm trong
chùm thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Trong thi
phẩm, Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công vẻ đẹp của người lính lái xe
Trường Sơn - hình ảnh cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Chân dung người lái xe Trường Sơn được tác giả khắc họa qua hình ảnh những
chiếc xe không kính và một giọng thơ ngang tàng, trẻ trung, gần gũi. Cảm hứng
về những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá
của mình về vẻ đẹp của những chiến sỹ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời
chống Mỹ. Đó là tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, đó còn là lòng lạc quan,
yêu đời, tình đồng chí đồng đội thắm thiết và lòng yêu nước nồng nàn, lý tưởng
chiến đấu cao đẹp. Cái nhìn lạc quan của người lính về sự ác liệt của chiến tranh
được thể hiện rất rõ qua cách lý giải về những chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Điệp từ “không” khiến câu thơ giãn ra, tạo nhịp điệu khoan thai, đặc biệt từ
“rồi” khép lại câu thơ thứ hai đã làm nên một giọng điệu rất nhẹ. Người lính nói
về những chiếc xe không kính chính là nói về cuộc chiến khốc liệt mà họ phải
trải qua. Vậy mà người lính lái xe lại kể về tất cả những điều ấy bằng một giọng
thản nhiên đến lạ lùng. Điều này cho thấy rất rõ cái nhìn bình thản của người
lính về những mất mát của bom đạn mà kẻ thù đã gây ra. Đó là cái nhìn lạc
quan của bản lĩnh anh hùng. Phẩm chất anh hùng của một người lái xe Trường
Sơn ngời sáng qua tư thế ung dung:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng 37
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Ung dung" là tư thế thoải mái, là tâm trạng bình thản và thái độ bình tĩnh, tự
tin. Đặt vào hoàn cảnh chiến tranh ác liệt lại lái những chiếc xe không kính thì
sự ung dung này chính là biểu hiện cho lòng dũng cảm của người lính lái xe.
Điệp từ “nhìn” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ đã họa lên tư thế hiên ngang của
người lính. Tư thế ấy là một sự thách thức với bom đạn của kẻ thù. Phải chăng
nhờ những chiếc xe không kính mà người lính mới có điều kiện bộc lộ phẩm
chất anh hùng và nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao của mình. Miêu tả cảm giác
của người lính khi lái những chiếc xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã
mở ra một thế giới tâm hồn phong phú, đẹp đẽ của họ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Không còn kính chắn gió, người lái xe lại có cái thú vị là được tiếp xúc trực tiếp
với thế giới bên ngoài. Qua khung cửa không còn kính, không chỉ mặt đất mà cả
bầu trời với “sao trời” và “cánh chim” cũng như “ùa vào buồng lái”. Nhà thơ
Phạm Tiến Duật đã miêu tả rất chính xác cái cảm giác mạnh và đột ngột khi
ngồi trên chiếc xe không kính lao nhanh về phía trước. Nhịp thơ dồn dập, khỏe
khoắn, và gợi cảm giác về tốc độ của tiểu đội xe không kính, vừa mở ra tâm
trạng hồ hởi, háo hức của người lính trên đường ra trận. Với người chiến sỹ
Trường Sơn “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Bởi niềm hạnh phúc lớn nhất là
được có mặt trên trận tuyến đánh quân thù. Với những câu thơ này, Phạm Tiến
Duật đã làm dậy khí thế của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Cái nhìn của người lính lái xe vào thiên nhiên vũ trụ là cái nhìn đậm chất lãng
mạn chỉ có ở những người can đảm, biết vượt lên những thử thách khốc liệt. Lái 38
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
xe không kính không phải là không gặp những khó khăn nào là “Gió vào xoa
mắt đắng”, rồi những thứ bên ngoài như quăng như quật vào người lái xe nhưng
chủ yếu vẫn là cảm giác thú vị về thiên nhiên vũ trụ bỗng trở nên thật gần gũi.
Hóa thân vào những người chiến sỹ lái xe, tác giả đã nhìn hiện thực chiến tranh
bằng con mắt của người lính. Đó là cái nhìn lãng mạn, trẻ trung, yêu đời. Trước
những thách thức khốc liệt do những chiếc xe không kính mang lại, người lính
đã tỏ thái độ bất chấp, coi thường hiểm nguy.
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay thái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Hai khổ thơ đầy ắp những chi tiết hiện thực, đó là một kiểu hút thuốc “phì
phèo” rất lính, rồi tiếng cười “ha ha” vô tư, sảng khoái, đó là “bụi phun”, “mưa
tuôn”, “mưa xối”. Những chi tiết rất thực rất sống động ấy mà đưa ta đến cuộc
sống gian khổ nhưng đầy ắp niềm vui và tiếng cười của những người lính trẻ.
Hiện thực đời lính đã được Phạm Tiến Duật tái hiện bằng những câu thơ đậm
chất văn xuôi và một giọng thơ ngang tàng, hồn nhiên rất lính.
Thực tế những bánh xe lăn là những gian khổ, những hiểm nguy. Đó là những
thách thức rất thực mà những người lính lái xe không kính đã trải qua trên 39
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
đường và chiến trường. Nhưng với họ, gian khổ chả có ý nghĩa gì. Điệp từ “ừ
thì” và “chưa cần” đã làm bật lên thái độ thách thức, bất chấp hiểm nguy của
người lái xe. Đây là thái độ của con người đứng cao hơn hoàn cảnh, coi thử
thách là cơ hội để thể hiện mình. Không phải là người lính gồng mình lên để
vượt qua gian khổ, mà các anh đã chiến thắng thử thách khốc liệt một cách hết
sức nhẹ nhàng bằng tiếng cười “ha ha” đầy sảng khoái. Đó là tiếng cười của
niềm lạc quan yêu đời, chất chứa trong đó biết bao hồn nhiên, trong sáng tuổi
trẻ. Bằng ống kính điện ảnh, nhà thơ đã ghi lại được những khoảnh khắc xúc
động của tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính Trường Sơn.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Phạm Tiến Duật đã khéo léo đưa những chiếc xe không kính vào thơ để làm cơ
sở nảy nở tình cảm giữa những người lính lái xe. Mới đầu chỉ là những chiếc xe
không kính, nhưng về sau đã hợp thành cả một tiểu đội xe không kính. Từ “tiểu
đội” cho ta hiểu rằng tình cảm giữa những người chiến sĩ lái xe trước hết là tình
đồng đội giữa những con người cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước. Qua hình ảnh tiểu đội xe không kính, nhà thơ
vừa gợi được sự ác liệt của chiến tranh, vừa tạo ra được tình huống để người
lính lái xe bộc lộ tình đồng chí đồng đội.
Nhờ xe không có kính mà người lính dễ dàng giao lưu với nhau hơn. Không
kính tưởng như thô sơ, hỏng hóc nhưng đến đây đã làm bật lên vẻ đẹp riêng của
nó. Gặp nhau trên con đường Trường Sơn huyết mạch, người lính bắt tay nhau
qua cửa kính vỡ như một cách bộc lộ tình cảm. Cái bắt tay nồng ấm tình đồng 40
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
chí này không nhẹ nhàng như cái nắm tay giữa những người nông dân trong bài
thơ “Đồng chí” của Chính Hữu mà có một cái gì đó thật mạnh mẽ và ngang
tàng. Đây cái bắt tay này còn có cả những tiếng cười hồn nhiên trong sáng và
cái sôi nổi của tuổi trẻ mang theo vào chiến trường. Đầu tiên giữa những người
lính lái xe chỉ là tình đồng đội giữa những người cùng một tiểu đội, về sau đã
phát triển thành bạn bè và hơn thế nữa thành tình cảm gia đình.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Bếp Hoàng Cầm là bếp dã chiến do anh nuôi tên là Hoàng Cầm chế tạo ra. Đây
là loại bếp được đặt sâu trong lòng đất để hạn chế sự tỏa khói, tránh bị địch phát
hiện. Nhưng đi vào trang thơ Phạm Tiến Duật, cái bếp của người lính đã được
“dựng giữa trời”, thật sừng sững, thật ngang tàng như thách thức kẻ thù. Trong
thơ Phạm Tiến Duật, bếp hoàng cầm đã trở thành tín hiệu của sự sum họp, đoàn
tụ. Ở nơi nào có bếp Hoàng Cầm là nơi đó có một gia đình lính, bởi theo họ
“chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Câu thơ có giọng điệu rất dí dỏm và
thoáng nụ cười hồn nhiên rất chất lính. Ở đây tác giả đã có một cách định nghĩa
rất độc đáo về gia đình.
Đối với những người lính lái xe, không nhất thiết phải chung huyết thống mà
chỉ cần chung bát, chung đũa thì đã là gia đình rồi. Bát đũa bình thường giản dị
mà đã trở thành vật thiêng liêng gắn kết tình cảm giữa những người lính xa nhà
chỉ cần được quay quần xung quanh bếp Hoàng Cầm, cùng chia sẻ bữa cơm
đạm bạc là họ đã được tận hưởng cảm giác ấm cùng của gia đình. Dường như
với những người lính Trường Sơn, tình đồng chí đồng đội cũng đẹp đẽ, thiêng
liêng chẳng khác nào tình cảm gia đình. Lý tưởng chiến đấu cao đẹp và niềm tin
vào chiến thắng của dân tộc ở người lính lái xe được thể hiện thật chân thành và
xúc động trong những vần thơ giản dị. 41
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Tác giả đã miêu tả hết sức chân thực giấc ngủ của người lính lái xe. Giấc ngủ
“chông chênh” vì đường xe chạy gập ghềnh, từ láy “chông chênh” đã góp phần
tô đậm cuộc sống gian khổ của người lính Trường Sơn. Câu thơ cuối ngắt nhịp
2/2/3 đã làm nên âm hưởng phơi phới. Đặc biệt điệp ngữ “lại đi” khiến câu thơ
như một tiếng reo vui, chất chứa trong đó là bao nhiêu hồ hởi, háo hức của
người lính lúc lên đường ra trận. Người lính hiểu mỗi chuyến xe vào chiến
trường là để cho “trời xanh thêm”. Hình ảnh “trời xanh” là ẩn dụ cho hòa bình,
cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Đến đây lí tưởng chiến đấu của người lính Trường Sơn đã sáng ngời.
Người chiến sĩ thấy “trời xanh thêm” là đã tin tưởng vào ngày chiến thắng đang
đến gần, niềm tin ấy đã làm nên nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao cho cả tiểu
đội xe không kính. Vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn kết đọng ở lòng
yêu nước cháy bỏng và ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉcần trong xe có một trái tim.
Điệp ngữ “không có” đã làm nên âm điệu nhanh, mạnh, khỏe khoắn, dồn dập
cho cả đoạn thơ. Ta cảm nhận thấy trong nhịp điệu ấy khí thế khẩn trương, hối
hả của những đoàn xe ra trận và cả sự ác liệt trong cuộc chiến. Tác giả đã sử
dụng thành công nghệ thuật liệt kê “không có kính”, đồng nghĩa với sự chồng
chất những mất mát, hi sinh của người lính. Đến đây hình tượng những chiếc xe
không kính đã phát triển ở mức cao hơn. Xe không chỉ “không có kính”, mà còn 42
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“không có đèn”, “không có mui xe”, chiếc xe đã trở lên hỏng hóc, méo mó và
biến dạng như một thứ đồ phế thải.
Tưởng chừng xe không thể chạy được, nhưng thật kì diệu “Xe vẫn chạy vì miền
Nam phía trước”. Đây là một điều bất ngờ, hơn thế nữa là những phi thường, là
một sự bất chấp đầy thách thức. Tại sao lại có điều kì diệu ấy? Nhà thơ Phạm
Tiến Duật đã phát hiện rằng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” thì dù thế nào
xe vẫn cứ chạy. Không có cách lí giải nào cụ thể và thuyết phục hơn thể “Chỉ
cần” có nghĩa là yếu tố duy nhất để xe vẫn cứ chạy chính là trái tim người lính.
Chỉ có trái tim quả cảm, giàu lòng yêu nước của người chiến sĩ lái xe thì có mọi
khó khăn đã lùi lại phía sau. Đặc biệt nhà thơ đã phát hiện ra cả tiểu đội xe
không kính vẫn chạy vì “miền Nam phía trước”, vì một nửa đất nước đang rên
xiết dưới gót giày xâm lược của đế quốc Mỹ. Ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước của người lính Trường Sơn đến đây đã ngời sáng.
Đẹp nhất trong bài thơ là “trái tim” người lính. Hình ảnh này được đặt trong thể
đối lập với ba cái “không”: “không kính”, “không đèn”, “không mui”. Đây
chính là sự đối lập giữa cái ác liệt của cuộc chiến với tinh thần, khí phách, tấm
lòng của người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” chính là hoán dụ cho người chiến
sĩ Trường Sơn yêu nước dũng cảm. Với hình ảnh giàu ý nghĩa này, nhà thơ
Phạm Tiến Duật đã mở ra một góc nhìn mới cho hình tượng người lính lái xe
không kính. Phải chăng “trái tim” là cội nguồn sức mạnh của cả tiểu đội xe
không kính, gốc rễ phẩm chất anh hùng của người lính Trường Sơn. Từ hình
ảnh “trái tim” cầm lái, nhà thơ đã khẳng định một chân lí của thời đại chống Mĩ,
đó là sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là phương tiện, vũ khí mà là
con người với trái tim yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường dũng cảm. Có thể
nói hình ảnh “trái tim” đã làm bật lên chủ đề của bài thơ và làm ngời sáng vẻ
đẹp của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ. 43
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Hình ảnh người lính lái xe không kính đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc
họa bằng chất liệu hiện thực sống động của cuộc sống chiến trường. Ngôn ngữ
và giọng điệu thơ tự nhiên, khỏe khoắn, mang cái ngang tàng của những người
trẻ. Chọn hình ảnh những chiếc xe không kính, Phạm Tiến Duật đã xây dựng
thành một hình tượng điển hình nhằm phản ánh hiện thực chiến tranh là biểu
dương tinh thần, ý chí của người lính Trường Sơn. Đặc biệt tác giả đã khắc họa
thành công chân dung người lính lái xe với nhiều phẩm chất cao quý. Đó là tư
thế hiên ngang, dũng cảm, là thái độ bất chấp, coi thường nguy hiểm. Đó còn là
vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội và lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng, ý chí
chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Với những
phẩm chất cao đẹp ấy, người lính lái xe trong bài thơ đã trở thành biểu tượng
đẹp cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã góp một tiếng nói
mới mẻ về người lính, về tuổi trẻ Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thi
phẩm đã đem đến cho nhiều thế hệ bạn đọc những hiểu biết về những đóng góp
hi sinh của thế hệ cha anh, đồng thời giáo dục thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 10
Nói đến thơ ca thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, không thể không nhắc đến một
người, đó là nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ông như thể được sinh ra để làm thơ về
cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta và để trở thành đỉnh cao của thơ ca thời kỳ này. Là một
trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu
nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh
nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giọng điệu sôi nổi, 44
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn
ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời.
Không giống các nhà thơ khác, Phạm Tiến Duật đã thể hiện tính cách khác
người của mình ngay ở hai câu thơ mở đầu. Không mĩ lệ hóa, không dùng hình
ảnh thiên nhiên đẹp đẽ để so sánh, không trau chuốt, không bóng bẩy, hình ảnh
chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật rất trần trụi, bình dị, bị bom đạn không còn
nguyên vẹn: Không có kính không phải vì xe không có kính. Đơn giản là vì
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi nên xe không còn nguyên vẹn nữa. Thế
nhưng, chiếc xe không kính ấy vẫn băng băng ra chiến trường làm nhiệm vụ.
Chiếc xe đầy tự tin, không hề lo sợ trước bom đạn khủng khiếp của giặc Mĩ.
Khác với những gì trần trụi bên ngoài, đây là một chiếc xe dũng cảm, hiên
ngang băng băng chạy. Xe vẫn băng ra tiền tuyến trên những đoạn đường đầy
hiểm nguy. Có khác chăng đó là hình tượng những anh chiến sĩ lái xe Trường
Sơn. Vì xe không có kính nên các anh được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên
ngoài. Gió, sao trời, cánh chim, và cả bầu trời rộng cũng ùa vào buồng lái, hòa
cùng nhịp thở nhộn nhịp của các anh chiến sĩ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Không có một sự ràng buộc hay rào cản nào ngăn cách các anh tiếp xúc với đất
trời. Mà cả thiên nhiên cũng muốn hòa mình với khí thế ấy. Chính vì thế mà các
anh có thể nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng một cách vô cùng thoải mái, tự nhiên.
Không có kính thì điều kiện chiến đấu cũng thiếu thốn nhưng các anh vẫn yêu 45
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
đời, vẫn tự tin vào chiến thắng. Các anh xem mọi trở ngại chỉ là cơ hội để thử thách bản thân:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp cấu trúc không có kính … ừ thì ...chưa cần thể hiện tính cách ngang tàng,
bất chấp tất cả khó khăn, gian khổ của hình tượng người lính trong bài thơ này.
Không có kính chắn bụi thì đương nhiên phải có bụi bám lên tóc, nhưng các anh
vẫn không lo, cứ để vậy mà nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha. Không có kính che
mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy
mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy,
hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi! Dù có thiếu thốn, cực khổ đến đâu, các
anh vẫn yêu thương, chia sẻ cho nhau tình yêu thương cao cả:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Dường như trong chiến đấu gian khổ giúp chiến sĩ tôi rèn ý chí và giúp cho tình
đồng đội của các anh thêm gắn kết, keo sơn. Dù vào sinh ra tử nhưng người lính 46
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
vẫn hồn nhiên, vô tư và lạc quan tin tưởng. Chỉ một cái bắt tay qua khung kính
vỡ rồi nhưng cũng đủ gieo vào nhau những tình cảm tốt đẹp, các anh động viên
nhau tiến bước quân hành. Tình cảm ấy đã làm các anh cảm thấy đầm ấm khi
cùng chung một tiểu đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tiểu đội của các anh như một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Ở đó có vẻ đẹp của sự
sum họp, chan hòa. Các anh có chung một điểm tựa, tâm hồn nên gia đình ở
chiến trường của các anh đều cùng chung một nhiệm vụ thiêng liêng. Các anh
luôn tin tưởng vào tương lai đang chờ đợi họ phía trước. Câu thơ lại đi, lại đi
trời xanh thêm với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi đã tạo nên một âm điệu
thanh thản, nhẹ nhàng. Điều làm nên chiến thắng của các anh chính là lòng yêu
nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Ở các anh có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và
bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có
kính rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần
trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn… Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã 47
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng
những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không
nguyên vẹn ấy băng về phía trước, vì miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng
mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.
Với chất liệu hiện thực độc đáo, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe
không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở
Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Qua bài thơ, ta càng
thấy rõ phẩm chất của người lính Trường Sơn: mộc mạc, giản dị và vĩ đại.
Chúng ta càng biết ơn các anh chiến sĩ dũng cảm. Thế hệ trẻ Việt Nam nguyện
tiếp bước các anh gìn giữ Tổ quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 11
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước, hình ảnh những chiến
sĩ lái xe vận tải đã “để thương để nhớ” cho tâm tưởng nhà thơ tài hoa Phạm
Tiến Duật. Bởi vậy nên dẫu chẳng một ngày làm lính lái xe nhưng những trang
thơ Phạm Tiến Duật luôn ầm ì tiếng động cơ chạy máy và giòn tan tiếng cười
nói của những chàng lính lái xe “trẻ măng tơ” Người đọc khó có thể quên những
chàng trai ngang tàng, tinh nghịch nhưng đầy lí tưởng ấy trong bài thơ "Bài thơ
về tiểu đội xe không kính".
Bài thơ ra đời năm 1969, khi mà cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang
bước vào những năm tháng khốc liệt nhất. Con đường Trường Sơn đã được khai
phá để từng dòng người, dòng xe ngày đêm chi viện cho miền Nam ruột thịt.
Trên những dặm đường loang lổ hố bom, trên những đèo cao trập trùng, hiểm
trở,... dù ở đâu trên con đường huyền thoại ấy cũng hiện lên hình ảnh những anh
lính lái xe vững vàng tay lái. Họ đến với chiến trường từ những giảng đường đại
học, từ những mái trường phổ thông còn vương những cánh phượng rơi. Tâm
hồn họ phơi phới tuổi xuân và những lí tưởng đẹp đẽ của tuổi trẻ. Trở thành 48
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
những anh lính lái xe, họ đã làm vui, làm đẹp, làm vững chắc hơn cho con
đường huyết mạch của cuộc kháng chiến. Các anh tự giới thiệu về những người
bạn đường thủy chung gắn bó của mình:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”…
Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: Những chiếc xe
không kính. Mặt khác, lời giải thích của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy
cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe đã bị phá huỷ bởi
"bom giật, bom rung" - những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Hai
câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, tráng lệ, không có hình ảnh
tượng trưng, giọng thơ có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu đầy ấn
tượng cho bài thơ. Càng lạ lùng hơn nữa là hình ảnh chủ nhân những chiếc xe kì lạ ấy:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Với các anh, sự lạ đối với mọi người lại trở thành sự thường trong đời sống.
“Bom giật, bom rung” để lại thương tích loang lổ trên xe nhưng lại chẳng mảy
may nhìn thấy dấu hiệu của tàn phá trên dáng hình người chiến sĩ. Họ "ung
dung" ngồi, “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Sự khốc liệt của chiến tranh không
khiến con người bị đui chột về tâm hồn và ý chí. Là những con người như lời đề
trên bức tường kỉ niệm chiến thắng phát xít Đức của Hồng quân Liên Xô: “Nơi
đây mọi sắt thép đều tan chảy chỉ con người là vững vàng đi qua”. Câu thơ
ngắn, nhanh, điệp từ "nhìn" lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động. Rồi trên
con đường thần thánh ấy, các anh còn “nhìn thấy” bao điều khác nữa:
“Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng 49
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”…
Bởi xe “không có kính” nên có quá nhiều bất tiện: “gió xoa vào mắt đắng”
nhưng cũng bởi không có kính nên nhiều khi ngồi trong ca bin người lính được
đón nhận những cảm giác thật lạ lùng: “Thấy con đường chạy thẳng vào tim
/Thấy sao trời và đột ngột cánh chim / Như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh
thơ rất táo bạo và khỏe khoắn thể hiện tâm hồn trẻ trung, mạnh mẽ nhưng không
kém phần mơ mộng của những chàng lính lái xe. Khi chiếc xe đã bị phá huỷ,
nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì "không có kính"
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già Và:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời.
Thế nhưng, "không có kính" thì tác giả lại "có bụi” rồi có "mưa tuôn, mưa xối".
Cấu trúc thơ lặp đi lặp lại - "ừ thì" - đã làm toát lên thái độ bất chấp, không hề
run sợ, coi thường mọi khó khăn. Câu thơ như vang lên tiếng cười vui vẻ, các
anh cười để lạc quan yêu đời, để phớt lờ mọi khó khăn, cười để động viên mình,
và động viên đồng đội. Và niềm lạc quan ấy còn được thể hiện bằng hành động.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 50
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính Và :
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi
mươi. Những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không
chỉ vậy, họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn, khăng khít:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Bạn bè gặp nhau suốt đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết! Vậy mà giờ đây, trong gian
khổ, họ thân thiết gắn bó, chào nhau như những người bạn đã quen. Và rồi, kỉ
niệm như ùa về trong tâm trí nhà thơ. Có lẽ vì ông cũng là một người lính nên
ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
"Gia đình" - hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết
thống. Họ, những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu
nóng - dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim 51
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Tuy chiếc xe có bị phá huỷ, nát tan đến mức nào, dù gian khổ khó khăn bao
nhiêu, nhưng "chỉ cần trong xe có một trái tim" - Đúng vậy! Chính tình yêu Tổ
quốc đã cầm lái, đã là động lực thúc đẩy, giúp những người lính có thêm sức
mạnh trước mỗi khó khăn. Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch,
gọn ghẽ. Câu thơ kết của bài thơ có lẽ là câu thơ hay nhất, vừa kết lại sức mạnh
của con người chính là ở tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào và
tình yêu hoá thành ý chí - kiên cường và vững bền. Nhưng đồng thời, nó cũng
mở ra, gợi ra cánh cửa ánh sáng: Miền Nam, nơi mà đồng bào đang trông ngóng
cách mạng trong từng khoảnh khắc.
Bài thơ có giọng điệu phóng khoáng, ngang tàng như tâm hồn chàng trai tuổi
đôi mươi. Phạm Tiến Duật đã không phải dụng công gọt giũa ngôn từ, nhiều
câu thơ trong bài thơ như lời nói hàng ngày nhưng chính sự giản dị, chân thành
của cảm xúc đã làm nên những câu thơ lôi cuốn người đọc. Ngoài ra còn phải kể
đến nhiều hình ảnh thơ táo bạo, giàu sức gợi tả cùng các điệp từ, điệp ngữ.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành
công hình ảnh những người lính trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hình
ảnh ấy tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Chiến
trường ác liệt, hiểm nguy mà tâm hồn các anh, các chị vẫn ngời ngời sự lạc
quan, trẻ trung, yêu đời. Nhưng trên hết vẫn là tấm lòng yêu mến, thiết tha với
đồng đội, với đất nước, vẻ đẹp tâm hồn cao quý gieo vào lòng người đọc niềm
tin yêu, sự trân trọng, cảm phục và lời nguyện cầu tiếp bước. Khi xưa các anh
các chị “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thì hôm nay thế hệ trẻ sẽ “chuẩn bị
hành trang” đầy đủ để đưa đất nước tiến “vào thế kỉ mới” phát triển, sôi động và đầy thách thức.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 12 52
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Nói đến Phạm Tiến Duật là nói đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế
hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ. Từng chiến đấu trong đội ngũ
những người chiến sĩ vận tải dọc đường Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ
hậu phương ra tiền tuyến. Thơ ông có giọng điệu khỏe khoắn tràn trề sức sống,
tinh nghịch vui tươi mà giàu chất suy tưởng. Thật vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” - một bài thơ tiêu biểu của Phạm Tiến Duật đã nêu lên hình tượng
những người chiến sĩ lái xe vui vẻ tếu táo mà đĩnh đạc hiên ngang can đảm,
thắm tình đồng đội bạn bè bền vững ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.
Bài thơ có nhan đề thật độc đáo ấy biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của những người
chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Đó chính là những con người dũng cảm đến ngang
tàng mà giản dị, yêu đời và lạc quan rất mực.
Hình ảnh các anh gắn liền với hình những chiếc xe không kính. Đây là hình ảnh
có thực. Bom đạn của chiến tranh ác liệt thời đó đã khiến cho những chiếc xe
không chỉ không có kính mà còn trần trụi hơn nữa không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Nhà thơ miêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi bật hình ảnh những
người lái xe trên đó. Tuy công việc đầy hiểm nguy gian khổ, nhưng những anh
chiến sĩ trẻ này dưới bom đạn triền miên vẫn luôn giữ một tư thế ung dung lạc
quan và tươi trẻ. Phạm Tiến Duật trong bài thơ này đã miêu tả những cảm xúc
rất cụ thể của họ khi ngồi trên chiếc xe không có kính.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng 53
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ có nhịp điệu nhanh gấp mà vẫn nhịp nhàng đều đặn này gợi đến
nhịp tiếng bánh xe bon bon chạy trên đường dài. Có thực sự ung dung nhìn đất,
nhìn trời không chút lo âu hốt hoảng trước bom đạn cận kề thì anh chiến sĩ trẻ
của chúng ta mới có thể nhìn và thấy đến đủ đầy như thế. Anh từ nhìn thấy gió,
nhìn thấy con đường đến nhìn thấy cả sao trời và cánh chim... từ buồng lái đã vỡ
hết kính chắn gió, gió vào xoa mắt đắng. Làn gió đã ùa vào như thể làm giảm đi
vị đắng nơi khoé mắt. Mắt đắng vì mắt đã thức nhiều đêm để lái xe liên tục từ
đêm này sang đêm khác. Tất cả thế giới bên ngoài ấy đã ùa vào buồng lái của
anh với tốc độ làm chóng mặt. Con đường cũng vì thế như chạy ngược về phía
người lái và trở thành: “Con đường chạy thẳng vào tim”.
Trong tư thế hiên ngang chủ động đó, người chiến sĩ lái xe đã bình thản coi
thường mọi khó khăn, nguy hiểm và gian khổ. Giọng điệu của anh thật ngang tàn, tếu táo:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời 54
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Các anh còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn và lạc quan thể hiện qua
cái nhìn: “Bụi phun tóc trắng như người già” và đặc biệt là tiếng cười sảng
khoái đầy trẻ trung hồn nhiên và yêu đời: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” dẫu
là sinh hoạt từ cái ăn, cái ngủ bình thường của các anh đều có tính tạm bợ, nhiều gian khổ:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
“Trời xanh thêm” phải chăng bởi vì lòng người đã phơi phới thêm, say mê thêm
trước những chặng đường đã đi, những chặng đường đang đến.
Cái gì đã làm nên sức mạnh ấy? Đấy chính là ý chí chiến đấu để giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ Việt Nam thời đánh Mỹ:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tuy bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng: “không có kính, không có đèn, không
có mui xe, thùng xe có xước” nhưng chiếc xe ấy vẫn chạy vì miền Nam phía 55
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
trước, nghĩa là vẫn băng băng ra tiền tuyến. Tác giả đã lý giải về điều ấy thật bất
ngờ mà cũng chí lý: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Đó là trái tim nồng nàn
yêu nước, sôi nổi yêu đời, một trái tim dũng cảm.
Tóm lại, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã thành công
trong việc khắc hoạ hình tượng những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn
đầy gay go thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai
đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ đã thành công hơn ba mươi năm qua nhưng hình tượng tiêu biểu của
một thế hệ trẻ lạc quan yêu đời, hồn nhiên, coi thường thiếu thốn gian khổ, sôi
nổi, đầy quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt ngày nào vẫn chưa mờ phai
trong lòng mỗi người Việt Nam chúng ta.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 13
Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ
ông có giọng điệu hóm hỉnh, ngang tàn. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” là bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy của ông, được sáng tác năm 1969.
Đặc biệt để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc là hình ảnh người chiến sĩ
lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt, mang vẻ đẹp tinh nghịch, lạc quan,
yêu đời, yêu dân tộc và một trái tim nhiệt huyết.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, ác liệt mà
người chiến sĩ phải ngày ngày trải qua, đối mặt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng 56
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Rõ ràng là xe chiến đấu phải được trang bị cẩn trọng, kĩ lượng nhưng những
chiếc xe của người lính Trường Sơn lại bị thiệt hại nghiêm trọng, hỏng hóc đến
tàn tạ. Nhưng cũng chính những chiếc xe ấy đã cho ta thấy được sự ác liệt và
sức phá hủy khủng khiếp của chiến tranh. Trên chiếc xe ấy, các chiến sĩ của xe
không kính vẫn hiên ngang, ngang tàn thậm chí có chút tinh nghịch, yêu đời.
Hai từ “ung dung”, điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần càng cho thấy được thái
độ thản nhiên, bình thản trước khó khăn như một điều tất yếu của người chiến
sĩ, thay vào đó họ ung dung, tự tại hòa mình vào hoàn cảnh, vượt lên trên hoàn
cảnh, không để khó khăn chế ngự. tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ
cho thấy sự chủ động, tự tin, bình tĩnh trong không khí căng thẳng “bom giật,
bom rung”. Chỉ có thể là người chiến sĩ với kinh nghiệm chiến đấu đay dặn,
từng trải mới có được thái độ, tư thế ấy. Những thử thách tiếp tục ập tới một
cách trực tiếp, mạnh mẽ hơn những người chiến sĩ lại lấy chính khó khăn ấy làm
niềm lạc quan, tin tưởng, yêu đời và hóm hỉnh đùa nghịch:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Không cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi.
Câu thơ vút lên tràn đầy niềm lạc quan, sôi nổi như cái sôi nổi rất mới, rất trẻ
của tuổi hai mươi. Những tiếng “ừ thì” vang lên liên tiếp như một sự thách thức, 57
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
một thái độ cứng cỏi. Dường như những gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh
không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ mà lại như một dịp để họ thử
sức mình. Vậy là một lần nữa người chiến sĩ trong thơ lại hiện lên vẻ đẹp trẻ
trung, sôi nổi, tinh nghịch, yêu đời và tinh thần lạc quan của tuổi trẻ. Nhưng đó
đâu phải là vẻ đẹp duy nhất, trên hành trình dưới mưa bom lửa đạn của tuyến
đường Trường Sơn ác liệt thì họ đã coi nhau như anh em ruột thịt, như người
nhà, gắn bó với bếp Hoàng Cầm để cùng chia nhau những bát cơm chan chứa
yêu thương “chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy”. Vâng, những chiếc xe từ trong
bom rơi, đã về đây họp thành tiểu đội, gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới, bắt tay
nhau qua cửa kính vỡ rồi. Những cái bắt tay ấy ta cũng đã gặp trong “Đồng
Chí” để sưởi ấm cho nhau trong những đêm đông lạnh giá, còn ở đây cái bắt tay
này thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, tinh thần lạc quan vượt lên trên những hỏng
hóc, đổ nát của chiến tranh. Để rồi càng về cuối, vẻ đẹp của những người chiến sĩ càng thêm rõ nét:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Đoàn xe đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù, hăm hở tiến ra phía trước với một
tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”. Vậy là vì tình yêu thương đồng bào, đồng
chí đau khổ đã khích lệ người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn, nguy hiểm để luôn
bình tĩnh, lạc quan, nắm chắc tay lái nhìn thật đúng hướng để xe khẩn trương tới
đích. Và đơn giản, chỉ đơn giản rằng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trong
bao nhiêu cái không vô tình ở phía trên bỗng nổi bật lên cái có mãnh liệt của
“trái tim” nhiệt thành, gan góc, kiên cường giàu bản lĩnh của người chiến sĩ lái
xe. Câu thơ vang lên nhẹ nhàng như lời khẳng định chắc nịch, gan dạ của những 58
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
trái tim yêu nước cháy bỏng. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, phẩm
chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, kết đọng lại ở cái “trái tim” này, trái
tim nồng nàn yêu thương, ý chí sắt đá niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc.
Như thế chiếc xe vận tải ngộ nghĩnh, độc đáo không phải chỉ chạy bằng xăng
dầu mà nó còn chạy bằng ý chí sắt đá, bằng quyết tâm cao độ, bằng lí tưởng và
vẻ đẹp chói ngời. Phải chăng chính “trái tim” của người chiến sĩ đã cầm lái?
Như vậy bằng cách vận dụng nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật so sánh,
ẩn dụ, nhân hóa và những từ láy biểu cảm, Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành
công hình ảnh người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, gan dạ, lạc quan, và mang
vẻ đẹp hóm hỉnh yêu đời của tuổi trẻ. Những vẻ đẹp của những trái tim yêu
nước ấy sẽ mãi là vầng sáng trong suốt chặng đường kháng chiến, trong suốt
những trang hoa, tờ hoa về người chiến sĩ cách mạng.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 14
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước. Ông là người lính trực tiếp cầm súng ra mặt trận và là người chiến sĩ
lái xe vận tải chở vũ khí, lương thực ào ào trên tuyến lửa Trường Sơn đầy bom
rơi, đạn lạc. Vì thế, hiện thực khốc liệt của chiến tranh đã trở thành chất xúc tác,
khơi nguồn mạch chảy cảm xúc văn chương cho Phạm Tiến Duật, để rồi hình
tượng người lính và các cô gái thanh niên xung phong cứ lặng lẽ, tự nhiên, chân
thật đi vào trong thơ ông mà tạo nên biết bao thi phẩm tuyệt tác, độc đáo.
Và một trong các bài thơ đó có "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một tác
phẩm hay, rất tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn, tươi vui, tràn đầy sức sống,
đậm đà chất lính của nhà thơ. Tác phẩm nằm trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc
thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, sau được đưa vào tập thơ “Vầng trăng
quầng lửa". Qua bài thơ, người đọc thấy được hiện thực khốc liệt của chiến
tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, tư thế hiên ngang, bất khuất, ý chiến đấu 59
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
ngoan cường, mạnh mẽ của những người lính lái xe trong công cuộc giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Có thể nói, bài thơ là bức tượng đài tráng lệ,
thiêng liêng về người lính lái xe anh hùng trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ cứu nước.
Trước hết, hình tượng người lính hiện lên là những chàng trai dũng cảm, hiên
ngang, ung dung, bất khuất trong tư thế lái những chiếc không kính. Mặc dù
những chiếc xe bị bom đạn hủy hoại, tàn phá nhưng các anh vẫn rất hiên ngang,
ngạo nghễ vững tay lái cho xe lăn bánh bon bon ra chiến trường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô
cùng khách quan, chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện
với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn: nào là "gió", nào là "cánh chim",
nào là "sao trời"... tất cả “như sa, như ùa" vào mặt, vào người, vào trong buồng
lái; các động từ mạnh như “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy
những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính lái xe
phải đối diện. Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ,
hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái:
Ung dung buồng lái ta ngồi 60
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy tư thế rất tự
tin, bình thản và có phần ngang tàng của người lính. Điệp từ “nhìn”, “thấy”
được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc bé lại,
thu vào đôi mắt của người lính. Điều đó không chỉ cho thấy sự tập trung cao độ
của một tinh thần trách nhiệm lớn lao mà còn cho thấy được tâm hồn lãng mạn,
hiên ngang, mở lòng đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua ô cửa kính
vỡ. Chưa dừng lại ở đó, trên dọc đường lái xe ra tiền tuyến, người lính còn chịu
rất nhiều những khó khăn từ ngoại cảnh như gió, mưa và bụi:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn xối như ngoài trời”
Nhưng với tinh thần quả cảm, mạnh mẽ, bất chấp, khó khăn, gian khổ người
lính đã vượt qua tất cả:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Điệp ngữ “Không có kính, ừ thì…”; “chưa cần…” là lối nói mang đậm tính
khẩu khí ngang tàng. Với cách nói nôm na, thông thường mà cứng cỏi, mạnh mẽ
họ đã biến những khó khăn thành những điều thú vị. Người đọc như nghe thấy
tiếng cười rũ sạch mọi gian khổ của người lính. Những chi tiết hình ảnh: “phì 61
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây nữa… khô mau thôi” đã
cho thấy tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của họ. Cảm giác như những
khó khăn ấy cũng không thể nào dập tắt đi chất trẻ trung, tinh thần lạc quan và
dũng cảm của người lính.
Người lính lái xe không chỉ hiện lên là những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất
khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà họ còn là những người
chiến sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. Có thể nói, khó
khăn, thử thách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí,
nghị lực kiên cường mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ thêm gắn bó, keo sơn:
Những chiếc xe từ trong bom rời
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ đi rồi.
Trên dọc đường từ hậu phương ra tiền tuyến có biết bao nhiêu những chiếc xe
không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua
ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm
đồng chí đồng đội. Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên và
cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả. Họ coi nhau như anh em
ruột già máu mủ trong gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy 62
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của PTD về gia đình – về mối quan hệ thiết
thân của những người lính trong chiến tranh, đó là: chung bát đũa, chung bếp
lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung con đường chiến đấu… Tất cả những
điều ấy đã khiến những con người vốn xa lạ nhưng lại hóa quen nhau, thân thiết
gắn bó keo sơn, đoàn kết cùng nhau vì lí tưởng cách mạng cao đẹp. Chính tình
cảm đồng chí, đồng đội đã tiếp sức cho những người lính tiến lên phía trước:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” có ý nghĩa nhấn mạnh đến những
đoàn xe không kính không ngừng tiến lên phía trước.
Hình ảnh “trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời,
chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống,
của cách mạng. Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàn sôi
nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một
mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi
hiểm nguy, chông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đỡ lẫn nhau
cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều
trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.
Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất
chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó
chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom, đạn có thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè
bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa
là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dũng cảm, niềm 63
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính. Chính “trái tim” của họ
là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên
trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà
người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người
lính lái xe trong bài thơ là một bức tượng đài rực rỡ và chói sáng, một biểu
tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng Mĩ cứu nước với tinh thần:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Điều đó cho thấy tinh thần yêu nước sâu sắc và sự ý thức trách nhiệm công dân
cao độ của những người lính khi tổ quốc lâm nguy.
Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết
hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc
điệu...Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và
làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng
cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước
mạnh mẽ, sắt son. Dù chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước
sang trang mới: tự do – độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn
phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mĩ vẫn mãi sống với thời
gian năm tháng và trong lòng mỗi người Việt.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 15
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Xuất thân là một thầy giáo, do điều kiện lịch
sử thúc bách, ông đem ngòi bút của mình phục vụ cho cuộc chiến đấu anh hùng
của dân tộc. Phạm Tiến Duật chủ yếu viết về cuộc sống và chiến đấu của thanh 64
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Thơ ông phóng khoáng,
tinh nghịch, tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng. Phong cách ấy thể hiện sâu sắc
qua Bài thơ về tiểu đội xe không kính viết năm 1969, ngay khi cuộc chiến
chống kẻ thù đang trong giai đoạn ác liệt nhất.
Tuy đến muộn trong đề tài viết về người thanh niên xung phong, thế nhưng
Phạm Tiến Duật cũng kịp để lại những dấu ấn đậm nét. Có thể nói ông là một
trong những nhà thơ trẻ nổi bậc và có đóng góp nhiều nhất trong phong trào thơ
ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tập thơ Vầng trăng vầng lửa ra đời năm 1970 làm tên tuổi Phạm Tiến Duật
được chú ý nhiều. Ông còn được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn
huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”.
Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”.
Làm nên giá trị ấy là bởi những bài thơ của Phạm Tiến Duật luôn bám sát và
phản ánh kịp thời, chân thực cuộc sống và chiến đấu của bộ đội Trường Sơn.
Mặt khác, ông lựa chọn phản ánh hiện thực chiến tranh khốc liệt bằng một
giọng thơ hóm hỉnh, sôi nổi, vui tươi và đầy tinh nghịch. Giọng thơ ấy tỏ ra gần
gũi và phù hợp với tâm lí và tính cách người lính. Nó có sức mạnh cổ vũ tinh
thần chiến đấu, hi sinh, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù của con người
trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Nó truyền cho người lính niềm tin và sức
mạnh chiến đấu kiên cường.
Điều đó chứng thực rõ ràng trong cách Phạm Tiến Duật nhìn nhận về hiện thực.
Ông tỏ ra tài tình khi miêu tả những chiếc xe không kính, một hình ảnh thường
thấy trên tuyến đường Trường Sơn thuở ấy. Hình tượng những chiếc xe không
kính hiện lên chân thực, rõ ràng với tất cả những tổn thương thảm khốc do bom đạn kẻ thù gây ra: 65
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Đâu chỉ có thế, chiếc xe còn bị hủy hoại đến thảm thương:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp nhưng tác giả
đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt bài thơ. Hình tượng độc đáo
nhưng hợp lý này có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm
chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm giành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.
Những chiếc “xe không kính” , “không có đèn”, “không có mui, “thùng xe có
xước” ấy đã gợi lên những nguy hiểm cận kề; “bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe…
Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó
khăn gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng. Điệp ngữ: “không có kính”
ở đầu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ,
nguy hiểm sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính Trường Sơn
vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam: dù thiếu thốn, khó
khăn vẫn kiên cường chiến đấu. Sự hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Trong hiểm nguy, gian khổ nhưng người lính vẫn luôn ở tư thế hiên ngang, tinh
thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ 66
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
và ý chí chiến đấu vì miền Nam. Với ý chí chiến đấu cùng niềm lạc quan của
tuổi trẻ, với người lính, mọi hiểm nguy, gian khó đã không hiện hình. Trước
mắt họ là cả bầu trời rộng lớn với biết bao điều kì thú. Phạm Tiến Duật đã dành
hết ba khổ thơ để miêu tả tinh thần lạc quan, yêu đời, ý chí vượt khó vượt khổ,
đạp bằng hiểm nguy của người lính:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Với người khác, có lẽ đó là một sự xa sỉ. Nhưng với Phạm Tiến Duật, điều đó
rất cần thiết. Đối với ông, ở người lính lái xe không có kính thì đó là những trở
ngại rất lớn. Gió, cản vật, bụi, mưa,… là những kẻ thù vô hình. Nó có thể gây
nguy hiểm tức thời nếu người lính không chú ý. Thế nhưng, giờ đây, những
điều hiểm nguy ấy gần gũi và thân thiết như những người bạn đường. Họ bình
tâm đón nhận và vui cười hớn hở. Thiên nhiên khắc nghiệt giờ đây lại hết sức
thân thiện, bao dung, che chở cho họ trên đoạn đường ra mặt trận. 67
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên
ngang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì
miền Nam ruột thịt”. Những từ ngữ chọn lọc; “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn
trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận.
Với hệ thống ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui tươi thể hiện niềm lạc quan yêu đời
của tuổi trẻ sống có lý tưởng và tư thế hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên
sức mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội vì cành anh
còn có cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không
kính” được hình thành, bao giờ những con người từ bốn phương chung lý tưởng, gặp nhau thành bạn bè.
Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của
anh bộ đội vẫn không hề lay chuyển:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Cách nói ngắn gọn mà chắc nịch kiểu lính của các chiến sĩ lái xe khiến cho ta
càng tin tưởng hơn ở sức mạnh chiến thắng của dân tộc. Ta bỗng nhận ra sức
mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc đâu chỉ ở vũ khí và tài năng chiến đấu
của nhân dân mà còn ở niềm tin không bao giờ lay chuyển được đang ngự trị
trong trái tim của mỗi con người Việt Nam trước tội ác và hành động xâm lược của kẻ thù.
Thành công của Phạm Tiến Duật là ở chỗ ông viết thơ mà như nói. Cái giọng
thơ ngang tàn, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu
tả là người lính vốn rất tinh nghịch, không câu nệ hình thức. Kết hợp linh hoạt 68
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh
động. Tính nhạc từ đó cũng nảy sinh.
Cảm nhận tình yêu nước của người lính lái xe qua khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Với những ưu điểm ấy, bài thơ đã rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh
những anh bộ đội lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy gay go, thử thách,
một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Họ dâng hiến tuổi xuân không tiếc máu
xương để góp phần đưa non sông ta thu về một…
Bút pháp lãng mạn cách mạng đã giúp tác giả Bài thơ về tiểu đội xe không kính
đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp hình tượng người lính lái
xe ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt
nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh. Đó cũng là dư âm
còn động lại và mãi mãi lan tỏa trong mọi thế hệ người đọc Việt Nam khi đọc bài thơ này.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 16
Phạm Tiến Duật là cây bút xuất hiện trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ
anh chủ yếu viết về những chiến sĩ, những cô thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn. Là người trong cuộc nhà thơ rất hiểu cuộc sống chiến đấu,
đời sống tâm hồn của họ. Nguyên là một thành viên của đoàn 559, Phạm Tiến
Duật đặc biệt quan tâm đến những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn
khốc liệt. Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tư thế hiên ngang, tinh thần dũng
cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi tươi trẻ và ý chí chiến đấu
vì miền Nam của họ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ khá tiêu biểu
cho chủ đề ấy của anh. Tứ thơ được hình thành từ một hình tượng, một chi tiết
độc đáo: những chiếc xe không kính chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận: 69
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Lời thơ của Phạm Tiến Duật hết sức tự nhiên chẳng khác gì lời nói bình thường
hàng ngày. Cái gian khổ nguy hiểm: bom giật làm vỡ kính xe được anh kể lại
một cách tự nhiên như không. Đó là chuyện quá bình thường đối với người lính
lái xe trong thời chiến. Ngay khổ thơ mở đầu nhà thơ đã phác họa trước mắt
người đọc tư thế hiên ngang của họ. Điệp từ “nhìn" được nhấn mạnh ba lần
trong một câu kết hợp với cách ngắt nhịp hai - hai - hai: “nhìn đất, nhìn trời,
nhìn thẳng” đã diễn tả được cái tư thế hiên ngang ấy. Mặc dù bom đạn trên đầu,
mặc dù mặt đường sạt lở cây cối ngổn ngang, phải qua bao dốc cao, vực thẳm
họ vẫn giữ nguyên tư thế ung dung, hiên ngang, như chẳng có việc gì xảy ra.
Không có kính hóa ra lại hay, bởi vì:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Phải người trong cuộc mới viết được những câu thơ vừa hay vừa chính xác đến
như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái xe thật lãng mạn. Nhờ không có kính mà sao
trời, cánh chim “như sa, như ùa" vào buồng lái. Sao và chim trở thành người
bạn đường của họ. “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” tả rất đúng cảm
giác của người lái xe không kính, đồng thời còn nói được sự gắn bó của họ đối
với con đường Trường Sơn, con đường đánh Mĩ: giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Những chiến sĩ lái xe thật trẻ, thật hồn nhiên, pha một chút ngang
tàng đáng yêu, đúng là kiểu ngang tàng của lính lái xe: 70
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Có lần, bình khổ thơ này, Xuân Diệu tỏ ra không thích lắm về tiếng cười “ha
ha”. Biết làm sao được! Đó là quyền của người thưởng thức. Nhưng cánh lính
lái xe chắc là rất khoái vì Phạm Tiến Duật đã vẽ được rất đúng chân dung của
họ. Cái dáng “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” thoải mái, trẻ
trung càng làm nổi bật tư thế hiên ngang, tâm hồn lạc quan của họ trong những
năm tháng vô cùng ác liệt.
Những người lái xe coi gian khổ như không:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!.
“Ừ thì ướt áo” chuyện quá bình thường không đáng kể. “Mưa tuôn, mưa xối
như ngoài trời” thì cũng chẳng sao. Tất cả rồi sẽ nhanh chóng qua đi: “Mưa
ngừng, gió lùa khô mau thôi?”... Vẫn cái chất giọng ngang tàng đáng yêu của lính lái xe.
Tình cảm gắn bó giữa các chiến sĩ lái xe cũng được diễn tả rất đúng, rất hợp cái
phong cách ngang tàng đáng yêu của họ:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội,
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 71
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Họ đều vất vả gian khổ như nhau, họ phải trải qua những phút giây nguy hiểm
như nhau, họ chào nhau bằng cái bắt tay cảm thông và tin cậy. “Bắt tay qua cửa
kính vỡ rồi” mang rất nhiều ý nghĩa. Sự gắn bó thân thiết ấy còn được nhà thơ
diễn tả qua bữa ăn dã chiến của họ: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Họ
coi nhau như anh em trong một nhà, cùng san sẻ với nhau bao khó khăn, vất vả.
Đời sống chiến đấu càng thiếu thốn, gian khổ càng xích họ lại gần nhau hơn.
Bài thơ kết thúc bằng sự nhận thức rất sâu sắc của người lính lái xe:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Có thể còn nhiều gian khổ, còn nhiều mất mát, còn nhiều hi sinh... nhưng không
thể ngăn cản được bước tiến của người lái xe nói riêng của dân tộc ta nói chung.
“Trái tim”ở đây là trái tim yêu thương đối với đồng bào miền Nam, trái tim đã
nguyện chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính có một chất giọng riêng đáng quý. Chất giọng
tự nhiên pha chút ngang tàng rất phù hợp với các chiến sĩ lái xe thời chiến. Bài
thơ đã giúp người đọc hiểu được đời sống chiến đấu hết sức gian khổ thiếu thốn
của họ, hiểu được tư thế hiên ngang, tâm hồn trẻ trung lãng mạn và ý chí cao
đẹp của họ. Phạm Tiến Duật đã có những đóng góp đáng quý cho nền thơ ca chống Mĩ cứu nước.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe - Mẫu 17
Hình ảnh những người lính chiến đấu từ lâu đã đi vào văn thơ kháng chiến và là
nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các thi sĩ . Ta không thể nào quên được hình ảnh
người lính đầy bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng. Tình đồng chí thắm 72
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
thiết, bền chặt, cùng sẻ chia khó khăn gian khổ trong Đồng Chí của Chính Hữu
hay hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong đầy nhiệt thành nhưng cũng
không kém phần mơ mộng của tuổi trẻ trong Những ngôi sao xa xôi của Lê
Minh Khuê. Tất cả đã khắc họa nên vẻ đẹp trong bức tranh chân dung của
những người lính ra đi vì độc lập của Tổ quốc thật đẹp đẽ biết bao. Bài thơ về
tiểu đội xe không kính cũng là một mảng màu trong bức tranh ấy, bài thơ đã
khắc họa chân dung những người lính lái xe đầy hiên ngang và lạc quan trên
con đường hành quân gian khổ.
Bài thơ được Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, đó những năm tháng kháng
chiến chống Mĩ oanh liệt. Khi mà đạn bom địch xối xả trút xuống bao con
đường, bao cánh rừng mà chiến sĩ đi qua:
"Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng".
Bao nhiêu bom đạn địch nhả xuống khiến ta thiệt hại nặng nề, những chiếc xe
hành quân vốn lành lặn đã bị chúng phá hủy - những chiếc xe không kính. Thật
khó khăn biết bao, tưởng chừng như bom đạn gần kề trước mắt, vậy mà người
lính vẫn ung dung tay lái, tập trung vào công việc chẳng quản hiểm nguy. Giữa
trời đất bao la, đôi mắt ấy vẫn dõi theo, hướng tới Tổ quốc, hướng về nhiệm vụ.
"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái" 73
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Giữa khoảng không mênh mông của chiến trận, mưa bom và gió đạn, người lính
vẫn giữ trong tâm hồn sự tự tin và đầy kiêu hãnh. Cảm nhận thấy những khó
khăn và thách thức, những đợt gió bụi lùa đắng mắt, những con đường đầy hiểm
nguy trước mắt. Nhưng con đường không chỉ là huyết mạch giao thông mà là
con đường của niềm tin của nghị lực phi thường. Những vì sao đêm trên bầu
trời, những cánh chim đột ngột ùa xuống buồng lái đều là những hình ảnh rất
chân thực. Chiến trường đâu chỉ có hiểm nguy bởi súng đạn giặc thôi đâu mà
còn có cả những khắc nghiệt khó khăn của thời tiết.
"Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha."
Bụi đường không làm mất đi lòng lạc quan, tin yêu nơi người lính. "Chưa cần
rửa phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt lấm cười ha ha". "Mưa ngừng, gió
lùa mau khô thôi"..... Một tinh thần vượt lên tất thảy những thách thức, bao
hiểm nguy bủa vây vẫn giữ trong mình tiếng cười sôi nổi, tiếng cười của tự do,
của niềm tin. Nếu tình đồng chí trong Đồng Chí của Chính Hữu là những người
lính chân chất, mộc mạc ra đi từ những vùng đất nghèo với lí tưởng cách mạng
cao cả. Thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng chứa chan tình đồng
đội, tình anh em nơi chiến trường gian khó. Họ là những người lính trẻ ra đi
nhận nhiệm vụ với mục đích chung, họ rất đỗi lạc quan,tình anh em thân thiết
gắn bó keo sơn được thể hiện qua những hình ảnh rất mực giản dị mà thân thương.
"Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi". 74
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Đó là những sự yêu thương, sẽ chia đắng cay, ngọt bùi cùng nhau, một tinh thần
dũng cảm, hiên ngang, một tình đồng chí đầy trẻ trung, sôi nổi. Đó là những cái
bắt tay vội vàng, là những bữa cơm chung giữa bầu trời bom đạn. là tình thân
gắn kết cùng nhau trên chặng đường gian khó, vẫn hướng về bầu trời xanh, nơi
đó có hoà bình, có tự do cho Tổ quốc thân yêu.
"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm"
"Chỉ cần trong xe có một trái tim" là hình ảnh đẹp, đó là trái tim hướng về miền
Nam ruột thịt, là trái tim hướng về ngày đất nước thống nhất khi mà miền Nam
được giải phóng. Là một trái tim của hàng triệu trái tim chung nhịp đập, là trái
tim chứa đựng một tinh thần thép, một niềm lạc quan và niềm tin vào ngày mai.
Là trái tim của tình đồng đội gắn kết và sẻ chia. Là trái tim của ý chí, quyết tâm phi thường.
Những câu thơ đậm chất hiện thực, vạch rõ tội ác của kẻ thù và giàu sắc thái trữ
tình đã tạo nên nét đặc sắc, nổi bật, giọng điệu thơ tinh nghịch, trẻ trung như
một bài ca thúc giục, động viên, ca ngợi những người lính trẻ Trường Sơn. Qua
đó, em thêm biết ơn và tự hào về những người chiến sĩ đã ngã xuống vì lòng
yêu Tổ quốc. Học được bài học về tinh thần lạc quan trước những khó khăn của
cuộc sống, giữa vững niềm tin và hy vọng tương lai, thêm yêu quê hương, đất nước.
Vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính 75
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Có thể nói, trong các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phạm
Tiến Duật là nhà thơ có tâm hồn trẻ trung, tinh nghịch nhất. Ông sinh ở Phú Thọ,
học trường đại học sư phạm Hà Nội nên sớm mang trong mình cái vẻ hào hoa
sôi nổi và lạc quan của lớp thanh niên yêu nước. Bởi thế, thơ ông có giọng điệu
sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch”, hồn nhiên nhưng cũng rất tinh tế, sâu
sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính khắc họa đậm nét hình tượng người lính
lái xe, thể hiện rõ nét phong cách thơ ấy.
Xuất thân là một nhà giáo, Phạm Tiến Duật đến với thơ hơi muộn so với các
nhà thơ khác. Đóng góp lớn nhất của nhà thơ Phạm Tiến Duật đó là mảng thơ
viết về người lính. Năm 1970, ông xuất hiện cùng với tập thơ Vầng trăng vầng
lửa và lập tức gây chú ý với tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Lần
đầu tiên trong văn học, người ta thấy một hình tượng người lính trẻ trung, yêu
đời, lạc quan và giàu lòng yêu nước đến thế.
Với tập thơ này, ông được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền
thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông
thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”. Đây quả
thật là một đánh giá đầy ý nghĩa đối với một nhà thơ đã sống và chiến đấu hết
mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
Thực tế, Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến
Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài
thơ được tác giả đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970). Với giọng thơ
hóm hỉnh, vui tươi, bài thơ khắc họa đậm nét hình tượng những chiếc xe không
kính và hình tượng người lính lái xe dũng cảm, kiên cường trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa.
Ấn tượng đầu tiên thú vị và sâu sắc nhất có lẽ là hình tượng những chiếc xe
không kính. Bình thường, xe thì phải có kính. Kính để chắn bụi, chắn gió, chắn 76
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
mưa tạt, gió lùa. Thế nhưng ở đây, những chiếc xe đã không còn kính nữa. Tác
giả lí giải điều “bất thường” ấy một cách đơn giản đến bất ngờ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Nhưng tác giả đã lấy hình
tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt bài thơ. Cái nguyên nhân khiến cho xe
không có kính đó chính là do bom đạn của kẻ thù. kẻ thù muốn ngăn chặn bánh
xe lăn. Chúng tuôn xuống biết bao bom đạn để hòng tiêu diệt cuộc tiếp vận của
quân dân miền Bắc. Tội ác ấy khắc sâu trên những chiếc xe, trên những quãng
đường đầy hầm hố và mảnh vỡ.
Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này có tác dụng gây ấn tượng mạnh. Những
chiếc xe không kính như chứng tích lịch sử tố cáo sự tàn bạo và man rợ của kẻ
thù. Nó gợi lên những nguy hiểm cận kề người lính. Sự hi sinh, mất mát; hiểm
nguy và cái chết đã ở đâu đó, rất gần rất gần. Đây cũng là cơ sở để làm nổi bật
phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm giành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.
Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó
khăn gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng. Điệp ngữ “không có kính” ở
đâu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ,
nguy hiểm sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính Trường Sơn
vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam: dù thiếu thốn, khó
khăn vẫn kiên cường chiến đấu.
Bom đạn của kẻ thù đâu chỉ làm vỡ kính xe. Nó còn tàn phá chiếc xe một cách
kinh khủng. Chiếc xe vẫn đêm đêm băng trên các nẻo đường dù “không có đèn”.
Chiếc xe vẫn chuyên chở những chuyến hàng ra mặt trận dù “không có mui xe”. 77
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Thùng xe có xước”, vết đạn còn nguyên nhưng không hề gì. Cụm từ “xe vẫn
chạy” gây cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh mẽ. Dù có bị tổn thương đến thế
nào thì xe vẫn chạy tới, bất chấp tất cả.
Qua hình tượng chiếc xe không kính, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một
cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội. Đồng thời làm
nổi bậc cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Hình ảnh những
chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh. Song phải có một hồn
thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện
ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
Bên cạnh hình tượng chiếc xe, hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn
cũng được khắc họa đậm nét. Họ vốn là những chàng trai đô thành xung phong
đi chiến đấu. Nhiệm vụ của họ là đưa những chuyến hàng từ bắc vào nam, kịp
thời phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của cả dân tộc.
Những chàng trai mang trong mình lý tưởng yêu nước và lòng nhiệt huyết sôi
sục. Họ bất chấp hiểm nguy, vượt qua khó khăn trở ngại để hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Họ sẵn sàng hi sinh vì đất nước mà không hề hối tiếc. Bởi cuộc
chiến đấu đối với họ đâu chỉ là thử thách lòng kiên trung. Cuộc chiến đấu đối
với họ là một sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Sống và chiến đấu hết mình là trách
nhiệm của mọi công dân trong thời kì chiến tranh cứu nước.
Mỗi bước đi mỗi bước hiểm nguy. Thế nhưng, người lính không hề run sợ. Họ
vẫn vững tâm cho xe đi tới. Hình ảnh ấy được thể hiện ngay ở đầu bài thơ:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. 78
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái, linh hoạt điều khiển cho xe vượt qua
những đoạn đường đầy hiểm nguy. Xe không có kính, dường như cả thiên nhiên
vũ trụ hiện ra trước mắt họ. Họ nhìn mặt đất để xe khỏi lắc lư. Họ nhìn bầu trời
để quan sát kẻ địch. Họ nhìn thẳng về phía trước như đang nhìn về miền Nam
ruột thịt mà nhắc mình đi cho mau chóng.
Trong bom đạn, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía
trước. Họ khắc cốt ghi khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột
thịt”. Miền nam yêu thương trở thành động lực lớn lao giúp anh kiên cường vững tay lái.
Bởi xe không có kính che chắn nên chỗ người lái xe ngồi chẳng khác gì ngoài
trời. Tất cả cứ xối, cứ ùa vào, gây nên biết bao khó khăn. Hết “gió vào xoa mắt
đắng”, rồi thêm “bụi phun tóc trắng như người già”. Lại đến “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”.
Đó thực sự là những trở ngại lớn lao. Thậm chí có thể gây nguy hiểm cho người
lính. Công việc căng thẳng mà còn đối mặt với những thay đổi bất thường. Điều
ấy ấy dễ khiến người lính khó chịu. Thế mà, thật bất ngờ, người lính xem đó là
chuyện thường. Họ còn thấy đẹp, thấy dễ chịu, thấy thật lãng mạng:
“Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Họ thấy thiên nhiên và cuộc sống đang ở rất gần. Thiên nhiên đang đồng hành
cùng họ trên mỗi chặng đường. Họ thấy những trở ngại của thiên nhiên làm tăng thêm niềm vui của họ.
Lúc bụi bám đầy mặt, họ vẫn vui cười: 79
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Lúc bị cơn mưa dội ướt, họ vẫn thản nhiên đi tới:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
Dường như có một sức mạnh siêu nhiên nào đó đang ngự trị ở trong họ. Hay là
Phạm Tiến Duật đã nói quá lên ở điểm này. Những trở ngại ấy có thể làm cạn
kiệt sinh lực của người lính chứ đâu phải chuyện đùa. Có lẽ, nhà thơ đã gạn lọc
những điều ấy, để làm cho hình tượng người lính sáng ngời vẻ đẹp của lý tưởng,
của tấm lòng kiên trung, quyết chiến quyết thắng kẻ thù.
Trên những quãng đường xe chạy, họ gặp những đồng đội của mình. Những
người đồng đội vừa hoàn thành nhiệm vụ trở về. Họ vừa vượt qua cái chết để về
đây và kể cho nhau nghe hành trình “phiêu lưu” ấy:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”.
Những chiếc xe của đồng đội anh cũng gánh chịu bom đạn của kẻ thù. Không
chiếc nào được lành lặn. Và hầu như chiếc xe nào cũng “không có kính”. Bởi
thế, họ có thể thoải mái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Những lần nghỉ ngơi là những lần tụ họp. Đối với người lính, những người đồng
đội đều thân thiết, thâm tình, gắn bó. Dù họ ở nhiều miền quê, thuộc nhiều đơn
vị khác nhau nhưng họ có cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng. Bởi thế,
cuộc chung vui ngắn ngủi trên tuyến đường Trường Sơn không khác gì là cuộc
hội vui của những người anh em, bạn hữu thân tình, khăng khít: 80
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Rồi sau đó họ lại lên đường. Những chiếc xe lại lăn bánh. Cuộc chiến chưa kết
thúc, đất nước chưa được giải phóng, họ cũng chưa thể nghỉ ngơi. Cụm từ “lại
đi, lại đi” khẳng định mạnh mẽ ý chí kiên cường bất khuất của người lính. Nhịp
thơ khỏe khoắn tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin
tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ý thơ
trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
Còn gì đẹp hơn khi tâm hồn họ đã dành cả cho dân tộc, cho đất nước. Họ chính
là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Họ đích thực là hình tượng đẹp
nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
Không chỉ khắc họa thành công hình tượng những chiếc xe không kính và người
lính lái xe, bài thơ còn rất thành công trong nghệ thuật biểu hiện. Nghệ thuật tự
sự hòa quyện trong bút pháp trữ tình tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ của bài thơ.
Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui tươi, câu thơ khỏe khoắn thể hiện niềm lạc quan
yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng.
Ngay cái tiêu đề cũng gây sự chú ý đối với người đọc. Bài thơ về tiểu đội xe
không kính vốn có nhiều từ dư thừa. Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả
lại ghi thêm hai chữ “Bài thơ” . Nhìn qua, cách ghi như thế có vẻ hơi thừa. Với
lại, nói đến thơ là nói đến cái đẹp, cái rung cảm. Còn những chiếc xe không
kính thì có gì đẹp đâu. Ấy vậy mà, cái tiêu đề ấy nó cứ thu hút, cứ làm cho ta thấy thú vị vô cùng. 81
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả. Không
phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của
chiến tranh. Phạm Tiến Duật chủ yếu muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy. Đó
là chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu
thốn, gian khổ,khắc nghiệt của chiến tranh.
Đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả
đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện
thực đời sống bình thường nhất. Thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong
sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
Viết về người lính Phạm Tiến Duật đã có những phát hiện đầy mới mẻ. Ông
không những nhìn thấy được hiện thực khốc liệt mà còn nhìn thẳm sâu vào linh
hồn con người. Ông phát hiện ra nguồn sức mạnh vĩnh cửu đang cuộn chảy
trong con người. Ông nhìn thấy được sức mạnh của truyền thống nghìn năm hội
tụ trong cuộc chiến này. Bởi thế, bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không
kính,nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và
toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.
Chân dung người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phạm Tiến Duật là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhà thơ đã từng cầm súng chiến đấu và công
tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải chở vũ khí ra tiền tuyến:
Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ như cuộc sống chói chang chiếu sáng tâm hồn của
người chiến sĩ, thi sĩ khiến thơ ông có giọng điệu khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề
sức sống, rất tinh nghịch vui tươi đầy chất lính. Điều này đã được Phạm Tiến
Duật thể hiện và nâng cao hơn trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không 82
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
kính . Bài thơ đã ca ngợi những người chiến sĩ lái xe có tư thế hiên ngang dũng
cảm, bất chấp gian khổ, sống lạc quan yêu đời, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam yêu thương.
Trước hết đọc tác phẩm điều mà mỗi chúng ta cảm thấy khâm phục, tự hào và
cũng là nét bao trùm nổi bật của người chiến sĩ lái xe trong bài là sự ung dung,
thanh thản tuyệt vời trong một tư thế hiên ngang, bất khuất, bất chấp mọi khó
khăn, thử thách. Mặc dù:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi...
...Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe thùng xe có xước...
Những người lính lái xe phải lái những chiếc xe trần trụi, xấu xí là vì bom đạn
của đế quốc Mĩ đã làm cho những chiếc xe biến dạng, làm cho đồng chí đồng
đội của các anh ngã xuống. Chiến tranh quả là khốc liệt thế nhưng các anh vẫn
lái những chiếc xe ấy băng ra ngoài mặt trận, chở vũ khí, lương thực từ hậu
phương lớn ra tiền tuyến lớn bởi các anh có những trái tim yêu nước cháy bỏng.
Đế quốc Mĩ đã gây bao tội ác cho đồng bào miền Nam, bắt đoàn xe phải ngừng
hoạt động, gây biết bao khó khăn cho kháng chiến. Song những người lính vẫn
vững vàng tay lái bất chấp bom đạn của kẻ thù với tâm hồn lạc quan như niềm
tin chắc chắn vào chiến thắng:
Ung dung buồng lái ta ngồi...
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng...
Đoạn thơ hay cả về âm điệu, hình ảnh, cách nói. Những câu thơ nhanh, gấp mà
vẫn nhịp nhàng như bánh xe đang lăn đều đặn trên đường. Những câu thơ như
bật ra từ trái tim người lái xe đang ngồi sau tay lái. Hiện thực đầy ắp chính xác 83
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
đến từng chi tiết, nhưng đằng sau hiện thực ấy là một tâm trạng, một tư thế, một
bản lĩnh chiến sĩ. Xe không có kính mà họ vẫn ung dung, thanh thản, vẫn tập
trung cao độ, vẫn bình tĩnh tự tin để đưa hàng xe ra tiền tuyến với một cái nhìn
đầy ngạo mạn của lòng dũng cảm. Có lẽ, tác giả phải là người trong cuộc mới
sáng tác được những câu thơ hay và chính xác như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái
xe thật lãng mạn, nhờ không có kính mà nhìn thấy sao trời, cánh chim sa, gió cứ
ùa vào buồng lái và trở thành người bạn đường của họ. Thiên nhiên con người
như hòa vào làm một câu thơ rất thực lại mang chút nghệ sĩ đáng yêu của người
lính. Cả đoạn thơ như ào ra từ cuộc sống thực để nói lên tinh thần cao đẹp của
người chiến sĩ đường ra trận mùa này đẹp lắm. Đây phải chăng là con đường
cách mạng, con đường hàng vạn, hàng triệu con người Việt Nam đang xây đắp
chờ ngày "khai trương". Bằng lời thơ giản dị mà chân thành tác giả lại viết tiếp:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Những câu thơ ngồn ngộn chất sống hiện thực ở chiến trường, tác giả như nhìn
thấy bụi trắng, bộ mặt lấm lem của người lính và nghe rõ tiếng cười sảng khoái
của người lính. Nhưng đằng sau những dòng buông đùa đáng yêu này cũng là
một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không
thể đùa vui như vậy. Điều đó càng làm cho chúng ta thấm thía hơn sự đối lập
giữa người già ở câu trên với tiếng cười ha hả hồn nhiên, yêu đời và trẻ trung
đến lạ lùng ở câu dưới. Điệp từ ừ thì như một sự chấp nhận những khó khăn đã
được nhà thơ miêu tả khá rõ nét. Mặc dù bụi đường phun tóc trắng nhưng người
lính vẫn không hề nao núng, vẫn bình tĩnh coi thường khó khăn, gian khổ. Mặc
dù Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời song người lính vẫn chưa cần. Vậy đó,dù
trong khó khăn các anh vẫn cười tươi để động viên nhau cố gắng. 84
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Dường như khó khăn, thử thách không chỉ giúp con người ta tôi rèn ý chí mà
còn giúp cho tình bạn thêm gắn bó keo sơn. Phạm Tiến Duật đã phát hiện và ghi
lại điều đó về vẻ đẹp của những người lính lái xe và những hình ảnh thơ độc đáo:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Những cỗ xe đã chiến thắng với những vũ khí tối tân của Mĩ và hoàn thành
nhiệm vụ một cách xuất sắc, họ đã gặp nhau, động viên nhau bằng một cái bắt
tay thân thiện, cái bắt tay ấy đâu chỉ là một cái bắt tay đơn thuần mà là cả một
niềm tin vào chiến thắng. Nó giúp cho con người xích lại gần nhau, nó như một
sợi dây nối liền tâm hồn tình cảm của những người lính. Phạm Tiến Duật đã
dành cho tình đồng đội của người lính một khổ thơ chân thật và xúc động.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm
Đời người lính là đi, nhất là người lính lái xe. Nhưng trong cái giây phút dừng
chân ngắn ngủi ấy, ta càng cảm thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình
đồng đội. Chỉ là bếp Hoàng Cầm , là võng mắc chông chênh mà chung bát đũa
nghĩa là gia đình ấy, câu thơ đẹp cả về tính cách, cách nhìn, cách nghĩ của người
chiến sĩ. Có khác gì câu thơ nói về tình đồng chí của Chính Hữu hơn hai mươi
năm trước đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ và có phải tình đồng đội đã ngân
lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới lại đi, lại đi trời xanh thêm. 85
Văn mẫu lớp 9: Hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Dường như chính vì tình yêu thương đùm bọc mà người lính đã quyết chiến đấu
với giặc. Phạm Tiến Duật đã kết thúc bài thơ bằng một sự nhận thức sâu sắc của
người lính lái xe cho dù các anh có phải đối mặt với bao khó khăn của cuộc
chiến đấu nhưng các anh vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Và đoàn xe của các
anh đã chiến thắng, các anh đã ra tiền tuyến bằng một tình cảm thiêng liêng vì
miền Nam thân yêu, vì chiến đấu giành lại độc lập tự do và thống nhất đất nước.
Điều này đã được các anh thực hiện bằng trái tim của mình: chỉ cần trong xe có
một trái tim. Đó là một hình ảnh tỏa sáng chói ngời đã đúc kết lại phong cách
của người lính gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh chứa chan tình yêu thương
với đồng đội, đất nước. Chính lí do này đã khích lệ người lính vượt qua mọi thử
thách. Dường như quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là
con người - con người mang trái tim, nồng nàn yêu thương, ý chí, lòng dũng
cảm và có niềm tin vững chắc.
Bài thơ mang chất lính rất đượm, là tiếng nói hồn nhiên thường ngày của người
lính đã đi vào trong thơ ca. Nhưng đấy là tính cách lính trẻ của thời kháng chiến
chống Mĩ, họ có học thức, có bản lĩnh chiến đấu, có cuộc sống nội tâm hết sức
phong phú. Qua bài thơ ta càng khâm phục và học tập ở các anh nét hồn nhiên
và tình yêu đời, yêu đất nước tha thiết. 86