lOMoARcPSD| 61591627
HOẠT ĐỘNG CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC 1919 – 1930
1. Bối cảnh lịch sử
1.1. Khách quan
1.1.1. Tình hình thế giới
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914–1918) kết thúc, trật tự quốc tế mới được
định hình qua hai hiệp ước Versailles (1919) Washington (1921–1922), song mâu
thuẫn giữa các đế quốcthuộc địa không những không được hóa giải mà còn trở nên
gay gắt hơn. Nước Anh, Pháp, Ý, Nhật, Hoa Kỳ phân chia miếng bánh” thuộc địa,
khiến tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc bùng lên cao khắp châu Á, châu Phi
châu Mỹ Latinh. Thành công đại của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) cùng sự
thành lập Quốc tế Cộng sản (1919) đã truyền lửa mạnh mẽ cho phong trào sản
các dân tộc bị áp bức khác trên toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, khẩu hiệu “Vô sản tất c
các nước và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại” của Quốc tế Cộng sản không chỉ là lời
kêu gọi mang tính thuyết đã trực tiếp thôi thúc các ncách mạng Á Phi tìm
kiếm con đường giải phóng mới.
1.1.2. Tình hình Việt Nam các phong trào u nước trước khi
Đảng
Pháp tuy là nước thắng trận nhưng sau thế chiến 1 đã tổn thất không nhỏ. Từ năm
1897, thực dân Pháp đã tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất tại Việt Nam sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiếp tục tiến hành khai thác thuộc địa
lần thứ hai ở nước ta, ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Chúng đẩy đất nước ta vào cảnh đói nghèo lầm than.Dưới áp lực thuế khóa,bị cướp đoạt
ruộng đất loạt lao động ỡng bức, tình hình hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc.
Mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp tay sai phản động. Cũng vào giai đoạn đó đã sinh hai giai cấp mới là tư sản
tiểu sản. Đồng thời sự tăng nhanh, trưởng thành của giai cấp công nhân cả về
chất lẫn về lượng, là sự phát triển mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân lao động. Chính
vậy, không ít các phong trào, tổ chức yêu nước đầu thế kỷ XX đã nổ ra như phong
trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục nhưng lần lượt thất bại bởi đường lối
tưởng chưa phù hợp. Trong cơn bế tắc của đường lối cứu nước cũ, yêu cầu phải tìm
một ngọn ccách mạng mới, khả năng tập hợp huy động đại đa số quần chúng
trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết.
1.2. Chủ quan (Nguyễn Ái Quốc)
người làm được điều đó lúc bấy giờ không ai khác chính Nguyễn Ái Quốc, n
khai sinh Nguyễn Sinh Cung, sinh năm 1890 tại Nghệ An xuất thân trong một gia
lOMoARcPSD| 61591627
đình truyền thống yêu nước. đã trải qua hành trình bôn ba, tiếp xúc với thực tiễn cách
mạng ở nhiều quốc gia, từ đó thấu hiểu sâu sắc bản chất tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc
và những hạn chế của các con đường cứu nước trước đây. Người đã kiên định tiếp thu,
vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định con đường cách mạng vô sản là
con đường duy nhất và đúng đắn để giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của
thực dân phong kiến. Từ những yếu tố khách quan về khủng hoảng trật tự thế giới
và làn sóng giải phóng dân tộc lên cao, cùng yếu tố chủ quan về tư duy cách mạng, tinh
thần quốc tế sản, Người đã tìm ra một hướng đi mới, đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam. Giai đoạn 1919–1930 vì thế không chỉ là thời kỳ chuẩn bị, mà còn là thời kỳ định
hình đường lối, xây dựng tổ chức, mở ra con đường cách mạng sản giành chính
quyền cho nhân dân ta.
2. Nội dung các sự kiện
2.1. Trước 1919 Hình thành tưởng yêu nước chí hướng tìm đường
cứu nước
- Nguyên nhân:
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất
khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong kiến,
ngọn cờ dân chủ sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục rộng
khắp. Tuy nhiên, “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư
sản, tiểu sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”. Nguyên nhân thất bại
của các phong trào đó do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để
những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của hội, chưa một tổ chức vững mạnh để tập
hợp, giác ngộ lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh
thích hợp để đánh đổ kẻ thù.
Do bị thực dân Pháp bóc lột, vét thậm tệ trong những năm chiến tranh, đại bộ phận
nhân dân lao động Việt Nam bị lâm vào tình cảnh cùng quẫn. thế, phong trào đấu
tranh chống thực dân Pháp ở Việt Nam thời kì này nổ ra mạnh mẽ.
- Diễn biến:
Xuất phát từ lòng yêu nước trên srút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách
mạng tiến bối, ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu
nước mới hữu hiệu hơn. Nhưng khác với thế hệ thanh niên đầu thế kỉ hướng về Nhật
Bản, Nguyễn Ái Quốc quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu xem
"nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình".
lOMoARcPSD| 61591627
Tranh vẽ “Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước”, hiện đang trưng bày tại
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. (Ảnh tư liệu BTLSQG).
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận
thức của Nguyễn Tất Thành - đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở
lại nước Pháp tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.
Vào cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, khoảng cuối năm 1917 hoạt động đầu tiên
của Người là đấu tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam được sớm hồi hương
trở về với gia đình.
Năm 1918, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng hội Pháp trở thành người Việt Nam
đầu tiên tham dự một chính đảng tại Pháp. Lịch sử Đảng hội Pháp gọi khóa đảng
viên cuối năm 1918 là "thế hệ lửa đạn". Kể từ đây, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu những hoạt
động chính trị trực tiếp để tìm ra con đường giải phóng đất nước.
Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong giới Việt kiều cũng như trong phong trào
công nhân chính quốc, cùng với một số trí thức Việt Nam tại Pháp, lập ra Hội Những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp.
Nguyễn Ái Quốc phân phát truyền đơn của Đảng Xã hội phản đối đế quốc Pháp, chống
lại sự can thiệp của Pháp vào nước Nga Xô viết non trẻ; ủng hộ những thủy thủ đã đấu
tranh đòi Pháp đưa hạm đội từ Biển Đen về nước; bày tỏ cảm tình với cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc tham gia những cuộc thảo luận trong Đảng Xã hội
về thái độ của Đảng này đối với các loại Quốc tế: Quốc tế thứ hai, Quốc tế thứ hai rưỡi
và Quốc tế thứ ba để lựa chọn ra một chỗ dựa đúng đắn về tổ chức.
- Kết quả: Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng một
cách rạch ròi: “dù màu da khác nhau, trên đời này chỉ hai giống người: giống
lOMoARcPSD| 61591627
người bóc lột và giống người bị bóc lột”, từ đó xác định kẻ tlực lượng đồng
minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
Nhận thấy hạn chế, bế tắc của các con đường cứu nước trước đó, Người khẳng định cần
phải tìm ra một con đường mới, triệt để đúng đắn hơn để giải phóng dân tộc. Trên
sở đó, Nguyễn Ái Quốc từng bước gắn hoạt động yêu nước với phong trào công nhân
quốc tế, tạo tiền đề cho bước ngoặt tưởng khi tiếp cận chủ nghĩa Mác Lênin sau
này.
- Ý nghĩa: Giai đoạn này trở thành bước chuẩn bị tưởng luận ban đầu cho sự
nghiệp cách mạng sau này, dẫn tới bước ngoặt quyết định năm 1920 khi Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.
2.2. Bước ngoặt chính trị - Từ yêu nước đến CMVS (1919-1920)
- Nguyên nhân:
Cách mạng Tháng Mười Nga đã kích thích mạnh mẽ phong trào cách mạng vô sản toàn
thế giới. (8)338 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi của học thuyết
Lênin về chủ nghĩa đế quốc cách mạng sản, về độc quyền lãnh đạo của giai cấp
vô sản và vai trò của quần chúng nhân dân lao động trong sự nghiệp cách mạng.
- Diễn biến:
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng hội Pháp một đảng tiến bộ chủ
trương chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các thuộc địa.
Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
họp Versailles, (Vécxây, Pháp), Tổng thống Mỹ Wooderow Wilson (Uynxơn) tuyên
bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy
tên Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước Pháp gửi tới
Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Văn kiện này được viết bằng ba thứ tiếng
Pháp, Việt, Trung Quốc được gửi cho đại biểu của Pháp, Mỹ, Nicaragoa; đồng thời
được công bố trên báo L'Humanité (Nhan đạo) Joumal du Peuple (Nhật báo dân
chúng), để tố cáo chính sách thực dân của Pháp đòi chính phủ Pháp phải thực hiện
các quyền tự do, dân chủ quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam (gồm tám điểm)
vào ngày 18-6-1919.
lOMoARcPSD| 61591627
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Nội dung yêu sách gồm 8 điểm, yêu cầu chính phủ trong Đồng minh nói chung Chính
phủ Pháp nói riêng phải thực hiện những quyền tự do, dân chủ tối thiểu đối với nhân
dân Việt Nam như sau: 401 402 8
"1. Tổng ân xá cho tất cà những người bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp Đông Dương bằng cách cho người bản xứ ng được quyền
hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các
tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khùng bo áp bức bộ phận trung thực nhất
trong nhân dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và hội họp;
5.Tự do cư trú ở nước ngoài và tụ đo xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kỳ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tinh cho
người bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực cùa người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng cùa người bản xứ”.
lOMoARcPSD| 61591627
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân
đạo) - quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Qua Luận cương, Người đã tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc.
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp Tua (Tours) vào cuối tháng 12 năm
1920. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản
do V.I.Lênin thành lập). tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Ngay sau đó,
Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã
tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức Đảng Cộng sản Pháp.
Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và
là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong
tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng hội Pháp Tua, tháng
12/1920 (Ảnh tư liệu).
lOMoARcPSD| 61591627
- Kết quả: Người khẳng định chỉ có chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được cả dân tộc bị áp bức những người lao động trên thế giới khỏi ách
lệ. Nguyễn Ái Quốc c định được con đường cách mạng đúng đắn tiếp tục khảo
sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng sản, đồng thời tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.
- Ý nghĩa:
Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp
là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong
tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Hành động bỏ phiếu ủng hộ Quốc tế III skiện đánh dấu bước nhảy vọt trong
tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường
cộng sản. Mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển
mới “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế,
đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính người đã trải qua từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin”.
2.3. Chuẩn bị về lý luận và tổ chức cách mạng (1921-1926)
* Về tưởng: vạch trần bản chất của chủ nghĩa đế quốc, tập hợp lực lượng tuyên
truyền con đường cách mạng vô sản.
- Tại Pháp, giữa năm 1921, Hồ Chí Minh ng một số nhà cách mạng của các
nước thuộc địa khác thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sáng lập tờ báo Le Paria (Người
cùng khổ), Người viết nhiều bài trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí
Cộng sản…
lOMoARcPSD| 61591627
Báo Le Paria số 2 trang 1 ra ngày 1/5/1922 đăng bài của tác giả Nguyễn Ái Quốc.
- Hồ Chí Minh tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, dịch của chủ
nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị
áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định
chủ nghĩa thực dân kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động trên thế giới.
- Người tiến hành tuyên truyền tưởng về con đường cách mạng sản, con
đường cách mạng theo luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
- Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Đảng
muốnvững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61591627
Tác phẩm “Đường Kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc
*Về chính trị: đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc:
- Con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ thể sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản.
- Cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địa một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc
vào cách mạng sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản
“chính quốc”.
- Phải thu phục lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công
nông làm động lực cách mạng. Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả
dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”.
-Về vấn đề Đảng Cộng sản: “Đảng vững cách mệnh mới thành công”, cũng như
người cầm lái vững thuyền mới chạy. “Đảng muốn vững thì phải chủ nghĩa làm
cốt”. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"1.
- Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
Niên phát động từ ngày 29/9/1928 đã góp phần truyền tưởng sản, rèn luyện
cán bộ và xây dựng, phát triển tổ chức của công nhân.
=> Những quan điểm đó được truyền qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
từng bước được chuyển tải về trong nước làm cho phong trào công nhân các phong
trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ như người cầm lái có vững thuyền mới
lOMoARcPSD| 61591627
chạy. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chnghĩa chân chính nhất,chắc chắn nhất, cách mệnh nhất chủ
nghĩa Lênin".
- Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
Niên phát động từ ngày 29/9/1928 đã góp phần truyền tưởng sản, rèn luyện
cán bộ và xây dựng, phát triển tổ chức của công nhân.
=> Những quan điểm đó được truyền bá qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
từng bước được chuyển tải về trong nước làm cho phong trào công nhân các
phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.
* Về tchức: Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ,
tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
- Tháng 11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi có đông người Việt
Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng tại Quảng Châu
(Trung Quốc)
- Tháng 2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập
ra nhóm Cộng sản đoàn.
- Tháng 6/1925, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc), nòng cốt Cộng sản đoàn. Hội xuất bản tờ báo Thanh niên, đánh dấu
sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam.
lOMoARcPSD| 61591627
Báo Thanh Niên số 63 ra ngày 3-10-1926.
Ngôi nhà số 13/1, nay là số 248-250, đường Văn Minh, thành phố Quảng Châu,
Trung Quốc, trụ sở của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nơi Nguyễn Ái Quốc mở
các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam từ năm 1925-1927
lOMoARcPSD| 61591627
- Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ
trách,pháingười về nước vận động, lựa chọn đưa một số thanh niên tích cực sang
Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Nhiều đồng chí được cử đi học
trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) trường Quân chính Hoàng Phố
(Trung Quốc)
- Tháng 4/1927, sau sự biến chính trị Trung Quốc, Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên chấm dứt hoạt động ở Quảng Châu. Năm 1928, Người trở về châu Á hoạt
động ở Xiêm (Thái Lan).
- Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những
người Việt Nam u ớc tại Quảng Châu, xuất bản thành cuốn Đường cách mệnh. Đây
cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của
lý luận cách mạng được đặt vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng đối
với đảng cách mạng tiên phong. Đường cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu,
lực lượng phương pháp đấu tranh của cách mạng, nêu lên những điều kiện về
tưởng, lý luận chính trị và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản
- Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu
phát triển sở, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Những hoạt động của Hội
ảnh hưởng thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong
trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng sản. Đó
là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
=> Ý nghĩa: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn 1921-1926 đã tạo
ra những tiền đề vững chắc về luận, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam sau này. Sự chuẩn bị kỹ lưỡng này là bước ngoặt quan trọng, giúp phong
trào yêu nước Việt Nam chuyển từ lập trường phong kiến dân chủ sản sang lập
trường cách mạng sản, mở ra con đường cứu ớc đúng đắn dẫn đến thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2.4. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1927 - 1930
(HCLS xuất hiện 3 tổ chức
1930, Nguyễn Ái Quốc: Chủ động, chtrì, soạn thảo thông qua Cương lĩnh
tháng 2/1930 )
2.4.1 Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện 3 tổ chức cộng sản
Sau vụ phản loạn của Tưởng Giới Thạch Trung Quốc, từ tháng 4/1927, Nguyễn Ái
Quốc rời Quảng Châu sang Liên tiếp tục hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Cuối
năm 1927, Người qua Đức, Pháp, rồi trở về Xiêm (Thái Lan) tháng 7/1928. Theo báo
lOMoARcPSD| 61591627
cáo của Người: Từ Xiêm, “Đã hai lần tôi cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại.
Bọn mật thám cảnh sát biên giới quá cẩn mật”. Tại Xiêm, người ra sức tuyên
truyền, giác ngộ và xây dựng các cơ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trong kiều
bào Việt Nam.
Với sự nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân phong trào
yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc những hoạt động tích cực của các cấp bộ
trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trên cnước đã tác dụng thúc
đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý
thức giác ngộ lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh
của thợ thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày
càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong hai năm 1928 - 1929
tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926 - 1927.
Đến năm 1929, trước sphát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo
phong trào. Trước tình hình đó, tháng 3/1929 những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần
Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố
Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày 17/6/1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312, phố
Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua
Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm Đảng kỳ quyết định xuất bản o Búa
liềm làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở
Nam Kỳ theo xu ớng cộng sản lần ợt tổ chức những chi bộ cộng sản. Tháng
11/1929, trên sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành
lập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng (một tổ chức thanh niên yêu nước cả
Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai...) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên - đã đi theo khuynh hướng cách mạng sản. Tháng 9/1929, những
người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng Đảng họp, ra Tuyên đạt khẳng định: những
người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên
ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày
và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong một thời gian ngắn một sự kiện lịch sử tất
yếu, cho thấy sự thắng thế của khuynh hướng sản trong phong trào yêu nước Việt
Nam. Tuy nhiên, đó cũng một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Mặc dù cả ba tổ chức
đều khẳng định theo chủ nghĩa Mác-Lênin thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng
sản, họ lại hoạt động riêng rẽ, cạnh tranh ảnh hưởng trong quần chúng, gây ra tình trạng
lOMoARcPSD| 61591627
công kích lẫn nhau. Đông Dương Cộng sản Đảng gọi An Nam Cộng sản Đảng là "hoạt
đầu, giả cách mạng," trong khi An Nam Cộng sản Đảng lại cho rằng Đông Dương Cộng
sản Đảng "chưa thật sự là cộng sản", " chưa thật sự là Bônsêvích"....
Tình hình trên đã gây ra nhiều tổn thất cho sự phát triển của phong trào cách mạng
gây hoang mang trong quần chúng.
Đúng vào thời điểm khó khăn, phức tạp ấy, Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện như một vị
cứu tinh của cách mạng và phong trào cộng sản Việt Nam.
Cuối tháng 12/1929, Hồ Chí Minh rời Xiêm đến Trung Quốc với cách phái viên
Quốc tế Cộng sản, triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra
một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
2.4.2. Nguyễn Ái Quốc: Chủ động, chtrì, soạn thảo thông qua Cương lĩnh
tháng 2/1930
Chủ động, chủ trì Hội nghị
Ngày 23/12/1929, ngay sau khi đến Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu
của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu Long.
Hội nghị diễn ra từ 6/1/ 1930 đến 7/2/1930, dưới sự chủ trì của Người. Thành phần tham
dự gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng Trịnh Đình Cửu Nguyễn
Đức Cảnh, cùng hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng Châu Văn Liêm Nguyễn
Thiệu. Mặc đại biểu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không đến kịp, hội nghị
vẫn được tiến hành và đạt được những kết quả mang tính lịch sử.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam
Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đều khẳng định theo Chủ nghĩa Mác-
Lênin; thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng sản; khẳng định tính tất yếu về vai trò
lãnh đạo cách mạng, có tinh thần yêu nước, chủ trương làm cách mạng giải phóng dân
tộc. Các tổ chức có đóng góp quan trọng góp phần truyền bá Chủ nghĩa MácLênin vào
Việt Nam chuẩn bị cán bộ cho việc thành lập một đảng Mác-Lênin nước ta. Tuy
nhiên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng. Những khuyết điểm chủ yếu của
An Nam Cộng sản Đảng là: “Điều kiện công nhận đảng viên chính thức quá khắt khe,
điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng quá khắt khe”. Đông Dương
Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: “Điều kiện công nhận đảng viên
chính thức điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, đảng
tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt”.
Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời khẳng định những ưu điểm của ba tổ chức:
đều theo chủ nghĩa Mác-Lênin, thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng sản tinh
lOMoARcPSD| 61591627
thần yêu nước. Từ đó, Người nhấn mạnh sự thiếu thống nhất trong lãnh đạo là trở ngại
lớn nhất cho phong trào cách mạng. Với thẩm quyền của một phái viên Quốc tế Cộng
sản, Người đã thuyết phục các đại biểu đi đến thống nhất về sự cần thiết phải hợp nhất
thành một chính đảng cộng sản duy nhất. Quyết định này đã chấm dứt tình trạng chia
rẽ nội bộ, giải quyết được những mâu thuẫn các cuộc đàm phán trước đó đã không
thể vượt qua, và tạo ra một bước ngoặt lịch sử.
Hội nghị thông qua các văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Hội nghị quyết định lấy tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ, mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra
đề lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Hội nghị chủ trương: Các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam; quyết định chtrương xây dựng các tổ chức ng hội,
nông hội, cứu tế, tổ chức phản đế xuất bản một tạp chí luận ba tờ báo tuyên
truyền của Đảng.
Hội nghị hợp nhất có ý nghĩa như là Đại hội thành lập Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã quyết định lấy ngày 3/2/1930 ngày kỷ niệm
thành lập Đảng.
Soạn thảo và thông qua Cương lĩnh tháng 2/1930
Một trong những vai trò quan trọng nhất của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị trực tiếp
soạn thảo thông qua các văn kiện quan trọng của Đảng. Những văn kiện này bao
gồm Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt
của Đảng. Tổng thể các văn kiện này được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Việc Người trực tiếp soạn thảo cương lĩnh không chỉ thể hiện vai trò chủ động còn
đảm bảo đường lối của Đảng ngay từ đầu đã được xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh này đã trở thành ngọn cờ tập hợp đoàn
kết toàn bộ các lực lượng cách mạng Việt Nam.
Nội dung bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Về phương hướng cách mạng Việt Nam: làm sản dân quyền cách mạng thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
lOMoARcPSD| 61591627
Về nhiệm vụ chủ yếu: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến, làm cho
nước nam được hoàn toàn độc lập trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc
được đặt ở vị trí hàng đầu.
Về lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân, nông dân phải dựa vào dân cây
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu sản, trí thức, trung
nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông trung, tiểu địa chủ, tư bản An Nam
mà chưa rõ phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất là làm cho họ đứng trung lập; đối
với những đối tượng đã ra mặt phản cách mạng (đại địa chủ, sản mại bản) thì phải
kiên quyết đánh đổ.
Về phương pháp tiến hành cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, bất
cứ hoàn cảnh nào cũng không thỏa hiệp.
Về lực lượng lãnh đạo cách mạng: giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản.
Về quan hệ quốc tế: cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới.
Sự đặc sắc của Cương lĩnh nằm ở việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc
giai cấp. Trong khi các tổ chức cộng sản tiền thân xu hướng nhấn mạnh một cách
giáo điều vấn đề giai cấp, Cương lĩnh của Nguyễn Ái Quốc lại đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu. Điều này thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào
hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa - nửa phong kiến. Người nhận thức được rằng
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
với đế quốc Pháp và phong kiến tay sai. Bằng cách đặt nhiệm vụ "đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp" lên hàng đầu, Cương lĩnh đã tạo ra một ngọn cờ tập hợp được sức mạnh
của toàn dân, vượt ra ngoài giới hạn của một cuộc cách mạng giai cấp đơn thuần. Con
đường cách mạng đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước
chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa luận cách mạng tiên tiến thực tiễn lịch sử của
dân tộc. 3. Nhận xét – Đánh giá
3.1. Nhận xét khái quát
- Về tiến trình
tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc phát triển theo một tiến trình rõ rệt, có thể tóm
tắt thành các bước chủ yếu:
Lòng yêu nước, hoạt động yêu nước ở trong nước và ngoài nước (trước 1919) — tham
gia phong trào người Việt yêu nước ở Pháp, vận động dư luận người Việt ở nước ngoài.
lOMoARcPSD| 61591627
Tiếp cận tiếp thu chủ nghĩa Mác–Lênin (khoảng 1919–1923) thông qua hoạt động
trong phong trào công nhân, trong Đảng hội Pháp, nh hưởng của Cách mạng Tháng
Mười và các ấn phẩm của phong trào cộng sản, Nguyễn Ái Quốc dần xác định căn bản
lý luận mới cho con đường cứu nước.
Truyền luận tchức (1923–1929) mở lớp huấn luyện, vận động, kết hợp
tuyên truyền lý luận Mác–Lênin với phong trào dân tộc và công nhân ở trong nước, tiến
tới thành lập các tổ chức cách mạng (Hội VN Cách mạng Thanh niên… ).
Chuẩn bị đi tới thành lập Đảng (cuối 1929 đầu 1930) hoạt động tưởng-tổ
chức được hệ thống a, tạo điều kiện cho việc thống nhất các tổ chức cộng sản ra
đời Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Về đặc điểm
tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc nổi bật sự kết hợp giữa luận cách mạng
tiên tiến của thời đại (chủ nghĩa Mác–Lênin) với thực tiễn phong trào dân tộc Việt
Nam: nghĩa không “nhập khẩu” máy móc áp dụng, điều chỉnh các nguyên
cách mạng sản vào bối cảnhhội, tầng lớp truyền thống đấu tranh của dân tộc
Việt Nam (những nội dung này được Nguyễn Ái Quốc hệ thống hóa trong các văn kiện
và sách như Đường Cách mệnh).
- Về vai trò cá nhân
Nguyễn Ái Quốc giữ vai trò trung tâm, quyết định trong việc tìm ra con đường cứu nước
mới: Người không chỉ là người truyền bá lý luận mà trực tiếp tổ chức, huấn luyện nhân
sự, liên hệ với Quốc tế Cộng sản, chuẩn bị điều kiện tư tưởng — tổ chức để thống nhất
lực lượng cách mạng, dẫn tới việc thành lập Đảng, nhấn mạnh vai trò then chốt của
Người trong cả khâu tìm đường lý luận lẫn khâu tổ chức.
3.2. Những phong trào/ sự kiện thất bại – Nguyên nhân
3.2.1. Bản yêu sách 1919:
- Thất bại vì trông chờ vào sự công bằng của các nước đế quốc thắng trận.
Tháng 6–1919, đại diện Hội Những người Việt Nam yêu ớc tại Pháp với chữ
của Nguyễn Ái Quốc — gửi tới Hội nghị Versailles một bản “8 điểm” đòi quyền tự do,
dân chủ tối thiểu cho nhân dân An Nam. Văn kiện này được công bố rộng rãi trên báo
chí tiến bộ ở Pháp.
Nguyên nhân thất bại:
lOMoARcPSD| 61591627
Đặt niềm tin vào sự công bằng của các nước đế quốc thắng trận Hội nghị Versailles
thực chất là nơi phân chia quyền lợi giữa các nước thắng trận, không phải diễn đàn bảo
đảm quyền dân tộc cho thuộc địa; vậy yêu sách của thuộc địa không được xem xét
nghiêm túc. Versailles ưu tiên chia thị trường và lợi ích đế quốc hơn là giải quyết quyền
tự quyết cho các dân tộc thuộc địa.
- Phong trào trong nước chưa đủ mạnh để làm hậu thuẫn.
Phong trào trong nước còn yếu, thiếu chdựa nội địa mạnh khi gửi yêu sách, Nguyễn
Ái Quốc các trí thức chưa thể dựa vào một lực lượng quần chúng mạnh trong nước
để biến yêu sách thành hành động chính trị uy lực; nội lực cách mạng ở trong nước
c đó chưa đủ để buộc Pháp hoặc “các cường quốc” phải nhượng bộ, vào thời điểm ấy
Nguyễn Ái Quốc chưa có đầy đủ luận cách mạng để đề ra con đường cứu nước khả
thi (Người tiếp tục đi tìm câu trả lời đó trong những năm 1920).
Hạn chế về kênh vận động sức ép quốc tế văn kiện gây tiếng vang trong giới
tiến bộ, song thiếu sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ các chính đảng lớn hoặc phong trào quần
chúng ở châu Âu để buộc các đại biểu đưa vấn đề thuộc địa vào chương trình thực chất.
Hệ quả: thất bại, Bản Yêu sách giá trị lớn về mặt tuyên truyền đánh dấu
bước đầu trong hoạt động chính trị công khai của Nguyễn Ái Quốc giúp người làm
cách mạng nhận ra giới hạn của con đường vận động dựa vào “sự công bằng” của đế
quốc, từ đó thúc đẩy việc tìm kiếm một lý luận (Mác–Lênin) và một tổ chức cách mạng
mới.
3.2.2. Các tổ chức cộng sản 1929 (chia rẽ, cạnh tranh):
Thất bại do thiếu sự thống nhất, tư tưởng cục bộ, phát triển quá nóng.
Đến cuối năm 1929 xuất hiện ba tổ chức tự nhận cộng sản hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam; các tchức này đều tuyên bố đặt mình dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản nhưng không thống nhất, có tưởng và phương pháp khác nhau, dẫn tới phân tán
lực lượng.
Nguyên nhân thất bại:
- Thiếu sự thống nhất tưởng đường lối chưa đồng bộ: Các nhóm xuất phát
từ sở, vùng (Bắc, Trung, Nam) từ những truyền thống hoạt động khác nhau
(ví dụ: hội Thanh niên cách mạng, truyền thống mật hay truyền thống hoạt
động quần chúng), dẫn tới khác biệt chiến lược — không thể nhanh chóng thống
nhất một đường lối chung.
Các xung đột, bất đồng trong nội bộ được chính thức phản ánh trong báo cáo gửi
Quốc tế Cộng sản:
lOMoARcPSD| 61591627
Tại Đại hội toàn quốc Hội VN Cách mạng Thanh niên Hương Cảng (5–1929): Đại
biểu Bắc Kỳ (nhóm cộng sản như Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung…) đưa ra đề nghị thành
lập ngay một đảng cộng sản, trong khi Tổng bộ các đại biểu khác (Nam, Trung,
Xiêm) cho rằng chưa nên vội. Cuộc tranh luận gay gắt kéo dài, cuối cùng 3 đại biểu Bắc
Kỳ bỏ hội nghị ra về (5-5-1929). Đây được coi mâu thuẫn đầu tiên dẫn đến sự tách
rời.
Sau đại hội: Nhóm Bắc Kỳ lập Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929) xem Hội
Thanh niên “cơ hội chủ nghĩa”, tìm cách loại bỏ ảnh ởng của Hội. Ngược lại, nhóm
ủng hộ Tổng bộ (sau thành An Nam Cộng sản Đảng) lại cho rằng thể tận dụng Hội
để tập hợp trí thức, tiểu tư sản. Đây là mâu thuẫn thứ hai, ngày càng sâu sắc.
Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản (5-3-1930) của Đảng Cộng sản VN đã ghi lại rất chi tiết:
“Khoảng tháng 5 năm 1929, Hội VN Cách mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc.
Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức ngay một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị
sau này hãy tổ chức. Nhóm Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về tổ chức một đảng (Đông
Dương). Một số khác sau đó đã tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó mối bất hòa
đầu tiênCả hai đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng
hiểu lầm nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày càng rộng bấy nhiêu” .
Cục bộ, cạnh tranh nội bộ nói xấu lẫn nhau: Thay tập trung lực ợng, một số
nhóm lo sợ mất ảnh hưởng nên tìm cách triệt tiêu tổ chức khác. Sự cạnh tranh này trực
tiếp làm giảm hiệu quả vận động quần chúng.
Phát triển quá nóng nhưng sở quần chúng còn mỏng: Một số tổ chức xuất hiện
mở rộng quá nhanh về hình thức nhưng chưa xây dựng nền tảng quần chúng bền vững
sở (thiếu cán bộ được huấn luyện, thiếu tổ chức quần chúng thực chất), nên khi
gặp đàn áp hay khó khăn thì dễ vỡ.
Phân tán và phát triển thiếu bền vững” của các tổ chức cộng sản cuối 1929 được nêu cụ
thể ở các ý sau:
Sự xuất hiện dồn dập của nhiều tổ chức cùng lúc: chỉ trong vòng vài tháng cuối năm
1929 đã ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông ơng Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn). Cả ba đều tuyên bố trung thành với Quốc
tế Cộng sản, đều gấp rút mở rộng tổ chức, nhưng lại không thống nhất, thậm chí “nói
xấu lẫn nhau, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào chung
sở quần chúng chưa vững: Đông Dương Cộng sản Đảng tuy hoạt động rầm rộ, lập
được các Công hội đỏ ở Bắc, Trung, Nam (như Công hội đỏ Bắc Kỳ, Vinh – Bến Thủy,
Đà Nẵng) nhưng phần lớn mới là tổ chức non trẻ, nặng về tuyên truyền chính trị, ít bám
rễ ở nông thôn
lOMoARcPSD| 61591627
Phát triển nhanh về hình thức, nhưng dễ bị đàn áp: An Nam Cộng sản Đảng cũng lập ra
báo Đỏ, xuất bản Bolchévic, tổ chức nhiều công hội, nông hội. Tuy nhiên, các sở này
dễ dàng bị mật thám phát hiện và đàn áp, khiến tổ chức không giữ được sự bền vững
Đánh giá của Quốc tế Cộng sản: Tháng 10–1929, Ban thư các ớc Phương Đông
(thuộc QTCS) đã chỉ rõ “những sai lầm, nhược điểm, bất cập trong mục tiêu, đường
lối chiến lược, sách lược cũng như phương pháp vận động quần chúng” của các nhóm
cộng sản, phê phán tình trạng nóng vội nhưng thiếu gắn kết với phong trào s-
Bộc lộ nhu cầu tất yếu phải có một đảng thống nhất.
Bối cảnh chính trị-kinh tế phức tạp: Sự trỗi dậy của các lực lượng khác (ví dụ hoạt động
manh động của Việt Nam Quốc dân Đảng; khủng hoảng kinh tế 1929 làm đời sống quần
chúng khó khăn) đặt ra yêu cầu rất cấp thiết về lãnh đạo thống nhất nhưng thay
thống nhất, các tổ chức cộng sản lại phân hóa, khiến phong trào bị tổn thất, hoàn cảnh
này như một lý do thúc đẩy nhu cầu phải thống nhất.
Hệ quả:
Sự thất bại hạn chế của các tổ chức rời rạc đã chra nhu cầu tất yếu phải một
chính đảng cộng sản thống nhất, vững mạnh để lãnh đạo phong trào cách mạng (điều
này dẫn tới sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản sự hợp nhất cuối cùng vào đầu năm
1930). Chính việc hợp nhất ba tổ chức (dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc với
sự can thiệp của Quốc tế Cộng sản) đã chấm dứt khủng hoảng lãnh đạo mở đường
cho bước phát triển mới của phong trào.
3.3. Những phong trào/ sự kiện thành công – Ý nghĩa
3.3.1. 1920 – Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin:
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, đăng trên báo L’Humanité (16
17/7/1920). Trước đó, Người đã lòng yêu nước nồng nàn, tham gia hoạt động trong
Đảng Xã hội Pháp và phong trào công nhân quốc tế, nhưng chưa tìm ra con đường cứu
nước rõ ràng. Luận cương của Lênin đã giải đáp trọn vẹn những vấn đề căn bản: quyền
bình đẳng giữa các n tộc, mối quan hệ giữa giai cấp bị áp bức phong trào sản
thế giới, sự gắn bó giữa giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
sao thành công: Thành công của bước ngoặt năm 1920 bắt nguồn từ việc Luận ơng
của Lênin đã đưa ra con đường giải phóng n tộc phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân chịu áp bức nặng nề. Nguyễn Ái Quốc
tiếp nhận tưởng ấy một cách chủ động, sáng tạo, coi đó kim chỉ nam cho sự nghiệp
cách mạng. Từ đây, Người truyền bá chnghĩa Mác Lênin vào phong trào yêu nước

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61591627
HOẠT ĐỘNG CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC 1919 – 1930
1. Bối cảnh lịch sử 1.1. Khách quan
1.1.1. Tình hình thế giới
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914–1918) kết thúc, trật tự quốc tế mới được
định hình qua hai hiệp ước Versailles (1919) và Washington (1921–1922), song mâu
thuẫn giữa các đế quốc và thuộc địa không những không được hóa giải mà còn trở nên
gay gắt hơn. Nước Anh, Pháp, Ý, Nhật, Hoa Kỳ phân chia “miếng bánh” thuộc địa,
khiến tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc bùng lên cao khắp châu Á, châu Phi và
châu Mỹ Latinh. Thành công vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) cùng sự
thành lập Quốc tế Cộng sản (1919) đã truyền lửa mạnh mẽ cho phong trào vô sản và
các dân tộc bị áp bức khác trên toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, khẩu hiệu “Vô sản tất cả
các nước và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”
của Quốc tế Cộng sản không chỉ là lời
kêu gọi mang tính lý thuyết mà đã trực tiếp thôi thúc các nhà cách mạng Á – Phi tìm
kiếm con đường giải phóng mới.
1.1.2. Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng
Pháp tuy là nước thắng trận nhưng sau thế chiến 1 đã tổn thất không nhỏ. Từ năm
1897, thực dân Pháp đã tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất tại Việt Nam và sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiếp tục tiến hành khai thác thuộc địa
lần thứ hai ở nước ta, ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Chúng đẩy đất nước ta vào cảnh đói nghèo lầm than.Dưới áp lực thuế khóa,bị cướp đoạt
ruộng đất và loạt lao động cưỡng bức, tình hình xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc.
Mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và tay sai phản động. Cũng vào giai đoạn đó đã sinh hai giai cấp mới là tư sản
và tiểu tư sản. Đồng thời là sự tăng nhanh, trưởng thành của giai cấp công nhân cả về
chất lẫn về lượng, là sự phát triển mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân lao động. Chính
vì vậy, không ít các phong trào, tổ chức yêu nước đầu thế kỷ XX đã nổ ra như phong
trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục nhưng lần lượt thất bại bởi đường lối
tư tưởng chưa phù hợp. Trong cơn bế tắc của đường lối cứu nước cũ, yêu cầu phải tìm
một ngọn cờ cách mạng mới, có khả năng tập hợp và huy động đại đa số quần chúng
trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết.
1.2. Chủ quan (Nguyễn Ái Quốc)
Và người làm được điều đó lúc bấy giờ không ai khác chính là Nguyễn Ái Quốc, tên
khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh năm 1890 tại Nghệ An – xuất thân trong một gia lOMoAR cPSD| 61591627
đình có truyền thống yêu nước. đã trải qua hành trình bôn ba, tiếp xúc với thực tiễn cách
mạng ở nhiều quốc gia, từ đó thấu hiểu sâu sắc bản chất tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc
và những hạn chế của các con đường cứu nước trước đây. Người đã kiên định tiếp thu,
vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định con đường cách mạng vô sản là
con đường duy nhất và đúng đắn để giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của
thực dân và phong kiến. Từ những yếu tố khách quan về khủng hoảng trật tự thế giới
và làn sóng giải phóng dân tộc lên cao, cùng yếu tố chủ quan về tư duy cách mạng, tinh
thần quốc tế vô sản, Người đã tìm ra một hướng đi mới, đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam. Giai đoạn 1919–1930 vì thế không chỉ là thời kỳ chuẩn bị, mà còn là thời kỳ định
hình đường lối, xây dựng tổ chức, mở ra con đường cách mạng vô sản giành chính quyền cho nhân dân ta.
2. Nội dung các sự kiện
2.1. Trước 1919 – Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm đường cứu nước - Nguyên nhân:
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất
khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong kiến,
ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng
khắp. Tuy nhiên, “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư
sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”. Nguyên nhân thất bại
của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để
những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập
hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh
thích hợp để đánh đổ kẻ thù.
Do bị thực dân Pháp bóc lột, vơ vét thậm tệ trong những năm chiến tranh, đại bộ phận
nhân dân lao động Việt Nam bị lâm vào tình cảnh cùng quẫn. Vì thế, phong trào đấu
tranh chống thực dân Pháp ở Việt Nam thời kì này nổ ra mạnh mẽ. - Diễn biến:
Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách
mạng tiến bối, ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu
nước mới hữu hiệu hơn. Nhưng khác với thế hệ thanh niên đầu thế kỉ hướng về Nhật
Bản, Nguyễn Ái Quốc quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu xem
"nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình". lOMoAR cPSD| 61591627
Tranh vẽ “Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước”, hiện đang trưng bày tại
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. (Ảnh tư liệu BTLSQG).
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận
thức của Nguyễn Tất Thành - đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở
lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.
Vào cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, khoảng cuối năm 1917 hoạt động đầu tiên
của Người là đấu tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam được sớm hồi hương trở về với gia đình.
Năm 1918, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp và trở thành người Việt Nam
đầu tiên tham dự một chính đảng tại Pháp. Lịch sử Đảng Xã hội Pháp gọi khóa đảng
viên cuối năm 1918 là "thế hệ lửa đạn". Kể từ đây, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu những hoạt
động chính trị trực tiếp để tìm ra con đường giải phóng đất nước.
Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong giới Việt kiều cũng như trong phong trào
công nhân chính quốc, cùng với một số trí thức Việt Nam tại Pháp, lập ra Hội Những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp.
Nguyễn Ái Quốc phân phát truyền đơn của Đảng Xã hội phản đối đế quốc Pháp, chống
lại sự can thiệp của Pháp vào nước Nga Xô viết non trẻ; ủng hộ những thủy thủ đã đấu
tranh đòi Pháp đưa hạm đội từ Biển Đen về nước; bày tỏ cảm tình với cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc tham gia những cuộc thảo luận trong Đảng Xã hội
về thái độ của Đảng này đối với các loại Quốc tế: Quốc tế thứ hai, Quốc tế thứ hai rưỡi
và Quốc tế thứ ba để lựa chọn ra một chỗ dựa đúng đắn về tổ chức.
- Kết quả: Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng một
cách rạch ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống lOMoAR cPSD| 61591627
người bóc lột và giống người bị bóc lột”, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng
minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
Nhận thấy hạn chế, bế tắc của các con đường cứu nước trước đó, Người khẳng định cần
phải tìm ra một con đường mới, triệt để và đúng đắn hơn để giải phóng dân tộc. Trên
cơ sở đó, Nguyễn Ái Quốc từng bước gắn hoạt động yêu nước với phong trào công nhân
quốc tế, tạo tiền đề cho bước ngoặt tư tưởng khi tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin sau này.
- Ý nghĩa: Giai đoạn này trở thành bước chuẩn bị tư tưởng – lý luận ban đầu cho sự
nghiệp cách mạng sau này, dẫn tới bước ngoặt quyết định năm 1920 khi Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.
2.2. Bước ngoặt chính trị - Từ yêu nước đến CMVS (1919-1920) - Nguyên nhân:
Cách mạng Tháng Mười Nga đã kích thích mạnh mẽ phong trào cách mạng vô sản toàn
thế giới. (8)338 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi của học thuyết
Lênin về chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản, về độc quyền lãnh đạo của giai cấp
vô sản và vai trò của quần chúng nhân dân lao động trong sự nghiệp cách mạng. - Diễn biến:
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp một đảng tiến bộ chủ
trương chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các thuộc địa.
Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
họp ở Versailles, (Vécxây, Pháp), Tổng thống Mỹ Wooderow Wilson (Uynxơn) tuyên
bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới
Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Văn kiện này được viết bằng ba thứ tiếng
Pháp, Việt, Trung Quốc và được gửi cho đại biểu của Pháp, Mỹ, Nicaragoa; đồng thời
được công bố trên báo L'Humanité (Nhan đạo) và Joumal du Peuple (Nhật báo dân
chúng), để tố cáo chính sách thực dân của Pháp và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện
các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam (gồm tám điểm) vào ngày 18-6-1919. lOMoAR cPSD| 61591627
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Nội dung yêu sách gồm 8 điểm, yêu cầu chính phủ trong Đồng minh nói chung và Chính
phủ Pháp nói riêng phải thực hiện những quyền tự do, dân chủ tối thiểu đối với nhân
dân Việt Nam như sau: 401 402 8
"1. Tổng ân xá cho tất cà những người bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền
hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các
tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khùng bo và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và hội họp;
5.Tự do cư trú ở nước ngoài và tụ đo xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kỳ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tinh cho người bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực cùa người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng cùa người bản xứ”. lOMoAR cPSD| 61591627
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân
đạo) - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Qua Luận cương, Người đã tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc.
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours) vào cuối tháng 12 năm
1920. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản
do V.I.Lênin thành lập). Và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Ngay sau đó,
Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã
tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức là Đảng Cộng sản Pháp.
Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và
là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong
tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng
12/1920 (Ảnh tư liệu). lOMoAR cPSD| 61591627
- Kết quả: Người khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được cả dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ. Nguyễn Ái Quốc xác định được con đường cách mạng đúng đắn và tiếp tục khảo
sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. - Ý nghĩa:
Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và
là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong
tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Hành động bỏ phiếu ủng hộ Quốc tế III là sự kiện đánh dấu bước nhảy vọt trong tư
tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường
cộng sản. Mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển
mới “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế,
đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính người đã trải qua từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin”.
2.3. Chuẩn bị về lý luận và tổ chức cách mạng (1921-1926)
* Về tư tưởng: vạch trần bản chất của chủ nghĩa đế quốc, tập hợp lực lượng và tuyên
truyền con đường cách mạng vô sản. -
Tại Pháp, giữa năm 1921, Hồ Chí Minh cùng một số nhà cách mạng của các
nước thuộc địa khác thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sáng lập tờ báo Le Paria (Người
cùng khổ), Người viết nhiều bài trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản… lOMoAR cPSD| 61591627
Báo Le Paria số 2 trang 1 ra ngày 1/5/1922 đăng bài của tác giả Nguyễn Ái Quốc. -
Hồ Chí Minh tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ
nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị
áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định
chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động trên thế giới. -
Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con
đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. -
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Đảng
muốnvững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61591627
Tác phẩm “Đường Kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc
*Về chính trị: đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc: -
Con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. -
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”. -
Phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công
nông làm động lực cách mạng. Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả
dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”.
-Về vấn đề Đảng Cộng sản: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt”. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"1. -
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
Niên phát động từ ngày 29/9/1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện
cán bộ và xây dựng, phát triển tổ chức của công nhân.
=> Những quan điểm đó được truyền bá qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
từng bước được chuyển tải về trong nước làm cho phong trào công nhân và các phong
trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ như người cầm lái có vững thuyền mới lOMoAR cPSD| 61591627
chạy. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". -
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
Niên phát động từ ngày 29/9/1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện
cán bộ và xây dựng, phát triển tổ chức của công nhân.
=> Những quan điểm đó được truyền bá qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
từng bước được chuyển tải về trong nước làm cho phong trào công nhân và các
phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.

* Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ,
tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. -
Tháng 11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi có đông người Việt
Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng tại Quảng Châu (Trung Quốc) -
Tháng 2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn. -
Tháng 6/1925, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội xuất bản tờ báo Thanh niên, đánh dấu
sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61591627
Báo Thanh Niên số 63 ra ngày 3-10-1926.
Ngôi nhà số 13/1, nay là số 248-250, đường Văn Minh, thành phố Quảng Châu,
Trung Quốc, trụ sở của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nơi Nguyễn Ái Quốc mở
các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam từ năm 1925-1927 lOMoAR cPSD| 61591627 -
Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ
trách,pháingười về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang
Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Nhiều đồng chí được cử đi học
trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc) -
Tháng 4/1927, sau sự biến chính trị ở Trung Quốc, Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên chấm dứt hoạt động ở Quảng Châu. Năm 1928, Người trở về châu Á và hoạt
động ở Xiêm (Thái Lan). -
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những
người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, xuất bản thành cuốn Đường cách mệnh. Đây
là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của
lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối
với đảng cách mạng tiên phong. Đường cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu,
lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng, nêu lên những điều kiện về tư
tưởng, lý luận chính trị và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản -
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu
phát triển cơ sở, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Những hoạt động của Hội
có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong
trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó
là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
=> Ý nghĩa: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn 1921-1926 đã tạo
ra những tiền đề vững chắc về lý luận, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam sau này. Sự chuẩn bị kỹ lưỡng này là bước ngoặt quan trọng, giúp phong
trào yêu nước Việt Nam chuyển từ lập trường phong kiến và dân chủ tư sản sang lập
trường cách mạng vô sản, mở ra con đường cứu nước đúng đắn và dẫn đến thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2.4. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1927 - 1930
(HCLS xuất hiện 3 tổ chức
1930, Nguyễn Ái Quốc: Chủ động, chủ trì, soạn thảo và thông qua Cương lĩnh tháng 2/1930 )
2.4.1 Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện 3 tổ chức cộng sản
Sau vụ phản loạn của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, từ tháng 4/1927, Nguyễn Ái
Quốc rời Quảng Châu sang Liên Xô và tiếp tục hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Cuối
năm 1927, Người qua Đức, Pháp, rồi trở về Xiêm (Thái Lan) tháng 7/1928. Theo báo lOMoAR cPSD| 61591627
cáo của Người: Từ Xiêm, “Đã hai lần tôi cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại.
Bọn mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật”. Tại Xiêm, người ra sức tuyên
truyền, giác ngộ và xây dựng các cơ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trong kiều bào Việt Nam.
Với sự nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các cấp bộ
trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên trên cả nước đã có tác dụng thúc
đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý
thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh
của thợ thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày
càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong hai năm 1928 - 1929
tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926 - 1927.
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo
phong trào. Trước tình hình đó, tháng 3/1929 những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần
Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố
Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày 17/6/1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312, phố
Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua
Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa
liềm làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở
Nam Kỳ theo xu hướng cộng sản lần lượt tổ chức những chi bộ cộng sản. Tháng
11/1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành
lập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có cả
Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai...) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên - đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng 9/1929, những
người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng Đảng họp, ra Tuyên đạt khẳng định: những
người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên
ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày
và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong một thời gian ngắn là một sự kiện lịch sử tất
yếu, cho thấy sự thắng thế của khuynh hướng vô sản trong phong trào yêu nước Việt
Nam. Tuy nhiên, đó cũng là một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Mặc dù cả ba tổ chức
đều khẳng định theo chủ nghĩa Mác-Lênin và thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng
sản, họ lại hoạt động riêng rẽ, cạnh tranh ảnh hưởng trong quần chúng, gây ra tình trạng lOMoAR cPSD| 61591627
công kích lẫn nhau. Đông Dương Cộng sản Đảng gọi An Nam Cộng sản Đảng là "hoạt
đầu, giả cách mạng," trong khi An Nam Cộng sản Đảng lại cho rằng Đông Dương Cộng
sản Đảng "chưa thật sự là cộng sản", " chưa thật sự là Bônsêvích"....
Tình hình trên đã gây ra nhiều tổn thất cho sự phát triển của phong trào cách mạng và
gây hoang mang trong quần chúng.
Đúng vào thời điểm khó khăn, phức tạp ấy, Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện như một vị
cứu tinh của cách mạng và phong trào cộng sản Việt Nam.
Cuối tháng 12/1929, Hồ Chí Minh rời Xiêm đến Trung Quốc với tư cách là phái viên
Quốc tế Cộng sản, triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra
một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
2.4.2. Nguyễn Ái Quốc: Chủ động, chủ trì, soạn thảo và thông qua Cương lĩnh tháng 2/1930
Chủ động, chủ trì Hội nghị
Ngày 23/12/1929, ngay sau khi đến Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu
của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu Long.
Hội nghị diễn ra từ 6/1/ 1930 đến 7/2/1930, dưới sự chủ trì của Người. Thành phần tham
dự gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn
Đức Cảnh, cùng hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn
Thiệu. Mặc dù đại biểu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không đến kịp, hội nghị
vẫn được tiến hành và đạt được những kết quả mang tính lịch sử.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam
Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đều khẳng định theo Chủ nghĩa Mác-
Lênin; thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng sản; khẳng định tính tất yếu về vai trò
lãnh đạo cách mạng, có tinh thần yêu nước, chủ trương làm cách mạng giải phóng dân
tộc. Các tổ chức có đóng góp quan trọng góp phần truyền bá Chủ nghĩa MácLênin vào
Việt Nam và chuẩn bị cán bộ cho việc thành lập một đảng Mác-Lênin ở nước ta. Tuy
nhiên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng. Những khuyết điểm chủ yếu của
An Nam Cộng sản Đảng là: “Điều kiện công nhận đảng viên chính thức quá khắt khe,
điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng quá khắt khe”. Đông Dương
Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: “Điều kiện công nhận đảng viên
chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, đảng có
tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt”.
Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời khẳng định những ưu điểm của ba tổ chức:
đều theo chủ nghĩa Mác-Lênin, thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng sản và có tinh lOMoAR cPSD| 61591627
thần yêu nước. Từ đó, Người nhấn mạnh sự thiếu thống nhất trong lãnh đạo là trở ngại
lớn nhất cho phong trào cách mạng. Với thẩm quyền của một phái viên Quốc tế Cộng
sản, Người đã thuyết phục các đại biểu đi đến thống nhất về sự cần thiết phải hợp nhất
thành một chính đảng cộng sản duy nhất. Quyết định này đã chấm dứt tình trạng chia
rẽ nội bộ, giải quyết được những mâu thuẫn mà các cuộc đàm phán trước đó đã không
thể vượt qua, và tạo ra một bước ngoặt lịch sử.
Hội nghị thông qua các văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Hội nghị quyết định lấy tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ, mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra
đề lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Hội nghị chủ trương: Các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam; quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức công hội,
nông hội, cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lí luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.
Hội nghị hợp nhất có ý nghĩa như là Đại hội thành lập Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã quyết định lấy ngày 3/2/1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Soạn thảo và thông qua Cương lĩnh tháng 2/1930
Một trong những vai trò quan trọng nhất của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị là trực tiếp
soạn thảo và thông qua các văn kiện quan trọng của Đảng. Những văn kiện này bao
gồm Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt
của Đảng. Tổng thể các văn kiện này được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việc Người trực tiếp soạn thảo cương lĩnh không chỉ thể hiện vai trò chủ động mà còn
đảm bảo đường lối của Đảng ngay từ đầu đã được xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học
và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh này đã trở thành ngọn cờ tập hợp và đoàn
kết toàn bộ các lực lượng cách mạng Việt Nam.
Nội dung bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Về phương hướng cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. lOMoAR cPSD| 61591627
Về nhiệm vụ chủ yếu: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước nam được hoàn toàn độc lập trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc
được đặt ở vị trí hàng đầu.
Về lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân, nông dân và phải dựa vào dân cây
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông trung, tiểu địa chủ, tư bản An Nam
mà chưa rõ phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất là làm cho họ đứng trung lập; đối
với những đối tượng đã ra mặt phản cách mạng (đại địa chủ, tư sản mại bản) thì phải kiên quyết đánh đổ.
Về phương pháp tiến hành cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, bất
cứ hoàn cảnh nào cũng không thỏa hiệp.
Về lực lượng lãnh đạo cách mạng: giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản.
Về quan hệ quốc tế: cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới.
Sự đặc sắc của Cương lĩnh nằm ở việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp. Trong khi các tổ chức cộng sản tiền thân có xu hướng nhấn mạnh một cách
giáo điều vấn đề giai cấp, Cương lĩnh của Nguyễn Ái Quốc lại đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu. Điều này thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào
hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa - nửa phong kiến. Người nhận thức được rằng
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
với đế quốc Pháp và phong kiến tay sai. Bằng cách đặt nhiệm vụ "đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp" lên hàng đầu, Cương lĩnh đã tạo ra một ngọn cờ tập hợp được sức mạnh
của toàn dân, vượt ra ngoài giới hạn của một cuộc cách mạng giai cấp đơn thuần. Con
đường cách mạng đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa lý luận cách mạng tiên tiến và thực tiễn lịch sử của
dân tộc. 3. Nhận xét – Đánh giá
3.1. Nhận xét khái quát - Về tiến trình
Tư tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc phát triển theo một tiến trình rõ rệt, có thể tóm
tắt thành các bước chủ yếu:
Lòng yêu nước, hoạt động yêu nước ở trong nước và ngoài nước (trước 1919) — tham
gia phong trào người Việt yêu nước ở Pháp, vận động dư luận người Việt ở nước ngoài. lOMoAR cPSD| 61591627
Tiếp cận và tiếp thu chủ nghĩa Mác–Lênin (khoảng 1919–1923) — thông qua hoạt động
trong phong trào công nhân, trong Đảng Xã hội Pháp, ảnh hưởng của Cách mạng Tháng
Mười và các ấn phẩm của phong trào cộng sản, Nguyễn Ái Quốc dần xác định căn bản
lý luận mới cho con đường cứu nước.
Truyền bá lý luận và tổ chức (1923–1929) — mở lớp huấn luyện, vận động, kết hợp
tuyên truyền lý luận Mác–Lênin với phong trào dân tộc và công nhân ở trong nước, tiến
tới thành lập các tổ chức cách mạng (Hội VN Cách mạng Thanh niên… ).
Chuẩn bị và đi tới thành lập Đảng (cuối 1929 – đầu 1930) — hoạt động tư tưởng-tổ
chức được hệ thống hóa, tạo điều kiện cho việc thống nhất các tổ chức cộng sản và ra
đời Đảng Cộng sản Việt Nam. - Về đặc điểm
Tư tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc nổi bật ở sự kết hợp giữa lý luận cách mạng
tiên tiến của thời đại (chủ nghĩa Mác–Lênin) với thực tiễn phong trào dân tộc ở Việt
Nam: nghĩa là không “nhập khẩu” máy móc mà là áp dụng, điều chỉnh các nguyên lý
cách mạng vô sản vào bối cảnh xã hội, tầng lớp và truyền thống đấu tranh của dân tộc
Việt Nam (những nội dung này được Nguyễn Ái Quốc hệ thống hóa trong các văn kiện
và sách như Đường Cách mệnh).
- Về vai trò cá nhân
Nguyễn Ái Quốc giữ vai trò trung tâm, quyết định trong việc tìm ra con đường cứu nước
mới: Người không chỉ là người truyền bá lý luận mà trực tiếp tổ chức, huấn luyện nhân
sự, liên hệ với Quốc tế Cộng sản, chuẩn bị điều kiện tư tưởng — tổ chức để thống nhất
lực lượng cách mạng, dẫn tới việc thành lập Đảng, nhấn mạnh vai trò then chốt của
Người trong cả khâu tìm đường lý luận lẫn khâu tổ chức.
3.2. Những phong trào/ sự kiện thất bại – Nguyên nhân
3.2.1. Bản yêu sách 1919:
- Thất bại vì trông chờ vào sự công bằng của các nước đế quốc thắng trận.
Tháng 6–1919, đại diện Hội Những người Việt Nam yêu nước tại Pháp — với chữ ký
của Nguyễn Ái Quốc — gửi tới Hội nghị Versailles một bản “8 điểm” đòi quyền tự do,
dân chủ tối thiểu cho nhân dân An Nam. Văn kiện này được công bố rộng rãi trên báo chí tiến bộ ở Pháp.
Nguyên nhân thất bại: lOMoAR cPSD| 61591627
Đặt niềm tin vào sự công bằng của các nước đế quốc thắng trận — Hội nghị Versailles
thực chất là nơi phân chia quyền lợi giữa các nước thắng trận, không phải diễn đàn bảo
đảm quyền dân tộc cho thuộc địa; vì vậy yêu sách của thuộc địa không được xem xét
nghiêm túc. Versailles ưu tiên chia thị trường và lợi ích đế quốc hơn là giải quyết quyền
tự quyết cho các dân tộc thuộc địa.
- Phong trào trong nước chưa đủ mạnh để làm hậu thuẫn.
Phong trào trong nước còn yếu, thiếu chỗ dựa nội địa mạnh — khi gửi yêu sách, Nguyễn
Ái Quốc và các trí thức chưa thể dựa vào một lực lượng quần chúng mạnh ở trong nước
để biến yêu sách thành hành động chính trị có uy lực; nội lực cách mạng ở trong nước
lúc đó chưa đủ để buộc Pháp hoặc “các cường quốc” phải nhượng bộ, vào thời điểm ấy
Nguyễn Ái Quốc chưa có đầy đủ lý luận cách mạng để đề ra con đường cứu nước khả
thi (Người tiếp tục đi tìm câu trả lời đó trong những năm 1920).
Hạn chế về kênh vận động và sức ép quốc tế — dù văn kiện gây tiếng vang trong giới
tiến bộ, song thiếu sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ các chính đảng lớn hoặc phong trào quần
chúng ở châu Âu để buộc các đại biểu đưa vấn đề thuộc địa vào chương trình thực chất.
Hệ quả: Dù thất bại, Bản Yêu sách có giá trị lớn về mặt tuyên truyền — nó đánh dấu
bước đầu trong hoạt động chính trị công khai của Nguyễn Ái Quốc và giúp người làm
cách mạng nhận ra giới hạn của con đường vận động dựa vào “sự công bằng” của đế
quốc, từ đó thúc đẩy việc tìm kiếm một lý luận (Mác–Lênin) và một tổ chức cách mạng mới.
3.2.2. Các tổ chức cộng sản 1929 (chia rẽ, cạnh tranh):
Thất bại do thiếu sự thống nhất, tư tưởng cục bộ, phát triển quá nóng.
Đến cuối năm 1929 xuất hiện ba tổ chức tự nhận là cộng sản hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam; các tổ chức này đều tuyên bố đặt mình dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản nhưng không thống nhất, có tư tưởng và phương pháp khác nhau, dẫn tới phân tán lực lượng.
Nguyên nhân thất bại:
- Thiếu sự thống nhất tư tưởng — đường lối chưa đồng bộ: Các nhóm xuất phát
từ cơ sở, vùng (Bắc, Trung, Nam) và từ những truyền thống hoạt động khác nhau
(ví dụ: hội Thanh niên cách mạng, truyền thống bí mật hay truyền thống hoạt
động quần chúng), dẫn tới khác biệt chiến lược — không thể nhanh chóng thống
nhất một đường lối chung.
Các xung đột, bất đồng trong nội bộ và được chính thức phản ánh trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản: lOMoAR cPSD| 61591627
Tại Đại hội toàn quốc Hội VN Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng (5–1929): Đại
biểu Bắc Kỳ (nhóm cộng sản như Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung…) đưa ra đề nghị thành
lập ngay một đảng cộng sản, trong khi Tổng bộ và các đại biểu khác (Nam, Trung,
Xiêm) cho rằng chưa nên vội. Cuộc tranh luận gay gắt kéo dài, cuối cùng 3 đại biểu Bắc
Kỳ bỏ hội nghị ra về (5-5-1929). Đây được coi là mâu thuẫn đầu tiên dẫn đến sự tách rời.
Sau đại hội: Nhóm Bắc Kỳ lập Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929) và xem Hội
Thanh niên là “cơ hội chủ nghĩa”, tìm cách loại bỏ ảnh hưởng của Hội. Ngược lại, nhóm
ủng hộ Tổng bộ (sau thành An Nam Cộng sản Đảng) lại cho rằng có thể tận dụng Hội
để tập hợp trí thức, tiểu tư sản. Đây là mâu thuẫn thứ hai, ngày càng sâu sắc.
Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản (5-3-1930) của Đảng Cộng sản VN đã ghi lại rất chi tiết:
“Khoảng tháng 5 năm 1929, Hội VN Cách mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc.
Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức ngay một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị
sau này hãy tổ chức. Nhóm Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về và tổ chức một đảng (Đông
Dương). Một số khác sau đó đã tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó là mối bất hòa
đầu tiên… Cả hai đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng
hiểu lầm nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày càng rộng bấy nhiêu” .
Cục bộ, cạnh tranh nội bộ và nói xấu lẫn nhau: Thay vì tập trung lực lượng, một số
nhóm lo sợ mất ảnh hưởng nên tìm cách triệt tiêu tổ chức khác. Sự cạnh tranh này trực
tiếp làm giảm hiệu quả vận động quần chúng.
Phát triển quá nóng nhưng cơ sở quần chúng còn mỏng: Một số tổ chức xuất hiện và
mở rộng quá nhanh về hình thức nhưng chưa xây dựng nền tảng quần chúng bền vững
ở cơ sở (thiếu cán bộ được huấn luyện, thiếu tổ chức quần chúng thực chất), nên khi
gặp đàn áp hay khó khăn thì dễ vỡ.
Phân tán và phát triển thiếu bền vững” của các tổ chức cộng sản cuối 1929 được nêu cụ thể ở các ý sau:
Sự xuất hiện dồn dập của nhiều tổ chức cùng lúc: chỉ trong vòng vài tháng cuối năm
1929 đã có ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn). Cả ba đều tuyên bố trung thành với Quốc
tế Cộng sản, đều gấp rút mở rộng tổ chức, nhưng lại không thống nhất, thậm chí “nói
xấu lẫn nhau, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào chung
Cơ sở quần chúng chưa vững: Đông Dương Cộng sản Đảng tuy hoạt động rầm rộ, lập
được các Công hội đỏ ở Bắc, Trung, Nam (như Công hội đỏ Bắc Kỳ, Vinh – Bến Thủy,
Đà Nẵng) nhưng phần lớn mới là tổ chức non trẻ, nặng về tuyên truyền chính trị, ít bám rễ ở nông thôn lOMoAR cPSD| 61591627
Phát triển nhanh về hình thức, nhưng dễ bị đàn áp: An Nam Cộng sản Đảng cũng lập ra
báo Đỏ, xuất bản Bolchévic, tổ chức nhiều công hội, nông hội. Tuy nhiên, các cơ sở này
dễ dàng bị mật thám phát hiện và đàn áp, khiến tổ chức không giữ được sự bền vững
Đánh giá của Quốc tế Cộng sản: Tháng 10–1929, Ban Bí thư các nước Phương Đông
(thuộc QTCS) đã chỉ rõ “những sai lầm, nhược điểm, bất cập trong mục tiêu, đường
lối chiến lược, sách lược cũng như phương pháp vận động quần chúng” của các nhóm
cộng sản, phê phán tình trạng nóng vội nhưng thiếu gắn kết với phong trào cơ sở -
Bộc lộ nhu cầu tất yếu phải có một đảng thống nhất.
Bối cảnh chính trị-kinh tế phức tạp: Sự trỗi dậy của các lực lượng khác (ví dụ hoạt động
manh động của Việt Nam Quốc dân Đảng; khủng hoảng kinh tế 1929 làm đời sống quần
chúng khó khăn) đặt ra yêu cầu rất cấp thiết về lãnh đạo thống nhất — nhưng thay vì
thống nhất, các tổ chức cộng sản lại phân hóa, khiến phong trào bị tổn thất, hoàn cảnh
này như một lý do thúc đẩy nhu cầu phải thống nhất. Hệ quả:
Sự thất bại và hạn chế của các tổ chức rời rạc đã chỉ ra nhu cầu tất yếu phải có một
chính đảng cộng sản thống nhất, vững mạnh để lãnh đạo phong trào cách mạng (điều
này dẫn tới sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản và sự hợp nhất cuối cùng vào đầu năm
1930). Chính việc hợp nhất ba tổ chức (dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc và với
sự can thiệp của Quốc tế Cộng sản) đã chấm dứt khủng hoảng lãnh đạo và mở đường
cho bước phát triển mới của phong trào.
3.3. Những phong trào/ sự kiện thành công – Ý nghĩa
3.3.1. 1920 – Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin:
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, đăng trên báo L’Humanité (16–
17/7/1920). Trước đó, Người đã có lòng yêu nước nồng nàn, tham gia hoạt động trong
Đảng Xã hội Pháp và phong trào công nhân quốc tế, nhưng chưa tìm ra con đường cứu
nước rõ ràng. Luận cương của Lênin đã giải đáp trọn vẹn những vấn đề căn bản: quyền
bình đẳng giữa các dân tộc, mối quan hệ giữa giai cấp bị áp bức và phong trào vô sản
thế giới, sự gắn bó giữa giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Vì sao thành công: Thành công của bước ngoặt năm 1920 bắt nguồn từ việc Luận cương
của Lênin đã đưa ra con đường giải phóng dân tộc phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam –
một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân chịu áp bức nặng nề. Nguyễn Ái Quốc
tiếp nhận tư tưởng ấy một cách chủ động, sáng tạo, coi đó là kim chỉ nam cho sự nghiệp
cách mạng. Từ đây, Người truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào yêu nước