Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019) - Chính sách đối ngoại Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019) - Chính sách đối ngoại Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chính sách đối ngoại Việt Nam
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
Ngày phát hành: 14/03/2019 Lượt xem 73883
I. Quan điểm chủ đạo về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế qua các thời kỳ
Nhìn lại lịch sử phát triển của đất nước Việt Nam thì tư tưởng mở cửa giao thương
đã có từ khá lâu. Các nhà canh tân của Việt Nam như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trường
Tộ… cách đây nhiều thế kỷ đã nhìn thấy tầm quan trọng của việc mở cửa nền kinh
tế, giao lưu buôn bán với nước ngoài.
Sau Cách mạng tháng 8 (1945), tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh tế thế
giới đã được thể hiện trong lời kêu gọi Liên hợp quốc (tháng 12 năm 1946) của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong đó có những điểm mà trong bối cảnh hiện nay vẫn rất đúng và thích hợp:
- Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ
thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
- Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho
việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
- Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự
lãnh đạo của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc thực hiện tư tưởng hội nhập kinh tế quốc tế
đó đã bị gián đoạn. Chỉ sau khi giành được độc lập và thống nhất đất nước (1975),
Việt Nam mới thực hiện một phần tư tưởng quan trọng đó bằng việc tham gia liên
kết kinh tế XHCN trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) do Liên Xô đứng đầu (1978).
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chỉ thực sự được đẩy mạnh kể từ
khi Việt Nam tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 cùng với việc
bắt đầu công cuộc Đổi mới đất nước.
Trong gần 30 năm đổi mới, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
hội nhập quốc tế đã trải qua một quá trình cụ thể hóa và hoàn thiện. Có thể chia thành 3 giai đoạn lớn:
Giai đoạn thứ nhất từ Đại hội Đảng VI (1986) đến đầu Đại hội Đảng VII (1991), lúc
này Việt Nam chưa nói cụ thể về hội nhập kinh tế quốc tế mà mới đặt vấn đề là “mở
cửa nền kinh tế”,“đa phương hóa, đa dạng hóa, mở rộng quan hệ đối ngoại”. Tư
tưởng này đã đặt nền móng cho việc phát triển hội nhập ở các giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn thứ hai là từ Đại hội VIII đến Đại hội Đảng X, chủ trương hội nhập kinh
tế quốc tế đã được Đảng CSVN chỉ rõ: "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế", “xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới”, “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển".
Giai đoạn thứ ba, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), Đảng CSVN đã đề ra
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 1/13 about:blank 1/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Theo đó, Việt Nam chuyển sang
giai đoạn hội nhập toàn diện với hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là nội dung quan
trọng nhất, như được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4
năm 2013 của Bộ Chính trị ĐCSVN về hội nhập quốc tế: “Hội nhập kinh tế quốc tế
là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh
tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2015), Đảng CSVN tiếp tục khẳng định
“Thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế
và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”.
Trong bối cảnh Việt Nam tích cực hội nhập toàn diện và đẩy mạnh tham gia các
Hiệp định Thương mại tự do (FTA), ngày 5/11/2016, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh
nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nghị quyết 06 -
NQ/TW khóa XII nêu rõ mục tiêu thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế,
mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý,
bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Vai trò trọng tâm của hội nhập kinh tế trong hội nhập toàn diện
Nghị quyết số 22/NQ-TW về hội nhập quốc tế khẳng định: “Hội nhập kinh tế là
trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế
và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh
quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa,
xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến
lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và
năng lực của đất nước”.
Quan điểm này khẳng định vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình hội
nhập chung của đất nước, như trong kết luận của Thủ Tướng Chính phủ tại Hội
nghị tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 08 của Ban Chấp hành Trung ương đã
nêu rõ: “Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội
nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là
nội dung chính, quan trọng nhất của tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế
cần đi trước một bước để tạo cơ sở, thúc đẩy hội nhập và hợp tác trong các lĩnh vực khác”.
Về mối quan hệ của hội nhập quốc tế với các lĩnh vực hội nhập khác: ‘Hội nhập kinh
tế phải là trọng tâm, các lĩnh vực khác phải tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế”.
Theo đó, hội nhập giờ đây không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 2/13 about:blank 2/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
rộng trên nhiều lĩnh vực khác tuy nhiên hội nhập quốc tế vẫn được coi là nội dung
quan trọng nhất. Tất cả các hoạt động hội nhập trên các lĩnh vực chính trị, ngoại
giao, văn hóa... cần hỗ trợ, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển vì suy cho cùng
mục tiêu cao nhất của hội nhập là vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một đất nước giàu
mạnh, thịnh vượng. Xét theo thực tế khách quan, các hoạt động hội nhập chỉ có thể
tiến hành dựa trên một nền tảng kinh tế tương đối vững chắc, khi đó mới có thể
đảm bảo cho chúng ta tiến hành hội nhập mà vẫn có thể giữ vững độc lập tự chủ,
không bị phụ thuộc vào bên ngoài. Nói cách khác, chỉ khi chúng ta đã hội nhập kinh
tế quốc tế đến một mức độ nhất định mới có điều kiện để hội nhập trên các lĩnh vực
khác, và hội nhập trên các lĩnh vực khác cũng không nằm ngoài mục tiêu phục vụ cho phát triển kinh tế.
3. Quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã chỉ rõ quan điểm phát triển của đất nước ta trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện nay là: "Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".
Trong bối cảnh hiện nay, khả năng chiến tranh và xâm lược về quân sự, lãnh thổ là
ít xảy ra, cả thế giới đang trong xu thế toàn cầu hoá và không một quốc gia nào có
thể đứng ngoài. Do đó, độc lập tự chủ trong bối cảnh hiện nay tập trung cao vào độc
lập tự chủ về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc
tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ.
Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo
tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ
sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực
hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế.
Từ việc xác định khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ như trên, từ góc độ kinh tế có
một số vấn đề liên hệ chặt chẽ như sau:
- Thứ nhất, nền kinh tế độc lập tự chủ hiện nay không tách rời khỏi tổng thể nền kinh tế
khu vực và thế giới. Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế ngày nay, các nền kinh tế trên thế giới ngày càng tăng cường sự tương hỗ và phụ
thuộc lẫn nhau, không một quốc gia nào có thể tách rời khỏi quá trình này và nền
kinh tế độc lập tự chủ được hiểu theo nghĩa là độc lập tự chủ trong mối quan hệ gắn
bó tổng thể với nền kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình tăng cường mối liên hệ và
tác động qua lại trong quan hệ kinh tế giữa các nước thể hiện cụ thể nhất thông qua
việc hình thành ngày càng gia tăng các khu vực và hiệp định thương mại tự do.
Xu thế hợp tác, liên kết kinh tế ở khu vực Châu Á và Châu Á - Thái Bình Dương
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 3/13 about:blank 3/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
được đẩy mạnh bằng các hiệp định tự do hoá thương mại song phương, hợp tác
kinh tế tiểu khu vực và nhóm nước.
- Thứ hai, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải tập trung để nhanh chóng điều chỉnh cơ
cấu kinh tế, sản xuất và đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói
chung cũng như của doanh nghiệp và hàng hoá, dịch vụ nói riêng.
Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, gần 3/4 dân số và lao
động sống bằng nông nghiệp, công nghiệp hóa và hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn chưa được chú trọng đúng mức. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ
trang thiết bị lạc hậu từ 3 đến 4 thế hệ so với các nước khác trong khu vực. Trình độ
kỹ thuật công nghệ thấp. Cơ sở hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản
xuất kinh doanh như kho bãi, thông tin liên lạc, điện, nước, vận tải... đều kém phát
triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. Những yếu tố này làm
giảm nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới.
Đánh giá chung, so với các nước, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam còn
thấp kém và chậm được cải thiện. Xét về các chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia,
theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), so sánh với quốc gia khu vực và
trên thế giới Việt Nam xếp ở vị trí tương đối thấp. Năm 2017, chỉ số năng lực cạnh
tranh toàn cầu của Việt Nam ở vị trí 74/135 quốc gia, năm 2018 đứng ở vị trí 77/140
quốc gia. So với các nước ASEAN, Việt Nam đứng sau hầu hết các nước, chỉ trên Lào và Campuchia.
Từ thực tế đó, có thể khẳng định xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ là tiền đề
đảm bảo để hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Ngược lại, một quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế tự động và tự phát sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn để phát
triển và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư,
nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của hàng hoá và dịch vụ
nói riêng mang tính sống còn quyết định thành công của vấn đề này.
II. Kết quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trên các kênh hội nhập chính
1. Tổng quan về kết quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trên các
kênh hội nhập đa phương, khu vực và song phương
Trên cơ sở đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, thời gian qua,
Việt Nam đã tiến hành hội nhập dưới nhiều góc độ:
Về hội nhập đa phương, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân
hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và
đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu
vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương.
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan
trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 4/13 about:blank 4/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức
này. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu một mốc mới trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế (HNKTQT) của nước ta, mở ra một giai đoạn mới: nền kinh tế nước
ta hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.
Về hội nhập khu vực, tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia
sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp
vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Về hội nhập song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160
nước và 70 vùng lãnh thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới
trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ , ký kết trên 90 Hiệp định
thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54
Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có các nước
trong nhóm G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác
chiến lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha.
Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65
đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức
quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực tham gia đàm phán, ký kết
các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong bối cảnh hệ thống thương mại đa
biên đang gặp phải những khó khăn nhất định, sự phát triển hợp tác kinh tế song
phương và khu vực, thể hiện qua việc hình thành các FTA là một sự bổ trợ quan
trọng cho mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư đa phương trên phạm vi toàn
cầu hiện nay. Việc hình thành các FTA với mức độ tự do hoá sâu rộng đã và đang
đem lại những cơ hội và cả thách thức không nhỏ đối với những nền kinh tế đang
phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc mà cần
phải chủ động nắm bắt xu thế FTA, tham gia có lựa chọn để nắm bắt cơ hội tiếp cận
thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các đối tác quan trọng.
2. Một số kết quả cụ thể trên các kênh hội nhập chính
1) Hội nhập trong khuôn khổ WTO
Nhằm triển khai các cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách
chính sách thương mại theo hướng ngày càng minh bạch và phù hợp hơn với các
cam kết, thông lệ quốc tế. Các nỗ lực mạnh mẽ nhất đã được tiến hành để nội luật
hóa cam kết hội nhập WTO, hình thành môi trường kinh doanh cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch; phát triển các thị trường; giảm sự can thiệp của Chính phủ vào thị
trường thông qua các biện pháp kiểm soát giá cả, phân bổ nguồn lực, sở hữu, các
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 5/13 about:blank 5/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
biện pháp bảo hộ, trợ cấp, độc quyền, tạo ra môi trường kinh tế - xã hội đáp ứng các
tiêu chí để Việt Nam được công nhận là nền kinh tế thị trường. Có thể thấy nỗ lực
này qua việc chỉ trong vòng 5 năm sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã xây dựng
mới và hoàn thiện trên 30 bộ luật; có tới hơn 400 văn bản pháp luật liên quan đến
300 loại giấy phép kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau đã được rà soát,
đánh giá và loại bỏ. Đồng thời, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc lộ trình mở cửa
thị trường hàng hoá, dịch vụ theo cam kết của WTO. Cho đến nay, về cơ bản, các
luật, pháp lệnh có liên quan tới việc thực thi các cam kết WTO về cơ bản đều đã
được ban hành đầy đủ theo kiến nghị tại Báo cáo số 192/BC-BTP ngày 09 tháng 12
năm 2008 của Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả rà soát pháp
luật thực hiện Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP.
Năm 2013, Việt Nam đã hoàn thành Phiên rà soát chính sách thương mại lần đầu
tiên trong WTO. Cộng đồng quốc tế đã hoan nghênh và đánh giá cao nỗ lực của Việt
Nam trong quá trình cải cách, hoàn thiện chính sách và thực thi các cam kết để phù
hợp với quy định của WTO. Hiện Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho Phiên rà soát
chính sách thương mại lần thứ hai tại WTO vào tháng 9 năm 2020.
Với tư cách thành viên WTO, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các cuộc đàm phán
trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam như nông nghiệp,
công nghiệp, sở hữu trí tuệ ... và đóng góp tiếng nói bảo vệ quyền và lợi ích của các
nước đang phát triển. Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 9 (2013), Việt Nam cùng
các thành viên WTO đã thông qua Gói cam kết thương mại Bali - một thỏa thuận
lịch sử khai thông bế tắc trong đàm phán WTO, gồm 10 Hiệp định với 3 nhóm nội
dung là nông nghiệp, thuận lợi hóa thương mại và thương mại và phát triển.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia vào các cuộc đàm phán song phương với các
nước thành viên và các nước chưa là thành viên về mở cửa thị trường hàng hoá và
dịch vụ trong WTO, trong đó có đàm phán với Liên bang Nga và một số đối tác kinh
tế truyền thống của Việt Nam.
Việt Nam cũng đang tận dụng hiệu quả Chương trình hỗ trợ thương mại của WTO
(AfT). Gần đây, OECD, tổ chức đồng triển khai AfT cùng với WTO đã lựa chọn Việt
Nam là một trong số các quốc gia để tiến hành nghiên cứu điển hình về AfT và qua
đó tiếp tục đưa ra các định hướng thúc đẩy hoạt động này cho Việt Nam.
2) Hội nhập trong khuôn khổ ASEAN
Trong bức tranh phát triển chung của ASEAN hơn 50 năm qua, hợp tác kinh tế là
mảng sôi động với nhiều kết quả cụ thể và thiết thực. Thành tựu nổi bật nhất dưới
trụ cột kinh tế là chúng ta đã tranh thủ được những cơ hội trong hội nhập kinh tế
ASEAN để mở rộng thị trường xuất khẩu, bước đầu tham gia vào chuỗi giá trị khu
vực, góp phần thức đẩy tăng trưởng kinh tế, cải cách chính sách trong nước, xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với yêu cầu hội nhập. Về công tác nội
khối có thể kể đến một số thành tựu quan trọng mà Việt Nam cùng các nước ASEAN đã đat được như sau:
Về thương mại hàng hóa, theo cam kết của Hiệp định Thương mại Hàng hóa
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 6/13 about:blank 6/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
ASEAN (ATIGA), Việt Nam và các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu xóa bỏ
hoàn toàn hàng rào thuế quan (đến năm 2018, các nước ASEAN-6 đã xóa bỏ khoảng
99,2% số dòng thuế và các nước gia nhập sau là Cam-pu-chia, Lào, My-an-ma và
Việt Nam đã xóa bỏ khoảng 90,9% số dòng thuế; tỷ lệ tự do hóa thuế quan của Việt
Nam trong nội khối ASEAN đạt 98% vào năm 2018, là tỷ lệ cao nhất trong 11 FTA
mà Việt Nam đang thực hiện). Ngoài tự do hóa thuế quan, các nước ASEAN cũng
đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại của các
doanh nghiệp như cơ chế tự chứng nhận xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa v.v... ,
các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) về tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện-
điện tử, cao su, thực phẩm chế biến sẵn, dược phẩm và thiết bị y tế v.v.
Về thương mại dịch vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu tiên
quan trọng trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Đến nay, các nước ASEAN đã ký kết
xong Nghị định thư thực hiện Gói cam kết dịch vụ thứ 10 thuộc Hiệp định khung
ASEAN về dịch vụ (AFAS-10) và kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA).
Về đầu tư, sau nhiều nỗ lực thực thi Khu vực đầu tư ASEAN và Hiệp định Đầu tư
toàn diện ASEAN (ACIA), trong năm 2017, các nước ASEAN đã hoàn tất việc ký kết
Nghị định thư thứ hai và thứ ba sửa đổi ACIA và tiến tới sớm hoàn thành ký kết
Nghị định thư thứ tư sửa đổi Hiệp định này vào năm 2019 để tăng cường luồng đầu
tư trong khu vực Đông Nam Á.
Về các lĩnh vực khác, Việt Nam và các nước ASEAN đã đạt được những tiến bộ cụ
thể hơn trong việc thực thi các lĩnh vực mới, như các hoạt động chuẩn bị cho cách
mạng công nghiệp 4.0, thương mại điện tử và phát huy vai trò của Cộng đồng kinh
tế ASEAN vào việc đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Trong năm 2018 vừa qua,
có thể kể đến một số nội dung đã được thống nhất triển khai và hoàn thành như: ký
kết Hiệp định ASEAN về Thương mại điện tử, thông qua Khung Hội nhập số
ASEAN, xây dựng Quy tắc ứng xử về xây dựng xanh của ASEAN,v.v..
Không chỉ tham gia sâu rộng và toàn diện vào hợp tác nội khối, Việt Nam cùng
ASEAN thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế với các đối tác quan trọng khác như Ấn
Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Niu Di-lân, Ốt-xtrây-lia, Trung Quốc, v.v... thông qua ký
kết một loạt hiệp định FTA giữa ASEAN với các đối tác này. Quan hệ hợp tác kinh tế
với các các đối tác quan trọng khác như Hoa Kỳ, EU, Ca-na-đa, Liên bang Nga cũng
được Việt Nam phối hợp với các nước thành viên ASEAN khác triển khai tích cực
thông qua các sáng kiến, các chương trình hành động cụ thể, tập trung vào các nội
dung các bên cùng quan tâm như kinh tế thương mại, đầu tư quốc tế, phát triển
năng lực. Cụ thể, một số kết quả nổi bật về hợp tác ngoại khối trong thời gian gần
đây có thể kể đến như:
- Việt Nam đã phối hợp với các nước thành viên ASEAN khác triển khai các thủ tục
cần thiết và hoàn thành việc ký kết Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hồng
Công, Trung Quốc vào ngày 23 tháng 02 năm 2018, và đang triển khai các thủ tục
phê chuẩn Hiệp định này, hướng tới việc đưa Hiệp định vào hiệu lực trong năm
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 7/13 about:blank 7/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới 2019.
- Cùng với các nước ASEAN khác, Việt Nam đã ký kết “Biên bản ghi nhớ về Hợp tác
Kinh tế giữa ASEAN và Liên minh Kinh tế Á - Âu” bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN - Nga, tháng 11 năm 2018.
- Việt Nam cùng các nước ASEAN hoàn thành rà soát nâng cấp Hiệp định Thương
mại tự do ASEAN – Ôtx-trây-lia – Niu Di-lân cũng như hoàn thành rà soát pháp lý
và các thủ tục nội bộ để ký kết Nghị định thư thứ nhất sửa đổi Hiệp định Đối tác
Kinh tế ASEAN – Nhật Bản, bổ sung các cam kết về thương mại dịch vụ, đầu tư và
di chuyển thể nhân vào Hiệp định này. Nghị định thư này dự kiến sẽ được ký kết tại
Hội nghị Bộ trưởng RCEP giữa kỳ lần thứ 7, tháng 3 năm 2019.
- Về đàm phán thương mại với các đối tác, sau khi khởi động đàm phán từ tháng
5/2013, đến nay, Việt Nam cùng các nước thành viên Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện khu vực (RCEP) đã tham gia 12 đàm phán cấp Bộ trưởng nhiều phiên đàm
phán chính thức giữa kỳ. Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước thành viên
RCEP góp phần duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong đàm phán với các đối tác
và thúc đẩy đàm phán RCEP đạt được tiến bộ quan trọng trong năm 2018, hướng
tới kết thúc đàm phán trong thời gian tới đây.
- Đảm nhiệm vai trò nước điều phối quan hệ ASEAN-EU, Việt Nam đã thể hiện sự
tích cực trong việc điều phối với các nước ASEAN và EU nhằm thúc đẩy việc nghiên
cứu, thảo luận với EU về dự thảo khung khổ các yếu tố chính trong Hiệp định FTA
ASEAN – EU trong tương lai.
3) Hội nhập trong khuôn khổ APEC
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á
– Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998. Thành tựu phát triển kinh tế và hội nhập
quốc tế của nước ta trong hơn 20 năm qua đã khẳng định chủ trương tham gia
APEC là hoàn toàn đúng đắn và đúng thời điểm.
Thứ nhất, là cơ chế hợp tác kinh tế hàng đầu tại Châu Á – Thái Bình Dương, nơi hội tụ
các nền kinh tế, thương mại và công nghệ lớn toàn cầu, chiếm 39% dân số, đóng góp
59% GDP, hơn 49% thương mại của thế giới, APEC đã mang lại nhiều lợi ích về
chiến lược, kinh tế, thương mại và đầu tư, góp phần thúc đẩy cải cách trong nước,
nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. APEC là diễn đàn quy tụ 14 trên 28 đối tác
chiến lược, đối tác toàn diện và là các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng hàng
đầu của nước ta, chiếm 75% kim ngạch xuất nhập khẩu, 78% tổng vốn đầu tư trực
tiếp và 79% lượng khách du lịch quốc tế của Việt Nam. 14 trong 16 Hiệp định
thương mại tự do (FTA) mà ta đã, đang đàm phán và ký kết là với 17 trên 20 thành
viên APEC. Những con số này minh chứng rõ nét tầm quan trọng của APEC đối với
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, tham gia APEC góp phần quan trọng nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. Là
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 8/13 about:blank 8/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
thành viên APEC, Việt Nam có vai trò, tiếng nói bình đẳng trước nền kinh tế hàng
đầu thế giới trong tham gia định hình liên kết kinh tế khu vực. Bên cạnh đó, diễn
đàn APEC cũng là kênh quan trọng để chúng ta thúc đẩy quan hệ song phương, góp
phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu và thực chất. Điều này có ý nghĩa
quan trọng để chúng ta đẩy mạnh triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế và nâng tầm đối ngoại đa phương.
Thứ ba, nổi bật nhất trong 20 năm tham gia APEC phải kể đến việc Việt Nam là một
trong số không nhiều thành viên đã hai lần đảm nhiệm thành công vai trò chủ nhà
APEC, vào các năm 2006 và 2017. Với vai trò chủ trì của Việt Nam, tại Tuần lễ Cấp
cao tháng 11/2006 tại thủ đô Hà Nội, lần đầu tiên các nhà Lãnh đạo APEC đã xác
định triển vọng hướng tới hình thành Khu vực Thương mại tự do châu Á – Thái
Bình Dương (FTAAP). Đây là dấu ấn quan trọng, đặt nền móng cho tầm nhìn chiến
lược về liên kết kinh tế toàn khu vực. Cùng với đó, Chương trình Hành động Hà Nội
nhằm thực hiện các Mục tiêu Bô-go, Gói biện pháp tổng thể cải cách APEC, các cam
kết hợp tác về an ninh con người, phát triển nguồn nhân lực, cải cách cơ cấu, hỗ trợ
các thành viên đang phát triển nâng cao năng lực hội nhập... cũng được đánh giá là
những giải pháp kịp thời, hữu hiệu cho những vấn đề APEC phải đối mặt tại thời
điểm đó. Sau 11 năm, chúng ta tiếp tục được các thành viên tín nhiệm lựa chọn đăng
cai APEC lần thứ hai trong bối cảnh năm 2017 được đánh giá là một trong những
thời điểm khó khăn nhất đối với Diễn đàn, với sự nổi lên mạnh mẽ của chủ nghĩa
bảo hộ, dân túy, chống toàn cầu hóa cũng như các thách thức về biến đổi khí hậu,
bất bình đẳng xã hội, già hóa dân số… Ta đã tổ chức thành công xuất sắc Năm APEC
2017 với đỉnh cao là Tuần lễ Cấp cao APEC lần thứ 25 (TLCC APEC 25) tại thành
phố Đà Nẵng. Tuyên bố Hội nghị Cấp cao APEC 25 (AELM 25) và Hội nghị liên Bộ
trưởng Ngoại giao – Kinh tế lần thứ 29 (AMM 29) cùng các văn kiện kèm theo đã
góp phần giữ vững đà hợp tác, liên kết, duy trì giá trị cốt lõi APEC về thúc đẩy
thương mại và đầu tư tự do và mở và ủng hộ hệ thống thương mại đa phương. Vai
trò và đóng góp của Việt Nam được đặc biệt đề cao khi chúng ta đảm nhiệm vị trí
Giám đốc điều hành Ban Thư ký APEC (năm 2005 - 2006), Chủ tịch/Phó Chủ tịch
nhiều Ủy ban và nhiều Nhóm công tác chủ chốt, chủ trì khởi xướng thảo luận về xây
dựng Tầm nhìn mới cho Diễn đàn APEC sau năm 2020.
Thứ tư, tham gia APEC và thực hiện các sáng kiến về mở cửa thương mại, đầu tư, tạo
điều kiện kinh doanh góp phần tạo động lực thúc đẩy cải cách trong nước, từng
bước hoàn thiện thể chế chính sách, quy định phù hợp với các cam kết quốc tế.
Tham gia sân chơi APEC tạo tiền đề để Việt Nam tham gia vào những sân chơi rộng
lớn và có mức độ cam kết hơn hơn như WTO, các FTA, trong đó có những FTA thế
hệ mới, tiêu chuẩn cao. Việc thực hiện các cam kết quốc tế cũng là đòn bẩy để hiện
thực hóa quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm khiết, kiến tạo, hành động phục vụ
người dân và doanh nghiệp.
Thứ năm, là thành viên đang phát triển trong APEC, Việt Nam đã đề xuất thực hiện
cũng như hưởng lợi từ các chương trình xây dựng năng lực và hỗ trợ kỹ thuật. Một
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 9/13 about:blank 9/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
trong ba trụ cột chính của APEC là hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH), hỗ trợ
các nền kinh tế đang phát triển nâng cao năng lực, cải cách kinh tế và hội nhập khu
vực, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển. Việc triển khai các sáng kiến cùng các
dự án hỗ trợ của APEC đã góp phần nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho các Bộ,
ngành, địa phương và doanh nghiệp, tăng cường kiến thức và kinh nghiệm của đội
ngũ cán bộ làm công tác hội nhập.
Cuối cùng, diễn đàn APEC mang đến những tiềm năng và cơ hội to lớn cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Đối thoại giữa các nhà Lãnh đạo APEC với Hội đồng tư vấn
doanh nghiệp APEC (ABAC) và Hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp APEC hàng
năm là dịp quan trọng để cộng đồng doanh nghiệp đề xuất khuyến nghị lên các nhà
Lãnh đạo, chủ động tham gia đóng góp xây dựng chính sách liên kết kinh tế khu vực,
đồng thời tạo khuôn khổ để doanh nghiệp Việt Nam kết nối với các tập đoàn hàng
đầu thế giới. APEC cũng hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, trong tiếp cận thị trường, hưởng môi trường đầu tư, kinh doanh và điều kiện đi
lại thuận lợi, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược, tiếp cận công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.
4) Hội nhập trong khuôn khổ ASEM
Được thành lập cách đây 22 năm (1996), ASEM đã phát triển vượt lên kỳ vọng ban
đầu, khẳng định là cơ chế đối thoại và hợp tác quan trọng, có quy mô lớn nhất giữa
hai châu lục, thúc đẩy xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc vì hòa bình và phát triển.
ASEM đã và đang là nhân tố quan trọng góp phần định hình cục diện thế giới trong
thế kỷ 21. Thời gian qua, Diễn đàn đang chuyển mình với những nội hàm hợp tác và
liên kết sâu rộng, từng bước mang lại lợi ích thiết thân cho các thành viên trong nỗ
lực duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, phục hồi kinh tế, ứng phó các thách thức toàn
cầu. Vượt qua nhiều rào cản và khác biệt, ASEM ngày nay trở thành đại gia đình với 53 thành viên.
Là một trong những thành viên sáng lập ASEM, Việt Nam luôn phát huy vai trò chủ
động tham gia hợp tác Á-Âu trên cả 3 lĩnh vực: đối thoại chính trị, hợp tác kinh tế và
hợp tác khác. Việc tham gia ASEM tạo thêm điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục
triển khai chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, hỗ trợ cho
quan hệ song phương, đẩy mạnh ngoại giao đa phương; tranh thủ khả năng hợp tác
thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, trao đổi văn
hóa, giáo dục - đào tạo phục vụ các yêu cầu phát triển đất nước:
Thứ nhất, ASEM là nơi hội tụ 19 trong số 26 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện
của Việt Nam, chiếm khoảng 70% đầu tư trực tiếp nước ngoài, 70% tổng giá trị
thương mại quốc tế và 80% lượng khách du lịch quốc tế. 14 trong 16 hiệp định
thương mại tự do mà Việt Nam đã ký hoặc đang đàm phán là với các đối tác ASEM
(trong số 60 đối tác có 47 thành viên ASEM). Những con số này phản ánh phần nào
ý nghĩa và vai trò của các thành viên ASEM đối với bức tranh tổng thể kinh tế Việt
Nam, nhất là trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tiếp thu công nghệ
tiên tiến và kỹ năng quản lý cao, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 10/13 about:blank 10/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
Thứ hai, trong bối cảnh môi trường hòa bình, an ninh trên thế giới và khu vực đứng
trước nhiều thách thức, cạnh tranh giữa các nước lớn phức tạp, chúng ta đã phối
hợp chặt chẽ với các thành viên ASEAN để ngày càng có nhiều thành viên đề cao lợi
ích chung trong duy trì hòa bình, an ninh và ổn định để phát triển, lên tiếng ủng hộ
lập trường chính nghĩa của ta trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ…
Thứ ba, chiếm 24 trong số 25 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của Việt Nam,
ASEM là diễn đàn quan trọng để Việt Nam đa phương hóa. Các thỏa thuận quan
trọng mà ta đạt được nhân dịp các Hội nghị Cấp cao ASEM như thỏa thuận với EU
về việc Việt Nam gia nhập WTO, ký tắt Hiệp định Đối tác và Hợp tác với EU tại Hội
nghị ASEM 8, Tuyên bố định hướng kết thúc đàm phán FTA Việt Nam - EU bên lề
Hội nghị Cấp cao ASEM 11 năm 2018 là một số ví dụ.
Thứ tư, thông qua các cơ chế hợp tác về quản lý và giảm thiểu rủi ro thiên tai, Đối
thoại ASEM về phát triển bền vững với trọng tâm là hợp tác Mekong - Danube, các
Bộ, ngành, địa phương đã tranh thủ kinh nghiệm và hỗ trợ thiết thực của các thành
viên ASEM trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý nguồn nước gắn với phát
triển bền vững và bảo vệ môi trường. EU khẳng định hỗ trợ các nước hạ nguồn
Mekong, cam kết tài trợ 1,7 tỷ Euro cho các chương trình của Mekong trong giai
đoạn 2014 - 2020, Trung Quốc cam kết hợp tác, ủng hộ các hình thức hỗ trợ phát
triển cho các nước hạ lưu sông Mekong, các dự án hợp tác của Hungary, Hà Lan,
Italy, Đức, ở ĐBSCL... là những minh chứng sinh động. Kênh hợp tác địa phương
đầu tiên trong ASEM giữa Bến Tre và Tulcea (Romania), Cần Thơ và Ruse
(Bulgaria) mở ra triển vọng tham gia hợp tác thực chất, hiệu quả của các địa
phương trong hợp tác ASEM.
Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với ASEAN và các thành
viên khác trao đổi tìm ra phương cách phù hợp làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác
toàn diện Á - Âu; chủ động “đóng góp, xây dựng và định hình”, đề xuất giải pháp cho
các vấn đề lớn của ASEM như vấn đề mở rộng thành viên, củng cố cơ chế hoạt
động, thúc đẩy hiệu quả của Nhóm hợp tác chuyên ngành…; Tranh thủ các thành
viên thúc đẩy các quan tâm chung của ASEM, đồng thời là lợi ích của Việt Nam như
phát triển bền vững, biến đổi khí hậu, ứng phó thiên tai… Đồng thời, nâng cao nhận
thức về vai trò ASEM, tăng cường phối hợp liên ngành, cải tiến, đổi mới cơ chế
thông tin, phối hợp giữa các Bộ, ban ngành với địa phương, doanh nghiệp để tạo sự
thống nhất, đồng bộ trong chủ trương và triển khai các hoạt động ASEM.
5) Tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA)
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực tham gia đàm phán, ký kết các
Hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong bối cảnh hệ thống thương mại đa biên
đang gặp phải những khó khăn nhất định, sự phát triển hợp tác kinh tế song
phương và khu vực, thể hiện qua việc hình thành các FTA là một sự bổ trợ quan
trọng cho mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư đa phương trên phạm vi toàn
cầu hiện nay. Việc hình thành các FTA với mức độ tự do hoá sâu rộng đã và đang
đem lại những cơ hội và cả thách thức không nhỏ đối với những nền kinh tế đang
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 11/13 about:blank 11/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc mà cần
phải chủ động nắm bắt xu thế FTA, tham gia có lựa chọn để nắm bắt cơ hội tiếp cận
thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các đối tác quan trọng.
Cho tới thời điểm hiện nay, Việt Nam đã tham gia ký kết 12 FTA gồm: 7 FTA ký kết
với tư cách là thành viên ASEAN (CEPT/AFTA và FTA với các đối tác: Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và Niu Dilân, Hồng Kông); 5 FTA ký kết với tư cách
là một bên độc lập (với các đối tác: Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế
Á-Âu, và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP).
Hiện chúng ta đang đàm phán 3 FTA, gồm: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu
vực (RCEP), FTA với Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA), FTA Việt Nam - I-
xra-en. FTA với Liên minh Châu Âu (EU) đã hoàn tất rà soát pháp lý và chuẩn bị tiến tới ký kết.
Việc Việt Nam ký kết các FTA song phương và đa phương đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, tiếp cận được thị trường khu vực
và thị trường toàn cầu,cũng như được tiếp cận thị trường dịch vụ của các nước đối
tác thuận lợi hơn. Bởi phần lớn các rào cản và điều kiện trong buôn bán đã được
cam kết dỡ bỏ, chủ yếu là các hàng rào thuế quan (hầu hết về 0% hoặc dưới 5%) đã
mang lại một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng sáng lạn cho nhiều
ngành sản xuất hàng hóa của chúng ta, kéo theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn
người lao động trong các Công ty có hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, các rào
cản về thủ tục pháp lý đồng thời cũng được giảm thiểu và tối giản hơn, tạo điều kiện
để Doanh nghiệp bước ra thị trường quốc tế. Ngoài ra, khi gia nhập và ký kết vào
các Hiệp định về thương mại hàng hóa kể trên, Việt Nam có thể nâng cao hiệu quả
của công tác bảo vệ môi trường (đặc biệt đối với đầu tư từ các nước đối tác CPTPP)
và bảo vệ quyền lợi cho người lao động nước nhà tốt hơn.
Việt Nam được hưởng ưu đãi theo các FTA, lượng vốn đầu tư vào Việt Nam sẽ gia
tăng, thu hút được các lao động trí thức, có tay nghề cao từ nước ngoài tới Việt Nam
làm việc, các doanh nghiệp cũng có cơ hội tiếp thu với khoa học công nghệ – kỹ
thuật tiên tiến từ các nước phát triển. Nói cách khác, nhờ tham gia các FTA mà
doanh nghiệp có thêm cơ hội tranh thủ được vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ và
các nguồn lực quan trọng khác từ nước ngoài để phát triển. Lợi thế này không chỉ
nhìn từ góc độ hiện tại mà còn là tiềm năng phát triển trong tương lai.
Tuy nhiên, khi tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam
cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn như:
Một là, khi thị trường mở rộng, các công ty của nước ngoài cũng sẽ có những cơ hội
thuận lợi để thâm nhập thị trường trong nước. Đặt trên cán cân, rõ ràng các doanh
nghiệp nước ngoài có lợi thế nguồn lực như vốn, trình độ sản xuất và quản lý, kinh
nghiệm thương trường lớn mạnh hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước.
Điều này đặt doanh nghiệp Việt Nam trước nguy cơ không đủ sức cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài, dễ bị cạnh tranh, khó phát triển.
Hai là, về vấn đề rào cản kỹ thuật và yêu cầu về xuất xứ hàng hóa nghiêm ngặt. Đối với
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 12/13 about:blank 12/13 23:47 4/8/24
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam (2019 ) 11/9/23, 11:07 AM
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới
các FTA Việt Nam mới ký kết, gia nhập gần đây thì các quy tắc xuất xứ đều theo xu
hướng là gia tăng giá trị tại Việt Nam trong khu vực các nước tham gia FTA. Đây là
một bất lợi vì Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên phụ liệu về nước để gia công
hàng xuất khẩu, cho nên nếu không chuyển vùng nguyên liệu từ nhập khẩu sang
trong nước cung cấp, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ không được hưởng các ưu đãi
thuế. Ngoài ra, các quy định kỹ thuật như bao gói, nhãn mác, dư lượng hóa chất tối
đa trong sản phẩm xuất khẩu cũng là một rào cản cho hàng xuất khẩu Việt Nam, đặc
biệt là hàng nông sản của Việt Nam có thể bị mắc ở rào cản về các biện pháp vệ sinh
dịch tễ. Việc quy định các tiêu chuẩn này thuộc quyền của nước nhập khẩu, do vậy
khó lòng ngăn cản nước nhập khẩu lạm dụng các quy định về tiêu chuẩn này để làm
rào cản ngăn hàng hóa Việt Nam xâm nhập vào thị trường nước họ.
Ba là, ngành công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics ở Việt Nam chưa phát triển mạnh
nên chi phí của nền kinh tế sẽ còn cao so với các quốc gia khác. Trước mắt, nền kinh
tế Việt Nam tiếp tục phải vượt qua những trở ngại về chất lượng nguồn nhân lực,
chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ, về môi trường cạnh tranh quốc gia và
một số vấn đề an sinh xã hội…
PV (Theo báo cáo của Bộ Công thương)
https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-trong-nhung-nam-doi-moi.html 13/13 about:blank 13/13