Hồng Bàng thị truyện | Lịch sử Việt Nam cổ đại | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

"Hồng Bàng Thị Truyện" là một phần trong chương trình học môn Lịch sử Việt Nam cổ đại tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu này là một tập hợp các truyện thần thoại, truyền thuyết và sử sách về thời kỳ Hồng Bàng - thời kỳ hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam cổ đại. Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu này, sinh viên được tiếp cận với những kiến thức về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, văn hóa, xã hội và chính trị trong giai đoạn đầu của lịch sử Việt Nam. Hồng Bàng Thị Truyện không chỉ là nguồn tài liệu quan trọng để hiểu sâu hơn về nguồn gốc và bản sắc dân tộc Việt Nam mà còn là cơ hội để sinh viên rèn luyện kỹ năng nghiên cứu, phân tích và diễn đạt ý kiến về lịch sử cổ đại của đất nước.

Hồng Bàng thị truyện” như một truyền thống được kiến tạo của người Việt Nam thời trung đại
Liam C. Kelley
Người dịch: Hoa Quốc Văn
Trong một thời kì xấp xỉ nghìn năm khi những vùng đất mà ngày nay thuộc miền Bắc và một số phần
của miền Trung Việt Nam đang nằm bên trong những đường biên của các đế chế Trung Hoa khác
nhau, thông tin về khu vực đó phần lớn được ghi chép bởi các tác giả Trung Hoa. Những người này
gom thông tin trong các bộ sử qua các triều đại về những cuộc nổi dậy và sự bổ nhiệm các quan lại
đến khu vực ấy, và xếp chúng trong những loại mục của những cuốn sách mang tính bách khoa và
tuyển tập về những gì mà họ xem là nhân vật và sản vật kì lạ đến từ vùng ngoại biên của đế chế.
Ngay khi khu vực này trở nên tự chủ [thoát] khỏi sự cai trị của Trung Hoa vào thế kỉ X, người Việt
Nam bắt đầu soạn các cuốn biên niên sử về vùng đất của họ(1). Trong quá trình này, họ cũng ghi chép
thông tin chi tiết về những nhóm dân nào đó từng sống ở đây thậm chí trước thời Trung Hoa cai trị,
và về nhóm dân mà các tác giả Trung Hoa không đề cập đến. Cho rằng có thông tin về các giai đoạn
xa xưa của lịch sử trong các công trình của người Việt Nam, vốn không tồn tại trong các nguồn
liệu Trung Hoa, các học giả về cơ bản đã kết luận: người Việt Nam hẳn đã có những truyền thống lịch
sử của riêng mình được họ lưu truyền bằng miệng và rồi cuối cùng được viết ra ngay khi vùng đất của
họ thoát khỏi sự cai trị của Trung Hoa(2). Cái nhìn bao rộng này là sai lầm.
Thay vào đó, rõ ràng thông tin mới lạ mà các tác giả Việt Nam trung đại ghi chép về lịch sử cổ xưa
của họ được kiến tạo ở một thời điểm nào đó trong các thế kỉ ngay trước khi và/hay sau khi Việt Nam
trở thành một chính thể độc lập vào thế kỉ X, và nó cấu thành cái mà chúng ta có thể gọi là một “truyền
thống được kiến tạo”(3).
Trong khi mọi truyền thống được kiến tạo ở một thời điểm nào đó, khái niệm về một “truyền thống
được kiến tạo” biểu thị một kiểu truyền thống riêng biệt. Như đã được mô tả bởi Eric Hobsbawn, một
truyền thống được kiến tạo là một truyền thống được tạo ra trong một thời đoạn có sự biến chuyển xã
hội khi những truyền thống “cũ” và những người truyền bá chúng trở nên bất lực hoặc bị bài bác, hay
khi có một nhóm nào đó nỗ lực tạo ra một bước đột phá với quá khứ bằng cách cân nhắc dừng theo
những lối đi cũ. Những truyền thống được kiến tạo thường được tạo tác khá nhanh. Chúng yêu cầu
và ngụ ý sự tiếp nối với quá khứ, và chúng tận dụng “những chất liệu cổ xưa để xây dựng những
truyền thống được kiến tạo của một kiểu thức mới vì những mục tiêu mới”(4).
Những thông tin mà người Việt Nam trung đại ghi chép về lịch sử của họ trước thời kì Trung Hoa cai
trị ứng hợp với khái niệm về một truyền thống được kiến tạo này. Bài viết này sẽ chứng minh luận
điểm này bằng việc khảo xét một bài văn có tên “Truyện về họ Hồng Bàng” (Hồng Bàng thị truyện)
[từ đây người dịch sẽ dùng Hồng Bàng thị truyện thay vì “Truyện về họ Hồng Bàng” như tác giả
HQV] trong một tác phẩm ở thế kỉ XV mang tên Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, một tác phẩm mà tôi
sẽ gọi [tắt] là Liệt truyện. Hồng Bàng thị truyện kể lại thông tin về những cội nguồn của cái mà ngày
nay chúng ta gọi là “lịch sử Việt Nam”.
Nó lần theo một bảng phả hệ [bắt đầu] từ vị thủ lĩnh Trung Hoa mang tính huyền thoại, Thần Nông,
đến một dãy các vị được cho là vua, tức các vua Hùng, những người đã cai trị một chính thể được gọi
là Văn Lang ở đồng bằng sông Hồng trong thiên niên kỉ đầu trước Công nguyên [CN]. Ngô Sĩ Liên đã
thâu nhập những thông tin phả hệ tương tự này vào cuốn Đại Việt sử kí toàn thư ở cuối thế kỉ XV của
ông, và các học giả cho rằng ông đã thu lượm chất liệu này từ Liệt truyện. Sự thâu nhập của nó trong
Toàn thư, như tôi sẽ dùng cái tên này để gọi cuốn sách, về cơ bản đã chuyển những thông tin này vào
một văn bản chính thức về những cội nguồn của các tập đoàn mang tính triều đại ở Đồng bằng sông
Hồng. Ngày nay, thông tin cốt lõi từ ghi chép này, tức là những thông tin về các vua Hùng và vương
quốc Văn Lang của họ, ở Việt Nam được thừa nhận rộng rãi coi như là bằng chứng lịch sử về những
cội nguồn cổ xưa của lịch sử Việt Nam và về đất nước của người Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng ta
sẽ thấy dưới đây, một sự tin tưởng như thế khó có thể được duy trì ngay khi người ta khảo xét một
cách nghiêm nhặt câu chuyện này và văn bản khởi nguồn ra nó.
Thay vào đó, có chứng cớ cho thấy thông tin mà chúng ta tìm thấy trong Hồng Bàng thị truyện
cấu thành một truyền thống được kiến tạo thời trung đại.
lOMoARcPSD| 41487147
Như chúng ta sẽ thấy, việc nghi ngờ tính xác thực của thông tin trong Hồng Bàng thị truyện chắc chắn
không phải là một việc làm mới lạ. Các học giả Việt Nam tiền hiện đại làm vậy ở một mức độ có hạn,
và rồi họ được tiếp nối bởi những học giả có quốc tịch khác ở thế kỉ XX. Cho đến thập kỉ 1960s,
người ta có thể tìm thấy nhiều nhận xét đầy hoài nghi về thông tin trong câu chuyện này từ các công
trình của các học giả Việt Nam, Trung Hoa và Pháp(5). Tuy nhiên, rõ ràng lúc bấy giờ quá trình lịch
sử lâu dài của sự chất vấn thông tin trong Hồng Bàng thị truyện đã bước vào một ngã rẽ mới. Các học
giả Việt Nam dân chủ cộng hoà (DRV) đã có một nỗ lực có dự tính nhằm “chứng minh” sự tồn tại
trong lịch sử của các vua Hùng, và thông tin trong Hồng Bàng thị truyện đóng vai trò then chốt trong
nỗ lực đó. Nó là những ý kiến tranh luận và cách tiếp cận của thực thể học thuật được tạo ra bởi những
học giả DRV bắt đầu từ cuối thập kỉ 1960s, và vẫn giữ vai trò chủ đạo ở Việt Nam ngày nay, mà đây
chính là điều bài viết này chủ yếu phản bác lại. Cùng thời, với tư cách một nghiên cứu bằng tiếng Anh
cho độc giả đọc tiếng Anh, bài viết này cũng thách thức một số điểm trong chuyên khảo của Keith
Taylor năm 1983, cuốn Sự hình thành của Việt Nam [The Birth of Vietnam], một công trình được viết
trong sự đồng tình với quan điểm mà các học giả DRV đã bắt đầu trình bày ở cuối thập kỉ 1960s và
đầu thập kỉ 1970s.
Liệt truyện, sự truyền miệng và các dị bản
Trong khi ngày nay Liệt truyện được xem là một nguồn tư liệu quan trọng về lịch sử cổ xưa của Việt
Nam, thì ở đây lại có một hiện tượng bất thường xảy ra. Tình trạng hiện tại của những bản sao hiện
tồn của tác phẩm phơi bày ra điều này. Liệt truyện rõ ràng chưa từng được xuất bản. Ngày nay, có
khoảng 14 bản chép tay của văn bản ở Việt Nam, với nhiều dị biệt giữa chúng(6). Trong khi chúng ta
không biết phần lớn các bản chép tay được làm ra khi nào, thì nhiều bản có chứa một bài tựa có nội
dung dừng lại ở năm 1492. Bài tựa này được cho là của một ông Vũ Quỳnh nào đó, Vũ Quỳnh nói về
các truyện đó. “Có lẽ một bản thảo đã được tạo ra bởi những học giả xuất sắc ở thời Lí và Trần, và rồi
chúng được nhuận sắc thời gần đây bởi những bậc đáng kính vốn am hiểu và hiếu cổ”(7). Một năm
sau khi Vũ Quỳnh viết những dòng này, một người được biết tên là Kiều Phú đã viết một bài hậu tự,
bài này xuất hiện trong một dị bản của Liệt truyện. Cuối cùng, ở thế kỉ XVIII, học giả-quan chức Lê
Quý Đôn đã chép rằng “theo truyền thống” [tương truyền], Liệt truyện là công trình của một học giả
có tên là Trần Thế Pháp, nhưng Lê Quý Đôn không biết ông này là ai(8). Tuy nhiên, các học giả hiện
đại lại cho rằng Trần Thế Pháp là một học giả sống ở thế kỉ XIV(9).
Theo đó, vẫn còn nhiều điều chưa biết về Liệt truyện. Nó có thể được khởi thảo ở một thời điểm nào đó
trong thời Lý Trần (1009 – 1400 sau CN), và rồi sau đó được nhuận sắc trước khi Vũ Quỳnh và Kiều
Phú, từng người, có lẽ tạo đã ra cho mình một bản thảo riêng của văn bản vào cuối thế kỉ XV. Văn bản
này có xu hướng thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn, Vũ Quỳnh lưu ý trong bài tựa của ông rằng khi
ông đọc Liệt truyện lần đầu tiên, văn bản “là một mớ tuyệt nhiên hỗn độn của những chữ sai lạc.
Không quan tâm đến sự thô bỉ của nó (chỗ này có lẽ Liam C Kelley nhầm, lẽ ra phải là “không ngại
mình thô lậu” HQV), tôi kiểm xét và đính chính nó”(10). Không rõ là sự đính chính đó chỉ dừng lại ở
những chữ sai lầm hay còn mở rộng sang địa hạt nội dung. Kiều Phú, trái lại, có vẻ đã có những thay
đổi đáng kể văn bản. Ông chép trong bài hậu tự của mình rằng dựa trên sự tham khảo các công trình
khác của ông, và theo sự suy xét thận trọng của bản thân, ông đã đính chính và xoá bỏ những thông tin
xa lạ(11).
Trong khi có nhiều nhân tố về văn bản này khiến cho nó có vấn đề, một số học giả trong những thập
kỉ gần đây đã nhất quyết đặt sang một bên những sự bất ổn xung quanh nó và ôm ấp một niềm tin vào
giá trị hiển nhiên của tác phẩm như một nguồn tư liệu về lịch sử Việt Nam cổ đại. Cụ thể là, khi các
học giả DRV cố gắng kiến tạo một lịch sử mới cho vùng đất của họ trong những năm giao thời hậu
thuộc địa từ thập kỉ 1950s đến thập kỉ 1970s, nhiều người đã tiến tới xem Liệt truyện như một nguồn
tư liệu cực kì giá trị. Tức là, họ xem nó như là một kho truyền thuyết đã được lưu truyền qua nhiều thế
kỉ trong “nhân dân” hoặc “dân gian”, và nó có thể được sử dụng hợp thức như những tài liệu lịch
sử(12). Bằng việc thiết lập cái nhìn này, các học giả hiện đại hẳn phải điều hoà hai tuyên bố đối lập về
Liệt truyện từ thời tiền hiện đại. Trong bài tựa năm 1492 của mình, Vũ Quỳnh lưu ý rằng:
Từ trước thời Xuân Thu và Chiến Quốc (722 – 221 trước CN), không xa thời thái cổ, phong tục phương
Nam vẫn còn giản phác. Chưa có sử sách gì của vương quốc để ghi chép các sự kiện. Vì vậy,
lOMoARcPSD| 41487147
[nhiều thông tin về] hầu hết các sự kiện đã bị mất mát. Những điều may mắn tiếp tục còn tồn tại
và không bị huỷ hoại là do những sự lưu truyền bằng miệng của nhân dân/dân gian”(13)
Rồi ở thế kỉ XVIII, Lê Quý Đôn viết về Liệt truyện rằng: “Cuốn sách này vay mượn và phát triển
nhiều [thông tin từ các văn bản khác] nhiều đến nỗi không thể kể xiết”. Rồi ông cung cấp một ví dụ về
hiện tượng này này bằng việc trích dẫn các văn bản Trung Hoa đã gợi hứng cho một câu chuyện trong
Liệt truyện(14). Trong khi Vũ Quỳnh quy nguồn gốc của ít nhất một số chất liệu trong Liệt truyện cho
sự truyền khẩu của “nhân dân/dân gian” thời cổ, thì Lê Quý Đôn cho rằng nhiều nội dung trong công
trình này được lấy từ những nguồn bên ngoài.
Như khi các học giả DRV đã cố tạo ra một lịch sử cho đất nước mới độc lập của họ, họ quay sang Liệt
truyện để tìm thông tin về thời kì ở thiên niên kỉ đầu trước CN khi các vua Hùng được cho là đã nắm
quyền ở đây, và họ phải giải quyết việc đánh giá tính mâu thuẫn về nguồn gốc của những chất liệu
này(15). Rốt cuộc, những gì các học giả bắt tay vào làm sau đó, và những gì họ tiếp tục làm bây giờ, là
khăng khăng cho rằng trong khi những câu chuyện này có thể chịu ảnh hưởng ở mức độ nhất định bởi
ghi chép của giới tinh hoa trong những thế kỉ sau khi chúng được tạo ra, thì song le, chúng vẫn là
những câu chuyện được truyền miệng từ thời cổ(16). Tuy nhiên, khi đưa ra khẳng định như vậy,
không học giả nào theo hiểu biết của tôi đã từng kiểm tra một công trình như Liệt truyện kĩ lưỡng
cho thấy chính xác thông tin gì được thêm vào sau này và chúng đến từ đâu, thông tin gì đền từ các
câu chuyện truyền miệng, và làm thế nào chúng ta xác định được tất cả điều đó. Thay vào đó, các học
giả chỉ đưa ra những tuyên bố chung chung thừa nhận ảnh hưởng của giới tinh hoa trong khi bảo lưu
vị trí đứng đấu của nhân tố truyền miệng(17).
Kết nối với niềm tin này, rằng nằm ở cốt lõi của một câu chuyện như Hồng Bàng thị truyện là những
thông tin đã được truyền miệng qua nhiều thế kỉ, là một sự chứng minh rằng có một “nhân dân/dân
gian” xuyên qua thời kì trước khi Liệt truyện được sáng tác, dân gian đó đã gìn giữ và lưu truyền
những thông tin đó.
Tuy nhiên, điều này là một khẳng định có vấn đề. Ai đích xác là “nhân dân/dân gian” đối với một thành
viên của giới tinh hoa có học ở thế kỉ XV, như Vũ Quỳnh? Giới học thuật về lịch sử Trung Hoa đã
chứng minh rằng điều đó chỉ xảy ra ở thế kỉ XX khi người Trung Hoa có học bắt đầu có hứng thú
nghiêm túc với, và bắt đầu nhận dạng, “người bình dân” hay “dân gian”(18). Việt Nam có xu hướng
giống như thế, và khi các sử gia ở DRV lần đầu tiên khai thác Liệt truyện vào những năm 1950-170, họ
cũng làm thế trong một thời đoạn mà lĩnh vực văn học dân gian Việt Nam mới bắt đầu phát triển và bắt
đầu chú tâm vào người bình dân(19). [Vấn đề là ở chỗ], công việc này chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
dân tộc lãng mạn tương tự như những gì đã ảnh hưởng đến các xu hướng văn hoá dân gian ở các nước
khác trên thế giới ở mức độ nào, và các sử gia chịu ảnh hưởng bởi những ý niệm đang nảy nở lúc bấy
giờ ở mức độ nào là một chủ điểm cho đến nay chưa được chú ý [giải quyết](20). Hệ quả là, các học
giả Việt Nam không chất vấn sự tạo dựng [khái niệm] “nhân dân/dân gian” của họ và xem xét mức độ
khác biệt của khái niệm “nhân dân/dân gian” với quan niệm của Vũ Quỳnh ở thế kỉ XV. Khi ông ta nói
về “nhân dân/dân gian”, có phải Vũ Quỳnh nói đến những người nông dân không biết chữ? Hay ông ta
có ý nói những người có học như bản thân ông? Đó là những câu hỏi cơ bản cần được đặt ra nhưng
chưa được chú ý [giải quyết].
Một vấn đề khác là các học giả chưa hướng sự quan tâm đến quá trình truyền miệng. Các học giả Việt
Nam mường tượng sự lưu truyền các truyện truyền miệng xảy ra thông qua một quá trình, mà theo
Stuart Blackburn, chúng ta có thể gọi là quá trình “kế thừa trực hệ” những câu chuyện truyền nhau
bởi những thành viên của một nhóưm có cùng ngôn ngữ từ thế hệ này sang thế hệ kia(21). Trong khi
các học giả này chấp nhận sự tiếp xúc giữa người Việt Nam và các nhóm sắc tộc khác và thừa nhận
rằng một số thông tin trong một cuốn sách như Liệt truyện có thể được kế thừa từ các nhóm người
như Mường hay bắt nguồn từ một nguồn tư liệu chung, thì họ lại cho người Việt là trung tâm của sự
lưu truyền này(22).
Có vô số những vấn đề với một niềm tin như thế. Người ta quan tâm đến chứng cứ mà họ trích dẫn nhằm
chứng minh rằng người dân sống ở đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỉ đầu trước CN về cơ bản là giống
với người dân sống ở đó thời trung đại. Các học giả Việt Nam cho rằng những phát hiện khảo cổ học ở đồng
bằng sông Hồng từ thế kỉ đầu trước CN, như các trống đồng Đông Sơn, và những bằng chứng về các cuộc
khởi nghĩa trong xấp xỉ một ngàn năm Trung Hoa cai trị, như cuộc khởi nghĩa của chị em họ Trưng ở thế kỉ
đầu sau CN, đều chỉ ra sự tồn tại của một nhóm dân cư ổn định ở khu vực
lOMoARcPSD| 41487147
này trong suốt thời kì dài(23). Tuy nhiên, kiểu chứng cứ này không nhất thiết ủng hộ cho một tuyên bố
như thế.
Thứ nhất, việc kết hợp các di vật khảo cổ với nhóm người đã tạo ra những câu chuyện trong Liệt truyện
đòi hỏi một điều là người ta đã phóng chiếu sự tồn tại của một nhóm sắc tộc được cho là đã tồn tại
trong lịch sử (“người Việt”) được nhận dạng từ các văn bản trung đại lên những di vật khảo cổ tiền sử.
Như Siân Jones đã nói, các học giả những người đã can dự vào một sự thực hành như vậy luôn luôn
nhận diện một cách thiếu phê phán một nhóm sắc tộc đặc thù từ các nguồn tư liệu lịch sử rồi sau đó tìm
kiếm “những hồ sơ sắc tộc” trong các ghi chép khảo cổ học liên quan với nhóm sắc tộc được cho là đã
tồn tại trong lịch sử. Khi làm như vậy, họ đã bỏ qua bản chất chủ quan của cả các nguồn tư liệu lịch sử
lẫn những dấu hiện nhận dạng sắc tộc, và bỏ qua cả thực tế là văn hoá vật chất không nhất thiết tương
ứng với sắc tộc(24). Thứ hai, sự tồn tại của các cuộc nổi dậy khác nhau trong suốt quá trình một ngàn
năm không nhất thiết phản ánh sự tồn tại của một nhóm văn hoá ổn định, cái nhóm có thể duy trì và lưu
truyền các câu chuyện truyền miệng. Trên thực tế, khi Keith Taylor, không giống như các học giả Việt
Nam, thực sự nỗ lực chứng minh sự tồn tại của một nhóm dân cư ổn định xuyên suốt một thiên niên kỉ
Trung Hoa cai trị, ông đã phải viện dẫn các thuật ngữ lai ghép, như “Hán Việt” và “Đường Việt”, để
giải thích các giai đoạn tiếp xúc tăng dần [giữa người Việt] với người Trung Hoa(25). Và điều này đặt
ra những câu hỏi về khả năng giống nhau thế nào giữa “Đường Việt” của thế kỉ IX sau CN với “Lạc
Việt” ở thiên niên kỉ đầu trước CN, và làm thế nào các câu chuyện có thể được lưu truyền trong một xã
hội đầy biến động như thế.
Và một vấn đề có can hệ nhiều hơn là: Liệt truyện được ghi chép bằng chữ Hán cổ, một ngôn ngữ
không được dùng rộng rãi để nói và hẳn là không được những người được cho là thuộc phạm trù vua
Hùng biết đến trong hầu hết lịch sử được biết của nó. Hơn nữa, nếu những cư dân đó sở hữu một kiểu
cổ xưa của cái rốt cuộc sẽ trở thành ngôn ngữ tiếng Việt [sau này], như một số học giả ở Việt Nam tin
tưởng, thì phải nhận thức rằng thứ ngôn ngữ nói đó đã thay đổi khá đột ngột qua các thế kỉ, đặc biệt là
khi khối từ vựng Trung Hoa xâm nhập vào, trước hết là ở một mức độ hạn chế bắt đầu trong thời nhà
Hán (206B trước CN 220 sau CN), và rồi rộng mở hơn trong suốt thời kì trung đại(26). Vì vậy, nếu
những thông tin cốt lõi trong một câu chuyện như Hồng Bàng thị truyện bắt nguồn trong các câu
truyện dân gian được lưu truyền từ thời viễn cổ, thì các học giả cần phải giải thích làm thế nào có thể
xảy ra điều đó, và những sự lưu truyền nào đã chuyển tải các thông tin khi ngôn ngữ tiếng Việt phát
triển qua các thế kỉ và khi những thông tin truyền miệng này rốt cuộc được dịch sang tiếng Hán cổ.
Một nỗ lực tiến được hành để quyết định xem cái gì nằm trong phạm vi truyền miệng trước khi thông
tin được chuyển thành bản viết, và làm thế nào chúng ta nhận ra các dấu hiệu của ngôn ngữ truyền
miệng trong các nguồn tư liệu viết như thế, đã trở thành [vấn đề] trung tâm trong lĩnh vực văn học
truyền miệng ở phương Tây nhiều thập kỉ qua. Tuy nhiên, các học giả phải điều tra một cách có phê
phán những chủ điểm này trong trường hợp Việt Nam(27).
Nghĩa là, các học giả ở phương Tây từ lâu đã nhận ra rằng sự kiếm tìm sự thật lịch sử trong các câu
chuyện truyền miệng thế này là cực kì có vấn đề, và trong trường hợp xấu nhất đó là một “sự truy cầu
điều hão huyền”(28). Một sự tiếp cận hiệu quả hơn cho các nhà sử học là kiểm xét quá trình lưu truyền
truyền thống truyền miệng, vì điều đó có tính lịch sử. Do đó, không quan tâm đến việc có hay không
một sự thật lịch sử trong một câu chuyện truyền miệng, [thay vào đó] dạng thức tồn tại của nó có
thể nói cho chúng ta nhiều điều về một thời điểm cụ thể trong quá khứ(29). Thay vì tìm hiểu thông tin
đã không “được khảm nạm bằng những sự sắp đặt bắt nguồn từ những luồng văn hoá của các thế kỉ
sau”, theo giả thiết của Taylor, chúng ta có thể tìm tòi để xác định từ những thứ “đồ khảm nạm” này
thời điểm và lí do một câu chuyện được trình bày bằng một cách thức nào đó(30). Khi chúng ta làm
như vậy, chúng ta cũng cần tâm niệm về khả năng những bản thảo viết về những thứ ngày ngay chúng
ta tin là có thể bắt nguồn từ các câu chuyện truyền miệng thực ra có thể bắt nguồn từ dạng thức viết.
Chẳng hạn, trong hoàn cảnh châu Âu, Ruth Bottingheimer đã cho rằng không phải một dân gian mù
chữ đã sáng tạo ra các truyện thần kì đầu tiên sau đó phổ biến chúng thông qua hình thức kể chuyện
bằng miệng cho đến khi những câu chuyện đó rốt cuộc được chép lại. Thay vào đó, những câu chuyện
thần kì đầu tiên được viết bởi những thành viên của giới tinh hoa có học và lần đầu tiên được phổ biến
ra thông qua các bản in(31).
Cần có thái độ phê phán khi giữ cái nhìn như thế trong đầu khi khảo sát Liệt truyện. Trong khi phần lớn các
học giả đã dám chắc rằng chất liệu cốt lõi trong công trình này bắt nguồn từ các truyện dân gian, thì một
niềm tin như thế không thích ứng với những gì mà chúng ta biết về thể loại của văn bản này, tức là thể “chí
quái”. Những ghi chép về việc kì lạ là một dạng văn bản và giới trí thức Trung Hoa bắt đầu viết trong thời
Lục Triều đầy hỗn loạn về chính trị (220-589 sau CN). Chúng bao gồm những mẩu
lOMoARcPSD| 41487147
truyện tương đối ngắn về con người sự kiện được xem “kì lạ” hoặc “kì quái”. Để viết những
ghi chép như vậy, các học giả cụ thể nào đó phải dựa vào các thông tin truyền miệng, nhưng họ cũng
đào xới vào c văn bản hiện còn để tìm kiếm thông tin. thời Tống (960 1276 sau CN), một
hứng thú được khôi phục lại đối với thể loại này và nhiều tập truyện chí quái được tạo ra. Liệt truyện
có vẻ như được viết ở một thời điểm nào đó sau giai đoạn này(32).
Bởi giới trí thức thường sáng tác những truyện chí quái bằng cách lựa chọn và nhuận sắc một cách sáng
tạo những thông tin từ các văn bản hiện tồn, nên một số học giả đã xem những tác phẩm này là tiền
thân của thể loại tiểu thuyết. Kenneth DeWoskin chẳng hạn, đã nhấn mạnh những nhân tố bịa đặt hay
tưởng tượng của những văn bản này và cho rằng sự xuất hiện của những truyện chí quái đánh dấu sự
sinh thành của tiểu thuyết ở Trung Hoa. Tiếp theo là sự phát triển của các truyện ngắn [truyền kì] ở
thời nhà Đường (619-907 sau CN) và sau đó là các tiểu thuyết bạch thoại ở thời Minh Thanh (1368
1911 sau CN)(33). Trong khi đó, Robert Campany đã phản bác lại quan điểm này. Campany tin rằng
truyện chí quái đã thoát ra khỏi một truyền thống mang tính vũ trụ học trong đó trung tâm sưu tầm
những đồ vật và báo cáo dị thường từ vùng ngoại biên như một phương tiện để đem lại trật tự cho thế
giới. Ông cho rằng những truyện chí quái đã thực hiện một chức năng tương tự, trong đó chúng bàn
luận về sự dị thường bằng thứ ngôn ngữ rõ ràng của trước tác lịch sử, bằng cách đó chúng “cho nhập
tịch” cái kì lạ(34). Campany cũng lưu ý rằng những người thuộc các thị hiếu tri thức khác nhau
chúng ta có thể mệnh danh vì mục tiêu giản dị ở đây là: Đạo sĩ, Nhà sư và học giả Khổng giáo đã sử
dụng các truyện chí quái để trình bày những quan điểm hỗ trợ cho niềm tin của họ về thế giới.
Trong bài tựa của mình, Vũ Quỳnh dứt khoát đặt Liệt truyện vào thể loại chí quái. Ông ví tác phẩm với
cuốn Sưu thần kí ở thế kỉ IV của Can Bảo, một trong những tác phẩm khá sớm của thể chí quái(35).
Ông cũng đặt tác phẩm trong một bối cảnh Nho học phổ biến khi cho rằng tất cả các truyện về cơ bản
“đề cao cái tốt và trừng phạt cái xấu” (khuyến thiện trừng ác), mệnh đề đóng vai trò cơ bản đối với
một thể loại các văn bản chữ Hán là “sách đạo đức” [thiện thư](36). Thể văn này xuất hiện ở thời Tống
và sử dụng khái niệm “nghiệp báo” của Phật giáo để nói về tầm quan trọng của việc thực hành đức
hạnh Khổng giáo. Nhiều tác phẩm như thế đã khẳng định rằng nội dung của chúng được phi lộ bởi các
vị thần, một thực hành nghi lễ gắn với các Đạo sĩ(37).
Do đó, Liệt truyện rõ ràng là một bộ phận của những khuynh hướng văn chương rộng hơn lúc bấy giờ.
Trong phạm vi vấn đề người ta nên xem nó là sự thật hay hư cấu, tôi cho rằng Liệt truyện là cả hai.
Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, có nhiều phần trong Hồng Bàng thị truyện rõ ràng là hư cấu. Tuy
nhiên, cũng hiển nhiên là mục đích của bài tiểu luận này là viết về sự tồn tại của một chính thể ở Đồng
bằng sông Hồng thời trung đại đặt trong một bối cảnh địa lí và lịch sử rộng lớn hơn. Theo đó, ngược
với bản chất hư cấu trong phần nhiều câu chuyện, bản thân nỗ lực tạo ra câu chuyện như thế đã là một
sự thật lịch sử mà chúng ta có thể đặt trong một thời đại lịch sử đặc tương đối đặc thù. Bây giờ chúng
ta hãy chuyển sang [bàn về] Hồng Bàng thị truyện và khảo sát những nhân tố hư cấu và có thực của
nó một cách kĩ lưỡng hơn.
Dòng dõi, Những cuộc hôn phối tại địa phương và sách Hoa Dương Quốc chí
Hồng Bàng thị truyện là một câu chuyện mang tính phả hệ về một thị tộc được định danh là
Hồng Bàng, một cái tên chưa bao giờ được giải thích.
Nó bắt đầu bằng việc chỉ ra những nguồn gốc của thị tộc này từ vị thủ lĩnh trong thần thoại Trung Hoa
là Thần Nông(38). Câu chuyện kể rằng Thần Nông có hậu duệ tên là Đế Minh, Đế Minh lại có người
con là Đế Nghi. Đế Minh đi tuần thú về phía Nam đế chế, đến tận một nơi gọi là Ngũ Lĩnh, thuộc về
vùng ranh giới phía Bắc của khu vực mà ngày ngay thuộc tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Ở đó ông
gặp người con gái của một nàng Vụ Tiên nào đó, một cái tên mà nghĩa đen là “nàng tiên xinh đẹp”, và
đưa cô ta về phương Bắc cùng ông. Người phụ nữ này sau đó sinh cho ông một người con trai tên là
Lộc Tục. Đế Minh muồn truyền ngôi cho người con trai này, nhưng Lộc Tục từ chối và thay vào đó cố
nài xin truyền ngôi cho người anh cùng cha khác mẹ là Đế Nghi. Đế Minh do đó phong Đế Nghi làm
người thừa kế của mình và giao cho ông cai trị phương Bắc, trong khi phong Lộc Tục là “Kinh Dương
Vương” và giao cho ông cai trị phương Nam, lãnh địa của ông được gọi là nước Xích Quỷ (nghĩa đen
là “Quỷ đỏ”).
Đoạn mở đầu này theo đó bàn về cách một hậu duệ của thủ lĩnh huyền thoại Trung Hoa là Thần Nông, cưới
một người con gái phương Nam, và cách đứa trẻ của cuộc hôn nhân đó, tức Kinh Dương Vương,
lOMoARcPSD| 41487147
được giao nhiệm vụ cai trị phương Nam. Việc tấn phong này cho thấy rằng Kinh Dương Vương đứng ở
một vị trí thấp hơn so với người anh cùng cha khác mẹ là người cai trị phương Bắc. Một sự sắp đặt như
thế dĩ nhiên phản ánh mối quan hệ chủ-thần mà Trung Hoa và Việt Nam duy trì trong thời đại Liệt
truyện được viết ra. Trong khi đó, toàn bộ câu chuyện này, phản chiếu một đoạn văn trong một văn bản
sớm hơn, cuốn Hoa Dương quốc chí.
Cuốn Hoa Dương quốc chí, được viết vào thế kỉ IV sau CN và là cuốn sử hầu như về một khu vực mà
ngày nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên của Trung Hoa. Trong thiên niên kỉ đầu tiên trước CN, Tứ Xuyên được
chia làm 2 nước Ba và Thục, và Hoa Dương quốc chí quan tâm đến các nước này. Phần Thục chí bắt
đầu bằng một đoạn văn khá giống với đoạn mở đầu trong Hồng Bàng thị truyện. Tuy nhiên, thay vì bắt
đầu với Thần Nông, Thục chí lại bắt đầu với Nhân Hoàng, một thủ lĩnh được cho là sống trước Thần
Ông, mà Thần Nông lại sống trước Hoàng Đế. Nhân Hoàng cũng được cho là đã chia thế giới được
biết thành chín khu vực. Thục chí bắt đầu như sau:
“Nước Thục dựng nước bắt đầu từ Nhân Hoàng, ông đã đặt Thục ngang hàng với Ba. Thời Hoàng Đế,
con ông là Chang Yi lấy con gái họ Thục Sơn, sinh ra một con trai tên là Cao Dương, trở thành Đế
Cốc. Đế Cốc phong tước vị cho các thành viên của các chi bàng hệ trong gia tộc mình ở đất Thục, nơi
họ đã phụng sự [vương quốc] qua nhiều thế hệ với tư cách là hầu tước và nam tước. Điều đó được tiếp
nối qua các triều Hạ, Thương, Chu”(40).
Rõ ràng như mọng đợi, thông tin trong đoạn văn này rất giống với đoạn mở đầu Hồng Bàng thị truyện
của Liệt truyện. Đặc biệt, cũng như Hồng Bàng thị truyện, văn bản này tạo nên sự kết nối về phả hệ với
một thủ lĩnh Trung Hoa huyền thoại, có một đứa con được sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa một phụ nữ
địa phương với một hậu duệ của vị thủ lĩnh ấy, và rồi có những thành viên khác của gia đình cá nhân
ấy được phong làm người cai trị địa phương ấy. Nói khác đi, cả Liệt truyện và Hoa Dương quốc chí tạo
ra một câu chuyện giống nhau nhằm kết nối những địa điểm tương ứng với một nhân vật ở thời cổ đại
của Trung Hoa. Nếu chúng ta xem xét đoạn mở đầu Toàn thư ở thế kỉ XV của Ngô Sĩ Liên, một văn
bản được viết gần như ngang với thời điểm Vũ Quỳnh “hiệu đính” Liệt truyện và viết bài tựa cho nó,
chúng ta sẽ thấy thậm chí còn nhiều sự tương đồng hơn nữa với Hoa Dương quốc chí.
Trong Toàn thư, Ngô Sĩ Liên tái tạo lại thông tin phả hệ từ Liệt truyện trong đó nối Thần Nông với
Kinh Dương Vương. Tuy nhiên, ông bắt đầu xử lí chất liệu này bằng một chú thích của riêng mình
trong đó chỉ ra những mối liên hệ khác giữa nước ông và các vị thủ lĩnh Trung Hoa cổ xưa khác nữa.
Trong chú thích này, Ngô Sĩ Liên gọi quê hương ông là Giao Chỉ, một cái tên cổ mà Trung Hoa đã đặt
cho vùng đất chính của đồng bằng sông Hồng, và gọi là Nam Giao, một khái niệm xuất hiện ở một
trong những văn bản Trung Hoa cổ nhất, cuốn Thượng thư, trong đó có lẽ cũng chỉ một khu vực tương
tự. Ông cũng đề cập đến các thủ lĩnh Trung Hoa cổ khác, như Hoàng Đế huyền thoại, [Đế] Nghiêu, và
bề tôi của ông, Hy Thúc, cũng như nhân vật nửa lịch sử [nửa huyền thoại] là Vũ, người sáng lập nổi
tiếng của triều Hạ (khoảng thế kỉ XXI trước CN đến thế kỉ XVI trước CN). Trích dẫn:
“Thời Hoàng Đế, muôn nước được thiết lập và Giao Chỉ phân ranh giới về phía Tây Nam, xa ngoài đất
của Bách Việt(41). Đế Nghiêu sai Hy [Thúc] đến ở Nam Giao để định vị đất Giao Chỉ ở phương Nam.
Rồi vua Vũ chia thiên hạ làm chín châu. Đất Bách Việt thuộc về đất Dương Châu. Giao Chỉ thuộc về
đất ấy(42).
Hoàng Đế, Nghiêu và Vũ đều được ghi chép là có đóng góp cho sự phân định ranh giới và sắp đặt của
thế giới như nó được biết đối với người Trung Hoa thời cổ, và Ngô Sĩ Liên kết nối vùng đất của ông
với những cá nhân đó và với những nỗ lực của họ. “Muôn nước” là một khái niệm có thể tìm thấy trong
các nguồn tư liệu Trung Hoa cổ. Tuy nhiên, tôi không biết có đoạn văn nào trong bất kì nguồn tư liệu
nào khẳng định rằng “Giao Chỉ được phân định ranh giới” ở thời Hoàng Đế hay không. Tương tự, có
một dòng trong sách Thượng thư khẳng định rằng vị thủ lĩnh thời xưa, Nghiêu, đã sai một người có tên
là Hy Thúc đến ở Nam Giao, nhưng mục đích của ông là để xác định nông lịch(43). Thượng thư không
đề cập gì đến Giao Chỉ hay vị trí của nó ở phương Nam. Và cuối cùng, Vũ được cho là đã chia thiên h
thành chín châu, cũng như Nhân Hoàng trước đó đã từng chia thiên hạ thành 9 vùng, nhưng những văn
bản đề cập đến điều này chẳng nói gì đến Giao Chỉ trong hệ thống sắp đặt ấy cả.
Vì vậy, Ngô Sĩ Liên đã kiến tạo những mối liên hệ nhất định giữa vùng đất của ông và những hành
động của những nhân vật nhất định trong thời viễn cổ Trung Hoa. Trong Toàn thư, ông đặt thông tin
này ngay trước ghi chép về phả hệ [họ Hồng Bàng] từ Thần Nông đến Kinh Dương Vương, những ghi
chép bắt nguồn từ Liệt truyện. Đặt bên nhau, thông tin này thiết lập vô số mối liên hệ giữa những nhân
lOMoARcPSD| 41487147
vật ở Trung Hoa thời cổ và khu vực mà rốt cuộc Việt Nam sẽ xuất hiện. Hơn thế, nó đã vận hành đúng
với cung cách phản chiếu rất sát đoạn mở đầu của “Thục Chí” trong Hoa Dương quốc chí. Do đó, trong
khi Ngô Sĩ Liên và (các) tác giả của Liệt truyện tham gia vào nhiều sự sáng tạo khi họ soạn những
công trình của mình, lúc đó đã từng có sự tồn tại một mô hình rõ ràng cho những dự đồ như thế trong
Hoa Dương quốc chí.
Kinh Dương Vương và “Truyện Liễu Nghị”
Trong khi chúng ta chỉ có thể tư biện rằng đoạn mở đầu trong Hồng Bàng thị truyện được gợi ý từ một
tác phẩm như Hoa Dương quốc chí, thì những đoạn khác trong câu chuyện cho thấy những sự song
hành trực tiếp hơn với những thông tin trong các văn bản hiện còn. Câu chuyện tiếp tục kể rằng Kinh
Dương Vương, nhân vật được giao cai trị phương Nam, có thể đi vào các vùng nước [thuỷ phủ], một
khái niệm mà các nguồn tài liệu Trung Hoa dùng để chỉ nơi ở của các vị thần nước và các vua rồng.
Có lẽ không gian phải là ở thuỷ phủ để ông gặp một phụ nữ có tên Thần Long, nghĩa là “Rồng thiêng”,
là con gái của một Động Đình quân nào đó, một người có cùng cái tên với một hồ lớn ở trung tâm
Trung Hoa ngày nay. Kinh Dương Vương cưới Thần Long và Thần Long sinh ra một con trai, Sùng
Lãm, người sẽ được gọi là Lạc Long Quân. Rồi câu chuyện lưu ý rằng Lạc Long Quân nắm quyền cai
trị vương quốc của cha và dạy cho dân cày cấy và nuôi tằm. Nó cũng lưu ý rằng lúc bấy giờ xuất hiện
một trật tự tôn ti giữa đấng chí tôn và bề tôi, giữa người trên và kẻ dưới, cũng như những mối quan hệ
đúng đắn giữa cha với con, giữa chồng với vợ(44).
Những nhân vật như Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân không được đề cập trong các nguồn tư liệu
Trung Hoa. Trong khi những bình luận trong đoạn văn về một trật tự tôn ti đúng đắn xuất hiện trong giai
đoạn xa xưa này rõ ràng phản ánh cái nhìn của Khổng giáo, thì nhiều học giả lại có xu hướng tin rằng Kinh
Dương Vương và Lạc Long Quân hẳn phải là những người anh hùng văn hoá có thật của người Việt Nam,
và phải tìm hiểu để lí giải nguồn gốc của họ. Chẳng hạn, học giả được chú ý là Đào Duy Anh đã cố gắng
làm điều đó với trường hợp Kinh Dương Vương trong một số công trình học thuật của mình cuối những
năm 1940 đầu 1950. Đào Duy Anh, cũng như nhiều hoc giả khác lúc bấy giờ, tin rằng người Việt Nam trong
lịch sử đã di cư xuôi về phía Nam đến đồng Bằng sông Hồng từ những khu vực ở Nam Trung Hoa(45). Ông
chỉ ra rằng khu vực xuang quanh sông Dương Tử nơi có hồ Động
Đình đã được biết đến từ thời cổ là khu vực của hai châu Kinh [Jing;] và Dương [Yang;]. Những
chữ trong tên hai châu này đồng âm với những chữ “Kinh” và “Dương” trong cái tên Kinh Dương
Vương [涇陽], nhưng chúng được viết khác nhau. Đào Duy Anh nhận ra điều này và cho rằng câu
chuyện về Kinh Dương Vương có lẽ bắt nguồn từ khi người Việt đang sống dọc sông Dương Tử ở khu
vực châu Kinh và Dương, và rằng qua nhiều thế kỉ người Việt truyền miệng câu chuyện này khi họ di
cư về phía Nam đến đồng bằng Sông Hồng. Khi câu chuyện rốt cuộc được viết ra, ai đó đã chọn các từ
đồng âm của Kinh và Dương, do đó làm mờ đi sự kết nối sử thực giữa Kinh Dương Vương và những
vùng địa lí là “Kinh” và “Dương” mà ngày nay là miền Trung Trung Hoa. Do đó, Đào Duy Anh cho
rằng một khi nhận ra nghĩa đen của Kinh và Dương, sự tồn tại của một Động Đình Quân cũng có nghĩa
[cho thấy] rằng những cái tên đó đều gắn với một khu vực có cùng tên gọi, nơi mà ông nghĩ rằng đó là
quê gốc của người Việt(46).
Đây là một lí thuyết khéo léo, và tôi lưu ý ở đây để cung cấp một ví dụ về kiểu nỗ lực mà các học giả
Việt Nam đã làm để hợp lí hoá những thông tin lạ lẫm trong Liệt truyện và kết nối nó với một hình
thức lịch sử khả chứng hơn. Tuy nhiên, rốt cuộc, lí thuyết này không chính xác.
Trước hết, ngày nay ý tưởng cho rằng người Việt di cư xuống phía Nam vào Việt Nam đã không còn
hợp khẩu vị nữa khi các nhà ngôn ngữ học hiện thời xem những cội nguồn của người Việt nằm ở khu
vực ngày nay là miền Trung Việt Nam và những phần phía Đông của Lào(47). Thứ hai, lí thuyết này
bỏ qua những mối liên hệ rõ ràng giữa đoạn văn này và một truyện ngắn thời Đường có tên Liễu
Nghị truyện của Lí Triều Uy vào thế kỉ VIII. Câu chuyện này xuất hiện đầu tiên trong một tập truyện
chí quái triều Đường, tập Dị văn kí của Trần Hãn. Sau đó nó được đưa vào một bố tổng tập ở thế kỉ X
là Thái Bình quảng kí ở một chương dành trọn cho những thông tin nói về rồng.
“Câu chuyện về Liễu Nghị” xảy ra trong thời Nghi Phụng (676-678) dưới sự trị vì của Đường Cao Tông.
kể về một học giả trẻ tên là Liễu Nghị người, sau khi thi trượt ở kinh đô, quyết đính đến thăm
một người bạn ở quận Kinh Dương [涇陽] tỉnh Sơn Tây. Lưu ý rằng những chữ Kinh, Dương trong tên quận
đây giống với chữ trong tên Kinh Dương Vương. Trên đường đi, Liễu Nghị gặp một gái chăn và
phát hiện ra rằng gái con của Long quân hồ Động Đình. Bố mẹ đã gả cho Kinh Xuyên quân
Sơn Tây, nhưng ông ta đã đối xử tệ với cô và cuối cùng ruồng rẫy cô. Rồi cô nhờ cậy Liễu Nghi
lOMoARcPSD| 41487147
mang thư gửi cho cha mình, Long quân hồ Động Đình, và tóm lại, cuối cùng Liễu Nghị đã lấy cô con
gái của Long quân(48).
Câu chuyện này rõ ràng là sự gợi ý cho cuộc hôn nhân giữa Kinh Dương Vương và Thần Long, con
gái của Động Đình quân mà chúng ta thấy trong Liệt truyện và Toàn thư. Trên thực tế, nó là một mối
liên hệ không phải không được lưu ý trong quá khứ, bởi nó được bình luận trong Toàn thư. Văn bản
Toàn thư được đặt rải rác với những chú thích ngắn gọn. Không rõ là ai hoặc là Ngô Sĩ Liên hoặc là
một học giả nào đó sau này đã viết những lời bình luận này. Dù thế nào, sau đoạn nói về cuộc hôn
nhân này, Toàn thư cũng có một bình luận có phần khó hiểu sau đây:
“Theo Đường kỉ, Kinh Dương lúc bấy giờ có người phụ nữ chăn dê, xưng là con gái út của Động Đình
quân, lấy con thứ hai của Kinh Xuyên, nhưng sau đó nàng bị bỏ. Cô giao một bức thư cho Liễu Nghị,
người đệ trình một kỉ vật choi Động Đình quân. Thế thì, những cuộc hôn nhân qua nhiều thế hệ giữa
Kinh Xuyên và Động Đìnhđã có một lịch sử lâu dài”(49).
Bất kể là ai viết bình luận này rõ ràng đều biết những thông tin trong Liễu Nghị truyện, mặc dù ông
khẳng định rằng nó bắt nguồn từ “Đường kỉ”(50). Tuy nhiên, lời bình luận khá rối rắm, đặc biệt là
dòng cuối khi nó lưu ý rằng những cuộc hôn nhân giữa Kinh Xuyên và Động Đình “có một lịch sử lâu
dài”. Như đã nói ở trên, Kinh Dương và Kinh Xuyên đều là 2 địa điểm ở tỉnh Sơn Tây, và cả hai đều
được đề cập đến trong Liễu Nghị truyện. Rõ ràng, người nào đó viết bình luận này đã gần như kết hợp
Kinh Dương Vương với Kinh Dương ở Sơn Tây khi mà những chữ này là giống nhau. Có vẻ n
người chú thích đang cố gắng nói rằng từ khi Kinh Dương Vương cưới con gái Động Đình quân thời
xa xưa, và từ khi có một cuộc hôn nhân ở thời Đường giữa con gái út của Động Đình Quân và một
người nào đó ở khu vực Kinh Dương, thì đã có một lịch sử hôn nhân lâu dài giữa hai vùng đất này.
Vấn đề là một trong những nhân vật đã cưới con gái Động Đình Quân là một con người, Kinh Dương
Vương, còn người kia lại là con trai của một con sông, Kinh Xuyên. Điều này rõ ràng là phi lí nhìn từ thực
tế lịch sử, nhưng nó có thể hiểu được bởi thông tin từ Liễu Nghị truyện là hư cấu, cũng như câu chuyện về
Kinh Dương Vương. Rốt cuộc, một số học giả Việt Nam có vẻ nhận ra điều này. Cuốn Khâm định Việt sử
thông giám cương mục ở thế kỉ XIX, một cuốn sử mà nội dung được kiểm duyệt bởi triều đình nhà
Nguyễn, đã không nhắc gì đến cuộc hôn nhân giữa Kinh Dương Vương và con gái Động Đình quân, một
dấu hiệu cho thấy ai đó đã nhận ra rằng thông tin này rõ ràng là một kiến tạo.
Lạc Long Quân, Âu Cơ và Liễu Nghị truyện
Trở lại với Hồng Bàng thị truyện, câu chuyện tiếp tục kể rằng mặc dù Lạc Long Quân thay thế cha
ông, Kinh Dương Vương, trong vai trò lãnh đạo nước Xích Quỷ, ông dành nhiều thời gian ở dưới thuỷ
phủ và chỉ xuất hiện khi người dân cần ông giúp đỡ. Gợi lại cái cách một trong những vị tổ của ông,
Đế Minh, đã có chuyến du chơi phương Nam, Đế Lai cũng làm tương tự. Ở đó ông để vợ ông, Âu Cơ, ở
một lâu đài trong khi ông đi thăm thú để thưởng thức sự giàu có của vùng đất [lạ], quên cả việc trở về
phương bắc. Người dân phải chịu đựng sự “phiền nhiễu” này và gọi Lạc Long Quân trợ giúp. Lạc
Long Quân quay trở lại và thấy Âu Cơ một mình. Ông biến mình thành một chàng trai trẻ đẹp và hai
người yêu nhau. Rồi Lạc Long Quân đem Âu Cơ đi, và khi Đế Lai sai tuỳ tùng của mình đi tìm Âu Cơ,
Lạc Long Quân đã biến hoá bằng vô số cách để doạ đuổi họ đi. Đế Lai đành phải quay về phương
Bắc(51).
Rồi Liệt truyện kể rằng Âu Cơ đẻ ra một kiểu bọc trứng. Nghĩ rằng đây là điềm không lành, bà bỏ cái
bọc ở ngoài đồng hoang, nhưng sau đó nó cho ra 100 quả trứng, mỗi quả nở ra thành một người con
trai(52). Lạc Long Quân trở về thuỷ phủ và Âu Cơ bị bỏ lại, phải một mình nuôi dưỡng các con.
Không thể chịu được cảnh này, Âu Cơ gọi Lạc Long quân lên và cố gắng bỏ con lại cho ông để có thể
trở về phương Bắc(53). Lạc Long Quân liền nói:
“Ta thuộc giống rồng, và là thủ lĩnh của loài dưới nước, nàng là thuộc giống tiên, sống ở trên cạn.
Tuy khí âm dương kết hợp lại mà sinh ra con cái, nhưng mà thủy hỏa tương khắc. Chúng ta không
cùng nòi giống. Sẽ rất khó sống với nhau lâu được. Chúng ta nên chia tay nhau. Ta sẽ đem năm mươi
con về Thủy Phủ, nơi chúng sẽ được các xứ mà cai trị. Năm mươi người con sẽ theo nàng sống trên
cạn, và sẽ chia nước ra mà cai trị”
lOMoARcPSD| 41487147
Năm mươi người con trai theo Âu Cơ sau đó tôn người có khả năng nhất trong số họ lên làm thủ lĩnh,
gọi là Hùng Vương, và xưng nước của họ là nước Văn Lang(54).
Đoạn văn này cực kì nổi tiếng khi nhiều học giả thời hiện đại đã viết về đoeeì mà họ xem là có ý nghĩa
sâu sắc chỉ mối tương tác giữa những người ở vùng nước và những người ở vùng cạn. Đặc biệt, các học
giả đã xem điều nàysự biểu tượng hoá mối tương tác giữa một nền văn hoá biển và một nên văn hoá
lục địa ở một thời điểm xa xôi nào đó trong quá khứ, một mối tương tác mà các học giả này nói rằng đã
xác định một cách sâu sắc đặc trưng của dân Việt(55). Chẳng hạn, Keith Taylor đã cho rằng:
“Những truyền thống huyền thoại xung quanh Lạc Long Quân và nguồn gốc của các vua Hùng đã phi
lộ một nền văn hoá mang thiên hướng biển đang tiến tới sự liên hệ với môi trường đất liền. Nền văn
minh đến với một người anh hùng văn hoá từ biển, người đã vượt lên trên sức mạnh của lục địa bằng
cách chiếm vợ của kẻ thù và biến cô ta thành mẹ của những đứa con thừa tự của mình. Chủ đề về người
anh hùng văn hoá bản địa này đang trung hoà một mối đe đoạ của phương Bắc bằng cách chiếm lại
nguồn gốc tính chính đáng của nó, báo hiệu một mối quan hệ lịch sử giữa người Việt và người Trung
Hoa. Nguồn gốc huyền thoại của các vua Hùng phản ánh một cơ sở văn hoá biển với những sự trưởng
thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa. Ý tưởng này sau đó được giới trí thức Việt
Nam đưa vào phả hệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ, cái đã gom tuyến đường nước phương Nam với
tuyến lục địa phương Bắc vào một gia đình hoàng gia đơn nhất, trong cái gia đình đó người sáng lập
được lựa chọn lùi lên tận vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại đầu tiên”(56).
Quan điểm của Taylor ở đây là, người Việt Nam đã sở hữu một “chủ đề về người anh hùng văn hoá
bản địa đang trung hoà một sự đe đoạ của phương Bắc bằng cách chiếm lại nguồn gốc tính chính
đáng của nó” trước khi tiếp xúc với người Trung Hoa. Tuy nhiên, không rõ người mà “mối đe doạ
phương Bắc” bị làm nền bởi “một người anh hùng văn hoá trừ vùng biển” này là ai. Khẳng định của
ông rằng “Nguồn gốc huyền thoại của các vua Hùng phản ánh một cơ sở văn hoá biển với những sự
trưởng thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa” cũng ngụ ý rằng các thủ lĩnh Việt
Nam đã kế thừa “những sự trưởng thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa” trước khi
tiếp xúc với người Trung Hoa. Nhưng một lần nữa, không rõ “sự tác động từ lục địa” hay “những sự
trưởng thành chính trị” này là gì. Tuy nhiên theo Taylor, những chủ đề này, như được thể hiện trong
câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ, đã hiện diện trong thời điểm tiếp xúc với Trung Hoa. Rồi ở
một thời điểm nào đó tiếp sau, giới trí thức Việt Nam đã trau chuốt câu chuyện này bằng cách thêm
những thông tin phả hệ sớm hơn, [tức là] dẫn ngược lên đến tận Thần Nông.
Việc một văn bản dường như được viết sau cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông ở thế kỉ XIII chứa
đựng “chủ đề về người anh hùng văn hoá bản địa đang trung hoà một mối đe đoạ của phương Bắc”
nên dẫn chúng ta tới sự hoài nghi tính cổ xưa của của một chủ đề như thế.
Tương tự, việc những vị thủ lĩnh chính trị trong một câu chuyện được viết bằng Hán văn cổ bởi một
thành viên hay một số thành viên của giới tinh hoa Việt Nam Hán hoá được mô tả là đã kế thừa “những
sự trưởng thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa” cũng nên dẫn chúng ta đến sự băn
khoăn liệu “những huyền thoại cổ” này phản chiếu những cách nhìn trung đại ở mức độ nào. Nói cho
công bằng, có thể có một câu chuyện nào đó được kể bởi “dân gian” không biết chữ ở một nơi nào đó
Đồng bằng sông Hồng về một Lạc Long Quân và Âu Cơ nào đó mà những học giả trung đại đã ghi
chép lại và trau chuốt nó. Tuy nhiên, ngay cả nếu một câu chuyện như thế tồn tại, vẫn thật nguy hiểm
khi phú cho nó tính cổ xưa và ý nghĩa văn hoá sâu sắc mà các học giả sở hữu, đặc biệt khi có khả năng
có nhiều chứng cứ tầm thường hơn minh chứng cho nguồn tư liệu [để sản sinh] một câu chuyện như
thế. Chẳng hạn, một văn bản Trung Hoa thế kỉ XVII dựa trên những tài liệu được thu thập trong giai
đoạn đô hộ [Đại Việt] đầu thế kỉ XV của nhà Minh bao gồm một câu chuyện địa phương về một con cá
sấu trong đó phần kết câu chuyện cung cấp những thông tin dưới đây:
“Cá sấu mỗi lần đẻ mấy chục quả trứng. Trứng nở, một số bò xuống nước thành cá sấu, một số
lên bờ, thành loài rắn lạ. Cá sấu mẹ có khi nuốt chúng để cho chúng không nảy nở nhiều”(57).
Do đó, có phải câu chuyện về năm mươi người con trai theo Lạc Long Quân xuống biển và năm mươi
người con trai theo Âu Cơ lên non thực sự là sự phản ánh kí ức văn hoá sâu sắc nào đó của cuộc tiếp
xúc giữa những phương thức sống dưới biển và trên lục địa? Hay có phải nó đơn thuần là một truyện
kể trung đại được đan dệt bởi một học giả bản địa người được gợi hứng bởi một truyện kể hư cấu về
những con cá sấu ở địa phương? Chúng ta không thể chắc chắn được, nhưng rõ ràng rất đáng khảo sát
bối cảnh trung đại để tìm ra một nguồn tư liệu tiềm năng cho những thông tin trong những truyện này.
lOMoARcPSD| 41487147
Và trong khi toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết địa phương có thể là một nguồn cảm hứng cho câu
chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ, thì chúng ta cũng không nên loại trừ khả năng câu chuyện này được
gợi hứng từ những nguồn tài liệu viết.
Tất nhiên, có vô số câu chuyện về rồng và tiên trong văn học Trung Hoa liên quan đến những khu vực
phía Nam sông Dương Tử. Theo đó, để xác định xem liệu có bất kì cái gì thống nhất trong câu chuyện
về Lạc Long Quân và Âu Cơ hay không, sẽ là khôn ngoan khi trước hết nên đào xới danh mục các câu
chuyện Trung Hoa viết về rồng và tiên. Chỗ tốt nhất để bắt đầu có lẽ là Liễu Nghị truyện, và như đã
biết, có những mối liên hệ rõ ràng giữa câu chuyện đó với câu chuyện về Kinh Dương Vương và Thần
Long. Và hoá ra, cũng có những sự tương đồng giữa Liễu Nghị truyện và đoạn văn trong Liệt truyện
đã dẫn ở trên. Những mối liên hệ ở đây không trực tiếp như những mối quan hệ liên quan đến Kinh
Dương Vương và Thần Long, nhưng chúng gợi ý một cách mạnh mẽ rằng câu chuyện này ít nhất gợi
một số ý tưởng cho câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Trong Liễu Nghị truyện, Liễu Nghị chuyển một bức thư cho Long quân hồ Động Đình sống dưới long
cung vì lợi ích của con gái ông. Khi Liễu Nghị đến cung điện, văn bản ghi chép những thông tin sau
đây:
[Liễu] Nghị hỏi [một người chỉ đường cho ông đến long cung]:
Động Đình quân đang ở đâu?
Chủ nhân của chúng tôi đang ở gác Huyền Châu. Ông đang bàn bạc về Hoả kinh với Thái Dương đạo
sĩ. Họ có lẽ sắp kết thúc rồi.
Hoả kinh nói về cái gì?
Chủ nhân của chúng tôi là rồng. Sức mạnh thần thánh của rồng liên quan đến nước; với một giọt
nước ông có thể chụp lên cả các ngọn núi và thung lũng. Trong khi đó, Đạo sĩ là người. Sức mạnh
thần thành cua người liên quan đến lửa; với một ngọn đèn, ông ấy có thể đốt cháy cung A Phòng [một
cung điện được xây dựng bởi Tần Thuỷ hoàng đế]. Vì hai loại trí tuệ thần thánh là khác nhau về chức
năng, nên sự biến hoá huyền diệu cũng rất khác nhau”(58).
Khi khẳng định của Lạc Long Quân với Âu Cơ có thêm một ý nghĩa mới sau khi đọc đoạn văn này,
thì tất nhiên không có cách nào khác phải thừa nhận chắc chắn rằng tác giả Hồng Bàng thị truyện đã
lấy ý tưởng từ Liễu Nghị truyện để giải thích rằng sự khác biệt giữa nòi rồng, Lạc Long Quân, và
dòng tiên/trên cạn, Âu Cơ, là do sự khác biệt giữa lửa và nước. Tuy nhiên, khi ai đó xem xét cái cách
thông tin trong hai văn bản bao quanh các loại rồng, tiên, người, lửa, nước, khí, âm và dương, thì rõ
ràng là chúng ta đang quan tâm nhiều đến những ý tưởng từ toàn bộ lĩnh vực hiểu biết và truyền
thuyết của Đạo giáo hơn là những ý tưởng thuộc về một ý thức mang tính lịch sử sâu sắc về sự chạm
trán xa xưa giữa hai nền văn hoá khác nhau.
“Việt/Yue” như là một khái niệm tự xưng.
Sự ảnh hưởng của lịch sử và văn học Trung Hoa đối với Hồng Bàng thị truyện là cực kì có ý nghĩa, ở
chỗ nó hoàn toàn ủng hộ lập luận rằng câu chuyện này là một kiến tạo thời trung đại. Với sự thật đó,
chúng ta cần phải xét lại toàn bộ hiểu biết của chúng ta về lịch sử Việt Nam để điều chỉnh cho đúng với
thực tế này. Bằng những gì tiếp theo, tôi sẽ cố gắng phác thảo đại lược một đề cương của một sự diễn
giải thay thế về lịch sử Việt Nam thời trung đại và sớm hơn, cái có thể giúp lí giải về người viết Hồng
Bàng thị truyện và lí do viết. Vì giới hạn khuôn khổ bài viết, sự thảo luận này sẽ rất ấn tượng chủ nghĩa
và sẽ thuần tuý nhấn mạnh một cặp xu hướng mà tôi cho là chúng ta nên xem xét khi khảo sát giai đoạn
này. Thứ nhất, đối lập với niềm tin rằng “nhân dân” của Đồng bằng sông Hồng ở thiên niên kỉ đầu
trước CN đã sở hữu bản sắc nào đó mà họ duy trì suốt cả nghìn năm Trung Hoa cai trị, tôi cho rằng
chúng ta có thể nhận thấy xu hướng
lOMoARcPSD| 41487147
từ từ trong một phần của giới tinh hoa Hán hoá, những người sống ở một khu vực trải dài từ vùng Bắc
Việt Nam ngày nay đến tận Quảng Đông là sử dụng khái niệm “Việt” (Yue) để tự xưng, đặc biệt vì
những mục đích chính trị. Thứ hai, sự phát triển xa hơn của một cảm quan địa phương về sự nhận dạng
[hay “bản sắc” HQV], cái chúng ta nhận thấy được tái hiện trong một công trình như Liệt truyện, là
một phần của sự biến chuyển rộng lớn hơn ở khu vực này. Đặc biệt ở những khu vực được cai trị bởi
những thành viên của giới tinh hoa Hán hoá, người dân dựa nhiều vào những mẫu hình địa phương chủ
nghĩa về sự nhận dạng [“căn cước” hay “bản sắc”]. Trong quá trình này, các thành viên của giới tinh
hoa đã quét qua các văn bản sớm hơn để kiếm tìm những thông tin mà họ có thể dùng để trang hoàng
cho cái bản sắc địa phương và cảm quan về vị trí [của họ].
Hơn một thập kỉ trước, sử gia Charles Holcombe đã viết một bài cực kì sắc sảo về lịch sử cổ xưa của cái
mà ông gọi là “vùng viễn Nam của Trung Hoa”. Trong đó, ông cho rằng chẳng có “Việt Nam” nào
thiên niên kỉ đầu trước CN hay ở bất cứ giai đoạn nào suốt thời kì Trung Hoa cai trị cả. Thay vào đó,
ông chứng minh rằng đây là một thế giới mà, cùng với khu vực của cái mà ngày nay chúng ta gọi là
Nam Trung Hoa, đang biến đổi chậm chạp khi các đồng bằng sông Hồng và sông Li giang dần dần trở
thành các hòn đảo Hán hoá giữa một biển đa sắc tộc của những cư dân phi-Hán hoá(76). Xây dựng dựa
trên quan sát này, tôi sẽ lập luận rằng thay vì có thực tế là giới tinh hoa Hán hoá này rốt cuộc ghi chép
những thông tin về các nền văn hoá bản địa, chính là giới tinh hoa Hán hoá ở các khu vực này thực tế
đã bắt đầu kiến tạo ra cảm quan về bản sắc địa phương cho chính họ. Họ làm như vậy không phải bằng
cách quay về với nhân dân địa phương, mà là hướng vào các văn bản Trung Hoa hiện còn.
Đó chính là: người Trung Hoa vốn chỉ những nhóm dân khác nhau về phía Nam bằng khái niệm Việt,
hay gọi chung là Bách Việt. Ngoại trừ một vương quốc cổ được gọi là Việt quốc, Việt/Yue là một cái
tên mà người Trung Hoa dùng để gọi nhiều nhóm dân khác nhau, những người xa tới mức chúng ta
biết, đã không dùng khái niệm này để chỉ bản thân mình(77). Tuy nhiên, rốt cuộc, có một số cá nhân
đã kế thừa một cách có ý thức khái niệm “Việt/Yue” vì mục đích của họ, đặc biệt trong những quốc
hiệu. Khá thú vị là, những người đầu tiên làm như vậy toàn là hoặc người Hán hoặc là hậu duệ có pha
chút Hán. Triệu Đà, một viên quan Trung Hoa đã thiết lập một vương quốc ở thế kỉ III trước CN bao
trùm một khu vực kéo dài từ tỉnh Quảng Đông đến Bắc Việt Nam ngày nay, có lẽ là người sớm nhất
dùng khái niệm “Việt/Yue” cho mục đích “tự xưng” này. Ông gọi lãnh thổ của nước mình là Nam
Việt(78). Tuy nhiên, trong những thế kỉ tiếp theo, những người khác cũng sẽ làm tương tự.
Chẳng hạn, có một nước Nam Việt được tuyên bố bởi một ông Lý Bí nào đó vào thế kỉ VI ở khu vực
mà ngày nay thuộc Việt Nam. Lý Bí được cho là hậu duệ đời thứ 7 của người Trung Hoa đã chạy trốn
xuống phía Nam cuối thời Hán đến khu vực thuộc Việt Nam ngày nay. Trong suốt cả giai đoạn đó,
dường như gia đình này có quan hệ hôn nhân qua lại với người dân địa phương và thiết lập những
mối ràng buộc mạnh mẽ với khu vực này. Năm 544, Lý Bí nắm lấy cơ hội có sự rối loạn chính trị
trong vùng để thiết lập một vương quốc của riêng mình và tự tuyên bố mình là Hoàng đế của nước
Nam Việt(79).
Bởi Toàn thư đề cập đến cả Triệu Đà và Lý Bí, nên các học giả hiện đại cho rằng đây là một dấu hiệu
cho thấy một ý thức Việt Nam đã được khẳng định dưới sự ách cai trị của Trung Hoa. Người Việt
mong muốn độc lập và không bao giờ quên giai đoạn Triệu Đà thiết lập một vương quốc ở khu vực
này. Theo các học giả đó, những thông tin về vương quốc của Triệu Đà đã được truyền miệng từ thế hệ
này qua thế hệ khác, và rồi ở thế kỉ VI, Lý Bí đã nhập vào kí ức bản địa này. Tuy nhiên, xảy ra một vấn
đề với ý tưởng này là có những người không thuộc khu vực Việt Nam ngày nay cũng sử dụng khái
niệm “Nam Việt/Yue” trong cùng giai đoạn, bằng cách đó nó chất vấn ý tưởng rằng có những kí ức
được chia sẻ chỉ hạn chế trong phạm vi “nhân dân” ở Đồng bằng sông Hồng.
Chẳng hạn, ở thế kỉ VII, một người có tên là Lâm Sĩ Hồng nổi lên qua những vị trí của một nhóm
người nổi loạn ở khu vực ngày nay thuộc tỉnh Giang Tây ở Trung Hoa, và cuối cùng lãnh đạo nhóm
này đánh bại một đội quân được nhà Tuỳ gửi đến để dẹp loạn. Sau đó Lâm Sĩ Hồng đã tự xưng là Vua
của nước Nam Việt. Không lâu sau đó, ông tự xưng là Hoàng đế và đặt tên nước là Chu (Sở)(80).
Theo đó, Lâm Sĩ Hồng dường như đã thử nghiệm những khả năng chính trị khác nhau. Ông vui thú với
ý tưởng là vua của Nam Việt trước khi chuyển sang một biểu tượng khác của phương Nam, là nước Sở
cổ xưa, và nâng ông lên vị trí Hoàng đế.
Một nhân vật khác cũng trong giai đoạn này đã cân nhắc tiếp nối con đường của Lâm Sĩ Hồng nhưng
đã không thành. Phùng Áng (? – 646) đến từ khu vực ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông. Tuy nhiên, tổ
tiên pha tạp của ông đã đến từ miền bắc Trung Hoa. Ở một thời điểm nào đó sau khi phần phía Bắc của
lOMoARcPSD| 41487147
Trung Hoa nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Bắc Nguỵ năm 386 sau CN, một thành viên của gia đình
Phùng Áng chạy đến Koryo, hay là Triều Tiên ngày nay. Từ đó ông này gửi một người con trai, Phùng
Ức, cùng với ba trăm người khác tiến về phía Nam Trung Hoa, rồi nằm dưới sự kiểm soát của Nhà
Tấn. Phùng Ức định cư ở Panyu, ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông. Cháu nội của ông lấy một Phu nhân
Tiễn nào đó từ một cự tộc địa phương, được gọi là một gia tộc “Việt/Yue” trong các nguồn tư liệu
Trung Hoa. Các thành viên của gia tộc họ Phùng tiếp nhau là người lãnh đạo địa phương, và từ cái gia
đình có nhiều dấu ấn ảnh hưởng phương Nam này mà Phùng Áng được sinh ra.
Khi trưởng thành, Phùng Áng trở thành một vị tướng của nhà Tuỳ. Khi nhà Tuỳ đổ, ông quay trở về khu
vực Quảng Đông và cuối cùng, sau nhiều trận chiến, ông đã kiểm soát một vùng lãnh thổ rộng lớn
khu vực ngày nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây và thậm chí là Hải Nam. Những bộ hạ nói với
Phùng Áng rằng với quyền lực của mình, ông nên tự xưng là vua của Nam Việt/Yue. Tuy nhiên, Phùng
Áng đã từ chối. Ông thừa nhận rằng ông là vị thủ lĩnh duy nhất ở khu vực này và rằng ông là người
thành công hơn bất kì ai khác, nhưng ông do dự khi tự coi mình là một ông vua và cho rằng việc tự
xưng một cái tên tự phóng đại như vậy sẽ sỉ nhục thành tựu của tổ tiên ông(81).
Điều mà các ví dụ này gợi ý là ở thiên niên kỉ đầu sau CN, không có một bản sắc “Việt/Yue” rõ ràng
được giới hạn cho một nhóm người nào đó ở Đồng bằng sông Hồng hay được hiểu bởi những đám
đông không biết chữ. Thay vào đó, những ví dụ này chỉ ra rằng ở một khu vực bao trùm tỉnh Quảng
Đông và Bắc Việt Nam hiện nay hai khu vực mà Charles Holcombe đã chứng minh là bị Hán hóa
nhiều nhất trong khu vực – đã từng tồn tại những thành viên khác nhau của giới tinh hoa Hán hóa
những người biết rằng “Việt/Yue” là một khái niệm đã được sử dụng từ lâu trong các văn bản thành
văn để chỉ người dân ở khu vực này. Kết quả là, ở một vài thời điểm khi một số trong các nhân vật này
cố gắng kiến tạo không gian chính trị của riêng mình, họ sử dụng khái niệm này để chỉ rõ vị trí của họ
trong một thế giới rộng lớn hơn. Tuy nhiên, không có chứng cứ cho thấy những người dân bản địa phi-
Hán hóa thực sự sử dụng khái niệm “Việt/Yue”, hay cho thấy rằng việc sử dụng thuật ngữ này của
giới tinh hoa Hán hóa có nghĩa là nó lôi cuốn những người dân làm như vậy.
Từ những khởi đầu này ở thiên niên kỉ đầu sau CN, khái niệm “Việt/Yue” với tư cách một khái niệm
được sử dụng trong các quốc hiệu được tạo ra bởi người Trung Hoa thời Hán hay những người ít nhất
có một phần dòng máu Hán Trung Hoa ở khu vực ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông và Bắc Việt rồi
sẽ được đẩy lên bởi giới tinh hoa Hán hóa ở Đồng bằng sông Hồng vào những thế kỉ đầu của thiên
niên kỉ thứ hai sau CN nhằm đặc chỉ khu vực dưới quyền kiểm soát của họ. Ở đây một lần nữa, chứng
cớ văn bản đã gợi ý rằng khái niệm này vẫn được sử dụng trong một cảm quan chính trị chủ đạo để
cho thấy sự nghiệp của [các] triều đại. Thực vậy, bài tựa Liệt truyện cho chúng ta một cảm giác như
vậy. Tôi đã trích dẫn một số trong những thông tin này ở trên. Tiếp theo là toàn bộ đoạn văn mở đầu
của bài tựa đó:
“Mặc dù Quế Hải nằm ở [khu vực] Lĩnh Nam, nhưng kì công của những núi non và sông suối, sự linh
thiêng của đất, sự anh hùng của con người nơi đây, và những việc kì lạ thiêng liêng đều có thể tìm thấy
đây(82). Từ trước thời Xuân Thu và Chiến Quốc (722 221 trước CN), không xa thời thái cổ, phong
tục phương Nam vẫn còn giản phác. Chưa có sử sách gì của vương quốc để ghi chép các sự kiện. Vì
vậy, [nhiều thông tin về] hầu hết các sự kiện đã bị mất mát. Những điều may mắn tiếp tục còn tồn tại
và không bị huỷ hoại là do những sự lưu truyền bằng miệng của nhân dân. Rồi trong thời Lưỡng Hán,
thời Tam Quốc và vào thời Đông Tấn, Tây Tấn, Nam Bắc Triều, rồi đến thời Đường, Tống, Nguyên,
Minh, rốt cuộc mới có các sách sử ghi chép các việc, như sách Lĩnh Nam chí, Giao Quảng chí, An
Nam chí lược, Giao Chỉ chí lược,… tất cả mới có thể tham khảo được(83). Tuy nhiên, đất Việt ta là
vùng đất hoang dã từ xưa. Vì vậy, những ghi chép về nó còn sơ lược. Tuy nhiên, vương quốc ở đây bắt
đầu với các vua Hùng. Dòng suối văn minh dần dần truyền qua các triều Triệu [tức là Triệu Đà], Ngô,
Đinh, Lê, Lý, Trần và đến nay đã ra đến biển. Vì vậy, những ghi chép lịch sử của vương quốc đã trở
nên đặc biệt chi tiết. Nhưng với sự sáng tác tập truyện này, liệu những thông tin trong đó có phải là sử?
Không có ghi chép về thời điểm ra đời của chúng hay người nào đã hoàn thành chúng. Có lẽ một bản
thảo đã được tạo ra bởi những học giả xuất sắc ở thời Lí và Trần, và rồi chúng được nhuận sắc thời gần
đây bởi những bậc đáng kính vốn am hiểu và hiếu cổ”(84)
Trong đoạn văn này, khái niệm “Việt” xuất hiện trong cụm từ “ngã Việt”. Đây là một khái niệm khó nắm
bắt. Về mặt lí thuyết, nó cũng có thể được dịch là “Chúng ta người Việt”, nhưng trong ngữ cảnh của bài tựa
này, và trong việc sử dụng nó ở những chỗ khác, rõ ràng nó không chỉ một nhóm người mà chỉ một tập
đoàn mang tính triều đại, và rộng ra, một vương quốc. Thực vậy, đây chính là cách chúng ta thấy khái niệm
“Việt” được sử dụng trong các ghi chép lịch sử về thời trung đại. Chẳng hạn, Đinh
lOMoARcPSD| 41487147
Bộ Lĩnh, người sáng lập triều Đinh, đã đặt tên nước mình là Đại Cồ Việt năm 968 và một năm sau
phong cho con trai mình tước hiệu “Nam Việt vương”(85). “Đại” và “Cồ đều có nghĩa là “vĩ đại”, chữ
đầu là khái niệm Trung Hoa, chữ sau là khái niệm Việt Nam. Có thể Đinh Bộ Lĩnh đã chọn khái niệm
này để phân biệt nước ông với một nước “Đại Việt/Yue” đã được thiết lập năm 917 ở khu vực mà
ngày nay thuộc Quảng Đông(86). Bằng cung cách này, người Việt thời trung đại có vẻ như đã tiếp tục
cách làm của giới tinh hoa chính trị Hán hóa từ khu vực rộng hơn trong việc tự xem các vương quốc
của mình là “Việt/Yue”. Tuy nhiên, điều nhất quán ở đây là phạm vi mà giới tinh hoa ở Đồng bằng
sông Hồng sau đó đã cố gắng gia cố cho khái niệm này, và những tập đoàn chính trị của họ, với sự
chứng thực xa hơn dựa vào những văn bản Trung Hoa hiện còn. Đây là một hiện tượng hiển nhiên có
sức thuyết phục trong đoạn văn trích từ bài tựa viết cho Liệt truyện [đã dẫn] ở trên.
Toàn bộ thông tin trong đoạn văn này được đưa ra nhằm giải thích cho vị trí và sự tồn tại của “Ngã
Việt”. Điều đáng chú ý là toàn bộ thông tin này được tạo nghĩa thông qua việc chỉ dẫn tới những khái
niệm đã tồn tại từ lâu trong các văn bản Trung Hoa, và điều đó cũng khá mang tính “Hán tâm”. Liệt
truyện khẳng định nó đang cung cấp thông tin về vùng “Quế Hải”, một khái niệm Trung Hoa để chỉ
các vùng ven biển ở khu vực ngày nay thuộc miền Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, tức là vùng
“Lĩnh Nam” men theo những đường biên phía Nam của khu vực ngày nay thuộc các tỉnh Quảng Tây
và Quảng Đông. Nó là một khu vực vốn là một phần của “những vùng hoang dại xa xôi” [yêu hoang],
một khái niệm địa lí mang tính Hán-tâm có từ thiên niên kỉ đầu trước CN và được dùng để chỉ những
vùng đất rất xa xôi so với kinh đô của đế chế. Và rồi khi khu vực này trải qua các triều đại Trung Hoa
(từ Hán đến Minh), nó được hợp thức thông qua sản phẩm của các văn bản viết về khu vực này được
thực hiện bởi các tác giả Trung Hoa. Quá trình này sau đó được làm sâu sắc thêm dưới triều Lý
Trần như là một sự truyền bá của “văn minh” [văn minh], bằng điều được ngụ ý là toàn bộ danh mục
các văn bản và những lời giáo huấn được liên kết với truyền thống học thuật Trung Hoa, được duy trì
một cách đầy đủ.
Do đó, từ đoạn văn này, chúng ta có thể có nhận thấy rằng người Việt Nam có học ở thời trung đại hẳn
phải kiểm tra những văn bản Trung Hoa hiện có [lúc bấy giờ] và nhận thấy rằng thông tin về khu vực
của họ trong tương quan với thế giới đã phát triển dần dần qua nhiều thời đại. Họ dùng các thông tin
này để cung cấp những chứng cớ trên văn bản về khu vực họ sống đặt trong một thế giới rộng lớn hơn.
Tự hào về triều đại hiện tồn của Ngã Việt, họ liền phóng chiếu sự tồn tại của nó vào quá khứ bằng cách
kiến tạo ra một “quốc thống” cho sự kế tục về chính trị từ các vua Hùng qua Triệu Đà đến các triều đại
ngắn ngủi khác nhau của thế kỉ thứ X, và cuối cùng là đến triều Lý và Trần. Điều này rõ ràng là một
hành động kiến tạo, vì sự phân tích văn bản đối với Hồng Bàng thị truyện ở trên đã chỉ ra, không có
các vua Hùng trong thực tế. Hơn nữa, có những vương quốc Nam Việt khác trong khu vực bên cạnh
[nước Nam Việt] của Triệu Đà. Việc lựa chọn nước Nam Việt của Triệu Đà, thay vì Lý Bí hay Lâm
Hồng, là một quyết định tùy tiện trong quá trình kiến tạo này.
“Bước ngoặt địa phương”
Khao khát muốn đồng nhất [mình] với các tập đoàn chính trị địa phương và dùng các văn bản để kiến
tạo một cảm quan về tầm quan trọng cho khu vực này ở một bộ phận của giới tinh hoa người Việt thời
trung đại cũng được phản chiếu trong nhiều khu vực của đế chế Trung Hoa ở hầu như cùng thời điểm.
Các học giả của thời nhà Tống đã cho rằng sự biến đổi chủ yếu xảy ra trong giai đoạn này là giới tinh
hoa chuyển sự tập trung từ địa hạt quốc gia sang phạm vi địa phương riêng của họ. Đặc biệt hơn nữa,
khi quyền kiểm soát chính trị của đế chế bắt đầu phân rã trong thời Đường mạt, và các phần phía Bắc
của đế chế bị mất ở thời Tống, giới trí thức tập trung nhiều hơn vào việc củng cố địa vị của mình trong
các vũ đài địa phương họ hơn là tập trung tìm kiếm quyền lực ở kinh đô. Trải qua thời gian, “bước
ngoặt địa phương” này, như nó thường được mệnh danh, sau đó tự bộc lộ bằng những cách thức khác
nhau, từ các chiến lược hôn nhân đến một hứng thú học thuật tăng cao đối với các khu vực địa
phương(87). Nói khác đi, những sự đổi thay về xã hội của giai đoạn này cung cấp một nền tảng hoàn
hảo cho sự xây dựng những truyền thống được kiến tạo.
lOMoARcPSD| 41487147
Trong khi Đồng bằng sông Hồng có sự khác biệt vào giai đoạn này ở chỗ nó đã trở nên tự chủ thoát khỏi sự
cai trị trực tiếp của Trung Hoa, người ta có thể cho rằng đây là một “bước ngoặt địa phương” đáng so sánh
với những thay đổi tương tự trong sự quan tâm của giới tinh hoa ở các khu vực khác của đề chế Trung Hoa
lúc bấy giờ. Chẳng hạn, ở thế kỉ X, tiếp sau sự sụp đổ của nhà Đường, một học giả có tên là Đỗ Quang Đình
soạn một tuyển tập các truyện chí quái về vùng Tứ Xuyên. Công trình này thực hiện một chức năng rất giống
với Liệt truyện ở chỗ nó “thuần hóa” các câu chuyện chí quái từ khu vực này và ở quá trình đưa ra một cảm
quan về sự gắn kết với khu vực(88). Hơn nữa, giống như (những) soạn giả của Liệt truyện, Đỗ Quang Đình
dựa nhiều vào các nguồn tư liệu hiện còn [lúc bấy giờ] để soạn văn bản của ông. Vì vậy, không những Liệt
truyện không phải là một ghi chép các câu chuyện truyền miệng lưu truyền qua các thế kỉ, mà nó cũng
không thuần nhất ở chỗ có các vẳn bản Hán cổ khác được soạn trong hầu như cùng thời gian và được sáng
tác theo cùng kiểu và vì cùng mục đích.
Thêm nữa, đã xuất hiện những người nhóm người khác cũng hướng đến cùng một luồng thông tin
giống như các học giả Việt Nam để kiến tạo cảm quan của riêng họ về một bản sắc địa phương. Những
người mà ngày nay chúng ta nhắc đến như là những người Quảng Đông chẳng hạn cũng đã tham d
vào nhiều động thái văn chương tương tự như người Việt Nam và ở hầu như cùng thời điểm. Giống
như người Việt, người Quảng Đông cũng tự gọi họ là Việt/Yue. Ngày nay, một chữ khác được dùng để
thể hiện người Việt/Yue Quảng Đông, [đó là []]. Tuy nhiên, trong quá khứ, chữ này được dùng
thông nhau với chữ đồng âm mà ngày nay dùng đặc chỉ người Viêt [tức là ]. Cũng giống như
người Việt, có những học giả Quảng Đông đã trông vào các nguồn tư liệu Trung Hoa sớm hơn để tìm
kiếm thông tin lịch sử về tộc Việt/Yue, trong đó nó được viết với chữ “ hoặc “.
Một ví dụ về hiện tượng này là cuốn Bách Việt tiên hiền chí của Âu Đại Nhâm. Một người bản xứ tại
Quảng Đông là Âu Đại Nhậm đã sưu tầm các thông tin lịch sử về nhiều thành viên khác nhau của
Bách Việt, những người mà ông cho là “đáng kính trọng” [hiền]. Phần lớn những người có mặt trong
cuốn sách này đều sống ở khu vực Quảng Đông ngày nay, nhưng cũng có những người không sống ở
đó. Trong số đó có Sĩ Nhiếp, một Thái thú người Trung Hoa đã cai trị Bắc Việt Nam vào thế kỉ III sau
CN và là người mà Ngô Sĩ Liên tôn xưng là “vương” trong Toàn thư vì những đóng góp của ông cho
khu vực này, đặc biệt là những nỗ lực được ghi nhận của ông trong việc dạy chữ Hán cổ [cho người
Việt] (89).
Một ví dụ khác về một văn bản xuất xứ từ Quảng Đông có dùng một số chất liệu cùng nguồn như
người Việt từng dùng là cuốn Quảng Đông tân ngữ của Khuất Đại Quân (1630 1696). Công trình
này là một cuốn “loại thư” bao hàm nhiều chủ đề được viết từ lâu bởi hoặc người Trung Hoa từ thiên
niên kỉ đầu trước CN cho đến ít nhất là thời Tống, hoặc bởi một người Quảng Đông sau đó. Một chủ
đề có liên quan đến những phụ nữ Việt/Yue. Ở đây, Quảng Đông tân ngữ thừa nhận rằng chị em bà
Trưng là những người phụ nữ Việt đầu tiên nổi tiếng, nhưng cho rằng điều đó phụ thuộc vào sự mới
mẻ của việc họ đã “tiếm” vương hiệu cho riêng mình, một việc mà những người phụ nữ khác chưa
từng làm trước đó. Rồi nó tiếp tục đề cập đến Bà Triệu, một chiến binh nữ của thế kỉ III, sống ở một
nơi nào đó trong khu vực ngày nay thuộc miền Trung Việt Nam và là người đã cưỡi voi ra trận với hai
vú dài vắt qua vai. Tuy nhiên, Quảng Đông tân ngữ bàn luận sơ sài về bà khi đơn thuần [coi bà] chỉ
như một “tên cướp dũng cảm”(90).
Thừa nhận nhưng lại hạ thấp vai trò quan trọng của những người phụ nữ đó, những người là trung tâm
của lịch sử Việt Nam ngày nay, sau đó Quảng Đông tân ngữ tiếp tục cho rằng có những người phụ nữ
Việt/Yue ở khu vực này trong quá khứ còn nổi tiếng hơn họ, ví như hai người con gái của tộc Tiễn
Quảng Đông. Một trong hai người này xuất hiện trước hai bà Trưng và đã bảo vệ vùng đất này trước
các “tù trưởng dân man” [man tù] trong thời đại hỗn loạn sau sự sụp đổ của nhà Tần vào năm 206 trước
CN(91). Tộc Tiễn này là một gia tộc mà Phùng Áng có quan hệ hôn nhân. Nếu chúng ta nhắc lại, thì
ông là người được đề cập ở trên, người ở cuối triều Tuỳ được những tòng thuộc của mình ủng hộ việc
thiết lập một vương quốc và tôn xưng ông là “Nam Việt vương”. Nếu Phùng Áng làm như vậy, và
vương quốc của ông duy trì được sự tự trị đủ dài khỏi sự cai trị của Trung Hoa, thì có lẽ ngày nay đã có
2 nước Việt/Yue độc lập, vì ở thời trung đại các đồng bằng như Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng
sông Li là khá tương đồng. Ở cả hai khu vực đều có một giới tinh hoa Hán hoá nhỏ bé đang nỗ lực tạo
ra một cảm quan về bản sắc địa phương, tức là, một cảm quan về việc mình “là người Việt/Yue”. Và cả
hai đã làm như vậy bằng cùng một cách, sử dụng các thông tin từ các nguồn tư liệu Trung Hoa hiện tồn
[lúc bấy giờ] để tạo ra các câu chuyện về chính mình.
Kết luận
lOMoARcPSD| 41487147
Keith Taylor từng viết rằng người Việt Nam “học cách để khớp nối các bản sắc phi Hoa vào các khái
niệm thuộc di sản văn hoá của Trung Hoa”(92). Điều này đúng ở một phạm vi nào đó. Nhưng, chúng ta
cần phải cẩn trọng ở cách chúng ta hiểu nhận định này. Rồi Taylor, như nhiều học giả ở Việt Nam ngày
nay vẫn làm, lập luận rằng vua Hùng đã thực sự tồn tại, và rằng truyền thống chính trị có trước khi tiếp
xúc với Trung Hoa này đã tạo nên một cảm quan của người Việt về bản sắc, cảm quan được duy trì
suốt một nghìn năm Trung Hoa cai trị cho đến khi rốt cuộc nó được khớp nối “vào các khái niệm thuộc
di sản văn hoá của người Trung Hoa” ở thời trung đại. Tuy nhiên, tôi cho sự thảo luận về Hồng Bàng
thị truyện trong bài tiểu luận này đã chứng minh rằng các vua Hùng không có thật. Thay vào đó, họ
được kiến tạo ở thời trung đại với tư cách là một bộ phận của một quá trình trong đó đầu tiên giới trí
thức trinh hoa Hán hoá ở Đồng bằng sông Hồng đã kiến tạo ra, sau đó khớp nối một bản sắc riêng vào
các khái niệm thuộc di sản văn hoá của người Trung Hoa. Điều đó không có nghĩa là không tồn tại
những thể chế ở Đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỉ đầu tiên trước CN. Các trống đồng và các di
vật khác mà các nhà khảo cổ thế kỉ XX đã khai quật gợi ý rằng dường như đã tồn tại các thể chế đó.
Tuy nhiên, không có chứng cớ nào cho thấy rằng các học giả Việt Nam trung đại biết về trống đồng
hay những nhóm người khác đã sử dụng chúng [ở thời trung đại]. Đó là một truyền thống được kiến tạo
thế kỉ XX. Tuy nhiên, những gì mà giới tinh hoa Hán hoá thời trung đại thực sự biết là những văn
bản cổ, và họ dựa vào những văn bản xưa cũ ấy để lấy chất liệu và cảm hứng nhằm kiến tạo một lịch
sử cũng như một bản sắc bản địa cho bản thân mình.
Giới tinh hoa Hán hoá ở Đồng bằng sông Hồng không đơn độc khi làm như vậy. Các học giả ở khu
vực thuộc đế chế Trung Hoa, như Tứ Xuyên và Quảng Đông, cũng tham gia vào những việc làm tương
tự ở những thời điểm tương tự. Đều kinh qua khu vực này trong hầu như cùng một giai đoạn, các học
giả ngoảnh nhìn và hứng thú với những vùng đất địa phương của mình. Họ tạo ra những trước tác về
các địa phương của họ, như các truyện chí quái, bằng cách khảo xét những gì đã từng được viết về khu
vực của họ [trong quá khứ]. Trong quá trình này, họ đóng góp cho việc sáng tạo ra một bản sắc địa
phương. Cuối cùng, cái dự án vốn được bắt đầu bởi giới tinh hoa Hán hoá thời trung đại được [người]
Việt Nam ngày nay dựa vào để phát triển xa hơn cả. Trải qua nhiều thế kỉ, những truyền thống họ kiến
tạo ra trở thành tự nhiên thứ hai. Thực vậy, trải nửa thế kỉ qua, dưới sự chi phối của chủ nghĩa dân tộc
ở Việt Nam, những truyền thống được kiến tạo của giới tinh hoa Hán hoá thời trung đại này giờ đây đã
trở thành những chân lí không thể thay đổi. Trong khi đó, ẩn ý trong lời nhận xét của Lê Quý Đôn
rằng Liệt truyện, nguồn tư liệu chính yếu của những truyền thống được kiến tạo ấy, đã vay mượn
“nhiều không thể kể xiết” những văn bản khác đã bị cố tình bỏ qua.
LIAM C KELLEY là Phó Giáo sư về Lịch sử Đông Nam Á ở Đại học Hawai’I at Manoa. Tác giả
muốn tỏ lời cảm ơn đến những nhà phê bình ẩn danh, Tạ Chí Đại Trường [Source: Journal of
Vietnamese Studies, Vol. 7, No. 2 (Summer 2012), pp. 139-162] và Keith Taylor [xem bài bình
luận của ông tại đây] vì những góp ý và sự sáng suốt của họ.
Tóm tắt
Bài viết này khảo sát có phê phán tác phẩm có tên Hồng Bàng thị truyện (Truyện về họ Hồng Bàng)
trong một văn bản ở thế kỉ XV, cuốn Lĩnh Nam chích quái liệt truyện. Truyện này là nguồn tư liệu cho
thông tin lịch sử về các vua Hùng. Các học giả lâu nay đã cho rằng thông tin này được truyền miệng từ
thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên cho đến khi rốt cuộc nó được viết ra ở một thời điểm nào đó
sau khi Việt Nam bắt đầu độc lập từ thế kỉ thứ X. Trái lại, bài viết này lập luận rằng thông tin về các
vua Hùng được kiến tạo sau khi Việt Nam giành được độc lập và trở thành một “truyền thống được
kiến tạo”.
Từ khoá: Việt Nam, lịch sử, truyền thuyết, văn học, vua Hùng.
| 1/15

Preview text:


Hồng Bàng thị truyện” như một truyền thống được kiến tạo của người Việt Nam thời trung đại Liam C. Kelley
Người dịch: Hoa Quốc Văn
Trong một thời kì xấp xỉ nghìn năm khi những vùng đất mà ngày nay thuộc miền Bắc và một số phần
của miền Trung Việt Nam đang nằm bên trong những đường biên của các đế chế Trung Hoa khác
nhau, thông tin về khu vực đó phần lớn được ghi chép bởi các tác giả Trung Hoa. Những người này
gom thông tin trong các bộ sử qua các triều đại về những cuộc nổi dậy và sự bổ nhiệm các quan lại
đến khu vực ấy, và xếp chúng trong những loại mục của những cuốn sách mang tính bách khoa và
tuyển tập về những gì mà họ xem là nhân vật và sản vật kì lạ đến từ vùng ngoại biên của đế chế.
Ngay khi khu vực này trở nên tự chủ [thoát] khỏi sự cai trị của Trung Hoa vào thế kỉ X, người Việt
Nam bắt đầu soạn các cuốn biên niên sử về vùng đất của họ(1). Trong quá trình này, họ cũng ghi chép
thông tin chi tiết về những nhóm dân nào đó từng sống ở đây thậm chí trước thời Trung Hoa cai trị,
và về nhóm dân mà các tác giả Trung Hoa không đề cập đến. Cho rằng có thông tin về các giai đoạn
xa xưa của lịch sử trong các công trình của người Việt Nam, vốn không tồn tại trong các nguồn tư
liệu Trung Hoa, các học giả về cơ bản đã kết luận: người Việt Nam hẳn đã có những truyền thống lịch
sử của riêng mình được họ lưu truyền bằng miệng và rồi cuối cùng được viết ra ngay khi vùng đất của
họ thoát khỏi sự cai trị của Trung Hoa(2). Cái nhìn bao rộng này là sai lầm.
Thay vào đó, rõ ràng thông tin mới lạ mà các tác giả Việt Nam trung đại ghi chép về lịch sử cổ xưa
của họ được kiến tạo ở một thời điểm nào đó trong các thế kỉ ngay trước khi và/hay sau khi Việt Nam
trở thành một chính thể độc lập vào thế kỉ X, và nó cấu thành cái mà chúng ta có thể gọi là một “truyền
thống được kiến tạo”(3).
Trong khi mọi truyền thống được kiến tạo ở một thời điểm nào đó, khái niệm về một “truyền thống
được kiến tạo” biểu thị một kiểu truyền thống riêng biệt. Như đã được mô tả bởi Eric Hobsbawn, một
truyền thống được kiến tạo là một truyền thống được tạo ra trong một thời đoạn có sự biến chuyển xã
hội khi những truyền thống “cũ” và những người truyền bá chúng trở nên bất lực hoặc bị bài bác, hay
khi có một nhóm nào đó nỗ lực tạo ra một bước đột phá với quá khứ bằng cách cân nhắc dừng theo
những lối đi cũ. Những truyền thống được kiến tạo thường được tạo tác khá nhanh. Chúng yêu cầu
và ngụ ý sự tiếp nối với quá khứ, và chúng tận dụng “những chất liệu cổ xưa để xây dựng những
truyền thống được kiến tạo của một kiểu thức mới vì những mục tiêu mới”(4).
Những thông tin mà người Việt Nam trung đại ghi chép về lịch sử của họ trước thời kì Trung Hoa cai
trị ứng hợp với khái niệm về một truyền thống được kiến tạo này. Bài viết này sẽ chứng minh luận
điểm này bằng việc khảo xét một bài văn có tên “Truyện về họ Hồng Bàng” (Hồng Bàng thị truyện)
[từ đây người dịch sẽ dùng Hồng Bàng thị truyện thay vì “Truyện về họ Hồng Bàng” như tác giả –
HQV] trong một tác phẩm ở thế kỉ XV mang tên Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, một tác phẩm mà tôi
sẽ gọi [tắt] là Liệt truyện. Hồng Bàng thị truyện kể lại thông tin về những cội nguồn của cái mà ngày
nay chúng ta gọi là “lịch sử Việt Nam”.
Nó lần theo một bảng phả hệ [bắt đầu] từ vị thủ lĩnh Trung Hoa mang tính huyền thoại, Thần Nông,
đến một dãy các vị được cho là vua, tức các vua Hùng, những người đã cai trị một chính thể được gọi
là Văn Lang ở đồng bằng sông Hồng trong thiên niên kỉ đầu trước Công nguyên [CN]. Ngô Sĩ Liên đã
thâu nhập những thông tin phả hệ tương tự này vào cuốn Đại Việt sử kí toàn thư ở cuối thế kỉ XV của
ông, và các học giả cho rằng ông đã thu lượm chất liệu này từ Liệt truyện. Sự thâu nhập của nó trong
Toàn thư, như tôi sẽ dùng cái tên này để gọi cuốn sách, về cơ bản đã chuyển những thông tin này vào
một văn bản chính thức về những cội nguồn của các tập đoàn mang tính triều đại ở Đồng bằng sông
Hồng. Ngày nay, thông tin cốt lõi từ ghi chép này, tức là những thông tin về các vua Hùng và vương
quốc Văn Lang của họ, ở Việt Nam được thừa nhận rộng rãi coi như là bằng chứng lịch sử về những
cội nguồn cổ xưa của lịch sử Việt Nam và về đất nước của người Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng ta
sẽ thấy dưới đây, một sự tin tưởng như thế khó có thể được duy trì ngay khi người ta khảo xét một
cách nghiêm nhặt câu chuyện này và văn bản khởi nguồn ra nó.
Thay vào đó, có chứng cớ cho thấy thông tin mà chúng ta tìm thấy trong Hồng Bàng thị truyện
cấu thành một truyền thống được kiến tạo thời trung đại. lOMoAR cPSD| 41487147
Như chúng ta sẽ thấy, việc nghi ngờ tính xác thực của thông tin trong Hồng Bàng thị truyện chắc chắn
không phải là một việc làm mới lạ. Các học giả Việt Nam tiền hiện đại làm vậy ở một mức độ có hạn,
và rồi họ được tiếp nối bởi những học giả có quốc tịch khác ở thế kỉ XX. Cho đến thập kỉ 1960s,
người ta có thể tìm thấy nhiều nhận xét đầy hoài nghi về thông tin trong câu chuyện này từ các công
trình của các học giả Việt Nam, Trung Hoa và Pháp(5). Tuy nhiên, rõ ràng lúc bấy giờ quá trình lịch
sử lâu dài của sự chất vấn thông tin trong Hồng Bàng thị truyện đã bước vào một ngã rẽ mới. Các học
giả Việt Nam dân chủ cộng hoà (DRV) đã có một nỗ lực có dự tính nhằm “chứng minh” sự tồn tại
trong lịch sử của các vua Hùng, và thông tin trong Hồng Bàng thị truyện đóng vai trò then chốt trong
nỗ lực đó. Nó là những ý kiến tranh luận và cách tiếp cận của thực thể học thuật được tạo ra bởi những
học giả DRV bắt đầu từ cuối thập kỉ 1960s, và vẫn giữ vai trò chủ đạo ở Việt Nam ngày nay, mà đây
chính là điều bài viết này chủ yếu phản bác lại. Cùng thời, với tư cách một nghiên cứu bằng tiếng Anh
cho độc giả đọc tiếng Anh, bài viết này cũng thách thức một số điểm trong chuyên khảo của Keith
Taylor năm 1983, cuốn Sự hình thành của Việt Nam [The Birth of Vietnam], một công trình được viết
trong sự đồng tình với quan điểm mà các học giả DRV đã bắt đầu trình bày ở cuối thập kỉ 1960s và đầu thập kỉ 1970s.
Liệt truyện, sự truyền miệng và các dị bản
Trong khi ngày nay Liệt truyện được xem là một nguồn tư liệu quan trọng về lịch sử cổ xưa của Việt
Nam, thì ở đây lại có một hiện tượng bất thường xảy ra. Tình trạng hiện tại của những bản sao hiện
tồn của tác phẩm phơi bày ra điều này. Liệt truyện rõ ràng chưa từng được xuất bản. Ngày nay, có
khoảng 14 bản chép tay của văn bản ở Việt Nam, với nhiều dị biệt giữa chúng(6). Trong khi chúng ta
không biết phần lớn các bản chép tay được làm ra khi nào, thì nhiều bản có chứa một bài tựa có nội
dung dừng lại ở năm 1492. Bài tựa này được cho là của một ông Vũ Quỳnh nào đó, Vũ Quỳnh nói về
các truyện đó. “Có lẽ một bản thảo đã được tạo ra bởi những học giả xuất sắc ở thời Lí và Trần, và rồi
chúng được nhuận sắc thời gần đây bởi những bậc đáng kính vốn am hiểu và hiếu cổ”(7). Một năm
sau khi Vũ Quỳnh viết những dòng này, một người được biết tên là Kiều Phú đã viết một bài hậu tự,
bài này xuất hiện trong một dị bản của Liệt truyện. Cuối cùng, ở thế kỉ XVIII, học giả-quan chức Lê
Quý Đôn đã chép rằng “theo truyền thống” [tương truyền], Liệt truyện là công trình của một học giả
có tên là Trần Thế Pháp, nhưng Lê Quý Đôn không biết ông này là ai(8). Tuy nhiên, các học giả hiện
đại lại cho rằng Trần Thế Pháp là một học giả sống ở thế kỉ XIV(9).
Theo đó, vẫn còn nhiều điều chưa biết về Liệt truyện. Nó có thể được khởi thảo ở một thời điểm nào đó
trong thời Lý Trần (1009 – 1400 sau CN), và rồi sau đó được nhuận sắc trước khi Vũ Quỳnh và Kiều
Phú, từng người, có lẽ tạo đã ra cho mình một bản thảo riêng của văn bản vào cuối thế kỉ XV. Văn bản
này có xu hướng thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn, Vũ Quỳnh lưu ý trong bài tựa của ông rằng khi
ông đọc Liệt truyện lần đầu tiên, văn bản “là một mớ tuyệt nhiên hỗn độn của những chữ sai lạc.
Không quan tâm đến sự thô bỉ của nó (chỗ này có lẽ Liam C Kelley nhầm, lẽ ra phải là “không ngại
mình thô lậu” – HQV), tôi kiểm xét và đính chính nó”(10). Không rõ là sự đính chính đó chỉ dừng lại ở
những chữ sai lầm hay còn mở rộng sang địa hạt nội dung. Kiều Phú, trái lại, có vẻ đã có những thay
đổi đáng kể văn bản. Ông chép trong bài hậu tự của mình rằng dựa trên sự tham khảo các công trình
khác của ông, và theo sự suy xét thận trọng của bản thân, ông đã đính chính và xoá bỏ những thông tin xa lạ(11).
Trong khi có nhiều nhân tố về văn bản này khiến cho nó có vấn đề, một số học giả trong những thập
kỉ gần đây đã nhất quyết đặt sang một bên những sự bất ổn xung quanh nó và ôm ấp một niềm tin vào
giá trị hiển nhiên của tác phẩm như một nguồn tư liệu về lịch sử Việt Nam cổ đại. Cụ thể là, khi các
học giả DRV cố gắng kiến tạo một lịch sử mới cho vùng đất của họ trong những năm giao thời hậu
thuộc địa từ thập kỉ 1950s đến thập kỉ 1970s, nhiều người đã tiến tới xem Liệt truyện như một nguồn
tư liệu cực kì giá trị. Tức là, họ xem nó như là một kho truyền thuyết đã được lưu truyền qua nhiều thế
kỉ trong “nhân dân” hoặc “dân gian”, và nó có thể được sử dụng hợp thức như những tài liệu lịch
sử(12). Bằng việc thiết lập cái nhìn này, các học giả hiện đại hẳn phải điều hoà hai tuyên bố đối lập về
Liệt truyện từ thời tiền hiện đại. Trong bài tựa năm 1492 của mình, Vũ Quỳnh lưu ý rằng:
Từ trước thời Xuân Thu và Chiến Quốc (722 – 221 trước CN), không xa thời thái cổ, phong tục phương
Nam vẫn còn giản phác. Chưa có sử sách gì của vương quốc để ghi chép các sự kiện. Vì vậy, lOMoAR cPSD| 41487147
[nhiều thông tin về] hầu hết các sự kiện đã bị mất mát. Những điều may mắn tiếp tục còn tồn tại
và không bị huỷ hoại là do những sự lưu truyền bằng miệng của nhân dân/dân gian”(13)
Rồi ở thế kỉ XVIII, Lê Quý Đôn viết về Liệt truyện rằng: “Cuốn sách này vay mượn và phát triển
nhiều [thông tin từ các văn bản khác] nhiều đến nỗi không thể kể xiết”. Rồi ông cung cấp một ví dụ về
hiện tượng này này bằng việc trích dẫn các văn bản Trung Hoa đã gợi hứng cho một câu chuyện trong
Liệt truyện(14). Trong khi Vũ Quỳnh quy nguồn gốc của ít nhất một số chất liệu trong Liệt truyện cho
sự truyền khẩu của “nhân dân/dân gian” thời cổ, thì Lê Quý Đôn cho rằng nhiều nội dung trong công
trình này được lấy từ những nguồn bên ngoài.
Như khi các học giả DRV đã cố tạo ra một lịch sử cho đất nước mới độc lập của họ, họ quay sang Liệt
truyện để tìm thông tin về thời kì ở thiên niên kỉ đầu trước CN khi các vua Hùng được cho là đã nắm
quyền ở đây, và họ phải giải quyết việc đánh giá tính mâu thuẫn về nguồn gốc của những chất liệu
này(15). Rốt cuộc, những gì các học giả bắt tay vào làm sau đó, và những gì họ tiếp tục làm bây giờ, là
khăng khăng cho rằng trong khi những câu chuyện này có thể chịu ảnh hưởng ở mức độ nhất định bởi
ghi chép của giới tinh hoa trong những thế kỉ sau khi chúng được tạo ra, thì song le, chúng vẫn là
những câu chuyện được truyền miệng từ thời cổ(16). Tuy nhiên, khi đưa ra khẳng định như vậy,
không học giả nào theo hiểu biết của tôi đã từng kiểm tra một công trình như Liệt truyện kĩ lưỡng và
cho thấy chính xác thông tin gì được thêm vào sau này và chúng đến từ đâu, thông tin gì đền từ các
câu chuyện truyền miệng, và làm thế nào chúng ta xác định được tất cả điều đó. Thay vào đó, các học
giả chỉ đưa ra những tuyên bố chung chung thừa nhận ảnh hưởng của giới tinh hoa trong khi bảo lưu
vị trí đứng đấu của nhân tố truyền miệng(17).
Kết nối với niềm tin này, rằng nằm ở cốt lõi của một câu chuyện như Hồng Bàng thị truyện là những
thông tin đã được truyền miệng qua nhiều thế kỉ, là một sự chứng minh rằng có một “nhân dân/dân
gian” xuyên qua thời kì trước khi Liệt truyện được sáng tác, dân gian đó đã gìn giữ và lưu truyền những thông tin đó.
Tuy nhiên, điều này là một khẳng định có vấn đề. Ai đích xác là “nhân dân/dân gian” đối với một thành
viên của giới tinh hoa có học ở thế kỉ XV, như Vũ Quỳnh? Giới học thuật về lịch sử Trung Hoa đã
chứng minh rằng điều đó chỉ xảy ra ở thế kỉ XX khi người Trung Hoa có học bắt đầu có hứng thú
nghiêm túc với, và bắt đầu nhận dạng, “người bình dân” hay “dân gian”(18). Việt Nam có xu hướng
giống như thế, và khi các sử gia ở DRV lần đầu tiên khai thác Liệt truyện vào những năm 1950-170, họ
cũng làm thế trong một thời đoạn mà lĩnh vực văn học dân gian Việt Nam mới bắt đầu phát triển và bắt
đầu chú tâm vào người bình dân(19). [Vấn đề là ở chỗ], công việc này chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
dân tộc lãng mạn tương tự như những gì đã ảnh hưởng đến các xu hướng văn hoá dân gian ở các nước
khác trên thế giới ở mức độ nào, và các sử gia chịu ảnh hưởng bởi những ý niệm đang nảy nở lúc bấy
giờ ở mức độ nào là một chủ điểm cho đến nay chưa được chú ý [giải quyết](20). Hệ quả là, các học
giả Việt Nam không chất vấn sự tạo dựng [khái niệm] “nhân dân/dân gian” của họ và xem xét mức độ
khác biệt của khái niệm “nhân dân/dân gian” với quan niệm của Vũ Quỳnh ở thế kỉ XV. Khi ông ta nói
về “nhân dân/dân gian”, có phải Vũ Quỳnh nói đến những người nông dân không biết chữ? Hay ông ta
có ý nói những người có học như bản thân ông? Đó là những câu hỏi cơ bản cần được đặt ra nhưng
chưa được chú ý [giải quyết].
Một vấn đề khác là các học giả chưa hướng sự quan tâm đến quá trình truyền miệng. Các học giả Việt
Nam mường tượng sự lưu truyền các truyện truyền miệng xảy ra thông qua một quá trình, mà theo
Stuart Blackburn, chúng ta có thể gọi là quá trình “kế thừa trực hệ” – những câu chuyện truyền nhau
bởi những thành viên của một nhóưm có cùng ngôn ngữ từ thế hệ này sang thế hệ kia(21). Trong khi
các học giả này chấp nhận sự tiếp xúc giữa người Việt Nam và các nhóm sắc tộc khác và thừa nhận
rằng một số thông tin trong một cuốn sách như Liệt truyện có thể được kế thừa từ các nhóm người
như Mường hay bắt nguồn từ một nguồn tư liệu chung, thì họ lại cho người Việt là trung tâm của sự lưu truyền này(22).
Có vô số những vấn đề với một niềm tin như thế. Người ta quan tâm đến chứng cứ mà họ trích dẫn nhằm
chứng minh rằng người dân sống ở đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỉ đầu trước CN về cơ bản là giống
với người dân sống ở đó thời trung đại. Các học giả Việt Nam cho rằng những phát hiện khảo cổ học ở đồng
bằng sông Hồng từ thế kỉ đầu trước CN, như các trống đồng Đông Sơn, và những bằng chứng về các cuộc
khởi nghĩa trong xấp xỉ một ngàn năm Trung Hoa cai trị, như cuộc khởi nghĩa của chị em họ Trưng ở thế kỉ
đầu sau CN, đều chỉ ra sự tồn tại của một nhóm dân cư ổn định ở khu vực lOMoAR cPSD| 41487147
này trong suốt thời kì dài(23). Tuy nhiên, kiểu chứng cứ này không nhất thiết ủng hộ cho một tuyên bố như thế.
Thứ nhất, việc kết hợp các di vật khảo cổ với nhóm người đã tạo ra những câu chuyện trong Liệt truyện
đòi hỏi một điều là người ta đã phóng chiếu sự tồn tại của một nhóm sắc tộc được cho là đã tồn tại
trong lịch sử (“người Việt”) được nhận dạng từ các văn bản trung đại lên những di vật khảo cổ tiền sử.
Như Siân Jones đã nói, các học giả những người đã can dự vào một sự thực hành như vậy luôn luôn
nhận diện một cách thiếu phê phán một nhóm sắc tộc đặc thù từ các nguồn tư liệu lịch sử rồi sau đó tìm
kiếm “những hồ sơ sắc tộc” trong các ghi chép khảo cổ học liên quan với nhóm sắc tộc được cho là đã
tồn tại trong lịch sử. Khi làm như vậy, họ đã bỏ qua bản chất chủ quan của cả các nguồn tư liệu lịch sử
lẫn những dấu hiện nhận dạng sắc tộc, và bỏ qua cả thực tế là văn hoá vật chất không nhất thiết tương
ứng với sắc tộc(24). Thứ hai, sự tồn tại của các cuộc nổi dậy khác nhau trong suốt quá trình một ngàn
năm không nhất thiết phản ánh sự tồn tại của một nhóm văn hoá ổn định, cái nhóm có thể duy trì và lưu
truyền các câu chuyện truyền miệng. Trên thực tế, khi Keith Taylor, không giống như các học giả Việt
Nam, thực sự nỗ lực chứng minh sự tồn tại của một nhóm dân cư ổn định xuyên suốt một thiên niên kỉ
Trung Hoa cai trị, ông đã phải viện dẫn các thuật ngữ lai ghép, như “Hán Việt” và “Đường Việt”, để
giải thích các giai đoạn tiếp xúc tăng dần [giữa người Việt] với người Trung Hoa(25). Và điều này đặt
ra những câu hỏi về khả năng giống nhau thế nào giữa “Đường Việt” của thế kỉ IX sau CN với “Lạc
Việt” ở thiên niên kỉ đầu trước CN, và làm thế nào các câu chuyện có thể được lưu truyền trong một xã
hội đầy biến động như thế.
Và một vấn đề có can hệ nhiều hơn là: Liệt truyện được ghi chép bằng chữ Hán cổ, một ngôn ngữ
không được dùng rộng rãi để nói và hẳn là không được những người được cho là thuộc phạm trù vua
Hùng biết đến trong hầu hết lịch sử được biết của nó. Hơn nữa, nếu những cư dân đó sở hữu một kiểu
cổ xưa của cái rốt cuộc sẽ trở thành ngôn ngữ tiếng Việt [sau này], như một số học giả ở Việt Nam tin
tưởng, thì phải nhận thức rằng thứ ngôn ngữ nói đó đã thay đổi khá đột ngột qua các thế kỉ, đặc biệt là
khi khối từ vựng Trung Hoa xâm nhập vào, trước hết là ở một mức độ hạn chế bắt đầu trong thời nhà
Hán (206B trước CN – 220 sau CN), và rồi rộng mở hơn trong suốt thời kì trung đại(26). Vì vậy, nếu
những thông tin cốt lõi trong một câu chuyện như Hồng Bàng thị truyện bắt nguồn trong các câu
truyện dân gian được lưu truyền từ thời viễn cổ, thì các học giả cần phải giải thích làm thế nào có thể
xảy ra điều đó, và những sự lưu truyền nào đã chuyển tải các thông tin khi ngôn ngữ tiếng Việt phát
triển qua các thế kỉ và khi những thông tin truyền miệng này rốt cuộc được dịch sang tiếng Hán cổ.
Một nỗ lực tiến được hành để quyết định xem cái gì nằm trong phạm vi truyền miệng trước khi thông
tin được chuyển thành bản viết, và làm thế nào chúng ta nhận ra các dấu hiệu của ngôn ngữ truyền
miệng trong các nguồn tư liệu viết như thế, đã trở thành [vấn đề] trung tâm trong lĩnh vực văn học
truyền miệng ở phương Tây nhiều thập kỉ qua. Tuy nhiên, các học giả phải điều tra một cách có phê
phán những chủ điểm này trong trường hợp Việt Nam(27).
Nghĩa là, các học giả ở phương Tây từ lâu đã nhận ra rằng sự kiếm tìm sự thật lịch sử trong các câu
chuyện truyền miệng thế này là cực kì có vấn đề, và trong trường hợp xấu nhất đó là một “sự truy cầu
điều hão huyền”(28). Một sự tiếp cận hiệu quả hơn cho các nhà sử học là kiểm xét quá trình lưu truyền
truyền thống truyền miệng, vì điều đó có tính lịch sử. Do đó, không quan tâm đến việc có hay không
có một sự thật lịch sử trong một câu chuyện truyền miệng, [thay vào đó] dạng thức tồn tại của nó có
thể nói cho chúng ta nhiều điều về một thời điểm cụ thể trong quá khứ(29). Thay vì tìm hiểu thông tin
đã không “được khảm nạm bằng những sự sắp đặt bắt nguồn từ những luồng văn hoá của các thế kỉ
sau”, theo giả thiết của Taylor, chúng ta có thể tìm tòi để xác định từ những thứ “đồ khảm nạm” này
thời điểm và lí do một câu chuyện được trình bày bằng một cách thức nào đó(30). Khi chúng ta làm
như vậy, chúng ta cũng cần tâm niệm về khả năng những bản thảo viết về những thứ ngày ngay chúng
ta tin là có thể bắt nguồn từ các câu chuyện truyền miệng thực ra có thể bắt nguồn từ dạng thức viết.
Chẳng hạn, trong hoàn cảnh châu Âu, Ruth Bottingheimer đã cho rằng không phải một dân gian mù
chữ đã sáng tạo ra các truyện thần kì đầu tiên sau đó phổ biến chúng thông qua hình thức kể chuyện
bằng miệng cho đến khi những câu chuyện đó rốt cuộc được chép lại. Thay vào đó, những câu chuyện
thần kì đầu tiên được viết bởi những thành viên của giới tinh hoa có học và lần đầu tiên được phổ biến
ra thông qua các bản in(31).
Cần có thái độ phê phán khi giữ cái nhìn như thế trong đầu khi khảo sát Liệt truyện. Trong khi phần lớn các
học giả đã dám chắc rằng chất liệu cốt lõi trong công trình này bắt nguồn từ các truyện dân gian, thì một
niềm tin như thế không thích ứng với những gì mà chúng ta biết về thể loại của văn bản này, tức là thể “chí
quái”. Những ghi chép về việc kì lạ là một dạng văn bản và giới trí thức Trung Hoa bắt đầu viết trong thời
Lục Triều đầy hỗn loạn về chính trị (220-589 sau CN). Chúng bao gồm những mẩu lOMoAR cPSD| 41487147
truyện tương đối ngắn về con người và sự kiện được xem là “kì lạ” hoặc “kì quái”. Để viết những
ghi chép như vậy, các học giả cụ thể nào đó phải dựa vào các thông tin truyền miệng, nhưng họ cũng
đào xới vào các văn bản hiện còn để tìm kiếm thông tin. Ở thời Tống (960 – 1276 sau CN), có một
hứng thú được khôi phục lại đối với thể loại này và nhiều tập truyện chí quái được tạo ra. Liệt truyện
có vẻ như được viết ở một thời điểm nào đó sau giai đoạn này(32).
Bởi giới trí thức thường sáng tác những truyện chí quái bằng cách lựa chọn và nhuận sắc một cách sáng
tạo những thông tin từ các văn bản hiện tồn, nên một số học giả đã xem những tác phẩm này là tiền
thân của thể loại tiểu thuyết. Kenneth DeWoskin chẳng hạn, đã nhấn mạnh những nhân tố bịa đặt hay
tưởng tượng của những văn bản này và cho rằng sự xuất hiện của những truyện chí quái đánh dấu sự
sinh thành của tiểu thuyết ở Trung Hoa. Tiếp theo là sự phát triển của các truyện ngắn [truyền kì] ở
thời nhà Đường (619-907 sau CN) và sau đó là các tiểu thuyết bạch thoại ở thời Minh Thanh (1368 –
1911 sau CN)(33). Trong khi đó, Robert Campany đã phản bác lại quan điểm này. Campany tin rằng
truyện chí quái đã thoát ra khỏi một truyền thống mang tính vũ trụ học trong đó trung tâm sưu tầm
những đồ vật và báo cáo dị thường từ vùng ngoại biên như một phương tiện để đem lại trật tự cho thế
giới. Ông cho rằng những truyện chí quái đã thực hiện một chức năng tương tự, trong đó chúng bàn
luận về sự dị thường bằng thứ ngôn ngữ rõ ràng của trước tác lịch sử, bằng cách đó chúng “cho nhập
tịch” cái kì lạ(34). Campany cũng lưu ý rằng những người thuộc các thị hiếu tri thức khác nhau –
chúng ta có thể mệnh danh vì mục tiêu giản dị ở đây là: Đạo sĩ, Nhà sư và học giả Khổng giáo – đã sử
dụng các truyện chí quái để trình bày những quan điểm hỗ trợ cho niềm tin của họ về thế giới.
Trong bài tựa của mình, Vũ Quỳnh dứt khoát đặt Liệt truyện vào thể loại chí quái. Ông ví tác phẩm với
cuốn Sưu thần kí ở thế kỉ IV của Can Bảo, một trong những tác phẩm khá sớm của thể chí quái(35).
Ông cũng đặt tác phẩm trong một bối cảnh Nho học phổ biến khi cho rằng tất cả các truyện về cơ bản
“đề cao cái tốt và trừng phạt cái xấu” (khuyến thiện trừng ác), mệnh đề đóng vai trò cơ bản đối với
một thể loại các văn bản chữ Hán là “sách đạo đức” [thiện thư](36). Thể văn này xuất hiện ở thời Tống
và sử dụng khái niệm “nghiệp báo” của Phật giáo để nói về tầm quan trọng của việc thực hành đức
hạnh Khổng giáo. Nhiều tác phẩm như thế đã khẳng định rằng nội dung của chúng được phi lộ bởi các
vị thần, một thực hành nghi lễ gắn với các Đạo sĩ(37).
Do đó, Liệt truyện rõ ràng là một bộ phận của những khuynh hướng văn chương rộng hơn lúc bấy giờ.
Trong phạm vi vấn đề người ta nên xem nó là sự thật hay hư cấu, tôi cho rằng Liệt truyện là cả hai.
Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, có nhiều phần trong Hồng Bàng thị truyện rõ ràng là hư cấu. Tuy
nhiên, cũng hiển nhiên là mục đích của bài tiểu luận này là viết về sự tồn tại của một chính thể ở Đồng
bằng sông Hồng thời trung đại đặt trong một bối cảnh địa lí và lịch sử rộng lớn hơn. Theo đó, ngược
với bản chất hư cấu trong phần nhiều câu chuyện, bản thân nỗ lực tạo ra câu chuyện như thế đã là một
sự thật lịch sử mà chúng ta có thể đặt trong một thời đại lịch sử đặc tương đối đặc thù. Bây giờ chúng
ta hãy chuyển sang [bàn về] Hồng Bàng thị truyện và khảo sát những nhân tố hư cấu và có thực của
nó một cách kĩ lưỡng hơn.
Dòng dõi, Những cuộc hôn phối tại địa phương và sách Hoa Dương Quốc chí
Hồng Bàng thị truyện là một câu chuyện mang tính phả hệ về một thị tộc được định danh là
Hồng Bàng, một cái tên chưa bao giờ được giải thích.
Nó bắt đầu bằng việc chỉ ra những nguồn gốc của thị tộc này từ vị thủ lĩnh trong thần thoại Trung Hoa
là Thần Nông(38). Câu chuyện kể rằng Thần Nông có hậu duệ tên là Đế Minh, Đế Minh lại có người
con là Đế Nghi. Đế Minh đi tuần thú về phía Nam đế chế, đến tận một nơi gọi là Ngũ Lĩnh, thuộc về
vùng ranh giới phía Bắc của khu vực mà ngày ngay thuộc tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Ở đó ông
gặp người con gái của một nàng Vụ Tiên nào đó, một cái tên mà nghĩa đen là “nàng tiên xinh đẹp”, và
đưa cô ta về phương Bắc cùng ông. Người phụ nữ này sau đó sinh cho ông một người con trai tên là
Lộc Tục. Đế Minh muồn truyền ngôi cho người con trai này, nhưng Lộc Tục từ chối và thay vào đó cố
nài xin truyền ngôi cho người anh cùng cha khác mẹ là Đế Nghi. Đế Minh do đó phong Đế Nghi làm
người thừa kế của mình và giao cho ông cai trị phương Bắc, trong khi phong Lộc Tục là “Kinh Dương
Vương” và giao cho ông cai trị phương Nam, lãnh địa của ông được gọi là nước Xích Quỷ (nghĩa đen là “Quỷ đỏ”).
Đoạn mở đầu này theo đó bàn về cách một hậu duệ của thủ lĩnh huyền thoại Trung Hoa là Thần Nông, cưới
một người con gái phương Nam, và cách đứa trẻ của cuộc hôn nhân đó, tức Kinh Dương Vương, lOMoAR cPSD| 41487147
được giao nhiệm vụ cai trị phương Nam. Việc tấn phong này cho thấy rằng Kinh Dương Vương đứng ở
một vị trí thấp hơn so với người anh cùng cha khác mẹ là người cai trị phương Bắc. Một sự sắp đặt như
thế dĩ nhiên phản ánh mối quan hệ chủ-thần mà Trung Hoa và Việt Nam duy trì trong thời đại Liệt
truyện được viết ra. Trong khi đó, toàn bộ câu chuyện này, phản chiếu một đoạn văn trong một văn bản
sớm hơn, cuốn Hoa Dương quốc chí.
Cuốn Hoa Dương quốc chí, được viết vào thế kỉ IV sau CN và là cuốn sử hầu như về một khu vực mà
ngày nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên của Trung Hoa. Trong thiên niên kỉ đầu tiên trước CN, Tứ Xuyên được
chia làm 2 nước Ba và Thục, và Hoa Dương quốc chí quan tâm đến các nước này. Phần Thục chí bắt
đầu bằng một đoạn văn khá giống với đoạn mở đầu trong Hồng Bàng thị truyện. Tuy nhiên, thay vì bắt
đầu với Thần Nông, Thục chí lại bắt đầu với Nhân Hoàng, một thủ lĩnh được cho là sống trước Thần
Ông, mà Thần Nông lại sống trước Hoàng Đế. Nhân Hoàng cũng được cho là đã chia thế giới được
biết thành chín khu vực. Thục chí bắt đầu như sau:
“Nước Thục dựng nước bắt đầu từ Nhân Hoàng, ông đã đặt Thục ngang hàng với Ba. Thời Hoàng Đế,
con ông là Chang Yi lấy con gái họ Thục Sơn, sinh ra một con trai tên là Cao Dương, trở thành Đế
Cốc. Đế Cốc phong tước vị cho các thành viên của các chi bàng hệ trong gia tộc mình ở đất Thục, nơi
họ đã phụng sự [vương quốc] qua nhiều thế hệ với tư cách là hầu tước và nam tước. Điều đó được tiếp
nối qua các triều Hạ, Thương, Chu”(40).
Rõ ràng như mọng đợi, thông tin trong đoạn văn này rất giống với đoạn mở đầu Hồng Bàng thị truyện
của Liệt truyện. Đặc biệt, cũng như Hồng Bàng thị truyện, văn bản này tạo nên sự kết nối về phả hệ với
một thủ lĩnh Trung Hoa huyền thoại, có một đứa con được sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa một phụ nữ
địa phương với một hậu duệ của vị thủ lĩnh ấy, và rồi có những thành viên khác của gia đình cá nhân
ấy được phong làm người cai trị địa phương ấy. Nói khác đi, cả Liệt truyện và Hoa Dương quốc chí tạo
ra một câu chuyện giống nhau nhằm kết nối những địa điểm tương ứng với một nhân vật ở thời cổ đại
của Trung Hoa. Nếu chúng ta xem xét đoạn mở đầu Toàn thư ở thế kỉ XV của Ngô Sĩ Liên, một văn
bản được viết gần như ngang với thời điểm Vũ Quỳnh “hiệu đính” Liệt truyện và viết bài tựa cho nó,
chúng ta sẽ thấy thậm chí còn nhiều sự tương đồng hơn nữa với Hoa Dương quốc chí.
Trong Toàn thư, Ngô Sĩ Liên tái tạo lại thông tin phả hệ từ Liệt truyện trong đó nối Thần Nông với
Kinh Dương Vương. Tuy nhiên, ông bắt đầu xử lí chất liệu này bằng một chú thích của riêng mình
trong đó chỉ ra những mối liên hệ khác giữa nước ông và các vị thủ lĩnh Trung Hoa cổ xưa khác nữa.
Trong chú thích này, Ngô Sĩ Liên gọi quê hương ông là Giao Chỉ, một cái tên cổ mà Trung Hoa đã đặt
cho vùng đất chính của đồng bằng sông Hồng, và gọi là Nam Giao, một khái niệm xuất hiện ở một
trong những văn bản Trung Hoa cổ nhất, cuốn Thượng thư, trong đó có lẽ cũng chỉ một khu vực tương
tự. Ông cũng đề cập đến các thủ lĩnh Trung Hoa cổ khác, như Hoàng Đế huyền thoại, [Đế] Nghiêu, và
bề tôi của ông, Hy Thúc, cũng như nhân vật nửa lịch sử [nửa huyền thoại] là Vũ, người sáng lập nổi
tiếng của triều Hạ (khoảng thế kỉ XXI trước CN đến thế kỉ XVI trước CN). Trích dẫn:
“Thời Hoàng Đế, muôn nước được thiết lập và Giao Chỉ phân ranh giới về phía Tây Nam, xa ngoài đất
của Bách Việt(41). Đế Nghiêu sai Hy [Thúc] đến ở Nam Giao để định vị đất Giao Chỉ ở phương Nam.
Rồi vua Vũ chia thiên hạ làm chín châu. Đất Bách Việt thuộc về đất Dương Châu. Giao Chỉ thuộc về đất ấy(42).
Hoàng Đế, Nghiêu và Vũ đều được ghi chép là có đóng góp cho sự phân định ranh giới và sắp đặt của
thế giới như nó được biết đối với người Trung Hoa thời cổ, và Ngô Sĩ Liên kết nối vùng đất của ông
với những cá nhân đó và với những nỗ lực của họ. “Muôn nước” là một khái niệm có thể tìm thấy trong
các nguồn tư liệu Trung Hoa cổ. Tuy nhiên, tôi không biết có đoạn văn nào trong bất kì nguồn tư liệu
nào khẳng định rằng “Giao Chỉ được phân định ranh giới” ở thời Hoàng Đế hay không. Tương tự, có
một dòng trong sách Thượng thư khẳng định rằng vị thủ lĩnh thời xưa, Nghiêu, đã sai một người có tên
là Hy Thúc đến ở Nam Giao, nhưng mục đích của ông là để xác định nông lịch(43). Thượng thư không
đề cập gì đến Giao Chỉ hay vị trí của nó ở phương Nam. Và cuối cùng, Vũ được cho là đã chia thiên hạ
thành chín châu, cũng như Nhân Hoàng trước đó đã từng chia thiên hạ thành 9 vùng, nhưng những văn
bản đề cập đến điều này chẳng nói gì đến Giao Chỉ trong hệ thống sắp đặt ấy cả.
Vì vậy, Ngô Sĩ Liên đã kiến tạo những mối liên hệ nhất định giữa vùng đất của ông và những hành
động của những nhân vật nhất định trong thời viễn cổ Trung Hoa. Trong Toàn thư, ông đặt thông tin
này ngay trước ghi chép về phả hệ [họ Hồng Bàng] từ Thần Nông đến Kinh Dương Vương, những ghi
chép bắt nguồn từ Liệt truyện. Đặt bên nhau, thông tin này thiết lập vô số mối liên hệ giữa những nhân lOMoAR cPSD| 41487147
vật ở Trung Hoa thời cổ và khu vực mà rốt cuộc Việt Nam sẽ xuất hiện. Hơn thế, nó đã vận hành đúng
với cung cách phản chiếu rất sát đoạn mở đầu của “Thục Chí” trong Hoa Dương quốc chí. Do đó, trong
khi Ngô Sĩ Liên và (các) tác giả của Liệt truyện tham gia vào nhiều sự sáng tạo khi họ soạn những
công trình của mình, lúc đó đã từng có sự tồn tại một mô hình rõ ràng cho những dự đồ như thế trong Hoa Dương quốc chí.
Kinh Dương Vương và “Truyện Liễu Nghị”
Trong khi chúng ta chỉ có thể tư biện rằng đoạn mở đầu trong Hồng Bàng thị truyện được gợi ý từ một
tác phẩm như Hoa Dương quốc chí, thì những đoạn khác trong câu chuyện cho thấy những sự song
hành trực tiếp hơn với những thông tin trong các văn bản hiện còn. Câu chuyện tiếp tục kể rằng Kinh
Dương Vương, nhân vật được giao cai trị phương Nam, có thể đi vào các vùng nước [thuỷ phủ], một
khái niệm mà các nguồn tài liệu Trung Hoa dùng để chỉ nơi ở của các vị thần nước và các vua rồng.
Có lẽ không gian phải là ở thuỷ phủ để ông gặp một phụ nữ có tên Thần Long, nghĩa là “Rồng thiêng”,
là con gái của một Động Đình quân nào đó, một người có cùng cái tên với một hồ lớn ở trung tâm
Trung Hoa ngày nay. Kinh Dương Vương cưới Thần Long và Thần Long sinh ra một con trai, Sùng
Lãm, người sẽ được gọi là Lạc Long Quân. Rồi câu chuyện lưu ý rằng Lạc Long Quân nắm quyền cai
trị vương quốc của cha và dạy cho dân cày cấy và nuôi tằm. Nó cũng lưu ý rằng lúc bấy giờ xuất hiện
một trật tự tôn ti giữa đấng chí tôn và bề tôi, giữa người trên và kẻ dưới, cũng như những mối quan hệ
đúng đắn giữa cha với con, giữa chồng với vợ(44).
Những nhân vật như Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân không được đề cập trong các nguồn tư liệu
Trung Hoa. Trong khi những bình luận trong đoạn văn về một trật tự tôn ti đúng đắn xuất hiện trong giai
đoạn xa xưa này rõ ràng phản ánh cái nhìn của Khổng giáo, thì nhiều học giả lại có xu hướng tin rằng Kinh
Dương Vương và Lạc Long Quân hẳn phải là những người anh hùng văn hoá có thật của người Việt Nam,
và phải tìm hiểu để lí giải nguồn gốc của họ. Chẳng hạn, học giả được chú ý là Đào Duy Anh đã cố gắng
làm điều đó với trường hợp Kinh Dương Vương trong một số công trình học thuật của mình cuối những
năm 1940 đầu 1950. Đào Duy Anh, cũng như nhiều hoc giả khác lúc bấy giờ, tin rằng người Việt Nam trong
lịch sử đã di cư xuôi về phía Nam đến đồng Bằng sông Hồng từ những khu vực ở Nam Trung Hoa(45). Ông
chỉ ra rằng khu vực xuang quanh sông Dương Tử nơi có hồ Động
Đình đã được biết đến từ thời cổ là khu vực của hai châu Kinh [Jing;荊] và Dương [Yang;楊]. Những
chữ trong tên hai châu này đồng âm với những chữ “Kinh” và “Dương” trong cái tên Kinh Dương
Vương [涇陽], nhưng chúng được viết khác nhau. Đào Duy Anh nhận ra điều này và cho rằng câu
chuyện về Kinh Dương Vương có lẽ bắt nguồn từ khi người Việt đang sống dọc sông Dương Tử ở khu
vực châu Kinh và Dương, và rằng qua nhiều thế kỉ người Việt truyền miệng câu chuyện này khi họ di
cư về phía Nam đến đồng bằng Sông Hồng. Khi câu chuyện rốt cuộc được viết ra, ai đó đã chọn các từ
đồng âm của Kinh và Dương, do đó làm mờ đi sự kết nối sử thực giữa Kinh Dương Vương và những
vùng địa lí là “Kinh” và “Dương” mà ngày nay là miền Trung Trung Hoa. Do đó, Đào Duy Anh cho
rằng một khi nhận ra nghĩa đen của Kinh và Dương, sự tồn tại của một Động Đình Quân cũng có nghĩa
[cho thấy] rằng những cái tên đó đều gắn với một khu vực có cùng tên gọi, nơi mà ông nghĩ rằng đó là
quê gốc của người Việt(46).
Đây là một lí thuyết khéo léo, và tôi lưu ý ở đây để cung cấp một ví dụ về kiểu nỗ lực mà các học giả
Việt Nam đã làm để hợp lí hoá những thông tin lạ lẫm trong Liệt truyện và kết nối nó với một hình
thức lịch sử khả chứng hơn. Tuy nhiên, rốt cuộc, lí thuyết này không chính xác.
Trước hết, ngày nay ý tưởng cho rằng người Việt di cư xuống phía Nam vào Việt Nam đã không còn
hợp khẩu vị nữa khi các nhà ngôn ngữ học hiện thời xem những cội nguồn của người Việt nằm ở khu
vực ngày nay là miền Trung Việt Nam và những phần phía Đông của Lào(47). Thứ hai, lí thuyết này
bỏ qua những mối liên hệ rõ ràng giữa đoạn văn này và một truyện ngắn thời Đường có tên Liễu
Nghị truyện của Lí Triều Uy vào thế kỉ VIII. Câu chuyện này xuất hiện đầu tiên trong một tập truyện
chí quái triều Đường, tập Dị văn kí của Trần Hãn. Sau đó nó được đưa vào một bố tổng tập ở thế kỉ X
là Thái Bình quảng kí ở một chương dành trọn cho những thông tin nói về rồng.
“Câu chuyện về Liễu Nghị” xảy ra trong thời Nghi Phụng (676-678) dưới sự trị vì của Đường Cao Tông. Nó
kể về một học giả trẻ tên là Liễu Nghị người, sau khi thi trượt ở kinh đô, quyết đính đến thăm
một người bạn ở quận Kinh Dương [涇陽] tỉnh Sơn Tây. Lưu ý rằng những chữ Kinh, Dương trong tên quận
ở đây giống với chữ trong tên Kinh Dương Vương. Trên đường đi, Liễu Nghị gặp một cô gái chăn dê và
phát hiện ra rằng cô gái là con của Long quân hồ Động Đình. Bố mẹ cô đã gả cô cho Kinh Xuyên quân ở
Sơn Tây, nhưng ông ta đã đối xử tệ với cô và cuối cùng ruồng rẫy cô. Rồi cô nhờ cậy Liễu Nghi lOMoAR cPSD| 41487147
mang thư gửi cho cha mình, Long quân hồ Động Đình, và tóm lại, cuối cùng Liễu Nghị đã lấy cô con gái của Long quân(48).
Câu chuyện này rõ ràng là sự gợi ý cho cuộc hôn nhân giữa Kinh Dương Vương và Thần Long, con
gái của Động Đình quân mà chúng ta thấy trong Liệt truyện và Toàn thư. Trên thực tế, nó là một mối
liên hệ không phải không được lưu ý trong quá khứ, bởi nó được bình luận trong Toàn thư. Văn bản
Toàn thư được đặt rải rác với những chú thích ngắn gọn. Không rõ là ai hoặc là Ngô Sĩ Liên hoặc là
một học giả nào đó sau này đã viết những lời bình luận này. Dù thế nào, sau đoạn nói về cuộc hôn
nhân này, Toàn thư cũng có một bình luận có phần khó hiểu sau đây:
“Theo Đường kỉ, Kinh Dương lúc bấy giờ có người phụ nữ chăn dê, xưng là con gái út của Động Đình
quân, lấy con thứ hai của Kinh Xuyên, nhưng sau đó nàng bị bỏ. Cô giao một bức thư cho Liễu Nghị,
người đệ trình một kỉ vật choi Động Đình quân. Thế thì, những cuộc hôn nhân qua nhiều thế hệ giữa
Kinh Xuyên và Động Đìnhđã có một lịch sử lâu dài”(49).
Bất kể là ai viết bình luận này rõ ràng đều biết những thông tin trong Liễu Nghị truyện, mặc dù ông
khẳng định rằng nó bắt nguồn từ “Đường kỉ”(50). Tuy nhiên, lời bình luận khá rối rắm, đặc biệt là
dòng cuối khi nó lưu ý rằng những cuộc hôn nhân giữa Kinh Xuyên và Động Đình “có một lịch sử lâu
dài”. Như đã nói ở trên, Kinh Dương và Kinh Xuyên đều là 2 địa điểm ở tỉnh Sơn Tây, và cả hai đều
được đề cập đến trong Liễu Nghị truyện. Rõ ràng, người nào đó viết bình luận này đã gần như kết hợp
Kinh Dương Vương với Kinh Dương ở Sơn Tây khi mà những chữ này là giống nhau. Có vẻ như
người chú thích đang cố gắng nói rằng từ khi Kinh Dương Vương cưới con gái Động Đình quân thời
xa xưa, và từ khi có một cuộc hôn nhân ở thời Đường giữa con gái út của Động Đình Quân và một
người nào đó ở khu vực Kinh Dương, thì đã có một lịch sử hôn nhân lâu dài giữa hai vùng đất này.
Vấn đề là một trong những nhân vật đã cưới con gái Động Đình Quân là một con người, Kinh Dương
Vương, còn người kia lại là con trai của một con sông, Kinh Xuyên. Điều này rõ ràng là phi lí nhìn từ thực
tế lịch sử, nhưng nó có thể hiểu được bởi thông tin từ Liễu Nghị truyện là hư cấu, cũng như câu chuyện về
Kinh Dương Vương. Rốt cuộc, một số học giả Việt Nam có vẻ nhận ra điều này. Cuốn Khâm định Việt sử
thông giám cương mục ở thế kỉ XIX, một cuốn sử mà nội dung được kiểm duyệt bởi triều đình nhà
Nguyễn, đã không nhắc gì đến cuộc hôn nhân giữa Kinh Dương Vương và con gái Động Đình quân, một
dấu hiệu cho thấy ai đó đã nhận ra rằng thông tin này rõ ràng là một kiến tạo.
Lạc Long Quân, Âu Cơ và Liễu Nghị truyện
Trở lại với Hồng Bàng thị truyện, câu chuyện tiếp tục kể rằng mặc dù Lạc Long Quân thay thế cha
ông, Kinh Dương Vương, trong vai trò lãnh đạo nước Xích Quỷ, ông dành nhiều thời gian ở dưới thuỷ
phủ và chỉ xuất hiện khi người dân cần ông giúp đỡ. Gợi lại cái cách một trong những vị tổ của ông,
Đế Minh, đã có chuyến du chơi phương Nam, Đế Lai cũng làm tương tự. Ở đó ông để vợ ông, Âu Cơ, ở
một lâu đài trong khi ông đi thăm thú để thưởng thức sự giàu có của vùng đất [lạ], quên cả việc trở về
phương bắc. Người dân phải chịu đựng sự “phiền nhiễu” này và gọi Lạc Long Quân trợ giúp. Lạc
Long Quân quay trở lại và thấy Âu Cơ một mình. Ông biến mình thành một chàng trai trẻ đẹp và hai
người yêu nhau. Rồi Lạc Long Quân đem Âu Cơ đi, và khi Đế Lai sai tuỳ tùng của mình đi tìm Âu Cơ,
Lạc Long Quân đã biến hoá bằng vô số cách để doạ đuổi họ đi. Đế Lai đành phải quay về phương Bắc(51).

Rồi Liệt truyện kể rằng Âu Cơ đẻ ra một kiểu bọc trứng. Nghĩ rằng đây là điềm không lành, bà bỏ cái
bọc ở ngoài đồng hoang, nhưng sau đó nó cho ra 100 quả trứng, mỗi quả nở ra thành một người con
trai(52). Lạc Long Quân trở về thuỷ phủ và Âu Cơ bị bỏ lại, phải một mình nuôi dưỡng các con.
Không thể chịu được cảnh này, Âu Cơ gọi Lạc Long quân lên và cố gắng bỏ con lại cho ông để có thể
trở về phương Bắc(53). Lạc Long Quân liền nói:

“Ta thuộc giống rồng, và là thủ lĩnh của loài dưới nước, nàng là thuộc giống tiên, sống ở trên cạn.
Tuy khí âm dương kết hợp lại mà sinh ra con cái, nhưng mà thủy hỏa tương khắc. Chúng ta không
cùng nòi giống. Sẽ rất khó sống với nhau lâu được. Chúng ta nên chia tay nhau. Ta sẽ đem năm mươi
con về Thủy Phủ, nơi chúng sẽ được các xứ mà cai trị. Năm mươi người con sẽ theo nàng sống trên
cạn, và sẽ chia nước ra mà cai trị”
lOMoAR cPSD| 41487147
Năm mươi người con trai theo Âu Cơ sau đó tôn người có khả năng nhất trong số họ lên làm thủ lĩnh,
gọi là Hùng Vương, và xưng nước của họ là nước Văn Lang(54).

Đoạn văn này cực kì nổi tiếng khi nhiều học giả thời hiện đại đã viết về đoeeì mà họ xem là có ý nghĩa
sâu sắc chỉ mối tương tác giữa những người ở vùng nước và những người ở vùng cạn. Đặc biệt, các học
giả đã xem điều này là sự biểu tượng hoá mối tương tác giữa một nền văn hoá biển và một nên văn hoá
lục địa ở một thời điểm xa xôi nào đó trong quá khứ, một mối tương tác mà các học giả này nói rằng đã
xác định một cách sâu sắc đặc trưng của dân Việt(55). Chẳng hạn, Keith Taylor đã cho rằng:
“Những truyền thống huyền thoại xung quanh Lạc Long Quân và nguồn gốc của các vua Hùng đã phi
lộ một nền văn hoá mang thiên hướng biển đang tiến tới sự liên hệ với môi trường đất liền. Nền văn
minh đến với một người anh hùng văn hoá từ biển, người đã vượt lên trên sức mạnh của lục địa bằng
cách chiếm vợ của kẻ thù và biến cô ta thành mẹ của những đứa con thừa tự của mình. Chủ đề về người
anh hùng văn hoá bản địa này đang trung hoà một mối đe đoạ của phương Bắc bằng cách chiếm lại
nguồn gốc tính chính đáng của nó, báo hiệu một mối quan hệ lịch sử giữa người Việt và người Trung
Hoa. Nguồn gốc huyền thoại của các vua Hùng phản ánh một cơ sở văn hoá biển với những sự trưởng
thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa. Ý tưởng này sau đó được giới trí thức Việt
Nam đưa vào phả hệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ, cái đã gom tuyến đường nước phương Nam với
tuyến lục địa phương Bắc vào một gia đình hoàng gia đơn nhất, trong cái gia đình đó người sáng lập
được lựa chọn lùi lên tận vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại đầu tiên”(56).
Quan điểm của Taylor ở đây là, người Việt Nam đã sở hữu một “chủ đề về người anh hùng văn hoá
bản địa đang trung hoà một sự đe đoạ của phương Bắc bằng cách chiếm lại nguồn gốc tính chính
đáng của nó” trước khi tiếp xúc với người Trung Hoa. Tuy nhiên, không rõ người mà “mối đe doạ
phương Bắc” bị làm nền bởi “một người anh hùng văn hoá trừ vùng biển” này là ai. Khẳng định của
ông rằng “Nguồn gốc huyền thoại của các vua Hùng phản ánh một cơ sở văn hoá biển với những sự
trưởng thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa” cũng ngụ ý rằng các thủ lĩnh Việt
Nam đã kế thừa “những sự trưởng thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa” trước khi
tiếp xúc với người Trung Hoa. Nhưng một lần nữa, không rõ “sự tác động từ lục địa” hay “những sự
trưởng thành chính trị” này là gì. Tuy nhiên theo Taylor, những chủ đề này, như được thể hiện trong
câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ, đã hiện diện trong thời điểm tiếp xúc với Trung Hoa. Rồi ở
một thời điểm nào đó tiếp sau, giới trí thức Việt Nam đã trau chuốt câu chuyện này bằng cách thêm
những thông tin phả hệ sớm hơn, [tức là] dẫn ngược lên đến tận Thần Nông.
Việc một văn bản dường như được viết sau cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông ở thế kỉ XIII chứa
đựng “chủ đề về người anh hùng văn hoá bản địa đang trung hoà một mối đe đoạ của phương Bắc”
nên dẫn chúng ta tới sự hoài nghi tính cổ xưa của của một chủ đề như thế.
Tương tự, việc những vị thủ lĩnh chính trị trong một câu chuyện được viết bằng Hán văn cổ bởi một
thành viên hay một số thành viên của giới tinh hoa Việt Nam Hán hoá được mô tả là đã kế thừa “những
sự trưởng thành về chính trị dưới sự ảnh hưởng mang tính lục địa” cũng nên dẫn chúng ta đến sự băn
khoăn liệu “những huyền thoại cổ” này phản chiếu những cách nhìn trung đại ở mức độ nào. Nói cho
công bằng, có thể có một câu chuyện nào đó được kể bởi “dân gian” không biết chữ ở một nơi nào đó
ở Đồng bằng sông Hồng về một Lạc Long Quân và Âu Cơ nào đó mà những học giả trung đại đã ghi
chép lại và trau chuốt nó. Tuy nhiên, ngay cả nếu một câu chuyện như thế tồn tại, vẫn thật nguy hiểm
khi phú cho nó tính cổ xưa và ý nghĩa văn hoá sâu sắc mà các học giả sở hữu, đặc biệt khi có khả năng
có nhiều chứng cứ tầm thường hơn minh chứng cho nguồn tư liệu [để sản sinh] một câu chuyện như
thế. Chẳng hạn, một văn bản Trung Hoa thế kỉ XVII dựa trên những tài liệu được thu thập trong giai
đoạn đô hộ [Đại Việt] đầu thế kỉ XV của nhà Minh bao gồm một câu chuyện địa phương về một con cá
sấu trong đó phần kết câu chuyện cung cấp những thông tin dưới đây:
“Cá sấu mỗi lần đẻ mấy chục quả trứng. Trứng nở, một số bò xuống nước thành cá sấu, một số bò
lên bờ, thành loài rắn lạ. Cá sấu mẹ có khi nuốt chúng để cho chúng không nảy nở nhiều”(57).
Do đó, có phải câu chuyện về năm mươi người con trai theo Lạc Long Quân xuống biển và năm mươi
người con trai theo Âu Cơ lên non thực sự là sự phản ánh kí ức văn hoá sâu sắc nào đó của cuộc tiếp
xúc giữa những phương thức sống dưới biển và trên lục địa? Hay có phải nó đơn thuần là một truyện
kể trung đại được đan dệt bởi một học giả bản địa người được gợi hứng bởi một truyện kể hư cấu về
những con cá sấu ở địa phương? Chúng ta không thể chắc chắn được, nhưng rõ ràng rất đáng khảo sát
bối cảnh trung đại để tìm ra một nguồn tư liệu tiềm năng cho những thông tin trong những truyện này. lOMoAR cPSD| 41487147
Và trong khi toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết địa phương có thể là một nguồn cảm hứng cho câu
chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ, thì chúng ta cũng không nên loại trừ khả năng câu chuyện này được
gợi hứng từ những nguồn tài liệu viết.
Tất nhiên, có vô số câu chuyện về rồng và tiên trong văn học Trung Hoa liên quan đến những khu vực
phía Nam sông Dương Tử. Theo đó, để xác định xem liệu có bất kì cái gì thống nhất trong câu chuyện
về Lạc Long Quân và Âu Cơ hay không, sẽ là khôn ngoan khi trước hết nên đào xới danh mục các câu
chuyện Trung Hoa viết về rồng và tiên. Chỗ tốt nhất để bắt đầu có lẽ là Liễu Nghị truyện, và như đã
biết, có những mối liên hệ rõ ràng giữa câu chuyện đó với câu chuyện về Kinh Dương Vương và Thần
Long. Và hoá ra, cũng có những sự tương đồng giữa Liễu Nghị truyện và đoạn văn trong Liệt truyện
đã dẫn ở trên. Những mối liên hệ ở đây không trực tiếp như những mối quan hệ liên quan đến Kinh
Dương Vương và Thần Long, nhưng chúng gợi ý một cách mạnh mẽ rằng câu chuyện này ít nhất gợi
một số ý tưởng cho câu chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Trong Liễu Nghị truyện, Liễu Nghị chuyển một bức thư cho Long quân hồ Động Đình sống dưới long
cung vì lợi ích của con gái ông. Khi Liễu Nghị đến cung điện, văn bản ghi chép những thông tin sau đây:
[Liễu] Nghị hỏi [một người chỉ đường cho ông đến long cung]:
– Động Đình quân đang ở đâu?
– Chủ nhân của chúng tôi đang ở gác Huyền Châu. Ông đang bàn bạc về Hoả kinh với Thái Dương đạo
sĩ. Họ có lẽ sắp kết thúc rồi.
– Hoả kinh nói về cái gì?
– Chủ nhân của chúng tôi là rồng. Sức mạnh thần thánh của rồng liên quan đến nước; với một giọt
nước ông có thể chụp lên cả các ngọn núi và thung lũng. Trong khi đó, Đạo sĩ là người. Sức mạnh
thần thành cua người liên quan đến lửa; với một ngọn đèn, ông ấy có thể đốt cháy cung A Phòng [một
cung điện được xây dựng bởi Tần Thuỷ hoàng đế]. Vì hai loại trí tuệ thần thánh là khác nhau về chức
năng, nên sự biến hoá huyền diệu cũng rất khác nhau”(58).
Khi khẳng định của Lạc Long Quân với Âu Cơ có thêm một ý nghĩa mới sau khi đọc đoạn văn này,
thì tất nhiên không có cách nào khác phải thừa nhận chắc chắn rằng tác giả Hồng Bàng thị truyện đã
lấy ý tưởng từ Liễu Nghị truyện để giải thích rằng sự khác biệt giữa nòi rồng, Lạc Long Quân, và
dòng tiên/trên cạn, Âu Cơ, là do sự khác biệt giữa lửa và nước. Tuy nhiên, khi ai đó xem xét cái cách
thông tin trong hai văn bản bao quanh các loại rồng, tiên, người, lửa, nước, khí, âm và dương, thì rõ
ràng là chúng ta đang quan tâm nhiều đến những ý tưởng từ toàn bộ lĩnh vực hiểu biết và truyền
thuyết của Đạo giáo hơn là những ý tưởng thuộc về một ý thức mang tính lịch sử sâu sắc về sự chạm
trán xa xưa giữa hai nền văn hoá khác nhau.
“Việt/Yue” như là một khái niệm tự xưng.
Sự ảnh hưởng của lịch sử và văn học Trung Hoa đối với Hồng Bàng thị truyện là cực kì có ý nghĩa, ở
chỗ nó hoàn toàn ủng hộ lập luận rằng câu chuyện này là một kiến tạo thời trung đại. Với sự thật đó,
chúng ta cần phải xét lại toàn bộ hiểu biết của chúng ta về lịch sử Việt Nam để điều chỉnh cho đúng với
thực tế này. Bằng những gì tiếp theo, tôi sẽ cố gắng phác thảo đại lược một đề cương của một sự diễn
giải thay thế về lịch sử Việt Nam thời trung đại và sớm hơn, cái có thể giúp lí giải về người viết Hồng
Bàng thị truyện và lí do viết. Vì giới hạn khuôn khổ bài viết, sự thảo luận này sẽ rất ấn tượng chủ nghĩa
và sẽ thuần tuý nhấn mạnh một cặp xu hướng mà tôi cho là chúng ta nên xem xét khi khảo sát giai đoạn
này. Thứ nhất, đối lập với niềm tin rằng “nhân dân” của Đồng bằng sông Hồng ở thiên niên kỉ đầu
trước CN đã sở hữu bản sắc nào đó mà họ duy trì suốt cả nghìn năm Trung Hoa cai trị, tôi cho rằng
chúng ta có thể nhận thấy xu hướng lOMoAR cPSD| 41487147
từ từ trong một phần của giới tinh hoa Hán hoá, những người sống ở một khu vực trải dài từ vùng Bắc
Việt Nam ngày nay đến tận Quảng Đông là sử dụng khái niệm “Việt” (Yue) để tự xưng, đặc biệt vì
những mục đích chính trị. Thứ hai, sự phát triển xa hơn của một cảm quan địa phương về sự nhận dạng
[hay “bản sắc” – HQV], cái chúng ta nhận thấy được tái hiện trong một công trình như Liệt truyện, là
một phần của sự biến chuyển rộng lớn hơn ở khu vực này. Đặc biệt ở những khu vực được cai trị bởi
những thành viên của giới tinh hoa Hán hoá, người dân dựa nhiều vào những mẫu hình địa phương chủ
nghĩa về sự nhận dạng [“căn cước” hay “bản sắc”]. Trong quá trình này, các thành viên của giới tinh
hoa đã quét qua các văn bản sớm hơn để kiếm tìm những thông tin mà họ có thể dùng để trang hoàng
cho cái bản sắc địa phương và cảm quan về vị trí [của họ].
Hơn một thập kỉ trước, sử gia Charles Holcombe đã viết một bài cực kì sắc sảo về lịch sử cổ xưa của cái
mà ông gọi là “vùng viễn Nam của Trung Hoa”. Trong đó, ông cho rằng chẳng có “Việt Nam” nào
ở thiên niên kỉ đầu trước CN hay ở bất cứ giai đoạn nào suốt thời kì Trung Hoa cai trị cả. Thay vào đó,
ông chứng minh rằng đây là một thế giới mà, cùng với khu vực của cái mà ngày nay chúng ta gọi là
Nam Trung Hoa, đang biến đổi chậm chạp khi các đồng bằng sông Hồng và sông Li giang dần dần trở
thành các hòn đảo Hán hoá giữa một biển đa sắc tộc của những cư dân phi-Hán hoá(76). Xây dựng dựa
trên quan sát này, tôi sẽ lập luận rằng thay vì có thực tế là giới tinh hoa Hán hoá này rốt cuộc ghi chép
những thông tin về các nền văn hoá bản địa, chính là giới tinh hoa Hán hoá ở các khu vực này thực tế
đã bắt đầu kiến tạo ra cảm quan về bản sắc địa phương cho chính họ. Họ làm như vậy không phải bằng
cách quay về với nhân dân địa phương, mà là hướng vào các văn bản Trung Hoa hiện còn.
Đó chính là: người Trung Hoa vốn chỉ những nhóm dân khác nhau về phía Nam bằng khái niệm Việt,
hay gọi chung là Bách Việt. Ngoại trừ một vương quốc cổ được gọi là Việt quốc, Việt/Yue là một cái
tên mà người Trung Hoa dùng để gọi nhiều nhóm dân khác nhau, những người xa tới mức chúng ta
biết, đã không dùng khái niệm này để chỉ bản thân mình(77). Tuy nhiên, rốt cuộc, có một số cá nhân
đã kế thừa một cách có ý thức khái niệm “Việt/Yue” vì mục đích của họ, đặc biệt trong những quốc
hiệu. Khá thú vị là, những người đầu tiên làm như vậy toàn là hoặc người Hán hoặc là hậu duệ có pha
chút Hán. Triệu Đà, một viên quan Trung Hoa đã thiết lập một vương quốc ở thế kỉ III trước CN bao
trùm một khu vực kéo dài từ tỉnh Quảng Đông đến Bắc Việt Nam ngày nay, có lẽ là người sớm nhất
dùng khái niệm “Việt/Yue” cho mục đích “tự xưng” này. Ông gọi lãnh thổ của nước mình là Nam
Việt(78). Tuy nhiên, trong những thế kỉ tiếp theo, những người khác cũng sẽ làm tương tự.
Chẳng hạn, có một nước Nam Việt được tuyên bố bởi một ông Lý Bí nào đó vào thế kỉ VI ở khu vực
mà ngày nay thuộc Việt Nam. Lý Bí được cho là hậu duệ đời thứ 7 của người Trung Hoa đã chạy trốn
xuống phía Nam cuối thời Hán đến khu vực thuộc Việt Nam ngày nay. Trong suốt cả giai đoạn đó,
dường như gia đình này có quan hệ hôn nhân qua lại với người dân địa phương và thiết lập những
mối ràng buộc mạnh mẽ với khu vực này. Năm 544, Lý Bí nắm lấy cơ hội có sự rối loạn chính trị
trong vùng để thiết lập một vương quốc của riêng mình và tự tuyên bố mình là Hoàng đế của nước Nam Việt(79).
Bởi Toàn thư đề cập đến cả Triệu Đà và Lý Bí, nên các học giả hiện đại cho rằng đây là một dấu hiệu
cho thấy một ý thức Việt Nam đã được khẳng định dưới sự ách cai trị của Trung Hoa. Người Việt
mong muốn độc lập và không bao giờ quên giai đoạn Triệu Đà thiết lập một vương quốc ở khu vực
này. Theo các học giả đó, những thông tin về vương quốc của Triệu Đà đã được truyền miệng từ thế hệ
này qua thế hệ khác, và rồi ở thế kỉ VI, Lý Bí đã nhập vào kí ức bản địa này. Tuy nhiên, xảy ra một vấn
đề với ý tưởng này là có những người không thuộc khu vực Việt Nam ngày nay cũng sử dụng khái
niệm “Nam Việt/Yue” trong cùng giai đoạn, bằng cách đó nó chất vấn ý tưởng rằng có những kí ức
được chia sẻ chỉ hạn chế trong phạm vi “nhân dân” ở Đồng bằng sông Hồng.
Chẳng hạn, ở thế kỉ VII, một người có tên là Lâm Sĩ Hồng nổi lên qua những vị trí của một nhóm
người nổi loạn ở khu vực ngày nay thuộc tỉnh Giang Tây ở Trung Hoa, và cuối cùng lãnh đạo nhóm
này đánh bại một đội quân được nhà Tuỳ gửi đến để dẹp loạn. Sau đó Lâm Sĩ Hồng đã tự xưng là Vua
của nước Nam Việt. Không lâu sau đó, ông tự xưng là Hoàng đế và đặt tên nước là Chu (Sở)(80).
Theo đó, Lâm Sĩ Hồng dường như đã thử nghiệm những khả năng chính trị khác nhau. Ông vui thú với
ý tưởng là vua của Nam Việt trước khi chuyển sang một biểu tượng khác của phương Nam, là nước Sở
cổ xưa, và nâng ông lên vị trí Hoàng đế.
Một nhân vật khác cũng trong giai đoạn này đã cân nhắc tiếp nối con đường của Lâm Sĩ Hồng nhưng
đã không thành. Phùng Áng (? – 646) đến từ khu vực ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông. Tuy nhiên, tổ
tiên pha tạp của ông đã đến từ miền bắc Trung Hoa. Ở một thời điểm nào đó sau khi phần phía Bắc của lOMoAR cPSD| 41487147
Trung Hoa nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Bắc Nguỵ năm 386 sau CN, một thành viên của gia đình
Phùng Áng chạy đến Koryo, hay là Triều Tiên ngày nay. Từ đó ông này gửi một người con trai, Phùng
Ức, cùng với ba trăm người khác tiến về phía Nam Trung Hoa, rồi nằm dưới sự kiểm soát của Nhà
Tấn. Phùng Ức định cư ở Panyu, ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông. Cháu nội của ông lấy một Phu nhân
Tiễn nào đó từ một cự tộc địa phương, được gọi là một gia tộc “Việt/Yue” trong các nguồn tư liệu
Trung Hoa. Các thành viên của gia tộc họ Phùng tiếp nhau là người lãnh đạo địa phương, và từ cái gia
đình có nhiều dấu ấn ảnh hưởng phương Nam này mà Phùng Áng được sinh ra.
Khi trưởng thành, Phùng Áng trở thành một vị tướng của nhà Tuỳ. Khi nhà Tuỳ đổ, ông quay trở về khu
vực Quảng Đông và cuối cùng, sau nhiều trận chiến, ông đã kiểm soát một vùng lãnh thổ rộng lớn
ở khu vực ngày nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây và thậm chí là Hải Nam. Những bộ hạ nói với
Phùng Áng rằng với quyền lực của mình, ông nên tự xưng là vua của Nam Việt/Yue. Tuy nhiên, Phùng
Áng đã từ chối. Ông thừa nhận rằng ông là vị thủ lĩnh duy nhất ở khu vực này và rằng ông là người
thành công hơn bất kì ai khác, nhưng ông do dự khi tự coi mình là một ông vua và cho rằng việc tự
xưng một cái tên tự phóng đại như vậy sẽ sỉ nhục thành tựu của tổ tiên ông(81).
Điều mà các ví dụ này gợi ý là ở thiên niên kỉ đầu sau CN, không có một bản sắc “Việt/Yue” rõ ràng
được giới hạn cho một nhóm người nào đó ở Đồng bằng sông Hồng hay được hiểu bởi những đám
đông không biết chữ. Thay vào đó, những ví dụ này chỉ ra rằng ở một khu vực bao trùm tỉnh Quảng
Đông và Bắc Việt Nam hiện nay – hai khu vực mà Charles Holcombe đã chứng minh là bị Hán hóa
nhiều nhất trong khu vực – đã từng tồn tại những thành viên khác nhau của giới tinh hoa Hán hóa
những người biết rằng “Việt/Yue” là một khái niệm đã được sử dụng từ lâu trong các văn bản thành
văn để chỉ người dân ở khu vực này. Kết quả là, ở một vài thời điểm khi một số trong các nhân vật này
cố gắng kiến tạo không gian chính trị của riêng mình, họ sử dụng khái niệm này để chỉ rõ vị trí của họ
trong một thế giới rộng lớn hơn. Tuy nhiên, không có chứng cứ cho thấy những người dân bản địa phi-
Hán hóa thực sự sử dụng khái niệm “Việt/Yue”, hay cho thấy rằng việc sử dụng thuật ngữ này của
giới tinh hoa Hán hóa có nghĩa là nó lôi cuốn những người dân làm như vậy.
Từ những khởi đầu này ở thiên niên kỉ đầu sau CN, khái niệm “Việt/Yue” – với tư cách một khái niệm
được sử dụng trong các quốc hiệu được tạo ra bởi người Trung Hoa thời Hán hay những người ít nhất
có một phần dòng máu Hán Trung Hoa ở khu vực ngày nay thuộc tỉnh Quảng Đông và Bắc Việt – rồi
sẽ được đẩy lên bởi giới tinh hoa Hán hóa ở Đồng bằng sông Hồng vào những thế kỉ đầu của thiên
niên kỉ thứ hai sau CN nhằm đặc chỉ khu vực dưới quyền kiểm soát của họ. Ở đây một lần nữa, chứng
cớ văn bản đã gợi ý rằng khái niệm này vẫn được sử dụng trong một cảm quan chính trị chủ đạo để
cho thấy sự nghiệp của [các] triều đại. Thực vậy, bài tựa Liệt truyện cho chúng ta một cảm giác như
vậy. Tôi đã trích dẫn một số trong những thông tin này ở trên. Tiếp theo là toàn bộ đoạn văn mở đầu của bài tựa đó:
“Mặc dù Quế Hải nằm ở [khu vực] Lĩnh Nam, nhưng kì công của những núi non và sông suối, sự linh
thiêng của đất, sự anh hùng của con người nơi đây, và những việc kì lạ thiêng liêng đều có thể tìm thấy
ở đây(82). Từ trước thời Xuân Thu và Chiến Quốc (722 – 221 trước CN), không xa thời thái cổ, phong
tục phương Nam vẫn còn giản phác. Chưa có sử sách gì của vương quốc để ghi chép các sự kiện. Vì
vậy, [nhiều thông tin về] hầu hết các sự kiện đã bị mất mát. Những điều may mắn tiếp tục còn tồn tại
và không bị huỷ hoại là do những sự lưu truyền bằng miệng của nhân dân. Rồi trong thời Lưỡng Hán,
thời Tam Quốc và vào thời Đông Tấn, Tây Tấn, Nam Bắc Triều, rồi đến thời Đường, Tống, Nguyên,
Minh, rốt cuộc mới có các sách sử ghi chép các việc, như sách Lĩnh Nam chí, Giao Quảng chí, An
Nam chí lược, Giao Chỉ chí lược,… tất cả mới có thể tham khảo được(83). Tuy nhiên, đất Việt ta là
vùng đất hoang dã từ xưa. Vì vậy, những ghi chép về nó còn sơ lược. Tuy nhiên, vương quốc ở đây bắt
đầu với các vua Hùng. Dòng suối văn minh dần dần truyền qua các triều Triệu [tức là Triệu Đà], Ngô,
Đinh, Lê, Lý, Trần và đến nay đã ra đến biển. Vì vậy, những ghi chép lịch sử của vương quốc đã trở
nên đặc biệt chi tiết. Nhưng với sự sáng tác tập truyện này, liệu những thông tin trong đó có phải là sử?
Không có ghi chép về thời điểm ra đời của chúng hay người nào đã hoàn thành chúng. Có lẽ một bản
thảo đã được tạo ra bởi những học giả xuất sắc ở thời Lí và Trần, và rồi chúng được nhuận sắc thời gần
đây bởi những bậc đáng kính vốn am hiểu và hiếu cổ”(84)
Trong đoạn văn này, khái niệm “Việt” xuất hiện trong cụm từ “ngã Việt”. Đây là một khái niệm khó nắm
bắt. Về mặt lí thuyết, nó cũng có thể được dịch là “Chúng ta người Việt”, nhưng trong ngữ cảnh của bài tựa
này, và trong việc sử dụng nó ở những chỗ khác, rõ ràng nó không chỉ một nhóm người mà chỉ một tập
đoàn mang tính triều đại, và rộng ra, một vương quốc. Thực vậy, đây chính là cách chúng ta thấy khái niệm
“Việt” được sử dụng trong các ghi chép lịch sử về thời trung đại. Chẳng hạn, Đinh lOMoAR cPSD| 41487147
Bộ Lĩnh, người sáng lập triều Đinh, đã đặt tên nước mình là Đại Cồ Việt năm 968 và một năm sau
phong cho con trai mình tước hiệu “Nam Việt vương”(85). “Đại” và “Cồ đều có nghĩa là “vĩ đại”, chữ
đầu là khái niệm Trung Hoa, chữ sau là khái niệm Việt Nam. Có thể Đinh Bộ Lĩnh đã chọn khái niệm
này để phân biệt nước ông với một nước “Đại Việt/Yue” đã được thiết lập năm 917 ở khu vực mà
ngày nay thuộc Quảng Đông(86). Bằng cung cách này, người Việt thời trung đại có vẻ như đã tiếp tục
cách làm của giới tinh hoa chính trị Hán hóa từ khu vực rộng hơn trong việc tự xem các vương quốc
của mình là “Việt/Yue”. Tuy nhiên, điều nhất quán ở đây là phạm vi mà giới tinh hoa ở Đồng bằng
sông Hồng sau đó đã cố gắng gia cố cho khái niệm này, và những tập đoàn chính trị của họ, với sự
chứng thực xa hơn dựa vào những văn bản Trung Hoa hiện còn. Đây là một hiện tượng hiển nhiên có
sức thuyết phục trong đoạn văn trích từ bài tựa viết cho Liệt truyện [đã dẫn] ở trên.
Toàn bộ thông tin trong đoạn văn này được đưa ra nhằm giải thích cho vị trí và sự tồn tại của “Ngã
Việt”. Điều đáng chú ý là toàn bộ thông tin này được tạo nghĩa thông qua việc chỉ dẫn tới những khái
niệm đã tồn tại từ lâu trong các văn bản Trung Hoa, và điều đó cũng khá mang tính “Hán tâm”. Liệt
truyện khẳng định nó đang cung cấp thông tin về vùng “Quế Hải”, một khái niệm Trung Hoa để chỉ
các vùng ven biển ở khu vực ngày nay thuộc miền Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, tức là vùng
“Lĩnh Nam” men theo những đường biên phía Nam của khu vực ngày nay thuộc các tỉnh Quảng Tây
và Quảng Đông. Nó là một khu vực vốn là một phần của “những vùng hoang dại xa xôi” [yêu hoang],
một khái niệm địa lí mang tính Hán-tâm có từ thiên niên kỉ đầu trước CN và được dùng để chỉ những
vùng đất rất xa xôi so với kinh đô của đế chế. Và rồi khi khu vực này trải qua các triều đại Trung Hoa
(từ Hán đến Minh), nó được hợp thức thông qua sản phẩm của các văn bản viết về khu vực này được
thực hiện bởi các tác giả Trung Hoa. Quá trình này sau đó được làm sâu sắc thêm dưới triều Lý và
Trần như là một sự truyền bá của “văn minh” [văn minh], bằng điều được ngụ ý là toàn bộ danh mục
các văn bản và những lời giáo huấn được liên kết với truyền thống học thuật Trung Hoa, được duy trì một cách đầy đủ.
Do đó, từ đoạn văn này, chúng ta có thể có nhận thấy rằng người Việt Nam có học ở thời trung đại hẳn
phải kiểm tra những văn bản Trung Hoa hiện có [lúc bấy giờ] và nhận thấy rằng thông tin về khu vực
của họ trong tương quan với thế giới đã phát triển dần dần qua nhiều thời đại. Họ dùng các thông tin
này để cung cấp những chứng cớ trên văn bản về khu vực họ sống đặt trong một thế giới rộng lớn hơn.
Tự hào về triều đại hiện tồn của Ngã Việt, họ liền phóng chiếu sự tồn tại của nó vào quá khứ bằng cách
kiến tạo ra một “quốc thống” cho sự kế tục về chính trị từ các vua Hùng qua Triệu Đà đến các triều đại
ngắn ngủi khác nhau của thế kỉ thứ X, và cuối cùng là đến triều Lý và Trần. Điều này rõ ràng là một
hành động kiến tạo, vì sự phân tích văn bản đối với Hồng Bàng thị truyện ở trên đã chỉ ra, không có
các vua Hùng trong thực tế. Hơn nữa, có những vương quốc Nam Việt khác trong khu vực bên cạnh
[nước Nam Việt] của Triệu Đà. Việc lựa chọn nước Nam Việt của Triệu Đà, thay vì Lý Bí hay Lâm Sĩ
Hồng, là một quyết định tùy tiện trong quá trình kiến tạo này.
“Bước ngoặt địa phương”
Khao khát muốn đồng nhất [mình] với các tập đoàn chính trị địa phương và dùng các văn bản để kiến
tạo một cảm quan về tầm quan trọng cho khu vực này ở một bộ phận của giới tinh hoa người Việt thời
trung đại cũng được phản chiếu trong nhiều khu vực của đế chế Trung Hoa ở hầu như cùng thời điểm.
Các học giả của thời nhà Tống đã cho rằng sự biến đổi chủ yếu xảy ra trong giai đoạn này là giới tinh
hoa chuyển sự tập trung từ địa hạt quốc gia sang phạm vi địa phương riêng của họ. Đặc biệt hơn nữa,
khi quyền kiểm soát chính trị của đế chế bắt đầu phân rã trong thời Đường mạt, và các phần phía Bắc
của đế chế bị mất ở thời Tống, giới trí thức tập trung nhiều hơn vào việc củng cố địa vị của mình trong
các vũ đài địa phương họ hơn là tập trung tìm kiếm quyền lực ở kinh đô. Trải qua thời gian, “bước
ngoặt địa phương” này, như nó thường được mệnh danh, sau đó tự bộc lộ bằng những cách thức khác
nhau, từ các chiến lược hôn nhân đến một hứng thú học thuật tăng cao đối với các khu vực địa
phương(87). Nói khác đi, những sự đổi thay về xã hội của giai đoạn này cung cấp một nền tảng hoàn
hảo cho sự xây dựng những truyền thống được kiến tạo. lOMoAR cPSD| 41487147
Trong khi Đồng bằng sông Hồng có sự khác biệt vào giai đoạn này ở chỗ nó đã trở nên tự chủ thoát khỏi sự
cai trị trực tiếp của Trung Hoa, người ta có thể cho rằng đây là một “bước ngoặt địa phương” đáng so sánh
với những thay đổi tương tự trong sự quan tâm của giới tinh hoa ở các khu vực khác của đề chế Trung Hoa
lúc bấy giờ. Chẳng hạn, ở thế kỉ X, tiếp sau sự sụp đổ của nhà Đường, một học giả có tên là Đỗ Quang Đình
soạn một tuyển tập các truyện chí quái về vùng Tứ Xuyên. Công trình này thực hiện một chức năng rất giống
với Liệt truyện ở chỗ nó “thuần hóa” các câu chuyện chí quái từ khu vực này và ở quá trình đưa ra một cảm
quan về sự gắn kết với khu vực(88). Hơn nữa, giống như (những) soạn giả của Liệt truyện, Đỗ Quang Đình
dựa nhiều vào các nguồn tư liệu hiện còn [lúc bấy giờ] để soạn văn bản của ông. Vì vậy, không những Liệt
truyện không phải là một ghi chép các câu chuyện truyền miệng lưu truyền qua các thế kỉ, mà nó cũng
không thuần nhất ở chỗ có các vẳn bản Hán cổ khác được soạn trong hầu như cùng thời gian và được sáng
tác theo cùng kiểu và vì cùng mục đích.
Thêm nữa, đã xuất hiện những người nhóm người khác cũng hướng đến cùng một luồng thông tin
giống như các học giả Việt Nam để kiến tạo cảm quan của riêng họ về một bản sắc địa phương. Những
người mà ngày nay chúng ta nhắc đến như là những người Quảng Đông chẳng hạn cũng đã tham dự
vào nhiều động thái văn chương tương tự như người Việt Nam và ở hầu như cùng thời điểm. Giống
như người Việt, người Quảng Đông cũng tự gọi họ là Việt/Yue. Ngày nay, một chữ khác được dùng để
thể hiện người Việt/Yue Quảng Đông, [đó là [粵]]. Tuy nhiên, trong quá khứ, chữ này được dùng
thông nhau với chữ đồng âm mà ngày nay dùng đặc chỉ người Viêt [tức là 越]. Cũng giống như
người Việt, có những học giả Quảng Đông đã trông vào các nguồn tư liệu Trung Hoa sớm hơn để tìm
kiếm thông tin lịch sử về tộc Việt/Yue, trong đó nó được viết với chữ “粵” hoặc “越”.
Một ví dụ về hiện tượng này là cuốn Bách Việt tiên hiền chí của Âu Đại Nhâm. Một người bản xứ tại
Quảng Đông là Âu Đại Nhậm đã sưu tầm các thông tin lịch sử về nhiều thành viên khác nhau của
Bách Việt, những người mà ông cho là “đáng kính trọng” [hiền]. Phần lớn những người có mặt trong
cuốn sách này đều sống ở khu vực Quảng Đông ngày nay, nhưng cũng có những người không sống ở
đó. Trong số đó có Sĩ Nhiếp, một Thái thú người Trung Hoa đã cai trị Bắc Việt Nam vào thế kỉ III sau
CN và là người mà Ngô Sĩ Liên tôn xưng là “vương” trong Toàn thư vì những đóng góp của ông cho
khu vực này, đặc biệt là những nỗ lực được ghi nhận của ông trong việc dạy chữ Hán cổ [cho người Việt] (89).
Một ví dụ khác về một văn bản xuất xứ từ Quảng Đông có dùng một số chất liệu cùng nguồn như
người Việt từng dùng là cuốn Quảng Đông tân ngữ của Khuất Đại Quân (1630 – 1696). Công trình
này là một cuốn “loại thư” bao hàm nhiều chủ đề được viết từ lâu bởi hoặc người Trung Hoa từ thiên
niên kỉ đầu trước CN cho đến ít nhất là thời Tống, hoặc bởi một người Quảng Đông sau đó. Một chủ
đề có liên quan đến những phụ nữ Việt/Yue. Ở đây, Quảng Đông tân ngữ thừa nhận rằng chị em bà
Trưng là những người phụ nữ Việt đầu tiên nổi tiếng, nhưng cho rằng điều đó phụ thuộc vào sự mới
mẻ của việc họ đã “tiếm” vương hiệu cho riêng mình, một việc mà những người phụ nữ khác chưa
từng làm trước đó. Rồi nó tiếp tục đề cập đến Bà Triệu, một chiến binh nữ của thế kỉ III, sống ở một
nơi nào đó trong khu vực ngày nay thuộc miền Trung Việt Nam và là người đã cưỡi voi ra trận với hai
vú dài vắt qua vai. Tuy nhiên, Quảng Đông tân ngữ bàn luận sơ sài về bà khi đơn thuần [coi bà] chỉ
như một “tên cướp dũng cảm”(90).
Thừa nhận nhưng lại hạ thấp vai trò quan trọng của những người phụ nữ đó, những người là trung tâm
của lịch sử Việt Nam ngày nay, sau đó Quảng Đông tân ngữ tiếp tục cho rằng có những người phụ nữ
Việt/Yue ở khu vực này trong quá khứ còn nổi tiếng hơn họ, ví như hai người con gái của tộc Tiễn ở
Quảng Đông. Một trong hai người này xuất hiện trước hai bà Trưng và đã bảo vệ vùng đất này trước
các “tù trưởng dân man” [man tù] trong thời đại hỗn loạn sau sự sụp đổ của nhà Tần vào năm 206 trước
CN(91). Tộc Tiễn này là một gia tộc mà Phùng Áng có quan hệ hôn nhân. Nếu chúng ta nhắc lại, thì
ông là người được đề cập ở trên, người ở cuối triều Tuỳ được những tòng thuộc của mình ủng hộ việc
thiết lập một vương quốc và tôn xưng ông là “Nam Việt vương”. Nếu Phùng Áng làm như vậy, và
vương quốc của ông duy trì được sự tự trị đủ dài khỏi sự cai trị của Trung Hoa, thì có lẽ ngày nay đã có
2 nước Việt/Yue độc lập, vì ở thời trung đại các đồng bằng như Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng
sông Li là khá tương đồng. Ở cả hai khu vực đều có một giới tinh hoa Hán hoá nhỏ bé đang nỗ lực tạo
ra một cảm quan về bản sắc địa phương, tức là, một cảm quan về việc mình “là người Việt/Yue”. Và cả
hai đã làm như vậy bằng cùng một cách, sử dụng các thông tin từ các nguồn tư liệu Trung Hoa hiện tồn
[lúc bấy giờ] để tạo ra các câu chuyện về chính mình. Kết luận lOMoAR cPSD| 41487147
Keith Taylor từng viết rằng người Việt Nam “học cách để khớp nối các bản sắc phi Hoa vào các khái
niệm thuộc di sản văn hoá của Trung Hoa”(92). Điều này đúng ở một phạm vi nào đó. Nhưng, chúng ta
cần phải cẩn trọng ở cách chúng ta hiểu nhận định này. Rồi Taylor, như nhiều học giả ở Việt Nam ngày
nay vẫn làm, lập luận rằng vua Hùng đã thực sự tồn tại, và rằng truyền thống chính trị có trước khi tiếp
xúc với Trung Hoa này đã tạo nên một cảm quan của người Việt về bản sắc, cảm quan được duy trì
suốt một nghìn năm Trung Hoa cai trị cho đến khi rốt cuộc nó được khớp nối “vào các khái niệm thuộc
di sản văn hoá của người Trung Hoa” ở thời trung đại. Tuy nhiên, tôi cho sự thảo luận về Hồng Bàng
thị truyện trong bài tiểu luận này đã chứng minh rằng các vua Hùng không có thật. Thay vào đó, họ
được kiến tạo ở thời trung đại với tư cách là một bộ phận của một quá trình trong đó đầu tiên giới trí
thức trinh hoa Hán hoá ở Đồng bằng sông Hồng đã kiến tạo ra, sau đó khớp nối một bản sắc riêng vào
các khái niệm thuộc di sản văn hoá của người Trung Hoa. Điều đó không có nghĩa là không tồn tại
những thể chế ở Đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỉ đầu tiên trước CN. Các trống đồng và các di
vật khác mà các nhà khảo cổ thế kỉ XX đã khai quật gợi ý rằng dường như đã tồn tại các thể chế đó.
Tuy nhiên, không có chứng cớ nào cho thấy rằng các học giả Việt Nam trung đại biết về trống đồng
hay những nhóm người khác đã sử dụng chúng [ở thời trung đại]. Đó là một truyền thống được kiến tạo
ở thế kỉ XX. Tuy nhiên, những gì mà giới tinh hoa Hán hoá thời trung đại thực sự biết là những văn
bản cổ, và họ dựa vào những văn bản xưa cũ ấy để lấy chất liệu và cảm hứng nhằm kiến tạo một lịch
sử cũng như một bản sắc bản địa cho bản thân mình.
Giới tinh hoa Hán hoá ở Đồng bằng sông Hồng không đơn độc khi làm như vậy. Các học giả ở khu
vực thuộc đế chế Trung Hoa, như Tứ Xuyên và Quảng Đông, cũng tham gia vào những việc làm tương
tự ở những thời điểm tương tự. Đều kinh qua khu vực này trong hầu như cùng một giai đoạn, các học
giả ngoảnh nhìn và hứng thú với những vùng đất địa phương của mình. Họ tạo ra những trước tác về
các địa phương của họ, như các truyện chí quái, bằng cách khảo xét những gì đã từng được viết về khu
vực của họ [trong quá khứ]. Trong quá trình này, họ đóng góp cho việc sáng tạo ra một bản sắc địa
phương. Cuối cùng, cái dự án vốn được bắt đầu bởi giới tinh hoa Hán hoá thời trung đại được [người]
Việt Nam ngày nay dựa vào để phát triển xa hơn cả. Trải qua nhiều thế kỉ, những truyền thống họ kiến
tạo ra trở thành tự nhiên thứ hai. Thực vậy, trải nửa thế kỉ qua, dưới sự chi phối của chủ nghĩa dân tộc
ở Việt Nam, những truyền thống được kiến tạo của giới tinh hoa Hán hoá thời trung đại này giờ đây đã
trở thành những chân lí không thể thay đổi. Trong khi đó, ẩn ý trong lời nhận xét của Lê Quý Đôn –
rằng Liệt truyện, nguồn tư liệu chính yếu của những truyền thống được kiến tạo ấy, đã vay mượn
“nhiều không thể kể xiết” những văn bản khác – đã bị cố tình bỏ qua.
LIAM C KELLEY là Phó Giáo sư về Lịch sử Đông Nam Á ở Đại học Hawai’I at Manoa. Tác giả
muốn tỏ lời cảm ơn đến những nhà phê bình ẩn danh, Tạ Chí Đại Trường [Source: Journal of
Vietnamese Studies, Vol. 7, No. 2 (Summer 2012), pp. 139-162] và Keith Taylor [xem bài bình
luận của ông tại đây] vì những góp ý và sự sáng suốt của họ. Tóm tắt
Bài viết này khảo sát có phê phán tác phẩm có tên Hồng Bàng thị truyện (Truyện về họ Hồng Bàng)
trong một văn bản ở thế kỉ XV, cuốn Lĩnh Nam chích quái liệt truyện. Truyện này là nguồn tư liệu cho
thông tin lịch sử về các vua Hùng. Các học giả lâu nay đã cho rằng thông tin này được truyền miệng từ
thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên cho đến khi rốt cuộc nó được viết ra ở một thời điểm nào đó
sau khi Việt Nam bắt đầu độc lập từ thế kỉ thứ X. Trái lại, bài viết này lập luận rằng thông tin về các
vua Hùng được kiến tạo sau khi Việt Nam giành được độc lập và trở thành một “truyền thống được kiến tạo”.
Từ khoá: Việt Nam, lịch sử, truyền thuyết, văn học, vua Hùng.