














Preview text:
Hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN – Góc nhìn từ ngành dịch vụ logistics 
Singapore và vận dụng kinh nghiệm phát triển logistics tại Việt Nam 
Sinh viên Trịnh Minh Thông  Khóa 18 
Lớp K18 KDQTA 
Email: trinhthong.hvnh18@gmail.com 
Số điện thoại: 0903256897  Tóm tắt 
Ngày 31 tháng 12 năm 2015, cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic 
Community – AEC) chính thức được thành lập - đánh dấu sự hội nhập khu vực một 
cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Điều này đặt ra 
nhiều cơ hội và thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó lĩnh vực Logistics 
là một trong những nhóm ngành được kỳ vọng sẽ tăng trưởng tốt trong những năm tới. 
Phát triển dịch vụ logistics một cách hiệu quả sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của 
nền kinh tế và quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ hiện nay, cạnh tranh kinh 
tế giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Điều này 
đã làm cho dịch vụ logistics trở thành một trong các lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Bài 
viết này nhằm phân tích thực trạng hoạt động của ngành dịch vụ Logistics tại Singapore 
trong quá trình xây dựng AEC và vận dụng kinh nghiệm phát triển ngành Logistics tại  Việt Nam. 
1. Thực trạng hội nhập logistics tại khu vực ASEAN  1.1. Tình hình chung 
AEC là một trong ba trụ cột chính của Cộng đồng ASEAN, bao gồm Cộng đồng 
Chính trị – An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa – Xã 
hội (ASCC), nằm trong Lộ trình và Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng ASEAN 
vào năm 2015. Kể từ khi chuyển sang giai đoạn thực hiện, gần 3 năm qua, ASEAN đã 
thực hiện lộ trình hội nhập Logistics với nhiều bước tiến quan trọng trong việc tăng 
cường hợp tác chặt chẽ lĩnh vực Logistics. 
Hiện có nhiều định nghĩa học thuật về thuật ngữ logistics. Ủy ban Kinh tế Xã 
hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc (UNESCAP) cho rằng Logistics có thể 
được định nghĩa là việc quản lý dòng trung chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình 
sản xuất, thành phẩm và xử lý các thông tin liên quan…..từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ 
cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng. Hiểu một cách rộng hơn nó còn bao gồm cả 
việc thu hồi và xử lý rác thải. Logistics còn được cho rằng là quá trình xây dựng kế 
hoạch, cung cấp và quản lý việc chu chuyển và lưu kho có hiệu quả hàng hoá, dịch vụ 
và các thông tin liên quan từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ vì mục tiêu đáp ứng nhu cầu 
của khách hàng (Lambert 1998) 
Theo Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng (Council of 
Supply Chain Management Professionals – CSCMP), thì thuật ngữ này được định nghĩa 
khá đầy đủ như sau: “Quản trị logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao 
gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hàng hóa, dịch vụ 
cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu  1   
cầu của khách hàng một cách hiệu quả nhất.” Đây được coi là khái niệm đầy đủ nhất về  logistics. 
Các quốc gia đều cho rằng xu hướng hội nhập khu vực và toàn cầu hóa là điều tất 
yếu cho sự phát triển của nền kinh tế. Khu vực Đông Nam Á đang tiến tới việc hội nhập 
nhiều lĩnh vực trong đó có các hoạt động Logistics. Vai trò của hoạt động Logistics đối 
với hoạt động thương mại và GDP được các quốc gia Đông Nam Á đánh giá cao qua 
hai yếu tố: Tác động của chi phí vận tải đối với thương mại và GDP cũng như tác động 
của các cảng tới GDP. Theo World Bank 2014: 
 Tác động của chi phí vận tải ố
đ i với thương mại và GDP: 
- Chi phí vận tải tăng 10% thì kim ngạch thương mại giảm 20  %
- Chi phí vận tải tăng 100% thì tăng trưởng GDP bị chậm 0,5% 
 Tác động hiệu quả của các cảng đối với GDP 
- Các cảng hoạt động không đạt hiệu quả tương đương việc tăng khoảng cách lên  60% 
- Hiệu quả các cảng tăng 0,55% sẽ có tác động lên GDP bằng với tăng 5,5% hiệu 
quả trong Thuế nhập khẩu hay 3,3% hiệu quả thương mại điện tử. 
- Sự giảm thiểu các cảng kém hiệu quả, có thể đem lại tăng trưởng GDP 0,47 %. 
Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao thông vận tải trong khu vực 
ASEAN là một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà các nhà lãnh đạo các quốc gia Đông 
Nam Á luôn ưu tiên thực hiện. Nhiệm vụ này bao gồm: Tạo điều kiện thuận lợi cho 
hàng hóa, hành khách quá cảnh; Giao thông vận tải đa phương thức; và các hoạt động  vận tải liên quốc gia. 
 Tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa, hành khách quá cảnh  Về cơ chế: 
- Hợp lý, đơn giản hóa, hài hòa tài liệu, thủ tục, kiểm tra ở cấp quốc gia và giữa  các nước láng giềng. 
- Phối hợp và hợp tác giữa các cơ quan chức năng và lĩnh vực kinh doanh. 
Thực tế, năm 1998 tại Hà Nội Hiệp định ASEAN về việc tạo điều kiện thuận lợi cho 
hàng hóa quá cảnh đã được ký kết. Hiệp định bao gồm: 
- Nghị định thư số 1: Thực hiên thiết kế các tuyến đường giao thông vận tải và các 
trang thiết bị cần thiết cho vận tải quá cảnh (Giao thông vận tải thuận lợi) - đã  ký kết năm 2007. 
- Nghị định thư số 3: Các loại và số lượng của đường dành cho các phương tiện đi 
lại - đã ký vào năm 1999. 
- Nghị định thư số 4: Các yêu cầu kỹ thuật của xe - đã ký kết năm 1999. 
- Nghị định thư số 5: Đề án ASEAN về bảo hiểm xe ô tô bắt buộc (Bảo hiểm, Bộ 
Tài chính) - đã ký năm 2001. 
- Nghị định thư số 8: Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật (Nông nghiệp)  - đã ký vào năm 2000. 
- Nghị định thư số 9: Hàng hóa nguy hiểm - đã ký vào năm 2002.  2   
Bên cạnh đó,còn có 3 nghị định thư đáng chú ý nhất đó là nghị định thư số 2, 6 và 7: 
- Nghị định thư số 2: Thực hiện thiết kế các đồn biên phòng (Hải quan). 
- Nghị định thư số 6: hệ thống đường sắt ở khu vực biên giới và Trạm trao đổi. 
- Nghị định thư sô 7: Hệ thống Hải quan quá cảnh (Hải quan). 
 Giao thông vận tải đa phương thức 
Các quốc gia đề ra các yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng nhằm hỗ trợ việc cải thiện 
mạng lưới vận tải trong nước, nhờ đó sự liên kết giữa các cửa ngõ logistics của ASEAN 
được cải thiện (bắt đầu thực hiện năm 2007). Bên cạnh đó, việc sử dụng các thuật ngữ 
và các thực tiễn liên quan tới vận tải đa phương thức, trong đó có INCOTERMS cũng 
được các quốc gia Đông Nam Á xúc tiến. Có thể nói, năng lực logistics là chìa khóa 
cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh thương mại nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. 
Hoạt động vận tải, đặc biệt là vận tải đa phương thức, đóng một vai trò rất quan trọng 
trong các hoạt động logistics. 
 Các hoạt động vận tải liên zquốc gia 
Vận tải liên quốc gia là hoạt động vận chuyển người và hàng hóa qua lãnh thổ của 
ít nhất hai bên ký kết. Hiện nay có đến 98% số sản phẩm sản xuất trong ASEAN được 
miễn thuế khi xuất khẩu sang các quốc gia khác trong cùng khối. Các thủ tục nhập khẩu 
sẽ tiếp tục được đơn giản hóa nhờ AEC được hình thành. Để đạt được mục tiêu này, 
ngoài việc triển khai những dự án về hạ tầng vận tải và giao thông, các quốc gia trong 
khối sẽ phải cùng nhau phát triển mạng lưới liên kết. 
1.2. Thực trạng kết cấu hạ tầng logistics khu vực ASEAN 
Kết cấu hạ tầng dịch vụ logistics chính là các cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ 
thuật chủ yếu kế thừa từ ngành giao thông vận tải, bao gồm: cơ sở hạ tầng vận tải 
đường biển, đường bộ, đường sắt, đường hàng không và cơ sở hạ tầng công nghệ  thông tin. 
 Hạ tầng vận tải đường biển 
ASEAN có mạng lưới cảng biển gồm 47 cảng lớn phân bố rải rác ở các nước 
thành viên (Wordportsource 2015). Trong khu vực chỉ có Lào do nằm sâu trong nội địa 
nên không có cảng biển nên phải thuê các cảng biển của nước khác. Hệ thống cảng biển 
trong ASEAN khá đa dạng, từ cảng chuyên phục vụ quốc tế (K’lang – Maylaysia) tới 
các cảng phục vụ chuyên chở nội địa.Tuy nhiên hệ thống còn tồn tại nhiều bất cập khi 
đa số các cảng là các cảng nước nông, trang thiết bị làm hàng không đủ năng lực phục 
vụ các tàu container có trọng tải 10000 DWT hoặc tầu 700 TEU trở lên. 
Về số lượng phương tiện vận tải đường biển, theo số liệu nghiên cứu gần đây cho 
thấy số lượng phương tiện vận tải đường biển trong ASEAN còn khiêm tốn:  - Tàu container: 338 chiếc  3   
- Tàu chở hàng, hành khách: 3954 chiếc 
- Tàu chở hàng lỏng: 1655 chiếc 
- Tàu chở hàng trọng tải lớn: 439 chiếc 
 Hạ tầng vận tải đường sắt 
Tổng chiều dài mạng lưới đường sắt trong khu vực Đông Nam Á trên lãnh thổ các 
quốc gia là hơn 40000 km, trong đó khoảng 23000 km nằm trong lục địa phụ vụ đắc lực 
lưu thông khu vực. Về đặc tính kỹ thuật, 95% các tuyến đường ray là tuyến đường đơn 
và hẹp (1000mm), ngoại trừ Indonesia và Philippine sử dụng tuyến đường ray 1067mm. 
 Hạ tầng vận tải đường bộ 
Hệ thống đường quốc lộ khu vực ASEAN bao gồm 23 tuyến đường cao tốc 
với tổng 38.400 km chiều dài với hầu hết các tuyến đều có 2 làn đường song song. Số 
lượng đường cao tốc còn hạn chế và tập trung chủ yếu ở Malaysia và Thái Lan. Việc 
vận tải đường bộ khi đi qua địa phận một số quốc gia vẫn thường xuyên xảy ra gián 
đoạn. Việc chuyển tải đã làm tăng chi phí vận tải từ 100 đến 300 USD/TEU, trong khi 
phí quá cảnh rơi vào khoảng từ 150 đến 200 USD/TEU 
 Hệ thống vận tải đường hàng không 
Hiện nay trong khu vực ASEAN bao gồm 51 sân bay chính. Bên cạnh các sân bay 
chuyên chở nội địa, các quốc gia đều có sân bay đat tiêu chuẩn quốc tế tham gia vào 
mạng lưới khu vực. Mạng lưới dịch vụ hàng không liên tục hoạt động và tương đối dày 
đặc. Hiện nay mạng lưới giao thông hàng không gồm 31 tuyến bay trực tiếp giữa các 
quốc gia trong khối và 45 liên kết với các quốc gia ngoài khu vực. 
2. Cơ hội và thách thức  2.1. Cơ hội 
 Phát triển và tham gia sâu hơn vào các thị trường Logistics khu vực và thế giới 
AEC giúp các nước ASEAN có một thị trường hàng hóa, kim ngạch XNK giữa các 
quốc gia có đà tăng trưởng cao trong tương lai. Nhờ sự mở rộng của thị trường XNK, 
các doanh nghiệp Logistics phát triển các dịch vụ Logistics trong nước cũng như tiếp 
cận sâu hơn vào các công đoạn của chuỗi dịch vụ Logistics khu vực và toàn cầu. 
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới và ASEAN 
tăng trưởng đều đặn, trung bình 10-15%/năm trong những năm qua. Với sự ra đời AEC, 
giao thương giữa các quốc gia sẽ được mở rộng không chỉ trong ASEAN mà còn vươn 
ra các khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Australia.. 
 Phát huy lợi thế địa lý trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng Logistics 
Sở hữu đường bở biển dài hơn 3000 km từ Bắc vào Nam ở vị trí trung tâm khu vực 
Đông Nam Á, trên tuyến hàng hải Châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam là quốc gia  4   
có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi để phát triển dịch vụ Logistics. Việt Nam 
có nhiều cơ hội trong việc thu hút đầu tư nhằm xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở 
hạ tầng như cảng biển, sân bay, hệ thống cao tốc…. 
 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp doanh nghiệp Logistics  Việt Nam 
Các doanh nghiệp Logistics Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể 
tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp cần phải năng lực tài chính, cải tiến công nghệ 
thông tin, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường sự liên kết giữa các doanh 
nghiệp, tăng cường sức mạnh để tăng thị phần Logistics trong nước cũng như mở rộng 
dịch vụ ra nước ngoài.  2.2. Thách thức 
 Cơ sở hạ tầng cho hoạt động Logistics còn hạn chế, thiếu sự kết nối giữa các 
phương tiện vận tải ạ
t i các đầu mối giao thông 
Việt Nam có một vị trí địa lý thuận lợi trong việc triển khai dịch vụ Logistics với 
trên 17000 km đường nhựa, hơn 3200 km đường sắt, 42000 km đường thủy, 44 cảng 
biển và 21 sân bay. Tuy nhiên chất lượng hệ thống còn chưa đồng đều, chưa đảm bảo 
về mặt kỹ thuật. Hiện tại chỉ có 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hóa quốc 
tế, các cảng đang trong quá trình container hóa nên còn hạn chế trong việc điều hành  xếp dỡ container. 
Hiện nay Việt Nam có 9 sân bay quốc tế, tuy nhiên chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất và 
Nội Bài có nhà ga hàng hóa và khu vực hoạt động cho đại lý gom hàng và khai hải quan. 
Hệ thống đường bộ trong thời gian qua đã được Chính phủ quan tâm đầu tư của tuy 
nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, nhiều tuyến đường ra vào cảng nhỏ hẹp, gây ách 
tắc giao thông dẫn đến giảm hiệu quả quá trình vận tải. 
 Áp lực cạnh tranh từ các công ty nước ngoài 
Tự do thương mại đem đến cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội tiếp cận thị trường 
mới nhưng cũng yêu cầu mở cửa thị trường nội địa. Hiện chỉ với 25 công ty Logistics 
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhưng với tiềm lực tài chính mạnh cùng với sự 
chuyên nghiệp trong triển khai dịch vụ nên đã chiếm lĩnh xấp xỉ 80% thị phần Logistics 
trong nước. Bên cạnh đó còn khá nhiều công ty Logistics ở khối ASEAN cũng như khắp 
thế giới sang Việt Nam mở rộng kinh doanh cũng như đặt công ty cung ứng dịch vụ. 
 Khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ Logistics trọn gói 
Các doanh nghiệp Logistics trong nước do năng lực tài chính, trình độ quản lý còn 
hạn chế chỉ dừng lại việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ. 
Ngoài ra nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc xuất 
hàng cho khách hàng đã ký kết hợp đồng với công ty Logistics toàn cầu. Do đó các  5   
doanh nghiệp Logistics Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc tăng thị phần 
khi thị trường mở rộng. 
3. Tình hình phát triển logistics ở Singapore 
3.1. Hạ tầng cơ sở 
 Hệ thống cảng biển 
Với lợi thế là một điểm trung chuyển hàng hóa truyền thống được các thương nhân 
ưa chuộng từ thế kỷ 19 cùng với việc kế thừa hạ tầng cảng được Anh tạo dựng, 
Singapore đã phát triển hệ thống cảng biển và trở thành ả
c ng sôi động nhất khu vực. 
Hiện nay, cảng biển Singapore sử dụng công nghệ cấp phép điện tử để tàu có thể ra 
vào nhanh hơn. Ngoài ra, Singapore cũng dùng các hệ thống công nghệ thông tin để hỗ 
trợ trong việc xếp dỡ, vận chuyển và lưu trữ hàng hóa. Chính vì thế, cảng biển Singapore 
trở thành một trong những cảng container sầm uất nhất trên thế giới và trở thành cảng 
trung chuyển hàng hóa lớn vào loại nhất, nhì thế giới .
Bảng 1: Top 10 cảng biển có sản lượng hàng hóa container thông quan cao nhất  (triệu USD)  STT  Tên cản  g Khu vực  Quốc gia  Sản lượng  Sản lượng  2012  2013  1  Shanghai  Châu Á  Trung Quốc  32.53  33.62  2  Singapore  Châu Á  Singapore  31.65  32.6  3  Shenzhen  Châu Á  Trung Quốc  22.94  23.28  4  Hong Kong  Châu Á  Trung Quốc  23.12  22.35  5  Busan  Châu Á  Hàn Quốc  17.04  17.69  6  Ningbo  Châu Á  Trung Quốc  16.83  17.33  7  Qingdao  Châu Á  Trung Quốc  14.5  15.52  8  Quangzhou  Châu Á  Trung Quốc  14.74  15.31  9  Jebalali  Châu Á  Ả Rập  13.3  13.64  10  Tianjin  Châu Á  Trung Quốc  13.03  13.01   
Nguồn: Báo cáo ngành Logistics 07/2015 – FPT tổng hợp   Sân bay 
Song song cùng với phát triển cảng biển, Singapore cũng đặt ưu tiên cho phát triển 
hàng không. Từ năm 1971, Singapore đầu tư xây dựng sân bay mới là Changi Airport.  6   
Dự án này được triển khai rất nhanh, chỉ trong vòng 6 năm (từ 1975 đến 1981) đã hoàn 
thành. Đến nay sân bay quốc tế Changi với Trung tâm Logistics hàng không Singapore 
ALPS (Airport Logistics Park of Singapore - còn gọi là Công viên Logistics Changi) 
trở thành biểu tượng cho logistics hàng không Singapore. Cảng hàng không quốc tế 
Changi phục vụ 1.010 hãng hàng không trên thế giới với 5.600 chuyến bay hàng tuần; 
sân bay Changi có tần suất bay lớn thứ 7 thế giới .  Kho bãi 
Singapore xây dựng hệ thống kho bãi phân bố rộng khắp toàn quốc và không ngừng 
hiện đại hóa với tiêu chuẩn cao. Giá bảo quản lưu kho bãi của Singapore cũng được 
xem là tương đối rẻ so với thế giới. Ngoài lưu trữ, các kho tại Singapore cũng cung cấp 
thêm các dịch vụ như: nhận và xuất hàng hoá, lấy hàng và đóng gói, gửi hàng bằng 
đường biển hoặc đường hàng không, quản lý tồn kho...Các kho ngoại quan của 
Singapore thường xuyên được cải tiến nhằm cung cấp những dịch vụ tốt hơn và nhanh 
hơn nên đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho logistics quốc tế trong việc trung 
chuyển hàng tạm nhập tái xuất. Việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở, sân bay, đường sá, cảng, 
kho bãi…hiện đại đã góp phần cắt giảm được nhiều chi phí logistics, thúc đẩy quá trình 
tối ưu hóa từ đầu vào đến đầu ra của hoạt động logistics ở Singapore. 
Bảng 2: So sánh điểm số hạ tầng cơ sở của Singapore và một số nước trong đánh 
giá LPI của World Bank  Năm  Singapore  Đức  Thụy  Anh  Hoa Kỳ 
Nhật Bản  Điển  2010  4,22  4,34  4,03  3,95  4,07  4,19  2012  4,15  4,26  4,13  3,95  4,14  4,11  2014  4,28  4,32  4,09  4,16  4,18  4,16  2016  4,20  4,44  4,27  4,21  4,15  4,10 
Nguồn: Tổng hợp từ LPI Report 2010, 2012, 2014, 2016, World Bank 
3.2. Khung thể chế 
 Chính sách ưu đãi thuế đối với các công ty vận tải và logistics 
Singapore chủ động khuyến khích các công ty đa quốc gia (MNCs) và một số các 
nhà cung ứng dịch vụ logistics quốc tế đặt trụ sở tại Singapore, xây dựng các trung tâm 
phân phối khu vực và toàn cầu tại Singapore với nhiều ưu đãi nhờ giảm thuế đối với 
khoản thu lợi nhuận, miễn thuế đối với đầu tư mạo hiểm…Đặc biệt, Chính phủ 
Singapore còn có chương trình ưu đãi đặc biệt nhờ miễn thuế thu nhập từ tàu biển trong 
10 năm, hay được hưởng tỷ lệ thuế ưu đãi nhỏ hơn 10% trên mức tăng doanh thu từ việc 
cung cấp dịch vụ trong 5 năm và cho vay ưu đãi với tàu và container... Ngoài ra, Chính 
phủ Singapore còn có các chương trình hỗ trợ ngành hàng hải đối với các lĩnh vực có 
giá trị gia tăng và có hàm lượng chất xám, bao gồm: vận hành tàu, môi giới tàu, hỗ trợ  7   
tài chính thuê mua tàu, pháp luật hàng hải, kế hoạch phát triển cảng biển, kinh tế cảng, 
định giá và marketing, bảo hiểm hàng hải, thủy quân và thủy thủ đoàn.   Chính sách hải quan 
Các chính sách về thủ tục hải quan của Singapore được minh bạch hóa với những 
quy định rõ ràng, chặt chẽ và hiệu lực thi hành nhanh chóng. Thêm vào đó, thông qua 
mạng Trade Net, quy trình hải quan được tự động hóa, làm cho hàng hóa thông quan dễ 
dàng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, giảm thời gian lưu 
hàng tại cảng, giảm thời gian và chi phí lưu kho, lưu bãi do đó đã tạo điều kiện thuận 
lợi nhất cho hoạt động thương mại và trung chuyển hàng hóa tại Singapore. Chính sách 
hải quan như trên đã tạo nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy việc nâng cao năng lực 
cạnh tranh của logistics và giúp cho Singapore phát triển trên con đường trở thành một 
trung tâm logistics của khu vực và thế giới. Theo kết quả điều tra của WB, Singapore 
là nước duy nhất được 100% chuyên gia đánh giá chất lượng dịch vụ hải quan và các 
dịch vụ có liên quan(môi giới, kiểm định, giám định) cùng hiệu quả của các quy trình  là cao và rất cao. 
 Chính sách phát triển nguồn nhân lực 
Singapore rất chú trọng việc thu hút nhân tài nước ngoài trong mọi lĩnh vực bên 
cạnh việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Logistics hàng đầu thế giới. Bằng các 
chính sách tuyển dụng mở cửa, cơ chế lương cao, thuế thu nhập thấp, được cấp giấy 
phép định cư và nhập tịch lâu dài tại Singapore, nguồn nhân lực logistics của Singapore 
đã phát triển rất đáng kể. 
Ngoài ra, Chính phủ Singapore còn đặc biệt chú trọng đến các chính sách về 
giáo dục, đào tạo nhân tài logistics. Chính phủ cũng động viên các trường tư thục mở 
chưong trình đào tạo chuyên ngành logistics và bồi dưỡng nghiệp vụ logistics tại chức. 
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng hợp tác với các thương hội, hiệp hội thúc đẩy mở triển 
lãm về logistics, hội thảo về logistics nhằm tăng cường giao lưu, hợp tác, nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực logistics. 
3.3. Đánh giá chung 
Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, một hạ tầng cơ sở được Chính phủ quan 
tâm đầu tư hiện đại, một khung thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho logistics, Singapore 
đã có một thị trường logistics rất lớn. Với các yếu tố rất mạnh của hệ thống logistics 
quốc gia, logistics Singapore đã đạt được hiệu quả rất cao. Đánh giá của Ngân hàng thế 
giới cho thấy Singapore có chỉ số LPI rất cao: đứng thứ hai thế giới năm 2010 (sau Đức) 
Bảng 3: Chỉ số LPI của Singapore qua các năm gần đây  8    Năm  Xếp  LPI  Hải  Cơ sở Vận chuyển  Năng lực  Truy xuất Đúng hạn  hạng  quan  hạ tầng  hàng hóa  nhà cung  hàng hóa giao hàng  quốc tế  cấp  2010  2  4.09  4,02  4,22  3,86  4,12  4,15  4,23  2012  1  4,13  4,10  2,15  3,99  4,07  4,07  4,39  2014  5  4,00  4,01  4,28  3,70  3,97  3,90  4,25  2016  5  4,14  4,18  4,20  3,96  4,09  4,05  4,40 
Nguồn: Tổng hợp từ LPI Report, World Bank 
Qua số liệu cho thấy, ở Singapore, logistics phát triển rất đồng đều trên tất cả các 
lĩnh vực và là một trong các nước được đánh giá có chi số LPI cao nhất. Cả 6 tiêu chí 
đánh giá từ năm 2010 đến năm 2012 ngày càng có xu hướng giảm sự chênh lệch. Năm 
2014 lại có sự biết đổi lớn, Điều này cho thấy phát triển dịch vụ logistics được Singapore 
đang ở mức bão hòa do gặp phải nhiều trung tâm logistic đang phát triển mạnh mẽ ở  Trung Quốc. 
4. Thực trạng phát triển logistics tại Việt Nam 
4.1. Hạ tầng cơ sở 
 Hệ thống cảng biển 
Báo cáo xúc tiến thương mại toàn cầu năm 2014 thực hiện tại 138 quốc gia của diễn 
dàn kinh tế thế giới (WEF) cho thấy, múc hữu dụng và chất lượng cơ sở hạ tầng giao 
thông Việt Nam năm 2016 tăng 1 bậc, đứng ở vị trí 73 so với vị trí thứ 74 năm 2014 và 
vị trí thứ 90 năm 2012. Từ một hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém và về số lượng và chất 
lượng, đến nay kết cấu hạ tầng đã đạt được những thành tích đáng kể như đường bộ có 
khoảng 256.684km, trong đó đường quốc lộ có khoảng 17.288km; hơn 2.600km đường 
sắt, 41900km đường thuỷ, 260 cảng biển và 37 sân bay; năng lực thông qua cảng thủy 
nội địa là 96 triệu tấn. 
Biểu đồ 1: Sản lượng thông quan cảng biển Việt Nam từ năm 2012 đến năm 2016 
Đơn vị: Triệu tấn  470 500 410 370 400 325 293 300 200 100 0 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016  
Nguồn: Cục Hàng hải Việt Na  m  Sân bay  9   
Hiện Việt Nam có 22 sân bay, trong đó có 10 sân bay quốc tế (Nội Bài – Cát Bi – 
Vinh - Phú Bài- Đà Nẵng – Chu Lai- Cam Ranh -Tân Sơn Nhất –Cần Thơ và Phú Quốc). 
Trong số sân bay quốc tế, chỉ có sân bay Tân Sơn nhất và sân bay Nội Bài tiếp đón được 
máy bay chở hàng quốc tế. Dù đƣợc nâng cấp, cải tạo song cơ sở vật chất kỹ thuật của 
hầu hết cấc sân bay đều lạc hậu và thiếu đồng bộ, quy mô nhỏ. Các máy bay của Việt 
Nam phần lớn là máy bay thuê (chỉ có 20% số máy bay là thuộc quyền sở hữu của Việt 
Nam, còn lại của nước ngoài) và chưa có máy bay chuyên chở hàng. Nhu cầu vận 
chuyển hàng hóa qua đường hàng không rất thấp do chi phí đắt hơn các loại hình vận 
tải khác. Hiện nay, có tới 90% hàng được vận chuyển qua các khoang chứa hàng của  máy bay chở khách.   Kho bãi 
Kho bãi - trạm trung chuyển với tỉ lệ hàng hóa ở lại là (53, 8%). Có thể nói, đây l  à
điểm yếu của Việt Nam, đồng thời cũng là nguyên nhân cản trở rất lớn đến hiệu quả 
logistics liên quan đến thời gian, chi phí và chất lượng hàng hóa sau vận chuyển và lưu 
kho. Trong khi chất lượng hạ tầng cơ sở của Việt Nam yếu kém thì khoảng 25% đánh 
giá lại cho rằng các mức phí sử dụng hạ tầng cơ sở ở Việt Nam là cao hơn Singapore. 
Thêm vào đó, một tỷ lệ rất cao đánh giá cho rằng chất lượng dịch vụ liên quan đến hạ 
tầng giao thông của Việt Nam không cao (100% đánh giá chất lượng không cao đối với 
đường biển, đường sắt, kho bãi- trạm trung chuyển; 85% với đường bộ, và 92% với  đường hàng không). 
4.2. Khung thể chế logistics 
Trong suốt các năm đầu, ở Việt Nam không có một văn bản pháp lý nào điều chỉnh 
hoạt động của dịch vụ Logistics. Các quy định về Logistics mới được thể chế hóa vào 
năm 2005 khi Luật Thương Mại ra đời. Tuy nhiên các quy định vẫn còn sơ sài, không 
rõ ràng. Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 140/NĐ-CP quy định chi tiết hơn 
về điều kiện kinh doanh và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch 
vụ Logistics. Luật Thương mại và Nghị định 140 đã mở ra cơ hội cho cả các doanh 
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Theo lộ trình hội nhập các lĩnh vực hoạt động 
dịch vụ Logistics, Chính phủ và các Bộ, ngành quản lý đã ban hành nhiều văn bản quy 
phạm pháp luật về giao thông vận tải (GTVT), cảng biển, xuất nhập khẩu, hải quan… 
như Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Giao thông 
đường bộ… và các Nghị định có liên quan, trong đó nổi bật là Nghị định về Vận tải đa 
phương thức số 87/NĐ-CP ngày 19/10/2009 và 89/2011/NĐ-CP ngày 10/10/2011. 
Ngoài ra, còn có các điều ước quốc tế về GTVT mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, 
như các cam kêt trong WTO, ASEAN, GMS mở rộng, hiệp định song biên và đa biên 
với các nước láng giềng trong lĩnh vực vận tải đa phương thức, vận tải quá cảnh, và vận  tải qua biên giới…  10   
Chính phủ chưa có ưu tiên hỗ trợ về vốn, lãi suất ưu đãi thuế đối với công ty dịch 
vụ logistics nhằm khuyến khích phát triển dịch vụ. Tuy nhiên, trong 
thời gian vừa qua, khi chưa tới thời hạn mở cửa thị trường logistics theo cam kết của 
ASEAN và WTO, Chính phủ đã thực hiện bảo hộ cho các doanh nghiệp kinh doanh 
logistics nội địa bằng quy định ràng buộc các LSP nước ngoài phải thực hiện liên doanh 
với tỷ lệ vốn đóng góp dưới 49% hoặc 51%. Chính sách trên của Chính phủ có mục 
đích nhằm giúp các công ty trong nước có thể tăng tính cạnh tranh khi đối mặt với các 
tập đoàn nước ngoài, tuy nhiên điều này cũng làm chậm đi khả năng phát triển của 
logistics Việt Nam và trái ngược với các chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài  ở Singapore. 
Bảng 4: So sánh hiệu quả các quy trình xuất nhập khẩu Việt Nam và Singapore  năm 2014  Tiêu chí  Việt Nam  Singapore 
Số bước trung gian – xuất khẩu  4  1 
Số bước trung gian – nhập khẩu  4  1 
Số lượng hồ sơ – xuất khẩu  3  1 
Số lượng hồ sơ – nhập khẩu  5  1 
Thời gian hoàn thành nếu không cần kiểm hóa  1 ngày  0 ngày 
Thời gian hoàn thành nếu cần kiểm hóa  2 ngày  1 ngày  Tỷ lệ kiểm hóa  53,5%  4,83% 
Tỷ lệ kiểm định nhiều nội dun  g 6,79%  2,86% 
Tính hiệu quả của các quy trình/ Tỷ lệ đánh  Thường  Luôn luôn  giá 
Thông quan và giao nhận trong nhập khẩu  57,14%  100% 
Thông quan và giao nhận trong xuất khẩu  71,43%  100% 
Tính minh bạch trong thủ tục thông quan  28,57%  100% 
Tính minh bạch trong các thủ tục biên giới khác  14,29%  100% 
Tính đồng bộ và cập nhật  14,29%  85,71% 
Mức độ nhiệt tình của hải quan trong việc hỗ trợ  28.57%  85,71%  doanh nghiệp 
Nguồn: Tổng hợp từ LPI Report, World Bank 
Qua các số liệu trên cho thấy ở Việt Nam, thủ tục hải quan còn rất rườm rà, phải 
trả qua nhiều khâu, nhiều cấp, tỷ lệ kiểm hóa, kiểm định cao hơn nhiều so với Singapore. 
Ở Việt Nam phải mất 2 ngày nếu hàng hóa có phải kiểm hóa. Bên cạnh đó, thủ tục hải 
quan và thông quan ở Việt Nam chưa minh bạch, sự đồng bộ cập nhật có cải tiến nhưng 
chưa đáng kể cùng với việc hải quan Việt Nam chưa nhiệt tình hỗ trợ doanh nghiệp 
(28,57%) so với Singapore (85,71%). Tất cả những tồn tại trên là không đáng có và có 
thể khắc phục sớm nếu Việt Nam quyết tâm thực hiện.  11   
4.3. Đánh giá chung 
Thị trường dịch vụ logistics Việt Nam còn kém phát triển, chất lượng dịch vụ 
logistics chưa cao nhưng mức chi phí logistics lại rất cao. Hiện nay, chi phí logistics 
của Việt Nam chiếm khoảng 25% GDP (so với các nước phát triển chỉ từ 9% đến 15%) 
trong đó chi phí vận tải chiếm 30% đến 40% giá thành sản phẩm (tỉ lệ này là 15% ở các 
nƣớc phát triển). Mức chi phí cho các hoạt động logistics rất cao này trực tiếp ảnh 
hưởng đến khả năng cạnh tranh và thị phần logistics của các doanh nghiệp Việt Nam, 
ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và lưu thông hàng hóa và tốc độ tăng trưởng kinh tế  đất n ớ ư c. 
Bảng 5: Chỉ số LPI của Việt Nam năm từ năm 2012 đến năm 2016 
Năm Xếp Chỉ số  Hải  Hạ  Vận  Năng lực  Truy  Đúng  hạng  LPI  quan  tầng  chuyển  cung cấp  xuất  hạn giao  cơ sở  hàng hóa 
dịch vụ  hàng  hàng 
quốc tế  hóa  2012  53  3,00  2,65  2,68  3,14  2,68  3,16  3,64  2014  48  3,15  2,81  3,11  3,22  3,09  3,19  3,49  2016  64  2,98  2,75  2,7  3,12  2,88  2,84  3,50 
Nguồn: Tổng hợp từ LPI Report, Wold Bank 
Theo đánh giá của WB, Việt Nam có chỉ số LPI gia tăng nhẹ từ 3,00 năm 2012 
lên 3,15 năm 2014. Tuy nhiên năm 2016 không phải là một năm thành công của ngành 
logistics Việt Nam khi Việt Nam tụt 16 bậc từ vị trí 48 xuống 64, các chỉ số đồng loạt  giảm.  
Bảng 6: So sánh chỉ số LPI của Việt Nam và Singapore năm 2016  Quốc gia  Xếp  Chỉ  Hải  Hạ  Vận  Năng lực  Truy  Đúng  hạng  số  quan  tầng  chuyển  cung cấp  xuất  hạn  LPI 
cơ sở hàng hóa dịch vụ  đơn  giao 
quốc tế  hàng  hàng  Việt Nam  64  2,98  2,75  2,7  3,12  2,88  2,84  3,50  Singapore  5  4,14  4,18  4,2  3,96  4,09  4,05  4,40 
Nguồn: LPI Report, World Bank 2016 
Biểu đồ 2: So sánh chỉ số LPI ủ
c a Việt Nam và Singapore (dạng mạng)  12     
Nguồn: LPI Report, World Bank 2016 
Các chỉ số bị đánh giá thấp nhất trong hiệu quả logistics của Việt Nam là ở lĩnh vực 
năng lực, thủ tục hải quan, hạ tầng cơ sở và năng lực nhà cung cấp dịch vụ (dưới mức 
trung bình). Đây cũng là những yếu tố quan trọng quyết định năng lực, hiệu quả, chi phí 
logistics của một quốc gia. 
4.4. Nguyên nhân của những yếu kém trên 
Thứ nhất, vai trò, tầm quan trọng của logistics đối với sự phát triển doanh nghiệp và 
sự phát triển chung của nền kinh tế còn bị nhận thức khá hạn chế. Do đó Chính phủ 
chưa có tầm nhìn dài hạn và quy hoạch tổng thể để phát triển dịch vụ ngành. 
Thứ hai, cơ sở hạ tậng vật chất logistics yếu kém, chưa đồng bộ gây ra nhiều khó 
khăn trong việc vận tải như hao tổn xăng dầu, trễ thời gian, tắc nghẽn giao thông… Bên 
cạnh đó, hệ thống cảng, kho bãi được bố trí chưa hợp lý, chi phí cao. Đây được coi là 
thách thức lớn đối với nước ta trong việc phát triển dịch vụ logistics trong giai đoạn  hiện nay. 
Thứ ba, chưa có sự phát triển đồng bộ về công nghệ thông tin và thương mại điện 
tử. Chất lượng dịch vụ yếu kém, chi phí cao, công nghệ thông tin vẫn chưa được các 
doanh nghiệp áp dụng một cách có hiệu quả. 
Thứ tư, khung thể chế, các chính sách chồng chéo, chưa tạo được môi trường thuận 
lợi cho kinh doanh tự do và phát triển logistics. Ở Việt Nam thiếu một ủy ban chuyên 
trách điều hành xây dựng phát triển logistics như ở Singapore. Quá trình cải cách hành 
chính, chính phủ điện tử và chế độ một cửa của nước ta hiện nay còn bất cập, chậm trễ 
và chưa nhất quán, các biểu hiện tiêu cực còn xuất hiện khá phổ biến ở các cấp các 
ngành ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung và dịch vụ logistics nói riêng. 
Thứ năm, đội ngũ nhân lực logistics của Việt Nam chưa có trình độ nghiệp vụ cao 
dẫn tới chất lượng dịch vụ thấp cung cấp dịch vụ logistics chỉ giới hạn ở những hoạt 
động giao nhận vận tải cơ bản, chưa khai thác được thị tr ờ ư ng cầu.  13   
Thứ sáu, các hình thái ý thức, tập quán cũ vẫn còn tồn tại khi các doanh nghiệp sản 
xuất thường tự tổ chức riêng cho mình trang thiết bị vận tải, kho bãi… chưa thấy được 
lợi ích của việc thuê ngoài dịch vụ logistics. 
Ngoài ra một số nguyên nhân như: Việc tuyên truyền, giáo dục về vai trò, tác dụng 
của logistics còn ít, mức độ phổ biến chưa được cao, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho 
nhân viện nghiệp vụ logistics chưa được chú trọng đúng mức, chưa có tổ chức bảo vệ 
quyền lợi của các doanh nghiệp logistics. 
5. Bài học rút ra cho ngành logistics Việt Nam 
5.1. Nhận thức đúng vai trò của dịch vụ logistics trong phát triển kinh tế 
Nhờ việc nhận thức đúng về tầm quan trộng của dịch vụ logistics để định hướng 
phát triển đúng đắn ngay từ đầu phát triển kinh tế, Singapore đã có được những thành 
công rực rõ ngày nay. Qua đó cho thấy một thực tế rõ ràng là quốc gia nào nhận thức 
đúng và quan tâm phát triển logistics sớm thì càng gia tăng năng lực cạnh tranh và đạt 
được mục tiêu phát triển bền vững. 
Do đó, điều kiện để Việt nam có thể phát triển logistics đầu tiên là xác định “logistics 
là lĩnh vực ưu tiên cần nhanh chóng thúc đẩy”, vì thế, trong kế hoạch tổng thể phát triển 
kinh tế xã hội có các chính sách quốc gia liên quan nhằm hướng tới mục tiêu này. 
5.2. Xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở vật chất 
Nằm ở vị trí chiến lược thuộc trung tâm Đông Nam Á, có đường bờ biển dài với 
nhiều cảng nước sâu, địa hình trải dọc đều từ Bắc xuống Nam, đường biên giới trên bộ 
tiếp giáp với Lào, Campuchia và Trung Quốc, Việt Nam có cơ hội rất thuận lợi để phát 
triển logistics. Với một địa hình như vậy, nếu Việt Nam định hướng phát triển 3 nhóm 
hạ tầng chính là vận tải đường biển và vận tải đường bộ kết hợp đường sắt là phù hợp 
nhất. Với địa hình dài hẹp, Việt Nam sẽ thuận lợi khi phát triển một tuyến đường xương 
sống từ Bắc xuống Nam, từ trục Bắc - Nam này có các đường kết nối sang phía Đông 
tới các cảng dọc theo đường bờ biển và các tuyến kết nối sang phía Tây tới hệ thống 
đường cao tốc xuyên Á. Hệ thống vận tải này bao gồm cả đường bộ và đường sắt chạy 
song song. Hệ thống cảng biển tập trung phát triển các cảng nước sâu. 
5.3. Xây dựng khung thể chế thuận lợi cho phát triển logistics 
Nếu như hạ tầng cơ sở quyết định tốc độ phát triển của dịch vụ logistics thì khung 
thể chế là yếu tố quyết định qui mô và khả năng phát triển lâu dài. Singapore tạo lập 
một môi trường mở hết sức thông thoáng, song cũng hết sức chặt chẽ. Các chính sách 
liên quan trực tiếp đến môi trường logistics, môi trường thương mại và đầu tư của 
Singapore rất thoáng và hấp dẫn các doanh nghiệp nước ngoài và các nhà đầu tư, đặc 
biệt là các chính sách về thuế, thu nhập doanh nghiệp và chính sách tài chính.  14   
Việt Nam cần áp dụng bài học kinh nghiệm về vấn đề tạo dựng khung thể chế, môi 
trường thuận lợi để logistics phát triển. Một là, các thủ tục hải quan cần phải cải tiến, 
giảm thiểu một số công đoạn, thủ tục không cần thiết. Hai là, ứng dụng công nghệ thông 
tin vào quản lý vận hành hoạt động thông quan sẽ tạo ra sự thuận lợi trong thủ tục hải 
quan. Ba là, đồng bộ hóa hồ sơ thông quan là điều kiện để các thủ tục được thực hiện  nhanh chóng. 
5.4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển logistic  s
Trong thời gian qua, nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ có lợi thế về giá rẻ chứ chưa 
thực sự có lợi thế về trình độ. Những nhược điểm cơ bản của nguồn nhân lực Việt Nam 
là mặt bằng trình độ chưa cao, thiếu tính chuyên nghiệp trong kỷ luật và tác phong lam 
việc, tính ổn định không đảm bảo, sức khỏe mức trung bình. Sở dĩ hệ thống logistics 
của Singapore hoạt động mạnh mẽ và hoàn chỉnh như hiện nay không chỉ nhờ vào mức 
độ hiện đại của hệ thống mà còn nhờ vào khả năng vận hành hệ thống dựa trên trình độ, 
kỷ luật của nguồn nhân lực. Do vậy, khi áp dụng bài học phát triển nhân lực, ngoài việc 
nâng cao trình độ thì điều Việt Nam cần nhất là đào tạo tính chuyên nghiệp về kỷ luật, 
tác phong làm việc đối với nhân viên tham gia hoạt động logistics.  5.5. 
Chính phủ cần nắm vai trò chủ đạo trong việc phát triển các nội dung 
quan trọng liên quan đến sự phát triển dịch vụ logistics 
Những kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển logistics của Singapore cho thấy rằng 
Chính phủ luôn có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển hệ thống logistics quốc 
gia. Bài học về phát huy vai trò của Chính phủ thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau: Một 
là, Chính phủ phải đặt mình là người duy nhất có đủ quyền hạn và năng lực trong việc 
xây dựng hạ tầng cơ sở, xây dựng thể chế thuận lợi cho logistics phát triển, đào tạo 
nguồn nhân lực logistics và ổn định chính trị xã hội. Hai là, Chính phủ cần nghiêm túc 
thực hiện đúng các kế hoạch, huy động tối đa nguồn lực đảm bảo hệ thống không bị trì 
trệ, giám sát việc thực hiện các kế hoạch quốc gia đúng kế hoạch. Ba là, Chính phủ cần 
quan tâm đúng mức tới các nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực quốc gia, tạo 
đầu vào chất lượng cho logistics. Bốn là ổn định chính trị, kinh tế xã hội tạo điều kiện  phát triển logistics. 
Tài liệu tham khảo 
1. Báo cáo ngành Logistics, FPT (2015) 
2. Cục hàng hải Việt Nam. 
3. LPI Report, World Bank (2007, 2010, 2012, 2014, 2016) 
4. The World Bank. 2014: Efficient Logistics A Key to Vietnam’s competitiveness 
5. D.Lambert. 1998: World Maritime Unviersity 
6. Website của Ngân hàng thế giới (WB) 
Website của Vụ Asean Bộ Ngoại Giao (ASEAN- MOFA)  15    
