Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận HP1 đường lối quốc phòng an ninh
Nội dung chính của vấn đề kết hợp phát triển kinh tế, xã hội tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của việc kết hợp phát triển kinh tế, xã hội tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Đường lối quốc phòng và an ninh
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
-------------------------
TIỂU LUẬN
HP1 ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VỚI TĂNG
CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên: PHẠM THỊ HẢI YẾN
Mã số sinh viên: 1956080047
Lớp: TRUYỀN HÌNH CLC K39
Mục lục
Phần 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Đặt vấn đề ............................................................................................... 1
2. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................. 1
Phần 2: NỘI DUNG CHÍNH .......................................................................... 3
1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 3
1.1. Một số định nghĩa cơ bản ............................................................... . 3
1.2. Vài nét về kinh tế - xã hội và quốc phòng – an ninh ở Việt Nam
hiện nay ...................................................................................................... 3
2. Nội dung chính của vấn đề kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. ..... 7
3. Ý nghĩa của việc kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường
quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. ........................ 12
3.1. Ý nghĩa trong chiến tranh .............................................................. 13
3.2. Ý nghĩa trong thời bình .................................................................. 14
4. Một số giải pháp trong vấn đề kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. ... 15
Phần 3: KẾT LUẬN ...................................................................................... 20
Phần 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 22 1
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN: KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ
HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỐI
NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh là một tất
yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước
của Đảng ta, nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy không
phải mọi lúc, mọi nơi, sự kết hợp này được bảo đảm. Vì vậy, cần xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cũng như tổ chức thực hiện
nhằm kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực
quốc phòng, an ninh của đất nước.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Nghiên cứu về kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc phòng,
an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay không còn là vấn đề quá mới mẻ
nhưng vẫn vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng - an ninh ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và
nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng -
an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng
địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng
hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên đây là những
lý do chính để em quyết định chọn đề tài tiểu luận là: “Kết hợp phát triển kinh 2
tế, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện
nay”. Do kiến thức còn hạn hẹp và tìm hiểu chưa thật kĩ nên bài tiểu luận sẽ
không tránh khỏi nhiều sai sát, kính mong thầy cô thông cảm và sửa đổi để bài
tiểu luận có thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! 3
Phần 2: NỘI DUNG CHÍNH
1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số định nghĩa cơ bản
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt
động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự,
văn hoá, xã hội... nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
An ninh, trạng thái ổn định an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm để đe doạ sự
tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của toàn xã hội. Bảo
vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống
chính trị do lực lượng an ninh làm nòng cốt; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt
chẽ với củng cố quốc phòng.
1.2. Vài nét về kinh tế - xã hội và quốc phòng – an ninh ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Kinh tế - Xã hội
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia,
dân tộc độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động
riêng và chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có
mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến
cùng quyết định đến quốc phòng - an ninh, ngược lại, quốc phòng - an ninh
cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Hệ thống kinh tế Việt Nam là một hệ thống kinh tế hỗn hợp. Khi mà nền kinh
tế thị trường đang ngày càng phát triển và thị trường hóa thì ta vẫn thấy sự can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế còn khá cao. Hiện nay, Nhà nước vẫn thực
hiện việc điều chỉnh giá cả kiểu hành chính với một số mặt hàng thiết yếu như
yêu cầu các công ty, doanh nghiệp điều chỉnh mức đầu tư, giá cả xăng dầu,
kiểm soát nguyên vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi măng,... 4
Chính phủ Việt Nam tự xác định và nhận định rằng Việt Nam là một kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường. Điều này đã được một số nền kinh tế thị trường
tiên tiến công nhận, nhưng cho đến nay Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản vẫn chưa thừa
nhận và xác định Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường.
Việt Nam là một nước có nhiều thành phần kinh tế như: kinh tế Nhà nước, kinh
tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà
nước,...Và những khu vực này có tốc độ tăng trưởng không giống nhau khi mà
nền kinh tế Nhà nước và nền kinh tế tập thể tăng trưởng chậm thì nền kinh tế
tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá nhanh.
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới
kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng
đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7
lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ
nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức
mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng
trưởng GDP ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên
thế giới tăng trưởng kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại những tác động dài
hạn đối với các hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45% hộ gia đình được khảo
sát giảm trong tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm 2020. Nền kinh tế được
dự báo sẽ tăng trưởng 6,6% năm 2021 nếu Việt Nam kiểm soát tốt sự lây lan
của vi-rút đồng thời các ngành sản xuất hướng xuất khẩu hoạt động tốt và nhu
cầu nội địa phục hồi mạnh mẽ.
Thách thức lớn nhất mà nền kinh tế nước ta đang gặp phải đó là nền kinh tế thế
giới có độ mở cao, Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp từ xu hướng tăng trưởng 5
chậm của nền kinh tế thế giới và việc nới lỏng tiền tệ của một số nước lớn. Tác
động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, các khoản nợ xấu tăng cao,...
Việt Nam còn chịu những tác động của xu thế đa cực, gia tăng tính kết nối khu
vực, sự nổi lên của Châu Á và các sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Bên cạnh những thuận lợi và các kết quả to lớn nước ta đã đạt được trong quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế cũng như thử thách trong việc phát triển một nền kinh tế bền vực và
đạt được những mục tiêu kinh tế đã đặt ra.
Nền kinh tế nước ta hiện nay tuy phát triển khá ổn định, nhưng vẫn còn gặp rất
nhiều những thách thức từ trong và ngoài nước. Chỉ khi hiểu và tận dụng rõ
những lợi thế thì ta mới có thể vươn lên và trở thành một trong những nước có
nền kinh tế mạnh trong tương lai.
1.2.2. Quốc phòng – An ninh
Quốc phòng - an ninh không chỉ gồm việc bảo vệ chủ quyền về lãnh thổ mà
còn đảm bảo an ninh chính trị, an ninh xã hội, an ninh kinh tế, an ninh văn
hoá, tư tưởng. Xu hướng toàn cầu hoá hiện nay với sự vượt bậc của khoa học -
kỹ thuật trên thế giới đã kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu, nội dung và phương
hướng của quốc phòng an ninh trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thực hiện mục tiêu đổi mới, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh và văn
minh nước ta đã đạt được những thành tựu lớn, tập hợp được sức mạnh to lớn
của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nguyên tắc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã đưa nước ta vượt qua muôn vàn khó
khăn, thách thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng đã
xác định rõ quan điểm chỉ đạo về quốc phòng và an ninh là nhận thức đầy đủ
và toàn diện về nhiện vụ và mục tiêu bảo vệ Tổ quốc. 6
Phát triển lý luận, tổng hợp sức mạnh và lực lượng của nền quốc phòng an ninh,
xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ của cả thời bình và thời chiến.
Đảng và Nhà nước đã thông qua nhiều nghị quyết, luật, nghị định để hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quản lý, điều hành đất nước. Công tác quốc
phòng an ninh được thực hiện tốt đã giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ nền độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tập hợp được sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, nước ta hiện nay vẫn đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức lớn, có
tác động và diễn biến phức tạp, khó lường. Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức nhất là tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân đối
với Đảng, với Nhà nước.
Một số cán bộ, đảng viên chưa nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chủ quan, mất cảnh giác, không nắm chắc tình hình
ở cơ sở, không gắn bó với nhân dân. Thế trận quốc phòng toàn dân chưa được
xây dựng vững chắc trên một số địa bàn.
Lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ chưa được nâng cao thường xuyên
về chiến thuật, kĩ thuật, trình độ khoa học công nghệ nên sức chiến đấu còn
chưa cao, chưa đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ. Hoạt động nghiên cứu, dự báo về
quốc phòng an ninh còn nhiều hạn chế, việc nắm bắt tình hình vẫn còn để xảy
ra sơ hở, bị động, bất ngờ.
Hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chống phá Nhà nước ta bằng nhiều thủ
đoạn mới, chúng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ
chính trị nước ta. Mục tiêu của chúng là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo cớ để phát động chiến tranh xâm lược kiểu mới. 7
Những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, tài nguyên sẽ ngày càng diễn ra phức tạp hơn, tiềm ẩ
n nguy cơ xung đột vũ trang. Do đó, nhiệm đấu tranh, bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn mới đòi hỏi phải chủ động nắm bắt tình hình, sáng tạo,
quyết liệt, kiên quyết giữ vững nền độc lập dân tộc.
Sự nghiệp quốc phòng an ninh trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu phải chủ động
phòng ngừa, triệt tiêu những yếu tố dẫn đến xung đột vũ trang, ngăn chặn và
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
2. Nội dung chính của vấn đề kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng
cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
Ðại hội XIII của Ðảng xác định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với
kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”. Đây là chủ trương mới cần thấu triệt để
thực hiện có hiệu quả cao. Tại Đại hội XIII lần này, Đảng đã “Cụ thể hóa và
thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, với chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến
lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”. Đây là sự phát
triển tư duy mới của Đảng về nội dung giải pháp tăng cường quốc phòng, an
ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đảng tiếp tục bổ sung làm rõ hơn về nội hàm sự kết hợp
không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, đối
ngoại với kinh tế, văn hóa, xã hội và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại. Để thực hiện thắng lợi chủ trương trên cần nhận thức rõ một số nội dung sau:
2.1. Củng cố quốc phòng, an ninh, nhằm giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Với mục tiêu là: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ 8
của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã
hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã
hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Trước hết, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài hợp tác
làm ăn lâu dài. Điều này chỉ có thể đạt được dựa trên các kết quả củng cố quốc
phòng, an ninh. Đồng thời, tạo điều kiện, cơ hội cho phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, đối ngoại với bảo vệ, phát triển bền vững có hiệu quả ở các khu, vùng
kinh tế trọng điểm, địa bàn chiến lược, vùng biên giới, biển, đảo. Giữ vững ổn
định chính trị, an ninh quốc gia trong các mối quan hệ quốc tế, bảo đảm cho
kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển với tăng cường mở rộng hợp tác kinh tế quốc
tế, chú trọng hợp tác kinh tế biển với các nước có thế mạnh, tạo đan xen lợi ích.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một nền kinh tế phát triển toàn diện là điều kiện xây
dựng một nền quốc phòng mạnh, còn một nền quốc phòng mạnh sẽ tạo môi
trường phát triển và bảo vệ tốt thành quả kinh tế.
2.2. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại.
Đảng cần củng cố t ề
i m lực chính trị - tinh thần, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh;
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa; khơi dậy lòng yêu nước, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết hợp xây dựng, củng cố tiềm lực 9
kinh tế, văn hóa, xã hội trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc và các chiến lược
chuyên ngành. Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh gắn với công nghiệp
quốc gia theo hướng tự chủ, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại; kết hợp quốc
phòng - kinh tế ở vùng, khu kinh tế trọng điểm, địa bàn chiến lược, biên giới,
biển, đảo,… bảo vệ chủ quyền biển, đảo với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
đối ngoại mở rộng kinh tế biển, đảo nhất là ở quần đảo Trường Sa, DK1. Cùng
với đó, “Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm
nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo”. Tăng cường tiềm lực khoa học - công nghệ
quốc phòng, an ninh với ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ của nền
kinh tế vào lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trong nghiên cứu, ứng dụng sửa chữa,
cải tiến, làm chủ công nghệ sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ
trang, trước hết là lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.
2.3. Củng cố lực lượng quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại
Kết hợp trong xây dựng lực lượng vũ trang với lực lượng nghiên cứu khoa học,
nhân lực chất lượng cao, lưỡng dụng cho cả mục tiêu quốc phòng, an ninh, kinh
tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao nhận thức của
nhân dân về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, nâng cao dân trí,
kiến thức pháp luật, chất lượng lực lượng của nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân với chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại.
Củng cố, xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh, trọng tâm xây dựng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến
năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề
vững chắc, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội, Công an cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ
chức và cán bộ. Đồng thời, củng cố dân quân tự vệ ở các khu, vùng kinh tế
trọng điểm, biên giới, biển, đảo vững mạnh. Xây dựng lực lượng dự bị động 10
viên hùng hậu chất lượng cao, chú trọng lực lượng dân quân biển…; lực lượng
Công an cơ sở đáp ứng nhiệm vụ an ninh, trật tự ở cơ sở; củng cố các khu kinh
tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược với bố trí các cụm dân cư ổn định,
giúp dân sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, ưu tiên vùng
sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.
2.4. Củng cố thế trận quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, đối ngoại
Muốn thế cần gắn với quy hoạch của quốc gia, vùng, từng địa phương theo
hướng kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, đối ngoại. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, phòng thủ quân
khu với xây dựng các công trình phòng thủ dân sự; bố trí lực lượng vũ trang
gắn với các cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết hợp xây dựng cơ sở hạ
tầng trên các tuyến đảo gần bờ và xa bờ để tiếp tục đưa người dân ra làm ăn và
cư trú ổn định lâu dài, tạo tiền đề xây dựng các căn cứ hậu cần - kỹ thuật, dịch
vụ kỹ thuật đóng và sửa tàu biển, hậu cần nghề cá vùng biển, đảo. Bảo vệ, hỗ
trợ ngư dân, doanh nghiệp hoạt động dài ngày trên biển, đảo. Củng cố quốc
phòng, an ninh ở khu vực phòng thủ luôn gắn với thực hiện các chương trình,
mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển các
khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế. Kết hợp đầu tư xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ kinh tế, văn hóa, xã hội với xây dựng khu vực
phòng thủ biển, đảo, biên giới, bảo vệ đường biên cột mốc, xây dựng căn cứ
hậu phương với quy hoạch, bố trí lại các điểm, cụm dân cư, xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, biển, đảo. Xây dựng công trình phòng thủ quân sự với dân sự ở các tỉnh,
thành phố, địa bàn trọng điểm, chiến lược, bảo đảm trong thời bình có khả năng
tự lực giải quyết những tình huống ở địa phương theo phương châm “4 tại chỗ”;
khi xảy ra chiến tranh chủ động đánh địch ngay từ đầu, theo phương châm cấp nào giữ cấp đó. 11
2.5. Tăng cường quốc phòng, an ninh với mở rộng hợp tác quốc tế, đấu
tranh quốc phòng gắn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối
ngoại
Hợp tác về quốc phòng, an ninh tạo thời cơ thuận lợi cho hợp tác quốc tế ổn
định, bền vững, đi vào chiều sâu, tạo điều kiện cho hợp tác phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, đối ngoại, thu hút nguồn lực, nhân lực chất lượng cao, khoa
học, công nghệ tiên tiến. Nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế thương mại của
doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, mở rộng xuất nhập khẩu sản phẩm quốc
phòng và kinh tế, viễn thông,… làm cho thị trường hàng hóa phục vụ quốc
phòng, an ninh, kinh tế ngày càng phong phú hơn, có điều kiện đầu tư, đổi mới
công nghệ, từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ
trang, đẩy nhanh hiện đại hóa Quân đội và Công an. Lựa chọn đối tác có tiềm
năng về khoa học - công nghệ tiên tiến, vận dụng linh hoạt hình thức hợp tác
đa phương và song phương toàn diện, song cần tập trung vào các lĩnh vực khắc
phục hậu quả chiến tranh; tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; quân y; phòng, chống dịch
bệnh; đào tạo; nghiên cứu khoa học; công nghiệp quốc phòng, an ninh; an ninh
biển; hợp tác huấn luyện, diễn tập, tuần tra chung trên biển. Đấu tranh phòng,
chống các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Tăng cường
hợp tác với các đối tác có thế mạnh, giàu tiềm năng về phát triển kinh tế biển.
Đối ngoại quốc phòng và phối hợp chặt chẽ với lực lượng bảo vệ biên giới nước
bạn xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Tham
gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trên một số lĩnh vực: công
binh, quân y, thông tin…, góp phần bảo vệ Tổ q ố
u c “từ sớm”, “từ xa”, nâng
cao vị thế của Quân đội, đất nước. Tăng cường hợp tác với đấu tranh kinh tế
nhằm bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và tiêu dùng trong nước, cũng như
hàng hóa của nước ta trên trường quốc tế; đảm bảo cho các nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện đúng cam kết phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật Việt
Nam; bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài và tranh thủ tối đa nguồn lực người Việt Nam ở n ớ
ư c ngoài để phát triển đất nước; bảo vệ tài nguyên, môi 12
trường phát triển kinh tế biển bền vững; an ninh nguồn nước, nhất là sông Mê
Công. Tăng cường quốc phòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là hoạt động chủ động của một quốc gia trên
cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật của hai lĩnh vực kinh tế và quân sự,
nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước trong quá trình phát triển
kinh tế, đồng thời ngăn chặn, hạn chế các tác động tiêu cực của chiến tranh, của
phát triển quốc phòng đối với sự phát triển kinh tế. Sự kết hợp đó là hoạt động
của toàn xã hội, song vai trò quyết định thuộc về Nhà nước.
Ở nước ta, kết hợp kinh tế với quốc phòng còn là sự tiếp nối truyền thống lịch
sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước. Ðó cũng là một chiến lược xuyên
suốt của Ðảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Kết hợp kinh tế với quốc
phòng phải thể hiện trong xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; có chiến lược kinh
tế đối ngoại đúng đắn; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quan hệ
sản xuất; quân đội làm tốt chức năng vừa là lực lượng bảo vệ các thành quả
kinh tế - xã hội của đất nước, vừa là lực lượng xây dựng kinh tế; kết hợp kinh
tế với quốc phòng trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, trong chiến lược
phát triển khoa học và công nghệ.
Ngày nay, hoạt động kinh tế là trung tâm, hàng đầu, nhằm huy động mọi nguồn
lực từ con người đến của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên, để giải quyết
những vấn đề bức xúc nhất về nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra những điều
kiện vật chất, kỹ thuật quan trọng để củng cố quốc phòng, đó là xây dựng thế
trận và lực lượng sẵn sàng đủ sức bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
(vùng đất, vùng biển, vùng trời), bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững và củng
cố hòa bình, an ninh, ổn định trên cả nước, thúc đẩy công cuộc xây dựng kinh
tế, hiện đại hóa đất nước.
3. Ý nghĩa của việc kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc
phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. 13
3.1. Ý nghĩa trong chiến tranh
Trong thời kì chiến tranh vẫn đang diễn ra trên đất nước ta, việc kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh gắn liền với sự nghiệp
giải phóng và bảo vệ tổ quốc. Lênin đã từng nói: “Chúng ta chủ trương bảo vệ
tổ quốc nên chúng ta đòi hỏi có thái độ nghiêm túc với vấn đề khả năng quốc
phòng và chuẩn bị chiến đấu của nước nhà. Cuộc chiến tranh này cần được
chuẩn bị trước lâu dài, nghiêm túc bắt đầu từ kinh tế”. Như vậy, trong chiến
tranh, sự kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an
ninh rõ ràng đóng vai trò quan trọng không kém trong thời bình.
Trong thời chiến tranh, sự kết hợp này mang tính chất cân bằng, tác động qua
lại lẫn nhau. Nhưng trong môí quan hệ này ,kinh tế có phần quan trọng hơn và
giữ vai trò quyết định với quốc phòng an ninh; phát triển kinh tế sẽ tạo ra vật
chất, kỹ thuật làm cơ sở cho sự nghiệp củng cố quốc phòng an ninh. Trong hai
cuộc kháng chiến chống pháp và Mỹ, Đảng ta đã thực hiện chiến lược xây dựn g
CNXH ở miền Bắc. Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc của miền Nam
và cả nước. Sự phát triển kinh tế ở miền Bắc đã góp phần lớn vào sự nghiệp
giải phóng tổ quốc và bảo vệ vững chắc CNXH bằng cách góp sức người, sức
của cho cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm. Công tác quốc phòng an ninh
tạo môi tưrờng ổn định, lâu dài, bảo vệ thành quả kinh tế làm ra và đặt ra cho
nền kinh tế nhu cầu lớn về vật chất trang bị kỹ thuật để từ đó thúc đẩy nền kinh
tế - xã hội phát triển một cách đa dạng phong phú hơn.
Trong thời chiến tranh, kinh tế và quốc phòng tồn tại song song nhau, không
đồng nhất nhung lại có cùng mục đích là góp phần vào sự nghiệp giải phóng và
bảo vệ tổ quốc. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thế giới chú ý đén chúng ta khi
chúng ta mạnh.” Chữ mạnh ở đây mang ý nghĩa rộng lớn; mạnh về kinh tế - xã
hội, chính trị, văn hoá, quốc phòng an ninh. Ngay trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, Đảng và nhân dân đã hiểu rõ về ý nghĩa của việc kết hợp giữa phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh. Đầu tư vào quốc 14
phòng an ninh để bảo vệ kinh tế phát triển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế
làm giàu cho đất nước.
Như vậy, ý nghĩa lớn nhất của việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng - an ninh trong thời kỳ chiến tranh là đóng vai trò quyết định
trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ cũng
như bảo vệ những thành quả mà xã hội tạo ra.
3.2. Ý nghĩa trong thời bình
Ngày nay, giữa phát triển kinh tế - xã hội với không ngừng tăng cường quốc
phòng - an ninh có mối quan hệ khăng khít, chúng đan xen, thâm nhập vào nhau
để cùng tồn tại và phát triển. Kinh tế phát triển tạo cơ sở để tăng cường quốc
phòng an ninh; quốc phòng an ninh vững mạnh tạo môi trờng thuận lợi để phát
triển kinh tế - xã hội, bảo vệ các thành quả mà kinh tế - xã hội làm ra. Trong
phát triển kinh tế có lợi ích của quốc phòng an ninh, trong củng cố quốc phòng
an ninh có lợi ích của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế - xã hội độc lập, tự chủ
và hội nhập thế giới.
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với không ngừng tăng cường quốc phòng an
ninh là một đường lối kinh tế cơ bản và lâu dài để thực hiện tốt hai nhiệm vụ
chiến lược của Đảng và Nhà nước hiện nay là: Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ
quốc XHCN. Sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa hai yếu tố trên sẽ tạo thuận
lợi cho quá trình tập trung xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu
nâng cao cuộc sống của nhân dân và xu hướng hội nhập với thị trường thế giới
của đất nước. Đồng thời tăng cờng sức mạnh cua quốc phòng an ninh để đảm
bảo ổn định cho đất nước trong mọi tình huống, trước mọi thủ đoạn của bất cứ
kẻ thù nào. Hiện nay và trong tương lai kẻ thù đánh chúng ta trên mọi phương
diện với mọi hình thức nên sự kết hợp này mang tính chất rộng rãi hơn.
Thực hiện tốt việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với không ngừng tăng
cường quốc phòng an ninh sẽ là một tiêu chuẩn trọng tâm để đánh giá kết quả
và hiệu quả của hai hoạt động kinh tế và quốc phòng an ninh. Nhất là trong thời 15
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo xu thế hội nhập như hiện nay
thì việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng an ninh
càng có ý nghĩa quan trọng và là một nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà
nước. Củng cố sức mạnh của quốc phòng an ninh để đảm bảo sự nghiệp hội
nhập toàn cầu hoá, nâng cao thành tựu khoa học - công nghệ để trang bị đầy dủ
và tốt hơn cho công tác quốc phòng - an ninh.
Hiện nay tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang có đà tăng trưởng khá ấn
tượng và vững chắc. Theo đó, ta có thể thấy mức độ tăng trưởng GDP bình
quân đầu người từ giai đoạn 2011- 2015 đã thay đổi rõ nét và cho đến nay mức
tăng ấy vẫn luôn giữ được đúng mục tiêu đề ra. Theo U.S. News & World
Report, Việt Nam hiện nay đang có một môi trường ổn định và tích cực về cả
kinh tế và chính trị, duy trì mức tăng trưởng GDP ổn định, kiểm soát tốt lạm
phát và các chính sách cải thiện nợ xấu, thâm hụt ngân sách cũng được đề ra một cách hợp lý.
Việt Nam cũng là một trong những nước luôn có thành tích tốt trong việc xuất
siêu. Nhiều mặt hàng của Việt nam với số lượng lớn liên tục thâm nhập vào các
thị trường lớn trên thế giới và được đón nhận một cách một cách khá tốt.
Không chỉ vật thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên rõ rệt, tỉ lệ hộ nghèo
giảm còn 1,45%. Việt nam đã tạo nên một huyền thoại trong công tác giảm
nghèo khi chỉ số HDI năm 2019 là 0,63, một trong những nước có tốc độ tăng
trưởng chỉ số HDI cao nhất thế giới.
Ngoài ra những thuận lợi còn đến từ cuộc cách mạng 4.0, cũng như sự gia nhập
các tổ chức và hiệp hội kinh tế lớn trên thế giới như Hiệp định Thương mại Tự
do Việt Nam - Liên minh châu u (EVFTA) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
4. Một số giải pháp trong vấn đề kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. 16
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố
quốc phòng ở nước ta thời gian qua còn có những mặt hạn chế, bất cập. Ở một
số địa phương, hoạt động kết hợp còn thiếu đồng bộ, cơ chế chưa phù hợp,
phương thức kết hợp chậm được đổi mới. Công tác tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền địa phương của một số cơ quan quân sự trong việc kết hợp còn thiếu chủ
động, hiệu quả chưa cao; thậm chí có lúc, có nơi còn sơ hở để các thế lực thù
địch lợi dụng, chống phá. “Việc kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc
phòng, an ninh ở một số địa phương, đơn vị thiếu hiệu quả, còn biểu hiện chủ
quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt”.1
Những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp,
khó lường; sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đứng trước
những thuận lợi và cơ hội lớn, song, có không ít khó khăn, thách thức. Trong
bối cảnh đó, việc kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng đặt ra những
yêu cầu rất cao, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, tập
trung vào một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trực tiếp là
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương và chỉ huy các cấp trong Quân đội.
Đây là giải pháp có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho hoạt động kết hợp phát
triển kinh tế với củng cố quốc phòng được tiến hành đúng định hướng và đạt
hiệu quả cao. Theo đó, cấp ủy các cấp cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt
các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ này, trọng
tâm là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị quyết số
520-NQ/QUTW, ngày 25-9-2012, của Quân ủy Trung ương, về “Lãnh đạo 1 Văn kiện Đại h i bi ội đạ ểu toàn qu c l ố ần th XIII, Nxb. Chính ứ trị quốc gia S ự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 88 17
nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội”. Cơ
quan quân sự các cấp ở địa phương phải chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền cùng cấp về bảo đảm yếu tố quốc phòng, an ninh trong các quy hoạch,
kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Cơ quan chức năng của Bộ Quốc
phòng tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý các doanh nghiệp
quân đội và hoạt động của các đoàn kinh tế quốc phòng; quy chế quản lý, sử
dụng đất quốc phòng, hoạt động kinh tế đối ngoại; chính sách đối với doanh
nghiệp quân đội đứng chân trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, biển, đảo... Các doanh nghiệp quân đội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phù hợp với đặc thù quốc phòng và chủ
trương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân về quan điểm, chủ trương kết hợp phát triển kinh tế
với củng cố quốc phòng của Đảng ta.
Đây là giải pháp quan trọng, nhằm định hướng, thống nhất nhận thức, tư tưởng,
trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thực hiện kết hợp phát
triển kinh tế với củng cố quốc phòng. Thực tế cho thấy, nhận thức của các tầng
lớp nhân dân, kể cả một số cán bộ, đảng viên về vấn đề này còn chưa đầy đủ,
thống nhất. Vì vậy, nội dung tuyên truyền, giáo dục phải làm rõ quan điểm,
đường lối của Đảng ta và yêu cầu, sự cần thiết phải kết hợp phát triển kinh tế
với củng cố quốc phòng; mặt khác, làm rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch và phần tử cơ hội lợi dụng một số hạn chế trong thực hiện kết hợp phát
triển kinh tế với củng cố quốc phòng để xuyên tạc, chia rẽ Quân đội với Đảng
và nhân dân ta. Tuyên truyền toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, để mỗi
người thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, sự tất yếu, khách quan của việc kết hợp
phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, nhất là hiệu quả toàn diện về kinh
tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh từ hoạt động tham gia lao động sản
xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Phương pháp, hình thức tuyên truyền, giáo dục phải đa dạng, phát huy vai trò 18
của các phương tiện thông tin đại chúng, các lớp bồi dưỡng chính trị, chuyên
môn, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên.
Ba là, tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch hóa, bảo đảm mỗi bước
phát triển kinh tế - xã hội là một bước tăng cường quốc phòng, an ninh.
Để làm được điều này, cần nghiên cứu, khảo sát, xác định rõ các nguồn lực, kể
cả nguồn lực từ các thành phần kinh tế ngoài nhà nước để xây dựng kế hoạch,
nội dung, hình thức kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng phù hợp
trong từng lĩnh vực hoạt động, ở từng khu vực phòng thủ. Xác định rõ cơ chế,
trách nhiệm trong việc phối hợp thẩm định các quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của các cấp, các ngành; trong đó, cơ quan quân sự chủ
động thẩm định, các bộ, ngành, địa phương tăng cường phối hợp, thực hiện tốt
cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin để nâng cao hiệu quả và bảo đảm việc kết
hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng được tiến hành ngay từ khâu xây
dựng chiến lược, quy hoạch vùng, lãnh thổ, quy hoạch các ngành, lĩnh vực đến
các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, trong từng công trình, dự án phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo đó, quy hoạch vùng, lãnh thổ, quy hoạch
các ngành, lĩnh vực phải gắn với quy hoạch tổng thể xây dựng thế trận quân sự
trong khu vực phòng thủ, được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với các công
trình trọng điểm, phải bảo đảm sẵn sàng phục vụ nhu cầu quốc phòng, quân sự
khi cần thiết. Các địa phương, nhất là ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, phải coi trọng quy hoạch phân bố dân cư để bảo đảm mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh; thực hiện tốt các
quy định trong Luật Quốc phòng và Nghị định số 164/2018/NĐ-CP, ngày 21-
12-2018, của Chính phủ, “Về kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh
tế - xã hội với quốc phòng”. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng các khu kinh tế
quốc phòng; các đơn vị quân đội vừa thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng,
vừa tham gia giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đời
sống văn hóa trên địa bàn đóng quân và khu vực dự án. Đầu tư phát triển kinh
tế biển một cách bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân