lOMoARcPSD| 61630929
Vấn đề 1: Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu tội phạm học
I. Khái niệm tội phạm học
1. Khái niệm
Khoản 1 Điều 8 Luật hình sự 2015: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tquốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật hội chủ nghĩa theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình
sự.
Đặc điểm của tội phạm:
+ là hành vi nguy hiểm cho xã hội
+ được quy định trong Bộ luật hình sự
+ có lỗi
+ phải chịu hình phạt
Cấu thành tội phạm: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan
Phân loại tội phạm: ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
Tội phạm học khoa học liên ngành, thực nghiệm nghiên cứu về tội phạm (hiện
thực), nguyên nhân của tội phạm kiểm soát tội phạm nhằm mục đích phòng ngừa tội
phạm.
2. Đặc điểm
– Tội phạm học có các đặc điểm:
+ đối tượng nghiên cứu độc lập: tội phạm hiện thực (tức tội phạm đã xảy ra trong thực
tế), nguyên nhân của tội phạm, kiểm soát tội phạm
+ khoa học liên ngành (hay đa ngành): sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học
khác nhau. Với tội phạm học, nó sử dụng các thành tựu của các ngành khoa học khác như:
xã hội học, tâm lý học, sinh vật học
lOMoARcPSD| 61630929
+ là khoa học thực nghiệm: là khoa học kiến thức của thu được từ nghiên cứu thực
tế (chứ không phải nghiên cứu thuyết), VD nghiên cứu số lượng người phạm tội, nhân
thân người phạm tội, đặc điểm sinh học của người phạm tội
+ mục đích: đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm (tức ngăn ngừa, hạn chế tội phạm
cả về số lượng và mức độ nguy hiểm)
II. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học
– Tội phạm học nghiên cứu nhiều đối tượng khác nhau:
+ tình hình tội phạm: chính tội phạm hiện thực, bức tranh thực tế, toàn cảnh về tội
phạm trong hội, thường được thể hiện qua 2 con số: thực trạng tội phạm, diễn biến
tội phạm (trong1 khoảng thời gian nhất định). Hai số liệu này đươc lấy từ các nguồn thống
kê khác nhau, như của cơ quan công an, cơ quan tòa án, từ các cuộc điều tra xã hội học
+ nguyên nhân của tội phạm
+ nhân thân người phạm tội
+ phòng ngừa tội phạm
+ kiểm soát tội phạm: sự kiểm soát của Chính phủ đối với tội phạm, các thiết chế hội
như giáo dục gia đình, thiết chế tôn giáo, chuẩn mực xã hội góp phần kiểm soát tội phạm
+ các học thuyết về tội phạm
+ nạn nhân học: nghiên cứu vai trò của nạn nhân trong hành vi phạm tội, như hiểu biết hạn
chế của nạn nhân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm, như nạn nhân quá dễ dãi, quá cả
tin … Chú ý có những tội phạm không có nạn nhân hoặc rất khó xác định nạn nhân như tội
về ma túy, tội cờ bạc, tôi xâm phạm môi trường, …
+ hình phạt học: nghiên cứu về vai trò của hình phạt: giáo dục, răn đe người phạm tội; đồng
thời cũng răn đe người khác có thể có ý định phạm tội
+ các tội phạm chuyên biệt: như tội phạm cổ cồn trắng (tội phạm về chức vụ, tội phạm rửa
tiền, …), tội phạm cổ cồn xanh (công nhân, nông dân, người làm lâm ngư nghiệp phạm
tội)
III. Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học
Có nhiều phương pháp khác nhau, thường dùng 2 nhóm phương pháp sau:
lOMoARcPSD| 61630929
+ nhóm phương pháp xã hội học: phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương
pháp thực nghiệm, phương pháp điều tra xã hội học, …
+ nhóm phương pháp thống kê
Trong nhóm phương pháp thống kê, chia thành:
+ phương pháp số tuyệt đối: dùng để xác định quy mô, khối lượng của hiện tượng, nghiên
cứu tình hình tội phạm. Sử dụng phương pháp số tuyệt đối để xác định thực trạng của tội
phạm. VD trên địa bàn tỉnh A từ năm 2010 đến 2015 đã xảy ra 5.670 vụ phạm tội với
2.367 người phạm tội
+ phương pháp số tương đối: sử dụng các công thức toán học
Sử dụng phương pháp số tương đối động thái định gốc để xác định diễn
biến của tội phạm theo công thức sau: Ydb = [Mi / Mo] x 100% Trong đó:
Mi: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng năm xác định (động thái, tức là để so sánh số
liệu giữa các năm với nhau)
Mo: số vụ hoặc số người phạm tội trong năm gốc (định gốc, tức so sánh với 1 năm “gốc”)
Sử dụng phương pháp sơng đối để xác định cơ cấu tội phạm theo công
thức: Ycc = [Mbp / Mtt] x 100% Trong đó:
Mbp: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng nhóm, loại tội phạm
Mtt: tổng số vụ hoặc tổng số người phạm tội
Sử dụng số tương đối để xác định hệ số tội phạm (chỉ số tội phạm): hệ số
tội phạm là mức độ phổ biến của tội phạm trong dân cư, thường xác định trong
10.000 dân hoặc 100.000 dân
+ phương pháp số trung bình và phương pháp số trung v
——————–
Ngày 16/04/2017
Giảng viên: cô …
Vấn đề 2: Lịch sử hình thành và phát triển của tội phạm học
lOMoARcPSD| 61630929
I. Trường phái tội phạm học cổ điển
Thời gian tồn tại: từ 1700 đến 1880
Học giả tiêu biểu:
+ Cesare Beccaria: được coi ông tổ của tội phạm học cổ điển, với tác phẩm kinh điển
“Tội phạm và hình phạt” năm 1764
+ Jeremy Bentham: học trò của Cesare Beccaria, với tác phẩm nổi tiếng “Lời giới thiệu tới
các nguyên tắc của đạo đức và luật pháp” năm 1798
1. Nội dung chính
Khoảng thế kỷ 18, châu Âu xuất hiện “thời kỳ khai sáng”. Đây giai đoạn của
Triết học, chi phối hầu hết tri thức của nhân loại.
Theo quan điểm của triết học thì nguyên nhân của tội phạm là do tự do ý chí và suy
nghĩ lý trí.
Quan điểm này đến nay vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện ở yếu tố “có lỗi” “lỗi cố ý” trong
PL hình sự.
2. Nguyên nhân của tội phạm theo quan điểm của các học giả tội phạm học cổ điển a.
Cesare Beccaria
Cesare Beccaria cũng thừa nhận khẳng định suy cho cùng nguyên nhân của tội
phạmlà do các yếu tố thuộc về nhân. Năm 1764, Cesare Beccaria xuất bản cuốn sách:
“Tội phạm hình phạt”, trong đó có nhiều quan điểm tiến bộ, ông cũng đề cao vai trò
phòng ngừa tội phạm của hình phạt.
Theo Cesare Beccaria, hình phạt phương tiện để phòng ngừa tội phạm hiệu quả,
cáchtốt nhất để phòng ngừa tội phạm là luật phải được quy định đơn giản và rõ ràng, khen
thưởng người có đạo đức tốt và cải thiện nền giáo dục, bên cạnh đó cần cải thiện hệ thống
tư pháp hình sự theo hướng nhân đạo.
Cesare Beccaria đưa ra nhiều quan điểm tiến bộ:
+ không có bất kỳ ai được đứng trên luật pháp, kể cả giới quý tộc và những nhà lãnh đạo
+ đồng thời mọi người đều bình đẳng, nên việc người này quyết định tước đoạt mạng sống
của người khác là vô lý, nên Cesare Beccaria đề nghị bỏ án tử hình
lOMoARcPSD| 61630929
+ phòng ngừa tội phạm tốt hơn là trừng trị tội phạm
+ khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào hành vi phạm tội chứ không được căn cứ vào
chủ thể phạm tội
+ thẩm phán người áp dụng PL chứ không phải người ban hành PL (rất phù hợp với
quan điểm của hệ thống Civil Law, nhưng lại trái với quan điểm của Common law)
+ khi quyết định hình phạt phải dựa trên “niềm vui thích” sự đau khổ”: khi 1 người
thực hiện hành vi phạm tội vui thích như thế nào, thì khi họ phải chịu hình phạt họ sẽ phải
chịu đau khổ tương ứng như vậy
==> đến tận ngày nay tư tưởng của Cesare Beccaria vẫn được nhiều quốc gia tuân theo để
xây dựng hệ thống tư pháp dân chủ và hiệu quả
b. Jeremy Bentham
Theo Jeremy Bentham thì nguyên nhân của tội phạm cũng là do tự do ý chí và suy nghĩ
trí. Tên tuổi của ông gắn liền với “thuyết vị lợi” (thuyết thực dụng): trước khi thực
hiện hành vi phạm tội, con người bao giờ cũng cân nhắc giữa cái được cái mất, nếu
cái được nhiều hơn cái mất thì họ sẽ thực hiện hành vi, ngược lại nếu cái được ít hơn cái
mất thì họ sẽ không thực hiện hành vi ==> do đó hình phạt phải ơng ứng với hành vi
phạm tội và đây là biện pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả
Jeremy Bentham đề ra 3 giải pháp phòng ngừa tội phạm:
+ cải cách lại hệ thống nhà tù: xây dựng nhà thù theo kiến trúc “hình xoáy ốc”, theo đó
người quản đứng vị trí trung tâm của “xoáy ốc” để quan sát mọi hành vi của nhân
(bị coi là vi phạm nhân quyền vì ngay cả tù nhân cũng vẫn còn 1 số quyền con nời)
+ xăm trổ lên người phạm tội: để ngăn ngừa nguy người phạm tội tái phạm (tuy nhiên
lại bị coi là vi phạm nhân quyền)
+ xây dựng đội cảnh t tuần tra: biện pháp y được sử dụng rộng rãi trên thế giới đến tận
ngày nay
II. Trường phái tội phạm học thực chứng
– Thời gian tồn tại: chia làm 2 giai đoạn
+ 1880 – 1930: giai đoạn đầu
lOMoARcPSD| 61630929
+ 1930 – nay: thời kỳ hiện tại –
Học giả tiêu biểu:
+ Cesare Lombroso: cha đẻ của tội phạm học thực chứng, với tác phẩm “Người phạm tội”
+ Enrico Ferri, Raffaele Garofalo, Buckman Goring, …
1. Nội dung chính
Từ nửa cuối thế k19, triết học không còn giữ vai trò độc tôn, nhiều ngành khoa
học mới xuất hiện, trong đó nổi lên sự xuất hiện của chủ nghĩa thực chứng: muốn tìm
hiểu 1 sự vật, hiện tượng hoặc tìm ra quy luật cần phải sử dụng phương pháp khoa học.
Theo chủ nghĩa thực chứng, con người không phải hoàn toàn được tự do lựa chọn
thực hiện hành vi phạm tội, nói cách khác những nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của
họ dẫn đến hành vi phạm tội của họ. Nhiều nhà khoa học đã ứng dụng thành tựu của các
ngành khoa học khác để nghiên cứu về con người phạm tội, từ đó giải thích nguyên nhân
của tội phạm, như ứng dụng các thành tựu của sinh vật học, tâm lý học, xã hội học, … 2.
Nguyên nhân của tội phạm theo quan điểm của các nhà tội phạm học thực chứng
a. Các thuyết sinh học quyết định
Cesare Lombroso:
+ người đầu tiên kết hợp giữa chủ nghĩa thực chứng nghiên cứu về sinh học của
Darwin về nguồn gốc loài người để giải thích nguyên nhân của tội phạm. Ông cho rằng
nguyên nhân của tội phạm do các yếu tố sinh học quyết định. Năm 1876, ông xuất bản
cuốn sách “Người phạm tội”, trong đó đưa ra khái niệm “người phạm tội bẩm sinh” hay
người mắc bệnh “lại giống”.
+ Cesare Lombroso đã thay thế quan niệm của tội phạm học cổ điển (cho rằng tự do ý chí,
sự lựa chọn của cá nhân là nguyên nhân của tội phạm) bằng quan điểm cho rằng nguồn gốc
phát sinh tội phạm bắt nguồn từ nguyên nhân loại thể. Theo đó ông đã phát triển tội
phạm học theo hướng mới, giải thích nguyên nhân của tội phạm thông qua nghiên cứu
thí nghiệm, đó chính trường tội phạm học thực chứng. Cụ thể ông đã sử dụng rộng rãi
các biện pháp và phương pháp thống kê trong việc xử lý các dữ liệu về nhân chủng học,
hội, kinh tế.
+ Bằng cách nghiên cứu hộp sọ, diện mạo khuôn mặt, hình dáng của những người (còn
sống hoặc đã chết), Cesare Lombroso cho rằng có thể đoán biết họ có phải là người phạm
tội bẩm sinh hay không, tức là có đồng thời 5 đặc điểm (cả nam và nữ):
lOMoARcPSD| 61630929
Miệng rộng, hàm răng khỏe, trán dốc, ngắn (là những đặc điểm của loài ăn thịt sống)
Xương gò má nhô cao, mũi bẹt
Tai hình dáng quai xách (tai vểnh)
Mũi diều hâu, môi to dày, mắt gian xảo, lông mày rậm
Không nhạy cảm với đau đớn, cánh tay dài hơn cẳng chân (giống loài khỉ)
+ Cesare Lombroso cho rằng người phạm tội có đặc điểm giống với tổ tiên của loài người
hơn công dân bình thường, đó những dấu hiệu của bệnh “lại giống”, tức quay trở
lại với giống nòi của mình (loài khỉ, vượn người), những đặc điểm nổi bật của loài người
ở giai đoạn phát triển thấp, trước khi họ trở thành người.
+ Để phòng ngừa tội phạm, Cesare Lombroso cho rằng cần biệt lập những người phạm tội
bẩm sinh khỏi xã hội không cần chờ đến lúc họ phạm tội. Tuy nhiên ông ủng hộ quan
điểm cần đối xử nhân đạo với người phạm tội và phản đối việc áp dụng án tử hình đối với
người phạm tội.
——————–
Ngày 23/04/2017
Giảng viên: cô …
(tiếp bài trước)
Ernst Kretschmer, William Sheldon: đưa ra trường phái “kiểu cơ thể”, theo đó kiểu
“to, khỏe, lực lưỡng” có nguy cơ phạm tội cao hơn so với 2 kiểu “gày gò, ốm yếu, vai hẹp”
và “cao trung bình, mũm mĩm, cổ to, mặt rộng”
Richard Louis Dugdale, Henry Goddard: đưa ra Thuyết phạm tội do thừa kế, theo
đó người phạm tội do kế thừa “gen xấutừ thế hệ trước. Cơ sở sự nghiên cứu của 1
số dòng họ có tỷ lệ người phạm tội nhiều hơn so với các dòng học khác.
+ thuyết “phạm tội do thừa kế” dẫn tới sự hình thành phát triển của phong trào “ưu
sinh”, phong trào sinh sản điều khiển để cải tạo chất lượng nòi giống. Theo đó để
phòng ngừa tội phạm thì phải không để cho gen xấu từ thế hệ trước truyền sang thế hệ sau,
tức “triệt sản” đối với người phạm tội. Phong trào ưu sinh phát triển lan rộng khắp
nước Mỹ từ những năm 1920 đến trước thế chiến II. Sau đó phong trào này lan sang châu
lOMoARcPSD| 61630929
Âu, đỉnh điểm là khi phát xít Đức lợi dụng triệt để để tàn sát người Do Thái người
tàn tật.
Patricia Jacobs: đưa ra Thuyết nhiễm sắc thể, theo đó người phạm tội là do có kiểu
nhiễm sắc thể bất thường
a. Các thuyết tâm lý quyết định
Gabriel Tarde: đưa ra Thuyết bắt chước, theo đó nguyên nhân của tội phạm là do 1 người
đã bắt chước hành vi phạm tội của người khác người đó hội quan sát. 3 loại
bắt chước:
+ những người có địa vị ngang bằng nhau và có tần số tiếp xúc thường xuyên với nhau t
xu hướng bắt chước nhau (cá nhân bắt chước những người khác cân xứng với mức độ
và tần số tiếp xúc của họ). VD bạn bè thường có xu hướng bắt chước nhau
+ người ở tầng lớp dưới thường bắt chước người ở tầng lớp cao n. VD trẻ con bắt chước
người lớn, học sinh bắt chước thầy cô, người nông thôn bắt chước người thành th
==> ngày nay vẫn còn giá trị: việc coi trọng giáo dục, coi trọng việc “làm gương” của
cha mẹ, thầy cô
+ nếu nhiều khuynh hướng, khuôn mẫu khác nhau thì con người sẽ chọn cái chiếm ưu
thế hơn
==> ngày nay vẫn còn giá trị: tác động của phương tiện truyền thông, mạng hội, phim
ảnh đến giới trẻ
Sigmund Freud: thuyết phân tâm học, cho rằng tồn tại năng lực tình dục thúc đẩy hành
vi của con người. Năng lực tình dục đó được gọi là libido, trong libido có 2 lực lượng đối
chọi nhau bản năng sống (eros-hướng tới hoạt động) và bản năng chết (thanatos-hướng
tới hoạt động tự hủy diệt). Ông đưa ra khái niệm bản năng, bản ngã, siêu bản ngã:
+ bản năng tượng trưng cho phần vô thức và chống đối xã hội của cá nhân
+ bản ngã tượng trưng cho cho phần ý thức và ý chí của cá nhân
+ siêu bản ngã biểu hiện cho phần giá trị văn hóa với chức năng như là lương tâm cá nhân
Theo Freud, hành vi tội phạm diễn ra khi ở 1 nhân, phần bản năng lấn át bản ngã trong
khi siêu bản ngã hoạt động kém hiệu quả
lOMoARcPSD| 61630929
b. Thuyết xã hội quyết định
Emile Durkkeim: thuyết rối loạn tổ chức xã hội, theo đó hành vi phạm tội không
phải do các yếu tố thuộc về cá nhân mà là do các yếu tố thuộc về môi trường, về xã hội, cụ
thể là do sự rối loạn, vô tổ chức của xã hội, do sự phân công lao động xã hội không hợp lý.
Quan điểm của Emile Durkkeim:
+ tội phạm là tồn tại tất yếu của xã hội: tức là tội phạm không thể biến mất, chỉ có thể hạn
chế, đẩy lùi tội phạm; nếu tội phạm biến mất thì xã hội cũng tiêu vong
+ tội phạm là thước đo cho sự phát triển của xã hội: VD trước đây chưa hề có khái niệm về
“tội phạm công nghệ cao”, chỉ đến khi khoa học phát triển thì mới xuất hiện loại tội phạm
này. Chính về vậy quan sát tội phạm có thể đánh giá được mức độ phát triển của xã hội đó.
Edwin Sutherland: đưa ra thuyết học lại từ xã hội, theo đó hành vi phạm tội là do sự
“học lại” hành vi của một nhóm xã hội (khác với thuyết bắt chước là sự “học hỏi” từ 1
nhân khác)
Vấn đề 3: Tình hình tội phạm
I. Khái niệm
Các khái niệm: Tình hình tội phạm, tình trạng phạm tội nghĩa tương tự nhau, nhưng
khái niệm Tình hình tội phạm được sử dụng nhiều hơn.
“Tình trạng” thường mang nghĩa tiêu cực.
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tình hình tội phạm:
+ Tình hình tội phạm toàn bộ thực trạng diễn biến của tội phạm đã xảy ra trong 1
phạm vi không gian và thời gian xác định (Giáo trình Đại học Luật Hà Nội)
+ Tình hình tội phạm trạng thái, xu thế vận động của (các) tội phạm (hoặc nhóm tội
phạm, hoặc 1 loại tội phạm) đã xảy ra trong 1 đơn vị thông gian đơn vị thời gian nhất
định (GS TS Nguyễn Ngọc Hòa)
+ Tình hình tội phạm hiện tượng hội tiêu cực, trái PL hình sự, mang tính giai cấp,
thay đổi theo quá trình lịch sử được thực hiện trong phạm vi không gian thời gian
nhất định
Đặc điểm:
lOMoARcPSD| 61630929
+ theo quan điểm nào thì tình hình tội phạm đều có đặc điểm chung xác định theo
không gian thời gian xác định, tức đánh giá về tình hình tội phạm phải dựa trên các
dữ liệu trong phạm vi và thời điểm nhất định
+ đối tượng của tình hình tội phạm luôn là tội phạm, VD tội trộm cắp, tội tham nhũng, tội
phạm ma túy, …
Chú ý: Quan niệm thứ 3 (nêu trên) hiện tại đã không còn được sử dụng, quan điểm
này gây ra sự nhầm lẫn giữa khái niệm tội phạm tình hình tội phạm. Cụ thể, nếu nói
tình hình tội phạm tính trái PL hình sự không chính xác, trong Bộ luật hình sự
không hề có khái niệm “tình hình tội phạm” (mà chỉ có các tội phạm); mặc dù tình hình
tội phạm tổng hợp của các tội phạm, nhưng không phải phép cộng đơn thuần.
Hơn nữa việc coi “tình hình tội phạm mang nh giai cấp” quan điểm đồng nhất tình
hình tội phạm với tội phạm, chỉ tội phạm mới tính giai cấp (tức tội phạm
những thời kỳ lịch sử khác nhau sẽ có sự khác nhau, VDthời kỳ bao cấp tội “Làm
giả tem phiếu”, nhưng khi hết bao cấp thì tội này không còn nữa)
II. Các thông số cơ bản của tình hình tội phạm
Gồm các thông số:
+ các thông số về lượng, gồm:
thực trạng
diễn biến
+ các thông số về chất, gồm:
cơ cấu
tính chất
——————–
Ngày 07/05/2017
Giảng viên: cô …
(tiếp bài trước)
1. Thực trạng của tội phạm
Gồm 2 phần:
lOMoARcPSD| 61630929
+ thực trạng về mức độ của tội phạm
+ thực trạng về tính chất của tội phạm
1.1. Thực trạng về mức độ của tội phạm
Là toàn bộ số vụ phạm tội và số người phạm tội đã xảy ra xác định trong 1 khoảng
thời gian và không gian.
Để làm ng tỏ thực trạng về mức độ của tội phạm, thông thường cần làm 4 nội
dungsau:
+ tội phạm rõ
+ tội phạm ẩn
+ hệ số tội phạm (hay Chỉ số tội phạm) +
thông số về nạn nhân của tội phạm
a. Tội phạm rõ
– Là toàn bộ số vụ và số người phạm tội đã xảy ra, đã bị phát hiện và xử lý hình sự. Số liệu
thống kê về tội phạm rõ ở VN thường lấy từ 2 nguồn sau:
+ số liệu thống kê của cơ quan công an, cơ quan điều tra, viện kiểm sát +
số liệu thống kê của tòa án
b. Tội phạm ẩn
Khái niệm: Là toàn bộ những tội phạm đã xảy ra, chưa bị phát hiện, hoặc chưa bị xử
về hình sự, và vì vậy không có số liệu thống kê.
Tội phạm ẩn trong tình hình tội phạm được nphần chìm của tảng băng. Thông thường,
số lượng tội phạm ẩn gấp từ 6-8 lần số lượng tội phạm rõ.
Nguyên nhân của tội phạm ẩn: có thể chia làm 4 nhóm:
+ nguyên nhân từ phía người phạm tội: người phạm tội thực hiện tội phạm bằng những thủ
đoạn mới tinh vi, xảo quyệt để che dấu tội phạm. VD tội phạm công nghệ cao
+ nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội phạm: nạn nhân không khai báo do thiếu hiểu biết,
do mặc cảm tâm lý (như tội hiếp dâm), do sợ bị trả thù (bị thủ phạm đe dọa), do không tin
tưởng cơ quan chức năng có thể xử lý vụ việc (thủ phạm là người có chức quyền)
lOMoARcPSD| 61630929
+ nguyên nhân từ phía người làm chứng: người chứng kiến không khai báo, tố giác tội
phạm. Nguyên nhân do nhận thức chưa đúng đắn, ngại phiền hà, hoặc bị đe dọa
+ nguyên nhân từ phía các quan bảo vệ PL: do nhận hối lộ, ý muốn che dấu tội phạm
trên địa bàn mình quản lý, hoặc do tâm lý “ngại cấp trên”, VD như xe ô tô của cấp trên gây
tai nạn; hoặc do nhạy cảm” sự thay đổi tội danh này bằng tội danh khác, thường
thấy ở các tội chống phá chế độ bị thay đổi thành các tội khác như trốn thuế, mục đích để
tránh cho nước ngoài đánh giá về nhân quyền
Chú ý: Trên thực tế, có nhiều trường hợp tội phạm đã xảy ra, đã bị phát hiện và xử lý hình
sự, nhưng không trong thống hình sự. Những trường hợp này được coi tội phạm
rõ, do các nguyên nhân sau:
+ bệnh thành tích: VD địa phương mà để xảy ra tội phạm nhiều sẽ bị coi là không đảm bảo
an ninh, kém thu hút đầu tư
+ do nguyên tắc thống kê: nguyên tắc thống kê là chỉ thống kê tội danh được áp dụng hình
phạt cao nhất. VD phạm nhân A bị kết tội hiếp dâm, cướp tài sản, và giết người, nhưng chỉ
thống kê 1 tội danh giết người
+ do thống kê nhầm, thống kê sai (do trình độ cán bộ thống kê hạn chế): VD tội phạm diễn
ra vào năm 2010, nhưng đến 2013 với phát hiện ra, và đến năm 2015 với xét xử
Phương pháp xác định tội phạm ẩn: có nhiều phương pháp, trong đó thường sử dụng 2
phương pháp:
+ phương pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật: cam kết giữ mật danh tính người
tham gia tự tường thuật, để họ tiết lộ thông tin về tội phạm
+ phương pháp điều tra về nạn nhân của tội phạm: cam kết giữmật danh tính nạn nhân
để họ tiết lộ thông tin về tội phạm
Chú ý: cả 2 phương pháp này đều có tính chính xác tương đối
Phân loại tội phạm ẩn: căn cứ vào nguyên nhân của tội phạm ẩn, có 2 loại:
+ tội phạm ẩn khách quan: do các nguyên nhân khác không phải do các cơ quan bảo vệ
PL
+ tội phạm ẩn chủ quan: do cơ quan bảo vệ PL
lOMoARcPSD| 61630929
c. Hệ số tội phạm (Chỉ số tội phạm)
Là chỉ số được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến của tội phạm trong 1 địa bàn
dân cư và trong 1 khoảng thời gian nhất định.
Hệ số tội phạm được nh theo tỷ lệ số vụ phạm tội trên 100.000 dân (hoặc 10.000
dân):Hệ số tội phạm = [Số vụ phạm tội] x 100.000 / [Số dân]
d. Thông số về nạn nhân của tội phạm
Nghiên cứu thông số này thường xác định 1 số nội dung sau:
+ số lượng nạn nhân của tội phạm
+ tình huống trở thành nạn nhân của tội phạm
+ đặc điểm nhân thân của nạn nhân của tội phạm: như giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn,
hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh kinh tế, … của nạn nhân
+ mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội
+ …
1.2. Thực trạng về tính chất của tội phạm
Tính chất của tội phạm là những đặc điểm đặc trưng, nổi bật nhất của tình hình tội phạm
đó. Tính chất của tội phạm có thể rút ra được trên cơ sở nghiên cứu ơ cấu của tội phạm.
cấu của tội phạm là tỷ trọng, mối ơng quan giữa các nhóm, loại tội phạm trong tổng
thể tội phạm chung, thống nhất
Công thức xác định cơ cấu của tội phạm:
Ycc = [Mbp / Mtt] x 100% Trong
đó:
Mbp: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng nhóm, loại tội phạm
Mtt: tổng số vụ hoặc tổng số người phạm tội
Cơ cấu của tội phạm có thể được xác định theo nhiều tiêu chí:
+ theo khách thể của tội phạm: khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp
lOMoARcPSD| 61630929
+ theo phân loại tội phạm: tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng
+ theo tội danh
+ theo hình thức lỗi: cố ý, vô ý
+ theo hình thức phạm tội
+ theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội
+ …
2. Diễn biến của tội phạm
Diễn biến của tội phạm xu hướng tăng / giảm hoặc ổn định tương đối của tội
phạm đó. Diễn biến của tội phạm sự thay đổi về thực trạng của tội phạm, vậy diễn
biến của tội phạm cũng gồm 2 phần:
+ diễn biến về mức độ của tội phạm
+ diễn biến về tính chất của tội phạm
Công thức xác định diễn biến của tội phạm theo phương pháp số tương đối động
thái định gốc:
Ydb = [Mi / Mo] x 100% Trong
đó:
Mi: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng năm xác định (động thái, tức là để so sánh số
liệu giữa các năm với nhau)
Mo: số vụ hoặc số người phạm tội trong năm gốc (định gốc, tức so sánh với 1 năm “gốc”)
Diễn biến của tội phạm có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố. Thông thường là 2 yếu
tố: xã hội và pháp luật, đặc biệt là sự thay đổi của PL hình sự
——————–
Ngày 14/05/2017
lOMoARcPSD| 61630929
Giảng viên: cô …
Bài tập
1. Dữ liệu về số người phạm tội trên địa bàn tỉnh X giai đoạn 2012 -2016 như sau:
Năm Số người phạm tội
2012 90
2013 70
2014 120
2015 200
2016 150
Vẽ biểu đồ mô tả xu hướng vận động, nêu nhận xét.
2. Dữ liệu về số vụ phạm tội cướp tài sản theo địa điểm phạm tội trên địa bàn tỉnh A
giai đoạn 2012 – 2016 như sau:
STT
Địa điểm
Số vụ phạm tội
1
Tại nhà riêng
90
2
Tại bến xe, nhà ga
120
3
Tại nơi hoang vắng
30
4
Tại địa điểm khác
60
Vẽ biểu đồ và nhận xét.
3. Năm 2016 địa phương A xảy ra 500 vụ phạm tội, dân số địa phương A là 1 triệu; địa
phương B xảy ra 700 vụ phạm tội, dân số địa phương B 1.8 triệu. Căn cứ vào số
lOMoARcPSD| 61630929
liệu trên, hãy so sánh tình hình tội phạm của A B. Bài làm (Phan Việt làm)
Bài 1:
Áp dụng phương pháp số tương đối động thái định gốc:
Bước 1: Công thức Ydb =
[Mi / Mo] x 100% Trong
đó:
Mi: số người phạm tội trong từng năm
Mo: số người phạm tội trong năm gốc (năm 2012)
Bước 2: Tính số liệu thống kê
Y[2012] = 90 = 100%
Y[2013] = (70/90) x 100% = 78%
Y[2014] = (120/90) x 100% = 133%
Y[2015] = (200/90) x 100% = 222%
Y[2016] = (150/90) x 100% = 167%
Bước 3: Lập bảng thống kê
Năm
Số vụ
Tỷ lệ % <+,-> so với năm gốc
2012
90
100%
2013
70
78% < -22% >
2014
120
133% < +33%>
2015
200
222% < +122% >
lOMoARcPSD| 61630929
2016
150
167% < +67%>
Bước 4: Vẽ biểu đồ
Bước 5: Nhận xét
Nhìn vào biểu đồ trên cho thấy số người phạm tội trên địa bàn tỉnh X giai đoạn 20122016
có xu hướng gia tăng. Trong đó tăng đột biến vào năm 2015 với tỷ lệ 222%, tăng 122% so
với năm 2012. Đặc biệt năm 2013 lại giảm tương đối nhiều, giảm 22% so với năm 2012.
Do vậy ta phải tìm hiểu tại sao lại sự gia tăng đột biến như vậy, đồng thời cũng tìm hiểu
nguyên nhân tại sao năm 2012 số người phạm tội lại giảm, để qua đó đề ra các biện pháp
hạn chế và phòng ngừa tội phạm.
Bài 2:
Sử dụng phương pháp số tương đối để xác định cơ cấu tội phạm:
Bước 1: Công thức: Ycc =
[Mbp / Mtt] x 100% Trong
đó:
lOMoARcPSD| 61630929
Mbp: số vụ phạm tội cướp tài sản theo từng địa điểm
Mtt: tổng số vụ phạm tội cướp tài sản
Bước 2: Tính số liệu thống kê
Y[tổng thể] = 90 + 120 + 30 + 60 = 300 = 100%
Y[nhà riêng] = (90/300) x 100% = 30%
Y[bến xe] = (120/300) x 100% = 40%
Y[chỗ vắng] = (30/300) x 100% = 10%
Y[khác] = (60/300) x 100% = 20%
Bước 3: Lập bảng thống kê
Địa điểm phạm tội cướp tài sản
Tỷ lệ %
Tại nhà riêng
30%
Tại bến xe, nhà ga
40%
Tại nơi hoang vắng
10%
Tại địa điểm khác
20%
Bước 4: Vẽ biểu đồ
lOMoARcPSD| 61630929
Bước 5: Nhận xét
Qua biểu đồ trên cho thấy bến xe, nhà ga là địa điểm xảy ra nhiều vụ phạm tội cướp tài sản
nhất, chiếm 40% tổng số vụ cướp tài sản; tiếp theo là tại nhà riêng của người dân với 30%
tổng số vụ cướp tài sản; tại địa điểm hoang vắng số vụ cướp tài sản là 10%,20% số vụ
cướp tài sản diễn ra tại các địa điểm khác.
Từ đó rút ra để hạn chế phòng ngừa tội phạm, các cơ quan chức năng cần tăng cường
đảm bảo an ninh tại bến xe, nhà ga, đây các địa điểm tập trung đông người phương
tiện đi lại của dân các địa phương, thành phần rất phức tạp. Ngoài ra cần tăng ờng
tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về nguy trộm ớp tại nhà người
dân, khuyến khích các tổ dân phố tập huấn nâng cao cảnh giác, phòng ngừa tội phạm.
Bài 3:
Sử dụng số tương đối để xác định hệ số tội phạm (chỉ số tội phạm).
Để so sánh tình hình tội phạm của địa phương A và địa phương B, ta sẽ xác định hệ số tội
phạm của A và B trong 100.000 dân:
lOMoARcPSD| 61630929
+ Hệ số tội phạm của địa phương A năm 2016:
Y[địa phương A] = ([500 vụ] x [100.000 dân])/[1.000.000 số n của A] = 50 (vụ /
100.000 dân)
+ Hệ số tội phạm của địa phương B năm 2016:
Y[địa phương B] = ([700 vụ] x [100.000 dân])/[1.800.000 số n của A] = 39 (vụ /
100.000 dân)
Qua tính toán trên ta thấy trong năm hệ số tội phạm của địa phương A 50 vụ trên 100.000
dân, trong khi hệ số tội phạm của địa phương B là 39 vụ trên 100.000 dân.
Kết luận: trong năm 2016, địa phương A tình hình tội phạm phức tạp hơn so với địa
phương B
Vấn đề 4: Nguyên nhân của tội phạm
I. Khái niệm
tổng hợp các nhân tmà trong sự tác động qua lại giữa chúng dẫn tới việc thực hiện
hành vi phạm tội của người phạm tội.
Chú ý: khác với chương II khi nghiên cứu các học thuyết về nguyên nhân của tội phạm là
do các nhân tố đơn lẻ, còn ở chương IV coi nguyên nhân của tội phạm là tổng hợp của tất
cả các nhân tố
Các nhân tố gồm:
+ thuộc về cá nhân người phạm tội
+ thuộc về môi trường, xã hội +
tình huống cụ thể
Nhân tố môi trường, xã hội:
+ môi trường hội vĩ mô: môi trường lớn, không trực tiếp ảnh hưởng đến sự hình thành
nhân cách của nhân, như đường lối chính sách, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, tuyên
truyền phổ biến PL

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61630929
Vấn đề 1: Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu tội phạm học
I. Khái niệm tội phạm học 1. Khái niệm
Khoản 1 Điều 8 Luật hình sự 2015: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

Đặc điểm của tội phạm:
+ là hành vi nguy hiểm cho xã hội
+ được quy định trong Bộ luật hình sự + có lỗi + phải chịu hình phạt
Cấu thành tội phạm: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan
Phân loại tội phạm: ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng –
Tội phạm học là khoa học liên ngành, thực nghiệm nghiên cứu về tội phạm (hiện
thực), nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm. 2. Đặc điểm
– Tội phạm học có các đặc điểm:
+ đối tượng nghiên cứu độc lập: tội phạm hiện thực (tức là tội phạm đã xảy ra trong thực
tế), nguyên nhân của tội phạm, kiểm soát tội phạm
+ là khoa học liên ngành (hay đa ngành): là sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học
khác nhau. Với tội phạm học, nó sử dụng các thành tựu của các ngành khoa học khác như:
xã hội học, tâm lý học, sinh vật học lOMoAR cPSD| 61630929
+ là khoa học thực nghiệm: là khoa học mà kiến thức của nó thu được từ nghiên cứu thực
tế (chứ không phải nghiên cứu lý thuyết), VD nghiên cứu số lượng người phạm tội, nhân
thân người phạm tội, đặc điểm sinh học của người phạm tội
+ mục đích: đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm (tức là ngăn ngừa, hạn chế tội phạm
cả về số lượng và mức độ nguy hiểm)
II. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học
– Tội phạm học nghiên cứu nhiều đối tượng khác nhau:
+ tình hình tội phạm: chính là tội phạm hiện thực, là bức tranh thực tế, toàn cảnh về tội
phạm trong xã hội, thường được thể hiện qua 2 con số: thực trạng tội phạm, và diễn biến
tội phạm (trong1 khoảng thời gian nhất định). Hai số liệu này đươc lấy từ các nguồn thống
kê khác nhau, như của cơ quan công an, cơ quan tòa án, từ các cuộc điều tra xã hội học
+ nguyên nhân của tội phạm
+ nhân thân người phạm tội + phòng ngừa tội phạm
+ kiểm soát tội phạm: sự kiểm soát của Chính phủ đối với tội phạm, các thiết chế xã hội
như giáo dục gia đình, thiết chế tôn giáo, chuẩn mực xã hội góp phần kiểm soát tội phạm
+ các học thuyết về tội phạm
+ nạn nhân học: nghiên cứu vai trò của nạn nhân trong hành vi phạm tội, như hiểu biết hạn
chế của nạn nhân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm, như nạn nhân quá dễ dãi, quá cả
tin … Chú ý có những tội phạm không có nạn nhân hoặc rất khó xác định nạn nhân như tội
về ma túy, tội cờ bạc, tôi xâm phạm môi trường, …
+ hình phạt học: nghiên cứu về vai trò của hình phạt: giáo dục, răn đe người phạm tội; đồng
thời cũng răn đe người khác có thể có ý định phạm tội
+ các tội phạm chuyên biệt: như tội phạm cổ cồn trắng (tội phạm về chức vụ, tội phạm rửa
tiền, …), tội phạm cổ cồn xanh (công nhân, nông dân, người làm lâm ngư nghiệp phạm tội)
III. Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học
– Có nhiều phương pháp khác nhau, thường dùng 2 nhóm phương pháp sau: lOMoAR cPSD| 61630929
+ nhóm phương pháp xã hội học: phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương
pháp thực nghiệm, phương pháp điều tra xã hội học, …
+ nhóm phương pháp thống kê
– Trong nhóm phương pháp thống kê, chia thành:
+ phương pháp số tuyệt đối: dùng để xác định quy mô, khối lượng của hiện tượng, nghiên
cứu tình hình tội phạm. Sử dụng phương pháp số tuyệt đối để xác định thực trạng của tội
phạm. VD trên địa bàn tỉnh A từ năm 2010 đến 2015 đã xảy ra 5.670 vụ phạm tội với 2.367 người phạm tội
+ phương pháp số tương đối: sử dụng các công thức toán học
• Sử dụng phương pháp số tương đối động thái định gốc để xác định diễn
biến của tội phạm theo công thức sau: Ydb = [Mi / Mo] x 100% Trong đó:
Mi: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng năm xác định (động thái, tức là để so sánh số
liệu giữa các năm với nhau)
Mo: số vụ hoặc số người phạm tội trong năm gốc (định gốc, tức là so sánh với 1 năm “gốc”)
• Sử dụng phương pháp số tương đối để xác định cơ cấu tội phạm theo công
thức: Ycc = [Mbp / Mtt] x 100% Trong đó:
Mbp: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng nhóm, loại tội phạm
Mtt: tổng số vụ hoặc tổng số người phạm tội
• Sử dụng số tương đối để xác định hệ số tội phạm (chỉ số tội phạm): hệ số
tội phạm là mức độ phổ biến của tội phạm trong dân cư, thường xác định trong
10.000 dân hoặc 100.000 dân
+ phương pháp số trung bình và phương pháp số trung vị ——————– Ngày 16/04/2017 Giảng viên: cô …
Vấn đề 2: Lịch sử hình thành và phát triển của tội phạm học lOMoAR cPSD| 61630929
I. Trường phái tội phạm học cổ điển
– Thời gian tồn tại: từ 1700 đến 1880 – Học giả tiêu biểu:
+ Cesare Beccaria: được coi là ông tổ của tội phạm học cổ điển, với tác phẩm kinh điển
“Tội phạm và hình phạt” năm 1764
+ Jeremy Bentham: học trò của Cesare Beccaria, với tác phẩm nổi tiếng “Lời giới thiệu tới
các nguyên tắc của đạo đức và luật pháp” năm 1798 1. Nội dung chính
Khoảng thế kỷ 18, ở châu Âu xuất hiện “thời kỳ khai sáng”. Đây là giai đoạn của
Triết học, chi phối hầu hết tri thức của nhân loại. –
Theo quan điểm của triết học thì nguyên nhân của tội phạm là do tự do ý chí và suy nghĩ lý trí.
Quan điểm này đến nay vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện ở yếu tố “có lỗi” “lỗi cố ý” trong PL hình sự.
2. Nguyên nhân của tội phạm theo quan điểm của các học giả tội phạm học cổ điển a. Cesare Beccaria
Cesare Beccaria cũng thừa nhận và khẳng định suy cho cùng nguyên nhân của tội
phạmlà do các yếu tố thuộc về cá nhân. Năm 1764, Cesare Beccaria xuất bản cuốn sách:
“Tội phạm và hình phạt”, trong đó có nhiều quan điểm tiến bộ, ông cũng đề cao vai trò
phòng ngừa tội phạm của hình phạt. –
Theo Cesare Beccaria, hình phạt là phương tiện để phòng ngừa tội phạm hiệu quả,
cáchtốt nhất để phòng ngừa tội phạm là luật phải được quy định đơn giản và rõ ràng, khen
thưởng người có đạo đức tốt và cải thiện nền giáo dục, bên cạnh đó cần cải thiện hệ thống
tư pháp hình sự theo hướng nhân đạo.
Cesare Beccaria đưa ra nhiều quan điểm tiến bộ:
+ không có bất kỳ ai được đứng trên luật pháp, kể cả giới quý tộc và những nhà lãnh đạo
+ đồng thời mọi người đều bình đẳng, nên việc người này quyết định tước đoạt mạng sống
của người khác là vô lý, nên Cesare Beccaria đề nghị bỏ án tử hình lOMoAR cPSD| 61630929
+ phòng ngừa tội phạm tốt hơn là trừng trị tội phạm
+ khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào hành vi phạm tội chứ không được căn cứ vào chủ thể phạm tội
+ thẩm phán là người áp dụng PL chứ không phải là người ban hành PL (rất phù hợp với
quan điểm của hệ thống Civil Law, nhưng lại trái với quan điểm của Common law)
+ khi quyết định hình phạt phải dựa trên “niềm vui thích” và “sự đau khổ”: khi 1 người
thực hiện hành vi phạm tội vui thích như thế nào, thì khi họ phải chịu hình phạt họ sẽ phải
chịu đau khổ tương ứng như vậy
==> đến tận ngày nay tư tưởng của Cesare Beccaria vẫn được nhiều quốc gia tuân theo để
xây dựng hệ thống tư pháp dân chủ và hiệu quả
b. Jeremy Bentham
– Theo Jeremy Bentham thì nguyên nhân của tội phạm cũng là do tự do ý chí và suy nghĩ
lý trí. Tên tuổi của ông gắn liền với “thuyết vị lợi” (thuyết thực dụng): trước khi thực
hiện hành vi phạm tội, con người bao giờ cũng cân nhắc giữa cái được và cái mất, nếu
cái được nhiều hơn cái mất thì họ sẽ thực hiện hành vi, ngược lại nếu cái được ít hơn cái
mất thì họ sẽ không thực hiện hành vi ==> do đó hình phạt phải tương ứng với hành vi
phạm tội và đây là biện pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả
– Jeremy Bentham đề ra 3 giải pháp phòng ngừa tội phạm:
+ cải cách lại hệ thống nhà tù: xây dựng nhà thù theo kiến trúc “hình xoáy ốc”, theo đó
người quản tù đứng ở vị trí trung tâm của “xoáy ốc” để quan sát mọi hành vi của tù nhân
(bị coi là vi phạm nhân quyền vì ngay cả tù nhân cũng vẫn còn 1 số quyền con người)
+ xăm trổ lên người phạm tội: để ngăn ngừa nguy cơ người phạm tội tái phạm (tuy nhiên
lại bị coi là vi phạm nhân quyền)
+ xây dựng đội cảnh sát tuần tra: biện pháp này được sử dụng rộng rãi trên thế giới đến tận ngày nay
II. Trường phái tội phạm học thực chứng
– Thời gian tồn tại: chia làm 2 giai đoạn
+ 1880 – 1930: giai đoạn đầu lOMoAR cPSD| 61630929
+ 1930 – nay: thời kỳ hiện tại – Học giả tiêu biểu:
+ Cesare Lombroso: cha đẻ của tội phạm học thực chứng, với tác phẩm “Người phạm tội”
+ Enrico Ferri, Raffaele Garofalo, Buckman Goring, … 1. Nội dung chính
Từ nửa cuối thế kỷ 19, triết học không còn giữ vai trò độc tôn, nhiều ngành khoa
học mới xuất hiện, trong đó nổi lên là sự xuất hiện của chủ nghĩa thực chứng: muốn tìm
hiểu 1 sự vật, hiện tượng hoặc tìm ra quy luật cần phải sử dụng phương pháp khoa học. –
Theo chủ nghĩa thực chứng, con người không phải hoàn toàn được tự do lựa chọn
thực hiện hành vi phạm tội, nói cách khác có những nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của
họ dẫn đến hành vi phạm tội của họ. Nhiều nhà khoa học đã ứng dụng thành tựu của các
ngành khoa học khác để nghiên cứu về con người phạm tội, từ đó giải thích nguyên nhân
của tội phạm, như ứng dụng các thành tựu của sinh vật học, tâm lý học, xã hội học, … 2.
Nguyên nhân của tội phạm theo quan điểm của các nhà tội phạm học thực chứng

a. Các thuyết sinh học quyết định – Cesare Lombroso:
+ Là người đầu tiên kết hợp giữa chủ nghĩa thực chứng và nghiên cứu về sinh học của
Darwin về nguồn gốc loài người để giải thích nguyên nhân của tội phạm. Ông cho rằng
nguyên nhân của tội phạm là do các yếu tố sinh học quyết định. Năm 1876, ông xuất bản
cuốn sách “Người phạm tội”, trong đó đưa ra khái niệm “người phạm tội bẩm sinh” hay
người mắc bệnh “lại giống”.
+ Cesare Lombroso đã thay thế quan niệm của tội phạm học cổ điển (cho rằng tự do ý chí,
sự lựa chọn của cá nhân là nguyên nhân của tội phạm) bằng quan điểm cho rằng nguồn gốc
phát sinh tội phạm bắt nguồn từ nguyên nhân loại cơ thể. Theo đó ông đã phát triển tội
phạm học theo hướng mới, giải thích nguyên nhân của tội phạm thông qua nghiên cứu và
thí nghiệm, đó chính là trường tội phạm học thực chứng. Cụ thể ông đã sử dụng rộng rãi
các biện pháp và phương pháp thống kê trong việc xử lý các dữ liệu về nhân chủng học, xã hội, kinh tế.
+ Bằng cách nghiên cứu hộp sọ, diện mạo khuôn mặt, hình dáng của những người tù (còn
sống hoặc đã chết), Cesare Lombroso cho rằng có thể đoán biết họ có phải là người phạm
tội bẩm sinh hay không, tức là có đồng thời 5 đặc điểm (cả nam và nữ): lOMoAR cPSD| 61630929 •
Miệng rộng, hàm răng khỏe, trán dốc, ngắn (là những đặc điểm của loài ăn thịt sống) •
Xương gò má nhô cao, mũi bẹt •
Tai hình dáng quai xách (tai vểnh) •
Mũi diều hâu, môi to dày, mắt gian xảo, lông mày rậm •
Không nhạy cảm với đau đớn, cánh tay dài hơn cẳng chân (giống loài khỉ)
+ Cesare Lombroso cho rằng người phạm tội có đặc điểm giống với tổ tiên của loài người
hơn là công dân bình thường, đó là những dấu hiệu của bệnh “lại giống”, tức là quay trở
lại với giống nòi của mình (loài khỉ, vượn người), có những đặc điểm nổi bật của loài người
ở giai đoạn phát triển thấp, trước khi họ trở thành người.
+ Để phòng ngừa tội phạm, Cesare Lombroso cho rằng cần biệt lập những người phạm tội
bẩm sinh khỏi xã hội mà không cần chờ đến lúc họ phạm tội. Tuy nhiên ông ủng hộ quan
điểm cần đối xử nhân đạo với người phạm tội và phản đối việc áp dụng án tử hình đối với người phạm tội. ——————– Ngày 23/04/2017 Giảng viên: cô … (tiếp bài trước)
Ernst Kretschmer, William Sheldon: đưa ra trường phái “kiểu cơ thể”, theo đó kiểu
“to, khỏe, lực lưỡng” có nguy cơ phạm tội cao hơn so với 2 kiểu “gày gò, ốm yếu, vai hẹp”
và “cao trung bình, mũm mĩm, cổ to, mặt rộng” –
Richard Louis Dugdale, Henry Goddard: đưa ra Thuyết phạm tội do thừa kế, theo
đó người phạm tội là do kế thừa “gen xấu” từ thế hệ trước. Cơ sở là sự nghiên cứu của 1
số dòng họ có tỷ lệ người phạm tội nhiều hơn so với các dòng học khác.
+ thuyết “phạm tội do thừa kế” dẫn tới sự hình thành và phát triển của phong trào “ưu
sinh”, là phong trào sinh sản có điều khiển để cải tạo chất lượng nòi giống. Theo đó để
phòng ngừa tội phạm thì phải không để cho gen xấu từ thế hệ trước truyền sang thế hệ sau,
tức là “triệt sản” đối với người phạm tội. Phong trào ưu sinh phát triển và lan rộng khắp
nước Mỹ từ những năm 1920 đến trước thế chiến II. Sau đó phong trào này lan sang châu lOMoAR cPSD| 61630929
Âu, là đỉnh điểm là khi phát xít Đức lợi dụng triệt để để tàn sát người Do Thái và người tàn tật. –
Patricia Jacobs: đưa ra Thuyết nhiễm sắc thể, theo đó người phạm tội là do có kiểu
nhiễm sắc thể bất thường
a. Các thuyết tâm lý quyết định
– Gabriel Tarde: đưa ra Thuyết bắt chước, theo đó nguyên nhân của tội phạm là do 1 người
đã bắt chước hành vi phạm tội của người khác mà người đó có cơ hội quan sát. Có 3 loại bắt chước:
+ những người có địa vị ngang bằng nhau và có tần số tiếp xúc thường xuyên với nhau thì
có xu hướng bắt chước nhau (cá nhân bắt chước những người khác cân xứng với mức độ
và tần số tiếp xúc của họ). VD bạn bè thường có xu hướng bắt chước nhau
+ người ở tầng lớp dưới thường bắt chước người ở tầng lớp cao hơn. VD trẻ con bắt chước
người lớn, học sinh bắt chước thầy cô, người nông thôn bắt chước người thành thị
==> ngày nay vẫn còn giá trị: ở việc coi trọng giáo dục, coi trọng việc “làm gương” của cha mẹ, thầy cô
+ nếu có nhiều khuynh hướng, khuôn mẫu khác nhau thì con người sẽ chọn cái chiếm ưu thế hơn
==> ngày nay vẫn còn giá trị: tác động của phương tiện truyền thông, mạng xã hội, phim ảnh đến giới trẻ
– Sigmund Freud: thuyết phân tâm học, cho rằng tồn tại năng lực tình dục thúc đẩy hành
vi của con người. Năng lực tình dục đó được gọi là libido, trong libido có 2 lực lượng đối
chọi nhau là bản năng sống (eros-hướng tới hoạt động) và bản năng chết (thanatos-hướng
tới hoạt động tự hủy diệt). Ông đưa ra khái niệm bản năng, bản ngã, siêu bản ngã:
+ bản năng tượng trưng cho phần vô thức và chống đối xã hội của cá nhân
+ bản ngã tượng trưng cho cho phần ý thức và ý chí của cá nhân
+ siêu bản ngã biểu hiện cho phần giá trị văn hóa với chức năng như là lương tâm cá nhân
Theo Freud, hành vi tội phạm diễn ra khi ở 1 cá nhân, phần bản năng lấn át bản ngã trong
khi siêu bản ngã hoạt động kém hiệu quả lOMoAR cPSD| 61630929
b. Thuyết xã hội quyết định
Emile Durkkeim: thuyết rối loạn tổ chức xã hội, theo đó hành vi phạm tội không
phải do các yếu tố thuộc về cá nhân mà là do các yếu tố thuộc về môi trường, về xã hội, cụ
thể là do sự rối loạn, vô tổ chức của xã hội, do sự phân công lao động xã hội không hợp lý.
Quan điểm của Emile Durkkeim:
+ tội phạm là tồn tại tất yếu của xã hội: tức là tội phạm không thể biến mất, chỉ có thể hạn
chế, đẩy lùi tội phạm; nếu tội phạm biến mất thì xã hội cũng tiêu vong
+ tội phạm là thước đo cho sự phát triển của xã hội: VD trước đây chưa hề có khái niệm về
“tội phạm công nghệ cao”, chỉ đến khi khoa học phát triển thì mới xuất hiện loại tội phạm
này. Chính về vậy quan sát tội phạm có thể đánh giá được mức độ phát triển của xã hội đó. –
Edwin Sutherland: đưa ra thuyết học lại từ xã hội, theo đó hành vi phạm tội là do sự
“học lại” hành vi của một nhóm xã hội (khác với thuyết bắt chước là sự “học hỏi” từ 1 cá nhân khác)
Vấn đề 3: Tình hình tội phạm I. Khái niệm
– Các khái niệm: Tình hình tội phạm, tình trạng phạm tội có nghĩa tương tự nhau, nhưng
khái niệm Tình hình tội phạm được sử dụng nhiều hơn.
“Tình trạng” thường mang nghĩa tiêu cực.
– Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tình hình tội phạm:
+ Tình hình tội phạm là toàn bộ thực trạng và diễn biến của tội phạm đã xảy ra trong 1
phạm vi không gian và thời gian xác định (Giáo trình Đại học Luật Hà Nội)
+ Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của (các) tội phạm (hoặc nhóm tội
phạm, hoặc 1 loại tội phạm) đã xảy ra trong 1 đơn vị thông gian và đơn vị thời gian nhất
định (GS TS Nguyễn Ngọc Hòa)
+ Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, trái PL hình sự, mang tính giai cấp,
thay đổi theo quá trình lịch sử và được thực hiện trong phạm vi không gian và thời gian nhất định – Đặc điểm: lOMoAR cPSD| 61630929
+ dù theo quan điểm nào thì tình hình tội phạm đều có đặc điểm chung là xác định theo
không gian và thời gian xác định, tức là đánh giá về tình hình tội phạm phải dựa trên các
dữ liệu trong phạm vi và thời điểm nhất định
+ đối tượng của tình hình tội phạm luôn là tội phạm, VD tội trộm cắp, tội tham nhũng, tội phạm ma túy, …
Chú ý: Quan niệm thứ 3 (nêu trên) hiện tại đã không còn được sử dụng, vì quan điểm
này gây ra sự nhầm lẫn giữa khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm. Cụ thể, nếu nói
tình hình tội phạm có tính trái PL hình sự là không chính xác, vì trong Bộ luật hình sự
không hề có khái niệm “tình hình tội phạm” (mà chỉ có các tội phạm); mặc dù tình hình
tội phạm là tổng hợp của các tội phạm, nhưng nó không phải là phép cộng đơn thuần.
Hơn nữa việc coi “tình hình tội phạm mang tính giai cấp” là quan điểm đồng nhất tình
hình tội phạm với tội phạm, vì chỉ có tội phạm mới có tính giai cấp (tức là tội phạm ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau sẽ có sự khác nhau, VD ở thời kỳ bao cấp có tội “Làm
giả tem phiếu”, nhưng khi hết bao cấp thì tội này không còn nữa)
II. Các thông số cơ bản của tình hình tội phạm – Gồm các thông số:
+ các thông số về lượng, gồm: • thực trạng • diễn biến
+ các thông số về chất, gồm: • cơ cấu • tính chất ——————– Ngày 07/05/2017 Giảng viên: cô … (tiếp bài trước)
1. Thực trạng của tội phạm – Gồm 2 phần: lOMoAR cPSD| 61630929
+ thực trạng về mức độ của tội phạm
+ thực trạng về tính chất của tội phạm
1.1. Thực trạng về mức độ của tội phạm
Là toàn bộ số vụ phạm tội và số người phạm tội đã xảy ra xác định trong 1 khoảng thời gian và không gian. –
Để làm sáng tỏ thực trạng về mức độ của tội phạm, thông thường cần làm rõ 4 nội dungsau: + tội phạm rõ + tội phạm ẩn
+ hệ số tội phạm (hay Chỉ số tội phạm) +
thông số về nạn nhân của tội phạm
a. Tội phạm rõ
– Là toàn bộ số vụ và số người phạm tội đã xảy ra, đã bị phát hiện và xử lý hình sự. Số liệu
thống kê về tội phạm rõ ở VN thường lấy từ 2 nguồn sau:
+ số liệu thống kê của cơ quan công an, cơ quan điều tra, viện kiểm sát +
số liệu thống kê của tòa án
b. Tội phạm ẩn
Khái niệm: Là toàn bộ những tội phạm đã xảy ra, chưa bị phát hiện, hoặc chưa bị xử lý
về hình sự, và vì vậy không có số liệu thống kê.
Tội phạm ẩn trong tình hình tội phạm được ví như phần chìm của tảng băng. Thông thường,
số lượng tội phạm ẩn gấp từ 6-8 lần số lượng tội phạm rõ.
Nguyên nhân của tội phạm ẩn: có thể chia làm 4 nhóm:
+ nguyên nhân từ phía người phạm tội: người phạm tội thực hiện tội phạm bằng những thủ
đoạn mới tinh vi, xảo quyệt để che dấu tội phạm. VD tội phạm công nghệ cao
+ nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội phạm: nạn nhân không khai báo do thiếu hiểu biết,
do mặc cảm tâm lý (như tội hiếp dâm), do sợ bị trả thù (bị thủ phạm đe dọa), do không tin
tưởng cơ quan chức năng có thể xử lý vụ việc (thủ phạm là người có chức quyền) lOMoAR cPSD| 61630929
+ nguyên nhân từ phía người làm chứng: người chứng kiến không khai báo, tố giác tội
phạm. Nguyên nhân do nhận thức chưa đúng đắn, ngại phiền hà, hoặc bị đe dọa
+ nguyên nhân từ phía các cơ quan bảo vệ PL: do nhận hối lộ, ý muốn che dấu tội phạm
trên địa bàn mình quản lý, hoặc do tâm lý “ngại cấp trên”, VD như xe ô tô của cấp trên gây
tai nạn; hoặc vì lý do “nhạy cảm” có sự thay đổi tội danh này bằng tội danh khác, thường
thấy ở các tội chống phá chế độ bị thay đổi thành các tội khác như trốn thuế, mục đích để
tránh cho nước ngoài đánh giá về nhân quyền
Chú ý: Trên thực tế, có nhiều trường hợp tội phạm đã xảy ra, đã bị phát hiện và xử lý hình
sự, nhưng không có trong thống kê hình sự. Những trường hợp này được coi là tội phạm
rõ, do các nguyên nhân sau:
+ bệnh thành tích: VD địa phương mà để xảy ra tội phạm nhiều sẽ bị coi là không đảm bảo
an ninh, kém thu hút đầu tư
+ do nguyên tắc thống kê: nguyên tắc thống kê là chỉ thống kê tội danh được áp dụng hình
phạt cao nhất. VD phạm nhân A bị kết tội hiếp dâm, cướp tài sản, và giết người, nhưng chỉ
thống kê 1 tội danh giết người
+ do thống kê nhầm, thống kê sai (do trình độ cán bộ thống kê hạn chế): VD tội phạm diễn
ra vào năm 2010, nhưng đến 2013 với phát hiện ra, và đến năm 2015 với xét xử
Phương pháp xác định tội phạm ẩn: có nhiều phương pháp, trong đó thường sử dụng 2 phương pháp:
+ phương pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật: cam kết giữ bí mật danh tính người
tham gia tự tường thuật, để họ tiết lộ thông tin về tội phạm
+ phương pháp điều tra về nạn nhân của tội phạm: cam kết giữ bí mật danh tính nạn nhân
để họ tiết lộ thông tin về tội phạm
Chú ý: cả 2 phương pháp này đều có tính chính xác tương đối
– Phân loại tội phạm ẩn: căn cứ vào nguyên nhân của tội phạm ẩn, có 2 loại:
+ tội phạm ẩn khách quan: do các nguyên nhân khác không phải do các cơ quan bảo vệ PL
+ tội phạm ẩn chủ quan: do cơ quan bảo vệ PL lOMoAR cPSD| 61630929
c. Hệ số tội phạm (Chỉ số tội phạm)
Là chỉ số được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến của tội phạm trong 1 địa bàn
dân cư và trong 1 khoảng thời gian nhất định. –
Hệ số tội phạm được tính theo tỷ lệ số vụ phạm tội trên 100.000 dân (hoặc 10.000
dân):Hệ số tội phạm = [Số vụ phạm tội] x 100.000 / [Số dân]
d. Thông số về nạn nhân của tội phạm
– Nghiên cứu thông số này thường xác định 1 số nội dung sau:
+ số lượng nạn nhân của tội phạm
+ tình huống trở thành nạn nhân của tội phạm
+ đặc điểm nhân thân của nạn nhân của tội phạm: như giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn,
hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh kinh tế, … của nạn nhân
+ mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội + …
1.2. Thực trạng về tính chất của tội phạm
– Tính chất của tội phạm là những đặc điểm đặc trưng, nổi bật nhất của tình hình tội phạm
đó. Tính chất của tội phạm có thể rút ra được trên cơ sở nghiên cứu ơ cấu của tội phạm.
Cơ cấu của tội phạm là tỷ trọng, mối tương quan giữa các nhóm, loại tội phạm trong tổng
thể tội phạm chung, thống nhất
– Công thức xác định cơ cấu của tội phạm:
Ycc = [Mbp / Mtt] x 100% Trong đó:
Mbp: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng nhóm, loại tội phạm
Mtt: tổng số vụ hoặc tổng số người phạm tội
– Cơ cấu của tội phạm có thể được xác định theo nhiều tiêu chí:
+ theo khách thể của tội phạm: khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp lOMoAR cPSD| 61630929
+ theo phân loại tội phạm: tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng + theo tội danh
+ theo hình thức lỗi: cố ý, vô ý
+ theo hình thức phạm tội
+ theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội + …
2. Diễn biến của tội phạm
Diễn biến của tội phạm là xu hướng tăng / giảm hoặc ổn định tương đối của tội
phạm đó. Diễn biến của tội phạm là sự thay đổi về thực trạng của tội phạm, vì vậy diễn
biến của tội phạm cũng gồm 2 phần:
+ diễn biến về mức độ của tội phạm
+ diễn biến về tính chất của tội phạm –
Công thức xác định diễn biến của tội phạm theo phương pháp số tương đối động thái định gốc: Ydb = [Mi / Mo] x 100% Trong đó:
Mi: số vụ hoặc số người phạm tội trong từng năm xác định (động thái, tức là để so sánh số
liệu giữa các năm với nhau)
Mo: số vụ hoặc số người phạm tội trong năm gốc (định gốc, tức là so sánh với 1 năm “gốc”) –
Diễn biến của tội phạm có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố. Thông thường là 2 yếu
tố: xã hội và pháp luật, đặc biệt là sự thay đổi của PL hình sự ——————– Ngày 14/05/2017 lOMoAR cPSD| 61630929 Giảng viên: cô … Bài tập
1. Dữ liệu về số người phạm tội trên địa bàn tỉnh X giai đoạn 2012 -2016 như sau:
Năm Số người phạm tội 2012 90 2013 70 2014 120 2015 200 2016 150
Vẽ biểu đồ mô tả xu hướng vận động, nêu nhận xét.
2. Dữ liệu về số vụ phạm tội cướp tài sản theo địa điểm phạm tội trên địa bàn tỉnh A
giai đoạn 2012 – 2016 như sau: STT Địa điểm Số vụ phạm tội 1 Tại nhà riêng 90 2 Tại bến xe, nhà ga 120 3 Tại nơi hoang vắng 30 4 Tại địa điểm khác 60
Vẽ biểu đồ và nhận xét.
3. Năm 2016 địa phương A xảy ra 500 vụ phạm tội, dân số địa phương A là 1 triệu; địa
phương B xảy ra 700 vụ phạm tội, dân số địa phương B là 1.8 triệu. Căn cứ vào số lOMoAR cPSD| 61630929
liệu trên, hãy so sánh tình hình tội phạm của A và B. Bài làm (Phan Việt Hà làm) Bài 1:
Áp dụng phương pháp số tương đối động thái định gốc: Bước 1: Công thức Ydb = [Mi / Mo] x 100% Trong đó:
Mi: số người phạm tội trong từng năm
Mo: số người phạm tội trong năm gốc (năm 2012)
Bước 2: Tính số liệu thống kê Y[2012] = 90 = 100%
Y[2013] = (70/90) x 100% = 78%
Y[2014] = (120/90) x 100% = 133%
Y[2015] = (200/90) x 100% = 222%
Y[2016] = (150/90) x 100% = 167%
Bước 3: Lập bảng thống kê Năm Số vụ
Tỷ lệ % <+,-> so với năm gốc 2012 90 100% 2013 70 78% < -22% > 2014 120 133% < +33%> 2015 200 222% < +122% > lOMoAR cPSD| 61630929 2016 150 167% < +67%> Bước 4: Vẽ biểu đồ Bước 5: Nhận xét
Nhìn vào biểu đồ trên cho thấy số người phạm tội trên địa bàn tỉnh X giai đoạn 20122016
có xu hướng gia tăng. Trong đó tăng đột biến vào năm 2015 với tỷ lệ 222%, tăng 122% so
với năm 2012. Đặc biệt năm 2013 lại giảm tương đối nhiều, giảm 22% so với năm 2012.
Do vậy ta phải tìm hiểu tại sao lại có sự gia tăng đột biến như vậy, đồng thời cũng tìm hiểu
nguyên nhân tại sao năm 2012 số người phạm tội lại giảm, để qua đó đề ra các biện pháp
hạn chế và phòng ngừa tội phạm. Bài 2:
Sử dụng phương pháp số tương đối để xác định cơ cấu tội phạm:
Bước 1: Công thức: Ycc = [Mbp / Mtt] x 100% Trong đó: lOMoAR cPSD| 61630929
Mbp: số vụ phạm tội cướp tài sản theo từng địa điểm
Mtt: tổng số vụ phạm tội cướp tài sản
Bước 2: Tính số liệu thống kê
Y[tổng thể] = 90 + 120 + 30 + 60 = 300 = 100%
Y[nhà riêng] = (90/300) x 100% = 30%
Y[bến xe] = (120/300) x 100% = 40%
Y[chỗ vắng] = (30/300) x 100% = 10%
Y[khác] = (60/300) x 100% = 20%
Bước 3: Lập bảng thống kê
Địa điểm phạm tội cướp tài sản Số vụ phạm tội Tỷ lệ % Tại nhà riêng 90 30% Tại bến xe, nhà ga 120 40% Tại nơi hoang vắng 30 10% Tại địa điểm khác 60 20% Bước 4: Vẽ biểu đồ lOMoAR cPSD| 61630929 Bước 5: Nhận xét
Qua biểu đồ trên cho thấy bến xe, nhà ga là địa điểm xảy ra nhiều vụ phạm tội cướp tài sản
nhất, chiếm 40% tổng số vụ cướp tài sản; tiếp theo là tại nhà riêng của người dân với 30%
tổng số vụ cướp tài sản; tại địa điểm hoang vắng số vụ cướp tài sản là 10%, và 20% số vụ
cướp tài sản diễn ra tại các địa điểm khác.
Từ đó rút ra để hạn chế và phòng ngừa tội phạm, các cơ quan chức năng cần tăng cường
đảm bảo an ninh tại bến xe, nhà ga, đây là các địa điểm tập trung đông người và phương
tiện đi lại của dân cư các địa phương, thành phần rất phức tạp. Ngoài ra cần tăng cường
tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về nguy cơ trộm cướp tại nhà người
dân, khuyến khích các tổ dân phố tập huấn nâng cao cảnh giác, phòng ngừa tội phạm. Bài 3:
Sử dụng số tương đối để xác định hệ số tội phạm (chỉ số tội phạm).
Để so sánh tình hình tội phạm của địa phương A và địa phương B, ta sẽ xác định hệ số tội
phạm của A và B trong 100.000 dân: lOMoAR cPSD| 61630929
+ Hệ số tội phạm của địa phương A năm 2016:
Y[địa phương A] = ([500 vụ] x [100.000 dân])/[1.000.000 là số dân của A] = 50 (vụ / 100.000 dân)
+ Hệ số tội phạm của địa phương B năm 2016:
Y[địa phương B] = ([700 vụ] x [100.000 dân])/[1.800.000 là số dân của A] = 39 (vụ / 100.000 dân)
Qua tính toán trên ta thấy trong năm hệ số tội phạm của địa phương A là 50 vụ trên 100.000
dân, trong khi hệ số tội phạm của địa phương B là 39 vụ trên 100.000 dân.
Kết luận: trong năm 2016, địa phương A có tình hình tội phạm phức tạp hơn so với địa phương B
Vấn đề 4: Nguyên nhân của tội phạm I. Khái niệm
– Là tổng hợp các nhân tố mà trong sự tác động qua lại giữa chúng dẫn tới việc thực hiện
hành vi phạm tội của người phạm tội.
Chú ý: khác với chương II khi nghiên cứu các học thuyết về nguyên nhân của tội phạm là
do các nhân tố đơn lẻ, còn ở chương IV coi nguyên nhân của tội phạm là tổng hợp của tất cả các nhân tố – Các nhân tố gồm:
+ thuộc về cá nhân người phạm tội
+ thuộc về môi trường, xã hội + tình huống cụ thể
– Nhân tố môi trường, xã hội:
+ môi trường xã hội vĩ mô: là môi trường lớn, không trực tiếp ảnh hưởng đến sự hình thành
nhân cách của cá nhân, như đường lối chính sách, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, tuyên truyền phổ biến PL