



Preview text:
  lOMoAR cPSD| 59114765
1. Khái niệm pháp luật cạnh tranh 
Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh 
giữa các chủ thể kinh doanh trên thương trường đồng thời bao gồm cả các quy định 
đảm bảo thực thi luật cạnh tranh trong thực tế. Đó là các quy định về; Tổ chức và hoạt 
động của cơ quan nhà nước thi hành luật cạnh tranh; trình tự thủ tục xử lí vụ việc 
cạnh tranh; các biện pháp xử lí vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Ở các nước có nền 
kinh tế thị trường phát triển và có hệ thống pháp luật phát triển như Anh, Pháp, Mỹ 
nguồn của pháp luật cạnh tranh còn bao gồm cả thực tiễn xét xử của toà án, của các 
cơ quan cạnh tranh và các báo cáo, luận chứng trong quá trình xây dựng pháp luật, 
các lí thuyết trong lĩnh vực cạnh tranh được công nhận rộng rãi. 
Xét về nội dung điều chỉnh, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh những quan hệ sau: - 
Quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh trên  thị trường. 
Đây là nhóm quan hệ chủ yếu được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh. Ở nhóm 
qúan hệ này, pháp luật cạnh tranh sẽ can thiệp và định hướng công khai đối với các 
hành vi cạnh tranh của các chủ thể, buộc các chủ thể phải lựa chọn cách xử sự hợp 
lí nhất tuân theo trật tự mà pháp luật mong muốn. Để điều chỉnh nhóm quan hệ này, 
pháp luật cạnh tranh ở nhiều quốc gia trên thế giới thường được chia thành hai lĩnh 
vực khác biệt: Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật kiểm soát 
hành vi hạn chế cạnh tranh để điều chỉnh hai nhóm hành vi là hành vi cạnh tranh 
không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Sở dĩ có sự phân biệt như vậy là do 
hai nhóm hành vi cạnh tranh này có sự khác nhau về tính chất, về tác hại tiêu cực của 
chúng đối với môi trường cạnh tranh nên sự điều chỉnh của pháp luật đối với hai nhóm 
này cũng không thể giống nhau.  Phân biệt: 
Để trốn tránh áp lực do cạnh tranh đem lại, các doanh nghiệp có thể thực hiện các 
hành vi làm giảm sức ép cạnh tranh và dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh như thoả thuận, 
câu kết giữa các đối thủ kinh doanh, mua bán sáp nhập giữa các doanh nghiệp để tạo 
vị thế thống lĩnh thị trường hoặc các doanh nghiệp hiện đã có vị trí thống lĩnh trên thị 
trường lạm dụng sức mạnh để duy trì vị trí của mình. Các hành vi hạn chế cạnh tranh 
có thể gây hậu quả làm sai lệch cấu trúc thị trường, làm thiệt hại cho sự phát triển 
toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia. Bởi vậy, các hành vi hạn chế cạnh tranh phải bị 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị điều tra và bị xử lí bằng chế tài nghiêm 
khắc. Với mục đích kiểm soát những hành vi có thể làm giảm sức ép cạnh tranh, cản      lOMoAR cPSD| 59114765
trở cạnh tranh và để bảo vệ cơ cấu, tương quan cạnh tranh trên thị trường, pháp luật 
kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh. 
Quy định các hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm, những 
trường hợp được hưởng miễn trừ, thủ tục hưởng miễn trừ. 
(giới hạn thị trường thuộc nhóm hành vi bị cấm) 
Bên cạnh hành vi có hậu quả đẩy lùi cạnh tranh, dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh thì trong 
quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể thực hiện các hành vi nhằm mục đích 
cạnh tranh nhưng đi ngược lại với quy tắc xử sự chung được thừa nhận trong kinh 
doanh, trái với thông lệ thiện chí, trung thực trong kinh doanh gây thiệt hại cho đổi thủ 
cạnh tranh và người tiêu dùng. Nhóm quy định pháp luật điều chỉnh hành vi nhằm đẩy 
cạnh tranh lên quá mức vượt khỏi các giới hạn có thể chấp nhận được của thị trường 
và của xã hội được gọi là pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mục 
đích của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là cấm không cho phép chủ 
thể kinh doanh thực hiện các hành vi đi ngược với đạo đức tập quán kinh doanh tốt 
đẹp, gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng vì mục tiêu cạnh tranh. 
Cạnh tranh không lành mạnh chỉ bị chống hay bị trừng trị khi đối thủ cạnh tranh bị xâm 
phạm lợi ích tự khiếu nại nhờ sự can thiệp của pháp luật. Do đó ở nhiều nước, hành 
vi cạnh tranh không lành mạnh bị xử lí bằng phương pháp dân sự và chế tài dân sự 
(Pháp luật của một số nước như Ấn Độ, Malaysia, Indonesia điều chinh những hành 
vi cạnh tranh của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí trung thực làm ảnh hường 
tới lợi ích cùa người tiêu dùng trong Luật bảo vệ người tiêu dùng còn Luật cạnh ưanh 
của họ chi điều chinh những hành vi hạn chế cạnh tranh. Ở một số nước khác như 
Pháp, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh 
tranh có thể được điều chinh trong Bộ luật dân sự hay Luật thương mại). 
- Quan hệ giữa cơ quan thi hành luật cạnh tranh với các chủ thể kinh doanh khi họ 
thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 
Để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, trong điều .kiện nhà nước quản lí nền 
kinh tế, cơ quan quản lí nhà nước phải thực hiện chức năng điều tiết, kiểm soát các 
quan hệ cạnh tranh trên thị trường. Để điều chỉnh nhóm quan hệ này, pháp luật cạnh 
tranh quy định rõ về khuôn khổ, nguyên tắc, cơ chế áp dụng và thực thi pháp luật, các 
biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, hiệu lực của các 
quyết định xử lí vi phạm, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong 
việc giám sát, kiểm soát và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh.      lOMoAR cPSD| 59114765
Làm thế nào để hạn chế cạnh tranh trong kinh doanh (phân chia thị 
trường thuộc nhóm này nên tớ lấy cả để bạn dẫn ra) 
Luật cạnh tranh cũng đã có những quy định về thảo thuận hạn chế cạnh tranh trong  kinh doanh như sau: 
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành 
vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động  hạn chế cạnh tranh. 
Theo quy định tại Điều 11 Luật cạnh tranh 2018, các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh  bao gồm: 
Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. 
Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung 
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. 
Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng  hóa, cung ứng dịch vụ. 
Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu 
thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. 
Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường 
hoặc phát triển kinh doanh. 
Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham  gia thỏa thuận. 
Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư. 
Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung 
ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp 
nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. 
Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận. 
Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung 
ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận. 
Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh. 
Mục tiêu ban hành luật cạnh tranh 
Luật cạnh tranh ra đời là để bảo vệ quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 
Tuy nhiên, mục tiêu cụ thể của mỗi quốc gia được thể hiện khác nhau khi ban hành 
luật cạnh tranh của mình. Điều 1 Luật thương mại lành mạnh của Hàn Quốc xác định 
mục tiêu của Luật là: nhằm khuyến khích cạnh tranh kinh tế tự do và lành mạnh bằng 
việc cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh và tập trung sức mạnh kinh tế quá mức luật pháp 
cho phép và bàng việc điều chỉnh hành vi thông đồng không chính đáng và các hành 
vi thương mại không lành mạnh, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh sáng tạo, bảo 
vệ người tiêu dùng, đẩy mạnh sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Điều 1 
Luật cạnh tranh Thổ Nhĩ Kỳ quy định: Mục tiêu của luật là bảo vệ cạnh tranh bằng các 
biện pháp điều chỉnh, giám sát cần thiết, ngăn ngừa việc lạm dụng vị trí thống lĩnh của      lOMoAR cPSD| 59114765
các doanh nghiệp chiếm ưu thế trên thị trường, ngăn ngừa các thoả thuận, các quyết 
định và các hành vi gây hạn chế, kìm hãm hoặc bóp méo cạnh tranh trên thị trường  hàng hoá và dịch vụ. 
Có thể thấy, mỗi quốc gia khác nhau sẽ có những mục tiêu khác nhau khi ban hành 
luật cạnh tranh nhưng nhìn chung luật cạnh tranh của các nước nói chung và của Việt 
Nam nói riêng đều nhằm thực hiện những mục tiêu sau: 
- Bảo vệ cấu trúc của thị trường, duy trì tính cạnh tranh trên thị trường. 
Trong một nền kinh tế luôn tồn tại những doanh nghiệp có quy mô lớn nhỏ khác nhau, 
các doanh nghiệp lớn luôn có xu hướng hạn chế cạnh tranh của đối thủ khác để nắm 
giữ vị trí thống lĩnh hoặc vị thế độc quyền. Độc quyền sẽ phá vỡ cấu trúc của thị 
trường, bóp méo quy luật cung cầu, làm biến dạng các quan hệ thương mại. Để ổn 
định nền kinh tế, bảo vệ quy luật cạnh tranh trên thị trường, nhà nước ban hành luật 
cạnh tranh để kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp nắm vị trí thống lĩnh hoặc 
vị trí độc quyền và các thoả thuận nhàm hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. 
- Bảo vệ các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường để chúng cạnh 
tranhlành mạnh, tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng. 
Pháp luật cạnh tranh có mục tiêu bảo vệ cấu trúc thị trường, hạn chế quyền lực thị 
trường từ đó bảo vệ các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường đặc biệt là 
ủng hộ các doanh nghiệp nhỏ, bảo vệ họ trước các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, các 
quy phạm của pháp luật cạnh tranh còn có mục tiêu bảo vệ tự doanh kinh doanh, tạo 
lập và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng, loại trừ việc tạo ra các doanh nghiệp 
có sức mạnh thị trường một cách thái quá đồng thời cũng chống lại các hành vi cạnh 
tranh không lành mạnh. - Bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và xã hội. 
Nhà nước điều tiết cạnh tranh nhằm mục đích tạo lập môi trường cạnh tranh bình 
đẳng, lành mạnh mà người hưởng lợi của cạnh tranh lành mạnh chính là người tiêu 
dùng, bởi càng có nhiều doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường thì người 
tiêu dùng càng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hoá với chất lượng tốt hơn và giá cả rẻ  hơn.