lOMoARcPSD| 53331727
1. Khái niệm và kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
a. Khái niệm: là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trung cho xã hội đó, phù hợp với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tần tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đặc
trưng ấy.
b. Kết cấu xã hội: gồm trong ba yếu tố
- Lực lượng sản xuất: nền tảng vật chất xã hội, tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau,
yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội.
- Quan hệ sản xuất: quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối
và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn
quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội
khác nhau.
- Kiến trúc thượng tầng: sự thể hiện các mối quan hệ giữa
người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ
mặt tinh thần của đời sống xã hội.
c. Đây là sự trừu tượng hoá, khái quát hoá những mặt, những yếu tố
chung nhất, phổ biến nhất của mọi xã hội ở bất kỳ giai đoạn lịch
sử nào. Sau khi trừu tượng hoá từng mặt, từng yếu tốn cơ bản
của lịch sử xã hội, phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đem lại sự
nhận thức tổng hợp và sâu sắc về xã hội loài người từng giai
đoạn lịch sử nhất định.
2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người.
Ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tác động biện chứng, tạo nên sự vận động, phát triển của
lịch sử xã hội, thông qua sự tác động tổng hợp của hai quy luậtcơ bản
là quy luật quan hệ sảnxuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của xã hội.
Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo ra khả năng, điều
kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản
xuất. Sự phù hợp biện chứnggiữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là yêu cầukhách quan của nền sản xuất
hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xóa bỏ quan
hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát triển về
lOMoARcPSD| 53331727
chất của quan hệ sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơsở
hạ tầng xã hội. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự
biến đổi,phát triển căn bản (nhanh hay chậm, ít hoặc nhiều) của kiến
trúc thượng tầng xã hội.
- Hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế - xã hội
mới, tiến bộ hơn rađời. Cứ như vậy lịch sử xã hội loài người là
một tiến trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao:
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ (công xã nguyên
thủy)
- Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ (giai cấp chủ nô mang
sứ mệnh lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ) gồm
chủ nô và nông nô.
- Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm
địa chủ và nông dân
- Hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa (giai cấp tư sản) gồm
tri thức, tiểu tư sản
- Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân)
Trong đó, có sự thống nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến với
quy luật đặcthù và quy luật riêng của lịch sử, chính vì vậy, C. Mác
cho rằng: “Tôi coi sự pháttriển của những hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên”
Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất
giữa lôgích và lịch sử.
Sự thống nhất giữa lôgích và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự
nhiên của xã hộiloài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với
lịch sử phát triển toàn thế giớivà sự phát triểnbỏ qua” một hay vài
hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốcgia, dân tộc cụ thể.
Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất
logic và lịch sự. Logic của toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự
kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là
con đường tất yếu của tiến bộ lịch sử.
Sự thống nhất giữa logic và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự nhiên
của xã hội loài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với lịch
sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một hay vài
hình thức kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
Theo V.I. Lênin: Tính quy luật chung của sự phát triển lịch sự thế
giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm
3. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng.
lOMoARcPSD| 53331727
Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã
hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã đưa lại cho khoa
học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học.
Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho
nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con
người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất
phát từ phương thức sản xuất.
Học thuyết đó cũng chỉ ra: xã hội không phải là sự kết hợp một cách
ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh
động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ
xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân
tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn
nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì
mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ
sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách
đúng đắn, khoa học.
Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế –
hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn
nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật
vận động phát triển của xã hội. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể
sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được
kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp
các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên
cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản
xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu
những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”1.
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế – hội của Mác ra đời cho đến
nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt,
nhưng học thuyết đó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận
thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên, học thuyết
đó không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn
vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử.
lOMoARcPSD| 53331727
Gần đây, có những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái
kinh tế – xã hội và cho rằng phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh.
Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn
minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp
(hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây là phân chia
dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và
công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học
thuyết hình thái kinh tế – xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa
các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của
xã hội từ thấp đến cao.
Ý nghĩa của hình thái kinh tế – xã hội
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết
một cách khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học
thuyết hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong
của sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội thông qua hệ thống
các quy luật khách quan của xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế –
hội đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử.
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế –
hội nhất định lại có tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện
lịch sử xã hội khác nhau. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế –
hội vào nước ta có lúc đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như
sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, nhưng
chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành phần kinh tế tư
nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp v.v…
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới
và từ đó đến nay đường lối đổi mới đó đã từng bước đi vào hiện thực
và đạt được nhiều kết quả to lớn nhất định.
+ Xây dựng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên xây dựng và phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, nhưng có sự quản lý của nhà nước và kinh tế
quốc doanh luôn giữ vai trò chủ đạo.
+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân làm chủ, bảo
vệ quyền dân chủ của mọi thành viên trong xã hội. Cho nên nhà nước
là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoặc dân biết, dân bàn, dân
kiểm tra, v.v…
lOMoARcPSD| 53331727
+ Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và vận dụng những giá trị mới
của văn minh nhân loại. Tạo môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo
của mọi con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng
văn minh

Preview text:

lOMoAR cPSD| 53331727
1. Khái niệm và kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
a. Khái niệm: là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trung cho xã hội đó, phù hợp với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tần tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đặc trưng ấy.
b. Kết cấu xã hội: gồm trong ba yếu tố
- Lực lượng sản xuất: nền tảng vật chất xã hội, tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau,
yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội.
- Quan hệ sản xuất: quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối
và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn
quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau.
- Kiến trúc thượng tầng: sự thể hiện các mối quan hệ giữa
người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ
mặt tinh thần của đời sống xã hội.
c. Đây là sự trừu tượng hoá, khái quát hoá những mặt, những yếu tố
chung nhất, phổ biến nhất của mọi xã hội ở bất kỳ giai đoạn lịch
sử nào. Sau khi trừu tượng hoá từng mặt, từng yếu tốn cơ bản
của lịch sử xã hội, phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đem lại sự
nhận thức tổng hợp và sâu sắc về xã hội loài người từng giai
đoạn lịch sử nhất định.
2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người.
Ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tác động biện chứng, tạo nên sự vận động, phát triển của
lịch sử xã hội, thông qua sự tác động tổng hợp của hai quy luậtcơ bản
là quy luật quan hệ sảnxuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của xã hội.
Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo ra khả năng, điều
kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản
xuất. Sự phù hợp biện chứnggiữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là yêu cầukhách quan của nền sản xuất xã
hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xóa bỏ quan
hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát triển về lOMoAR cPSD| 53331727
chất của quan hệ sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơsở
hạ tầng xã hội. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự
biến đổi,phát triển căn bản (nhanh hay chậm, ít hoặc nhiều) của kiến
trúc thượng tầng xã hội.
- Hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế - xã hội
mới, tiến bộ hơn rađời. Cứ như vậy lịch sử xã hội loài người là
một tiến trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao:
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ (công xã nguyên thủy)
- Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ (giai cấp chủ nô mang
sứ mệnh lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ) gồm chủ nô và nông nô.
- Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm địa chủ và nông dân
- Hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa (giai cấp tư sản) gồm tri thức, tiểu tư sản
- Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân)
Trong đó, có sự thống nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến với
quy luật đặcthù và quy luật riêng của lịch sử, chính vì vậy, C. Mác
cho rằng: “Tôi coi sự pháttriển của những hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên”
Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất
giữa lôgích và lịch sử.
Sự thống nhất giữa lôgích và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự
nhiên của xã hộiloài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với
lịch sử phát triển toàn thế giớivà sự phát triển “bỏ qua” một hay vài
hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốcgia, dân tộc cụ thể.
Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất
logic và lịch sự. Logic của toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự
kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là
con đường tất yếu của tiến bộ lịch sử.
Sự thống nhất giữa logic và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự nhiên
của xã hội loài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối với lịch
sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một hay vài
hình thức kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
Theo V.I. Lênin: Tính quy luật chung của sự phát triển lịch sự thế
giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm
3. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng. lOMoAR cPSD| 53331727
Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã
hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã đưa lại cho khoa
học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học.
Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho
nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con
người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất
phát từ phương thức sản xuất.
Học thuyết đó cũng chỉ ra: xã hội không phải là sự kết hợp một cách
ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh
động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ
xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân
tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn
nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì
mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ
sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.
Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã
hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn
nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật
vận động phát triển của xã hội. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể
sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được
kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp
các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên
cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản
xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu
những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”1.
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác ra đời cho đến
nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt,
nhưng học thuyết đó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận
thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên, học thuyết
đó không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn
vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử. lOMoAR cPSD| 53331727
Gần đây, có những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái
kinh tế – xã hội và cho rằng phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh.
Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn
minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp
(hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây là phân chia
dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và
công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học
thuyết hình thái kinh tế – xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa
các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của
xã hội từ thấp đến cao.
Ý nghĩa của hình thái kinh tế – xã hội
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết
một cách khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học
thuyết hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong
của sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội thông qua hệ thống
các quy luật khách quan của xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế – xã
hội đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử.
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – xã
hội nhất định lại có tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện
lịch sử xã hội khác nhau. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã
hội vào nước ta có lúc đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như
sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, nhưng
chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành phần kinh tế tư
nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp v.v…
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới
và từ đó đến nay đường lối đổi mới đó đã từng bước đi vào hiện thực
và đạt được nhiều kết quả to lớn nhất định.
+ Xây dựng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên xây dựng và phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, nhưng có sự quản lý của nhà nước và kinh tế
quốc doanh luôn giữ vai trò chủ đạo.
+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân làm chủ, bảo
vệ quyền dân chủ của mọi thành viên trong xã hội. Cho nên nhà nước
là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoặc dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, v.v… lOMoAR cPSD| 53331727
+ Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và vận dụng những giá trị mới
của văn minh nhân loại. Tạo môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo
của mọi con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh