lOMoARcPSD| 53331727
Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất, sự kết hợp giữa người lao động với liệu sản xuất tạo ra một sức sản xuất nhất
định,thể hiện năng lực thực tiễn và trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong quá trình
sản xuất ra của cải vật chất.
Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Người lao động là người có sức khỏe, có trình độ, có kĩ năng, tay nghề lao động - thể
lực trí lực. Người lao động là yếu tố giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất chính
con người đã chế tạo và sử dụng công cụ sản xuất để tiến hành sản xuất, nhờ đó sản xuất
phát triển.
liệu sản xuất: liệu lao động (công cụ lao động, những phương tiện, vật liệu khác
dùng để tăng cường, hỗ trợ cho tác động của công cụ lao động) đối tượng lao động (đối
tượng lao động sẵn đối tượng lao động nhân tạo). Trong đó công cụ lao động là yếu tố
động nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.
Trong toàn bộliệu sản xuất thì công cụ lao động giữ vai trò quyết định vì công cụ lao
động nhân sức mạnh của con người trong quá trình chinh phục giới tự nhiên, công cụ lao động
càng phát triển cao thì năng lao động của con người càng cao, trình độ phát triển của sản
xuất đều do trình độ phát triển của công cụ lao động quyết định. Sự phát triển của công cụ sản
xuất thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, tiêu chuẩn để phân biệt các
thời đại kinh tế khác nhau.
Ngày nay khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành
yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển cả khoa học công nghệ trong cách mạng công nghiệp 4.0 làm biến đổi to
lớn trong sản xuất tạo ra những ngành sản xuất mới, hiện đại; những lĩnh vực thuật mũi
nhọn; những phương pháp sản xuất mới... đặc biệt sự tác động trực tiếp của công nghệ số,
công nghệ in 3D, Big data, kết nối vạn vật Internet of thing, điện toán đám y, robot tự
động... đã tạo nên sự bùng nổ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Khoa học không phải là yếu tố lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất, mà trở
thành mặt bên trong của hệ thống sản xuất vật chất. Tri thức khoa học được vật hóa, kết tinh,
thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất nhanh hiệu quả như ngày nay. Những phát
minh, sáng chế của khoa học trong thời gian ngắn biến thành k thuật, công nghệ, công cụ
mới, tạo ra những vật liệu không có sẵn trong tự nhiên.
Những yếu tố nói trên của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ với nhau chỉ trong
sự kết hợp đó chúng mới lực lượng sản xuất, còn trong sự tách rời chúng chỉ lực lượng
sản xuất ở dạng tiềm năng.
Trình độ của lực lượng sản xuất: Thể hiện ở trình độ của những yếu tố cấu thành nó như
trình độ của công cụ lao động, trình độ khoa học công nghệ, trình độ của người lao động
(kinh nghiệm, k năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản lý, phân công, trình độ ứng dụng khoa
lOMoARcPSD| 53331727
học công nghệ, cách thức con người tiến hành trong quá trình sản xuất) Quan hệ
sản xuất:
Khái niệm: Quan hệ sản xuất mối quan hệ giữa người với người trong qtrình sản
xuất.
Kết cấu: Quan hệ sản xuất gồm ba mặt cơ bản sau :
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất xã hội.
Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
Quan hệ trong phân phối sản phẩm.
Những quan hệ này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau,
trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản nhất, đặc trưng cho quan hệ sản
xuất trong từng xã hội và quyết định các mặt khác trong quan hệ sản xuất, quyết định các mối
quan hệ xã hội. Vì:
Một là, quan hệ sở hữu cơ sở quyết định quan hệ giữa người với người trong tổ chức
quản sản xuất, từ đó xác định địa vị khác nhau trong sản xuất đó là quyền lãnh đạo và địa v
lãnh đạo, cũng từ đây sẽ quy định địa vị của con người trong xã hội.
Hai là, quan hệ sở hữu là sở quyết định quan hệ giữa người với người trong việc phân
phối sản phẩm của lao động. Thể hiện chỗ, người nào quyền sở hữu đối với liệu sản
xuất, có quyền lãnh đạo trong sản xuất thì quyền định đoạt việc phân phối số sản phẩm do
lao động của tất cả mọi người tạo ra, từ đó dẫn đến những phương thức và quy mô thu nhập rất
khác nhau của các tập đoàn người trong nền sản xuất hội. Qua đó quyết định cả tính chất
của quan hệ sản xuất, đó là bóc lột hay không bóc lột, bình đẳng hay bất bình đẳng.
1 . Quan điểm ca ch nghĩa Mác - Lênin v mi quan h gia lực lượng sn xut và quan h sn xut
Trong lch s loài người, tt yếu din ra hoạt động lao đng sn xut, làm ra ca ci vt chất để duy trì cuc
sống con người và thúc đẩy xã hi phát triển. Đó là hoạt động căn bản bảo đảm cho s phát trin kinh tế,
xã hi, chính trị, văn hóa định hình các hình thái kinh tế-xã hi. Xét v phương diện sn xut, lch s đã trải
qua các phương thức sn xut xã hội khác nhau như những nc thang phát triển văn minh: văn minh nông
nghiệp, văn minh công nghiệp. Thế giới cũng chứng kiến các cuc cách mng công nghip: Cách mng công
nghip ln th nht (chế tạo máy khí); Cách mạng công nghip ln th hai (điện khí hóa); Cách mng
công ngh thông tin và hin nay là Cách mng công nghip ln th tư với s phát trin trí tu nhân to (4.0)
. Trong quá trình lao đng sn xuất đòi hỏi không ngng phát trin lực lượng sn xuất (trước hết là công
c lao động), phát trin khoa hc, k thuật, trình đ người lao động. Cũng trong quá trình y hình thành
quan h con người với nhau trong lao đng sn xut trên các vấn đ s hữu liệu sn xut, cách thc
quản lý và trao đi, phân phi sn phẩm, đó là quan hệ sn xut.
Thc tiễn cũng đã làm rõ mi quan h gia lực lượng sn xut và quan h sn xut t đó khẳng định s tn
ti ca quy lut: quan h sn xut phù hp với trình độ phát trin ca lực lưng sn xut tạo động lc cho
kinh tế phát trin. Lực lưng sn xut phát triển đòi hỏi có quan h sn xut phù hp. Ch nghĩa tư bản ra
đời trên cơ sở phát trin mnh m lực lượng sn xut và chính sn xut hàng hóa vi quy mô ln và quan
h th trường đã phá v quan h sn xut phong kiến hình thành quan h sn xuất tư bản ch nghĩa. Trong
Tuyên ngôn của Đảng Cng sn (2-1948), C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ:
“Giai cấp tư sản, trong quá trình thng tr giai cấp chưa đầy mt thế kỷ, đã tạo ra nhng lực lượng sn xut
nhiều hơn và đồ s hơn lực lượng sn xut ca tt cc thế h trước kia gp lại”(1).
lOMoARcPSD| 53331727
Chính s phát trin của đại công nghip tc lực lượng sn xut hiện đại và m rng th trường “đã đem lại
mt s phát trin mau chóng cho yếu t cách mng trong xã hi phong kiến đang tan rã” tức thay thế
quan h sn xut phong kiến bng quan h sn xuất tư bản. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mnh:
“T chc công nghip theo li phong kiến hay phường hội trước kia không còn có th tha mãn nhng nhu
cầu luôn luôn tăng theo sự m mang nhng th trường mới. Công trường th công thay cho t chức cũ ấy.
Tng lp kinh doanh công nghiệp trung đẳng thay cho th c phưng hi; s phân công lao động gia các
phưng hội khác nhau đã nhường ch cho s phân công lao động bên trong từng xưởng thợ”(2).
Quan h sn xuất tư bản ch nghĩa từng bước định hình c v s hu, quản lý, phân công lao động và phân
phi li ích và phát trin theo s ln mnh ca lực lượng sn xut ca đại công nghip. Rõ ràng có s hin
hu ca quy lut v quan h sn xut phi phù hp với trình độ phát trin ca lực lượng sn xut. Quy lut
đó vẫn đúng khi giai cấp vô sn ln mnh tiến hành cuc cách mng sản đánh đ ch nghĩa tư bản để
xây dng chế độ xã hi mi là ch nghĩa xã hội và ch nghĩa cộng sn.
Cách mạng tư sản xóa b chế độ phong kiến khởi đầu bng lun sâu quan h sn xut vào trong lòng xã hi
phong kiến làm tan rã quan h kinh tế phong kiến và cui cùng bng cuc cách mng chính tr đánh đổ s
thng tr ca giai cp phong kiến. Cách mng vô sản, do đặc điểm riêng quan h sn xuthi ch nghĩa
không hình thành trong lònghội tư bản, nên phải trước hết làm cuc cách mng v chính tr “giai cấp
sn mi nước trước hết phi giành ly chính quyền”. Tiếp đó, s dng b máy chính quyền nhà nước để t
chc xây dng nn kinh tế vi s phát trin mnh m ca lực lưng sn xut và xây dng quan h sn xut
mi phù hợp. C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ:
“Giai cấp vô sn s dùng s thng tr chính tr của mình để từng bước một đoạt ly toàn b bản trong
tay giai cấp tư sản, để tp trung tt c nhng công c sn xuất vào trong tay nhà nước, tc là trong tay giai
cp vô sản đã được t chc thành giai cp thng tr và để tăng thật nhanh s ng nhng lực lượng sn
xuất”(3).
Cách mng Tháng Mười Nga thng li (7-11-1917) m ra thời đại ca cách mng XHCN và xây dng CNXH.
ớc Nga khi đó còn tình trng lc hu so với các nước bản châu Âu. Mun bảo đảm cho thng li ca
CNXH, V.I.Lênin Đảng Bônsêvích nhn thc vai trò ca Nhà nước viết trong việc thúc đy lực lưng
sn xut phát triển đ tạo ra năng suất lao đng cao. Trong tác phm Sáng kiến đại (61919) , V.I.Lênin
nêu rõ :
“Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trng nht, ch yếu nht cho thng li ca chế độ xã hi
mi. Ch nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Ch nghĩa
bản có th b đánh bại hn, và s b đánh bại hn, vì ch nghĩa xã hội to ra một năng suất lao động mi,
cao hơn nhiều. Đó là sự nghip rt khó khăn và rất lâu dài, nhưng sự nghiệp đó đã bắt đầu và đây là điều
ch yếu”(4).
Lãnh đạo s nghip xây dng ch nghĩa hội c Nga t 30-12-1922 Liên Xô, V.I.Lênin đặc bit
chú trng vai trò ca lực lượng sn xut, phát triển đing nghip. Đó là thời k ca cuc Cách mng công
nghip ln th hai vi vai trò của điện năng. V.I.Lênin từng nêu khu hiu: Ch nghĩa cộng sn bng chính
quyn Xô viết cng với điện khí hóa toàn quc. Trong lực lượng sn xut phải đặc bit chú ý vai trò ca con
người. vy, phi không ngng hc tập, đào tạo con người ngày nay ta gi xây dng ngun nhân
lc. Xây dng CNXH, theo V.I.Lênin phi da trên hc vn cao. Những người đang tạo dng xã hi mới “Họ
phi hiu rằng điều đó chỉ có th thc hiện được trên cơ s mt nn hc vn hiện đại và nếu h không có
nn hc vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sn vn ch là mt nguyn vng mà thôi”(5).
Lực lượng xây dng CNXH là những người lao động, công nhân, nông dân, trí thc phải được giáo dc, đào
to tr thành những người có hc vn tạo ra năng suất lao đng và hiu qu công việc. Đảng tin phong
lãnh đạo tc những người cng sn, theo V.I.Lênin, phi biết làm giàu trí tu ca mình bng tng s nhng
tri thc mà nhân loại đã to ra. Quá trình xây dng CNXH Liên Xô hơn 70 năm (1917-1991) với đường li
công nghip hóa và phát trin khoa hc, k thut ca Đảng Cng sản đã tạo ra được lc lượng sn xut rt
phát trin không thua kém nhiu so với các nước tư bản đã trải qua my thế ky dng. Liên Xô cùng vi
M hai siêu cường ca thế gii, không ch sc mnh quân s còn trình độ phát trin ca khoa
hc, công ngh. các nước XHCN khác cũng đã coi trọng phát trin lực lượng sn xut bao gm c khoa
hc, công ngh và đào tạo ngun nhân lc.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 53331727
Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất, là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất tạo ra một sức sản xuất nhất
định,thể hiện năng lực thực tiễn và trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong quá trình
sản xuất ra của cải vật chất.
Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Người lao động là người có sức khỏe, có trình độ, có kĩ năng, tay nghề lao động - có thể
lực và trí lực. Người lao động là yếu tố giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất vì chính
con người đã chế tạo và sử dụng công cụ sản xuất để tiến hành sản xuất, nhờ đó mà sản xuất phát triển.
Tư liệu sản xuất: tư liệu lao động (công cụ lao động, những phương tiện, vật liệu khác
dùng để tăng cường, hỗ trợ cho tác động của công cụ lao động) và đối tượng lao động (đối
tượng lao động sẵn có và đối tượng lao động nhân tạo). Trong đó công cụ lao động là yếu tố
động nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.
Trong toàn bộ tư liệu sản xuất thì công cụ lao động giữ vai trò quyết định vì công cụ lao
động nhân sức mạnh của con người trong quá trình chinh phục giới tự nhiên, công cụ lao động
càng phát triển cao thì kĩ năng lao động của con người càng cao, trình độ phát triển của sản
xuất đều do trình độ phát triển của công cụ lao động quyết định. Sự phát triển của công cụ sản
xuất là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các
thời đại kinh tế khác nhau.
Ngày nay khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành
yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển cả khoa học công nghệ trong cách mạng công nghiệp 4.0 làm biến đổi to
lớn trong sản xuất tạo ra những ngành sản xuất mới, hiện đại; những lĩnh vực kĩ thuật mũi
nhọn; những phương pháp sản xuất mới... đặc biệt là sự tác động trực tiếp của công nghệ số,
công nghệ in 3D, Big data, kết nối vạn vật Internet of thing, điện toán đám mây, robot tự
động... đã tạo nên sự bùng nổ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Khoa học không phải là yếu tố lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất, mà trở
thành mặt bên trong của hệ thống sản xuất vật chất. Tri thức khoa học được vật hóa, kết tinh,
thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất nhanh và hiệu quả như ngày nay. Những phát
minh, sáng chế của khoa học trong thời gian ngắn biến thành kỹ thuật, công nghệ, công cụ
mới, tạo ra những vật liệu không có sẵn trong tự nhiên.
Những yếu tố nói trên của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ với nhau và chỉ có trong
sự kết hợp đó chúng mới là lực lượng sản xuất, còn trong sự tách rời chúng chỉ là lực lượng
sản xuất ở dạng tiềm năng.
Trình độ của lực lượng sản xuất: Thể hiện ở trình độ của những yếu tố cấu thành nó như
trình độ của công cụ lao động, trình độ khoa học – công nghệ, trình độ của người lao động
(kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản lý, phân công, trình độ ứng dụng khoa lOMoAR cPSD| 53331727
học – công nghệ, cách thức mà con người tiến hành trong quá trình sản xuất) Quan hệ sản xuất:
Khái niệm: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Kết cấu: Quan hệ sản xuất gồm ba mặt cơ bản sau :
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất xã hội.
Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
Quan hệ trong phân phối sản phẩm.
Những quan hệ này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau,
trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản nhất, đặc trưng cho quan hệ sản
xuất trong từng xã hội và quyết định các mặt khác trong quan hệ sản xuất, quyết định các mối quan hệ xã hội. Vì:
Một là, quan hệ sở hữu là cơ sở quyết định quan hệ giữa người với người trong tổ chức
quản lý sản xuất, từ đó xác định địa vị khác nhau trong sản xuất đó là quyền lãnh đạo và địa vị
lãnh đạo, cũng từ đây sẽ quy định địa vị của con người trong xã hội.
Hai là, quan hệ sở hữu là cơ sở quyết định quan hệ giữa người với người trong việc phân
phối sản phẩm của lao động. Thể hiện ở chỗ, người nào có quyền sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, có quyền lãnh đạo trong sản xuất thì có quyền định đoạt việc phân phối số sản phẩm do
lao động của tất cả mọi người tạo ra, từ đó dẫn đến những phương thức và quy mô thu nhập rất
khác nhau của các tập đoàn người trong nền sản xuất xã hội. Qua đó mà quyết định cả tính chất
của quan hệ sản xuất,
đó là bóc lột hay không bóc lột, bình đẳng hay bất bình đẳng.
1 . Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong lịch sử loài người, tất yếu diễn ra hoạt động lao động sản xuất, làm ra của cải vật chất để duy trì cuộc
sống con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là hoạt động căn bản bảo đảm cho sự phát triển kinh tế,
xã hội, chính trị, văn hóa định hình các hình thái kinh tế-xã hội. Xét về phương diện sản xuất, lịch sử đã trải
qua các phương thức sản xuất xã hội khác nhau như những nấc thang phát triển văn minh: văn minh nông
nghiệp, văn minh công nghiệp. Thế giới cũng chứng kiến các cuộc cách mạng công nghiệp: Cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất (chế tạo máy cơ khí); Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (điện khí hóa); Cách mạng
công nghệ thông tin và hiện nay là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển trí tuệ nhân tạo (4.0)
. Trong quá trình lao động sản xuất đòi hỏi không ngừng phát triển lực lượng sản xuất (trước hết là công
cụ lao động), phát triển khoa học, kỹ thuật, trình độ người lao động. Cũng trong quá trình ấy hình thành
quan hệ con người với nhau trong lao động sản xuất trên các vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, cách thức
quản lý và trao đổi, phân phối sản phẩm, đó là quan hệ sản xuất.
Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ đó khẳng định sự tồn
tại của quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo động lực cho
kinh tế phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi có quan hệ sản xuất phù hợp. Chủ nghĩa tư bản ra
đời trên cơ sở phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và chính sản xuất hàng hóa với quy mô lớn và quan
hệ thị trường đã phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (2-1948), C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ:
“Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”(1). lOMoAR cPSD| 53331727
Chính sự phát triển của đại công nghiệp tức lực lượng sản xuất hiện đại và mở rộng thị trường “đã đem lại
một sự phát triển mau chóng cho yếu tố cách mạng trong xã hội phong kiến đang tan rã” tức là thay thế
quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh:
“Tổ chức công nghiệp theo lối phong kiến hay phường hội trước kia không còn có thể thỏa mãn những nhu
cầu luôn luôn tăng theo sự mở mang những thị trường mới. Công trường thủ công thay cho tổ chức cũ ấy.
Tầng lớp kinh doanh công nghiệp trung đẳng thay cho thợ cả phường hội; sự phân công lao động giữa các
phường hội khác nhau đã nhường chỗ cho sự phân công lao động bên trong từng xưởng thợ”(2).
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước định hình cả về sở hữu, quản lý, phân công lao động và phân
phối lợi ích và phát triển theo sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất của đại công nghiệp. Rõ ràng có sự hiện
hữu của quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật
đó vẫn đúng khi giai cấp vô sản lớn mạnh tiến hành cuộc cách mạng vô sản đánh đổ chủ nghĩa tư bản để
xây dựng chế độ xã hội mới là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Cách mạng tư sản xóa bỏ chế độ phong kiến khởi đầu bằng luồn sâu quan hệ sản xuất vào trong lòng xã hội
phong kiến làm tan rã quan hệ kinh tế phong kiến và cuối cùng bằng cuộc cách mạng chính trị đánh đổ sự
thống trị của giai cấp phong kiến. Cách mạng vô sản, do đặc điểm riêng là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
không hình thành trong lòng xã hội tư bản, nên phải trước hết làm cuộc cách mạng về chính trị “giai cấp vô
sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền”. Tiếp đó, sử dụng bộ máy chính quyền nhà nước để tổ
chức xây dựng nền kinh tế với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp. C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ:
“Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong
tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai
cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”(3).
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (7-11-1917) mở ra thời đại của cách mạng XHCN và xây dựng CNXH.
Nước Nga khi đó còn ở tình trạng lạc hậu so với các nước tư bản châu Âu. Muốn bảo đảm cho thắng lợi của
CNXH, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích nhận thức rõ vai trò của Nhà nước Xô viết trong việc thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển để tạo ra năng suất lao động cao. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại (61919) , V.I.Lênin nêu rõ :
“Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội
mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa
tư bản có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới,
cao hơn nhiều. Đó là sự nghiệp rất khó khăn và rất lâu dài, nhưng sự nghiệp đó đã bắt đầu và đây là điều chủ yếu”(4).
Lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và từ 30-12-1922 ở Liên Xô, V.I.Lênin đặc biệt
chú trọng vai trò của lực lượng sản xuất, phát triển đại công nghiệp. Đó là thời kỳ của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ hai với vai trò của điện năng. V.I.Lênin từng nêu khẩu hiệu: Chủ nghĩa cộng sản bằng chính
quyền Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc. Trong lực lượng sản xuất phải đặc biệt chú ý vai trò của con
người. Vì vậy, phải không ngừng học tập, đào tạo con người mà ngày nay ta gọi là xây dựng nguồn nhân
lực. Xây dựng CNXH, theo V.I.Lênin phải dựa trên học vấn cao. Những người đang tạo dựng xã hội mới “Họ
phải hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại và nếu họ không có
nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi”(5).
Lực lượng xây dựng CNXH là những người lao động, công nhân, nông dân, trí thức phải được giáo dục, đào
tạo trở thành những người có học vấn tạo ra năng suất lao động và hiệu quả công việc. Đảng tiền phong
lãnh đạo tức những người cộng sản, theo V.I.Lênin, phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tổng số những
tri thức mà nhân loại đã tạo ra. Quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô hơn 70 năm (1917-1991) với đường lối
công nghiệp hóa và phát triển khoa học, kỹ thuật của Đảng Cộng sản đã tạo ra được lực lượng sản xuất rất
phát triển không thua kém nhiều so với các nước tư bản đã trải qua mấy thế kỷ xây dựng. Liên Xô cùng với
Mỹ là hai siêu cường của thế giới, không chỉ ở sức mạnh quân sự mà còn ở trình độ phát triển của khoa
học, công nghệ. Ở các nước XHCN khác cũng đã coi trọng phát triển lực lượng sản xuất bao gồm cả khoa
học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.