1. Khái niệm của vật chất ý thức
Định nghĩa vật chất của nin nội dung cụ thể như sau:
“Vật chất phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
tồn tại không l thuộc vào cảm giác”.
Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của nó. Dùng để ch thực tại
khách quan phản ánh qua cảm giác. Khi đó, vật chất mang đến hình thức chứa
đựng cụ thể dạng tồn tại hữu hình. Từ đó, đánh giá được đưa ra dễ dàng với
các dạng tồn tại đó có được xác định vật chất hay không.
Ý thức sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con
người, hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức toàn bộ sản phẩm
những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm,
những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, ... của con người
trong cuộc sống. Ý thức sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên lịch
sử - hội, kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc
của con người.
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được quyết định
với phạm trù vật chất, theo đó ý thức sự phản ánh thế giới vật chất khách quan
vào bộ óc con người sự cải biến sáng tạo. Ý thức mối quan hệ biện
chức với vật chất.
2. Mối quan hệ giữa vật chất ý thức
a. Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất i có trước, ý thức sau, chính vật
chất sinh ra ý thức vật chất quyết định ý thức. Ý thức chính sản phẩm vật
chất, được tổ chức nên bộ não của con người. Do đó, chỉ có con người mới ý
thức và con người chính kết quả của quá trình phát triển thế giới vật chất,
sản phẩm từ thế giới vật chất. Ý thức thể hiện thể giới vật chất, hình ảnh mang
tính chủ quan, nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
dụ: nhân A sinh sống vùng sâu. vùng xa không hội tiếp cận với
công nghệ thông tin, việc tiếp cận còn nhiều hạn chế, cũng như khi đi học thì A
cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức về điều kiện cơ sở hạ tầng không
đáp ứng nên cá nhân A không kiến thức, hiểu biết nhiều về các sản phẩm công
nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với nhân B - sống
Thủ đô, từ nhỏ nhân B hội học tập, tiếp cận với các công nghệ thông tin
hiện đại, cha mẹ cũng như thầy ch dạy, vậy nhân B dễ dàng sử dụng
tiếp cận các công nghệ thông tin những công ngh mới nhất. Như vậy,
thể thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức.
Thường thì sự tác động của ý thức đối với vật chất sẽ diễn ra theo hai hướng:
- ch cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức s tác động lực thúc đẩy vật
chất phát triển như hai vị dụ trên thể thấy được rằng ý thức đang c động tích
cực đến vật chất.
- Tiêu cực: Khi phản ánh sai lệnh hiện thực, ý thức thể kìm hãm sự phát triển của
vật chất.
*Tóm lại:
Quan h vật chất ý thức quan hệ hai chiều c động biện chứng qua lại, trong
đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thực tiễn thông qua hoạt
động nhận thức của con người.
b. Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất thì ý thức hoàn toàn có thể tác động trở lại đối với
vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Bởi ví ý thức chính ý
thức của con người, ý thức chín s phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc
của con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức "đời sống"
riêng, ý thức không lệ thuộc máy móc vào ý thức.
Nhờ o các hoạt động thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất, thậm chí n tạo ra những "sản phẩm tự nhiên khác" phục vụ cho
hoạt động cuộc sống của con người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới
khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, biện pháp
ý c quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã c định. Khi xã hội càng
phát triển t vai trò của ý thức lại cùng quan trọng. Khi tri thức khoa học
đã trở thành lực ợng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, vai trò của
tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn hết sức quan trọng.
dụ: Khi nhiệt đố 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống
nước đá đã cung cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang
trạng thái rắn (nước đá).
Ý nghĩa phương pháp luận
1/ vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương hoạt động
nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát t hiện thực khách quan
hoạt động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa chúng ta phải quan điểm
khách quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn.
2/ Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những i lẻ tẻ của hiện thực
khách quan, phải xuất phát từ cái chung quy luật khách quan. Nghị quyết 6 của
Đảng bài học kinh nghiệm phải nắm vững hiện thực khách quan.
+ Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) nhận thức sự vật phải
tôn trọng chính có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật
chống ch nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
3/Vì ý thức tính độc lập tương đối, tính năng động sáng tạo thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện
thực khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức phát huy mặt tích
cực ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
dụ: Trước một trận đánh làm quyết tâm thư, tự phê nh phê bình, rút ra
những nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực. Giáo dục nhận thức
thông qua phong trào, thực tiễn tưởng cục bộ.
4/ Giữa vật chất ý thức chỉ đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận.
Ngoài lĩnh vực đó ra, “sự phân biệt chỉ tương đối” - Lê Nin. thế một chính
sách đúng đắn sở liên kết hợp hai yếu tố này.
dụ: giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chấtn
đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
+ Công tác ởng phải gắn liền với công tác tổ chức nếu tuyệt đối hóa yếu tố
vật chất, yếu tố kinh tế coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính năng động ,
sáng tạo của con người sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầmthường, ngược lại nếu
tuyệt đối hóa yếu tố ý thức coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì sẽ rơi vào
chủ nghĩa ch quan duy ý chí.
dụ: một thời kỳ đề ra vấn đề ng hữu , xây dựng quan hệ sản xuất không dựa
trên lực ợng sản xuất.
Mối quan hệ giữa vật chất ý thức mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan
hệ này, vật chất trước, ý thức sau, vật chất nguồn gốc của ý thức, quyết
định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động có thể tác động trở lại
vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất ý thức vào trong cuộc sống
- Trong học tập: một sinh viên năm nhất, em thấy bản thân mình cần phải xác
định các nhân tố vật chất như điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, quy luật
khách quan. Trong học tập, nếu em được tiếp xúc với những sở vật chất,
phương pháp dạy tốt chúng ta sẽ cố gắng học tập tốt, chiếm lĩnh tri thức tốt hơn.
Cụ thể hơn, một tiết học Triết của một giảng viên tâm huyết, truyền đạt i thú vị,
dễ hiểu sẽ khiến bản thân mình yêu môn Triết không sợ nó, thúc đẩy mình tìm
hiểu thêm về Triết, nhưng nếu như giảng viên môn Triết của mình thiếu tâm huyết,
truyền đạt bài giảng không linh hoạt, khó hiểu thì mình sẽ sinh ra tâm chán nản,
không thích học môn Triết. Đó chính vật chất quyết định ý thức. Em đã vận
dụng để nâng cao ng suất học tập của bản thân bằng cách tạo ra những sở vật
chất tốt để thúc đẩy tinh thần học như : tìm kiếm một phương pháp học tập phù
hợp bản thân, trang trí sắp xếp góc học tập thật gọn gàng,… Bên cạnh đó em còn
đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan hành động theo các quy luật mang tính
khách quan, thể hiện qua một số hành động như không cúp tiết, tham gia đầy đủ
các buổi học, làm theo giáo viên hướng dẫn,…
dụ về mối quan hệ giữa vật chất ý thức trong thực tin
-Thời COVID: Như chúng ta đã biết, năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh
hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia trên thế giới, hiện nay đang tiếp tục
diễn biến rất phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu i vào suy thoái nghiêm trọng. Nền
kinh tế Việt Nam độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng đã đang chịu nhiều
tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - hội. Trước
tình hình kinh tế đó, Đảng nhà nước đã đi sâu vào nghiên cứu phân tích tình
hình, phân tích các nhân tố khách quan, lấy ý kiến nhân dân. Đặc biệt đổi mới
duy. Dự thảo báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng khóa XII tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định được các nhân t vật chất
như: thời , thuận lợi nhiều khó khăn, thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới
đặt ra phải giải quyết. Cụ thể hơn, so với nhiệm kỳ trước, kinh tế chuyển biến tích
cực, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế ổn định, lạm phát luôn được kiểm
soát mức thấp, mặc năm cuối nhiệm kỳ bị ảnh ởng nặng nề của đại dịch
COVID-19 nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn
đạt khoảng 5,9%/năm. Ta thể thấy, tuy ảnh hưởng của dịch COVID, nhưng
Đảng Nhà nước đã phát huy nh năng động sáng tạo của ý thức đề ra những
biện pháp để hạn chế ảnh hưởng xấu của COVID về mọi mặt (kinh tế, giáo dục,..)
như: đẩy mạnh học online, đẩy mạnh giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu công, giải quyết vướng mắc trong thủ tục hành chính, đẩy nhanh thủ tục phê
duyệt, điều chỉnh c chính sách mới. Qua các dẫn chứng trên ta thấy Đảng ta đã
vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất ý thức vào công cuộc đổi mới đất
nước. Đó yếu tố quan trọng giúp chúng ta hạn chế ảnh hưởng của đại dịch
bản Việt Nam được cho một trong số ít quốc gia sẽ tiếp tục tăng trưởng trong
năm 2020, mặc những quốc gia khác trên thế giới được dự báo rơi o suy
thoái bản trở thành nước công nghiệp theo ớng hiện đại vào năm 2020.
- Trong hiện tại tương lai: Cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh
với trình độ ngay càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đời
sống hội. c nước đều hội phát triển. Tuy nhiên do ưu thế về vốn công
nghệ thị trường thuộc về các nước phát triển, khiến cho các nước chậm phát triển
đang phát triển đứng trước những thách thức to lớn. Nguy tụt hậu về kinh tế
so với nhiều ớc trong khu vực vẫn thách thức to lớn gay gắt do điểm xuất
phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.Trước
tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại. Đảng nhà nước ta cần tiếp
tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới
kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời đổi mới v chính trị
cũng mang tính cấp ch bởi giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính trị mối liên
hệ giàng buộc chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau. Chính vậy tìm hiểu
mối quan hệ giữa vật chất ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào mối
quan hệ kinh tế chính trị của đất nước, giúp cho công cuộc y dựng nền kinh
tế nước ta ngày càng giàu mạnh.

Preview text:

1. Khái niệm của vật chất và ý thức
Định nghĩa vật chất của Lê nin có nội dung cụ thể như sau:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của nó. Dùng để chỉ thực tại
khách quan phản ánh qua cảm giác. Khi đó, vật chất mang đến hình thức chứa
đựng cụ thể và có dạng tồn tại hữu hình. Từ đó, đánh giá được đưa ra dễ dàng với
các dạng tồn tại đó có được xác định là vật chất hay không.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là toàn bộ sản phẩm
những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm,
những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, . . của con người
trong cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch
sử - xã hội, là kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người.
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được quyết định
với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan
vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chức với vật chất.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất là cái có trước, ý thức có sau, chính vật
chất sinh ra ý thức và vật chất quyết định ý thức. Ý thức chính là sản phẩm vật
chất, được tổ chức nên bộ não của con người. Do đó, chỉ có con người mới có ý
thức và con người chính là kết quả của quá trình phát triển thế giới vật chất, và là
sản phẩm từ thế giới vật chất. Ý thức thể hiện thể giới vật chất, là hình ảnh mang
tính chủ quan, nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Ví dụ: Cá nhân A sinh sống ở vùng sâu. vùng xa không có cơ hội tiếp cận với
công nghệ thông tin, việc tiếp cận còn nhiều hạn chế, cũng như khi đi học thì A
cũng thiếu đội ngũ giáo viên giảng vậy. Tức là về điều kiện cơ sở hạ tầng không
đáp ứng nên cá nhân A không có kiến thức, hiểu biết nhiều về các sản phẩm công
nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên, đối với cá nhân B - sống
ở Thủ đô, từ nhỏ cá nhân B có cơ hội học tập, tiếp cận với các công nghệ thông tin
hiện đại, có cha mẹ cũng như thầy cô chỉ dạy, vì vậy cá nhân B dễ dàng sử dụng
và tiếp cận các công nghệ thông tin dù là những công nghệ mới nhất. Như vậy, có
thể thấy điều kiện vật chất sẽ quyết định ý thức.
b. Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất thì ý thức hoàn toàn có thể tác động trở lại đối với
vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Bởi ví ý thức chính là ý
thức của con người, ý thức chín là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc
của con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có "đời sống"
riêng, ý thức không lệ thuộc máy móc vào ý thức.
Nhờ vào các hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra những "sản phẩm tự nhiên khác" phục vụ cho
hoạt động cuộc sống của con người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới
khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, biện pháp
và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Khi xã hội càng
phát triển thì vai trò của ý thức lại vô cùng quan trọng. Khi mà tri thức khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, vai trò của
tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Ví dụ: Khi ở nhiệt đố 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống
nước đá đã cung cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang
trạng thái rắn (nước đá).
Thường thì sự tác động của ý thức đối với vật chất sẽ diễn ra theo hai hướng:
- Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ tác động lực thúc đẩy vật
chất phát triển như hai vị dụ trên có thể thấy được rằng ý thức đang tác động tích cực đến vật chất.
- Tiêu cực: Khi phản ánh sai lệnh hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất. *Tóm lại:
Quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua lại, trong
đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thực tiễn thông qua hoạt
động nhận thức của con người.
Ý nghĩa phương pháp luận
1/ Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương hoạt động
nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và
hoạt động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm
khách quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn.
2/ Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện thực
khách quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách quan. Nghị quyết 6 của
Đảng là bài học kinh nghiệm là phải nắm vững hiện thực khách quan.
+ Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật phải
tôn trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật
và chống chủ nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
3/Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện
thực khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích
cực ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Ví dụ: Trước một trận đánh làm quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình, rút ra
những nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực. Giáo dục nhận thức
thông qua phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ.
4/ Giữa vật chất và ý thức chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận.
Ngoài lĩnh vực đó ra, “sự phân biệt chỉ là tương đối” - Lê Nin. Vì thế một chính
sách đúng đắn là cơ sở liên kết hợp hai yếu tố này.
Ví dụ: giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chấtnhư
đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
+ Công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức nếu tuyệt đối hóa yếu tố
vật chất, yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính năng động ,
sáng tạo của con người sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầmthường, ngược lại nếu
tuyệt đối hóa yếu tố ý thức và coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì sẽ rơi vào
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Ví dụ: một thời kỳ đề ra vấn đề công hữu , xây dựng quan hệ sản xuất không dựa
trên lực lượng sản xuất.
⇨Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan
hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết
định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại
vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào trong cuộc sống
- Trong học tập: Là một sinh viên năm nhất, em thấy bản thân mình cần phải xác
định rõ các nhân tố vật chất như điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, quy luật
khách quan. Trong học tập, nếu em được tiếp xúc với những cơ sở vật chất,
phương pháp dạy tốt chúng ta sẽ cố gắng học tập tốt, chiếm lĩnh tri thức tốt hơn.
Cụ thể hơn, một tiết học Triết của một giảng viên tâm huyết, truyền đạt bài thú vị,
dễ hiểu sẽ khiến bản thân mình yêu môn Triết và không sợ nó, thúc đẩy mình tìm
hiểu thêm về Triết, nhưng nếu như giảng viên môn Triết của mình thiếu tâm huyết,
truyền đạt bài giảng không linh hoạt, khó hiểu thì mình sẽ sinh ra tâm lý chán nản,
không thích học môn Triết. Đó chính là vật chất quyết định ý thức. Em đã vận
dụng để nâng cao năng suất học tập của bản thân bằng cách tạo ra những cơ sở vật
chất tốt để thúc đẩy tinh thần học như : tìm kiếm một phương pháp học tập phù
hợp bản thân, trang trí sắp xếp góc học tập thật gọn gàng,… Bên cạnh đó em còn
đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo các quy luật mang tính
khách quan, thể hiện qua một số hành động như không cúp tiết, tham gia đầy đủ
các buổi học, làm theo giáo viên hướng dẫn,…
Ví dụ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn
-Thời kì COVID: Như chúng ta đã biết, năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh
hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia trên thế giới, hiện nay đang tiếp tục
diễn biến rất phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Nền
kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang chịu nhiều
tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trước
tình hình kinh tế đó, Đảng và nhà nước đã đi sâu vào nghiên cứu phân tích tình
hình, phân tích các nhân tố khách quan, lấy ý kiến nhân dân. Đặc biệt là đổi mới tư
duy. Dự thảo báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng khóa XII tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định được các nhân tố vật chất
như: thời cơ, thuận lợi và nhiều khó khăn, thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới
đặt ra phải giải quyết. Cụ thể hơn, so với nhiệm kỳ trước, kinh tế chuyển biến tích
cực, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát luôn được kiểm
soát ở mức thấp, mặc dù năm cuối nhiệm kỳ bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch
COVID-19 nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn
đạt khoảng 5,9%/năm. Ta có thể thấy, tuy ảnh hưởng của dịch COVID, nhưng
Đảng và Nhà nước đã phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức đề ra những
biện pháp để hạn chế ảnh hưởng xấu của COVID về mọi mặt (kinh tế, giáo dục,. )
như: đẩy mạnh học online, đẩy mạnh giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư công, giải quyết vướng mắc trong thủ tục hành chính, đẩy nhanh thủ tục phê
duyệt, điều chỉnh các chính sách mới. Qua các dẫn chứng trên ta thấy Đảng ta đã
vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất
nước. Đó là yếu tố quan trọng giúp chúng ta hạn chế ảnh hưởng của đại dịch cơ
bản và Việt Nam được cho là một trong số ít quốc gia sẽ tiếp tục tăng trưởng trong
năm 2020, mặc dù những quốc gia khác trên thế giới được dự báo rơi vào suy
thoái và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
- Trong hiện tại và tương lai: Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh
với trình độ ngay càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời
sống xã hội. Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên do ưu thế về vốn công
nghệ thị trường thuộc về các nước phát triển, khiến cho các nước chậm phát triển
và đang phát triển đứng trước những thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế
so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất
phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.Trước
tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại. Đảng và nhà nước ta cần tiếp
tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới
kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời đổi mới về chính trị
cũng mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối liên
hệ giàng buộc chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau. Chính vì vậy tìm hiểu
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng nó vào mối
quan hệ kinh tế và chính trị của đất nước, giúp cho công cuộc xây dựng nền kinh
tế nước ta ngày càng giàu mạnh.
Document Outline

  • 1.Khái niệm của vật chất và ý thức
  • 2.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
  • b.Ý thức tác động trở lại vật chất
  • Ý nghĩa phương pháp luận
  • Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào t
  • Ví dụ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong