I. Khát quát sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác -
Lênin
Kinh tế chính trị Mác-Lênin do C.Mác (1818-1883) và Ph. Ăng-ghen
(18201895) sáng lập, sau đó được V.I.Lê-nin (1870-1924) phát triển
trong điều kiện lịch sử mới. Điều kiện lịch sử mới đó là chủ nghĩa tư
bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đặc biệt
sự thành công của cách mạng tháng mười Nga năm 1917. Kinh tế
chính trị Mác-Lênin là một trong ba bphận hợp thành chủ nghĩa
Mác-Lênin là triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin và chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Kinh tế chính trị Mác-Lênin là sự kế thừa và phát triển kinh tế chính
trị tư sản cổ điển. Để thy được điều đó ta m hiểu qua về sự phát
triển của các học thuyết kinh tế chính trị:
Học thuyết kinh tế chính trị học đầu ên là chủ nghĩa trọng thương,
rất coi trọng thương nghiệp, cho rằng giá trị được tạo ra từ lưu thông
và ền là nguồn gốc của mọi sự giàu có của các quốc gia vì vậy phải
ch luỹ ền. Tuy nhiên, điểm thiếu sót cơ bản của học thuyết này là
đối tượng nghiên cứu chưa đúng. Đối tượng nghiên cứu của học
thuyết này là sự lưu thông hàng hóa nhưng nếu không có hàng hóa
thì lấy gì để mà lưu thông? Do đó, học thuyết trọng thương bộc lộ
khá nhiều hạn chế trong cơ sở lý luận kinh tế chính trị.
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển, quan điểm trọng thương
bộc lộ hạn chế thì các học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra
đời thay thế. Đó là chủ nghĩa trọng nông Pháp đã chuyển phạm vi
nghiên cứu của kinh tế chính trị sang lĩnh vực sản xuất, đi m nguồn
gốc của giá trị, của cải và sự giàu có từ trong quá trình lao động sản
xuất. Học thuyết trọng nông có ến bộ hơn chđã chỉ ra tư duy
kinh tế đúng là hướng vào sản xuất hàng hóa. Học thuyết này khẳng
định rằng chỉ có nông nghiệp mới tạo ra “sản phẩm ròng. Sản phẩm
ròng được nh bằng tổng sản lượng thu được trừ đi số ợng giống
ban đầu. Xã hội giàu có là do số ợng “sản phẩm ròng” nhiều hay ít.
Mặc dầu 2 học thuyết kinh tế trọng nông và trọng thương đã có được
đối tượng nghiên cứu cụ thể nhưng chúng chưa có đủ những đặc
điểm cơ bản để trở thành một học thuyết thực sự mà đúng ra, chỉ có
thể gọi là hệ tư tưởng. Học thuyết trọng thương mới chỉ chú trọng
đến vấn đề lưu thông hàng hóa. Học thuyết trọng nông có ến bộ
hơn chchỉ ra tư duy kinh tế đúng là hướng vào sản xuất hàng
hóa. Tuy nhiên, học thuyết trọng nông mới chỉ nhắm đến lãnh vực
sản xuất nông nghiệp thôi.
Phương pháp mà 2 học thuyết này sử dụng là kinh nghiệm chủ quan-
bằng quan sát thực ễn rồi khái quát nên thành kinh nghiệm của
mình, chứ chúng chưa có một cơ sở khoa học nào rõ ràng và có nh
hệ thống. Một học thuyết thực sự cần có những yếu tố để trở thành
một khoa học độc lập: một là có đối tượng nghiên cứu riêng; hai là
có hệ thống lý luận cơ bản riêng; ba là có phương pháp khoa học đặc
trưng. Từ đó, học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ra đời.
Học thuyết mới này đã đưa kinh tế chính trị trở thành một khoa học
thực sự với hệ thng các lý thuyết về giá trị lao động, ền tệ, tư bản,
tái sản xuất,…Nó nghiên cứu không chỉ lãnh vực nông nghiệp mà còn
cả công nghiệp và thương mại. Phương pháp khoa học mà hc
thuyết này sử dụng là trừu tượng hóa. Học thuyết này được coi là
một trong những ền đề lý luận hình thành chủ nghĩa Mác- Lênin nói
chung và kinh tế chính trị Mác-Lênin nói riêng. Tuy nhiên, học thuyết
kinh tế chính trị tư sản cổ điển cũng còn bộc lộ những hạn chế nht
định. Đó chính là phương pháp siêu hình; quan điểm duy lịch sử;
đồng nhất giá trị thặng dư với giá trị sử dụng; nhầm lẫn giữa sở hữu
tư liệu sản xuất và tư bản. Quan điểm siêu hình là quan sát nhn
định hiện tượng trong sự đứng im, không vận động, cô lập với các
vấn đề khác. Cuối thế kỷ 18 sang đầu thể kỷ 19, nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển mạnh đã bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn, hạn
chế. Nhiều vấn đề kinh tế nảy sinh mà các tư tưởng cổ điển không
thể lý giải được. Một loạt các học thuyết kinh tế ra đời mong muốn
thay thế cho những tư tưởng cổ điển như: các học thuyết kinh tế
chính trị tư sản hậu cổ điển, kinh tế chính trị ểu tư sản, kinh tế
chính trị của những người xã hội chủ nghĩa không tưởng, kinh tế
chính trị Mác-Lênin,…Trong đó chỉ có kinh tế chính trị Mác-Lênin là
ợt qua được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển, đánh dấu
một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử học thuyết kinh tế chính
trị. Nó vừa mang nh khoa học, vừa mang nh cách mạng. Nó mang
nh khoa học chphản ánh đúng hiện thực khách quan. Nó mang
nh cách mạng ở chchỉ ra cho người ta cách thức làm sao biến nền
kinh tế xã hội theo hướng ến bộ hơn, ch cực hơn, hiệu quả hơn.
Học thuyết này để chỉ ra được 2 mặt của sản xuất hàng hóa. Phương
pháp được sử dụng chủ yếu là biện chứng duy vật và biện chứng duy
vật lịch sử.
NGUỒN
hps://www.studocu.com/vn/document/ internaonal-university-
vnu-hcm/ english-linguiscs-and-literature/cau-1phan-ch-su-hinh-
thanh-va-phat-triencua-kinh-te-chinh-tri-mac-lenin/
19771675

Preview text:

I. Khát quát sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Kinh tế chính trị Mác-Lênin do C.Mác (1818-1883) và Ph. Ăng-ghen
(18201895) sáng lập, sau đó được V.I.Lê-nin (1870-1924) phát triển
trong điều kiện lịch sử mới. Điều kiện lịch sử mới đó là chủ nghĩa tư
bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đặc biệt
sự thành công của cách mạng tháng mười Nga năm 1917. Kinh tế
chính trị Mác-Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa
Mác-Lênin là triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Kinh tế chính trị Mác-Lênin là sự kế thừa và phát triển kinh tế chính
trị tư sản cổ điển. Để thấy được điều đó ta tìm hiểu qua về sự phát
triển của các học thuyết kinh tế chính trị:
Học thuyết kinh tế chính trị học đầu tiên là chủ nghĩa trọng thương,
rất coi trọng thương nghiệp, cho rằng giá trị được tạo ra từ lưu thông
và tiền là nguồn gốc của mọi sự giàu có của các quốc gia vì vậy phải
tích luỹ tiền. Tuy nhiên, điểm thiếu sót cơ bản của học thuyết này là
đối tượng nghiên cứu chưa đúng. Đối tượng nghiên cứu của học
thuyết này là sự lưu thông hàng hóa nhưng nếu không có hàng hóa
thì lấy gì để mà lưu thông? Do đó, học thuyết trọng thương bộc lộ
khá nhiều hạn chế trong cơ sở lý luận kinh tế chính trị.
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển, quan điểm trọng thương
bộc lộ hạn chế thì các học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra
đời thay thế. Đó là chủ nghĩa trọng nông Pháp đã chuyển phạm vi
nghiên cứu của kinh tế chính trị sang lĩnh vực sản xuất, đi tìm nguồn
gốc của giá trị, của cải và sự giàu có từ trong quá trình lao động sản
xuất. Học thuyết trọng nông có tiến bộ hơn ở chỗ đã chỉ ra tư duy
kinh tế đúng là hướng vào sản xuất hàng hóa. Học thuyết này khẳng
định rằng chỉ có nông nghiệp mới tạo ra “sản phẩm ròng”. Sản phẩm
ròng được tính bằng tổng sản lượng thu được trừ đi số lượng giống
ban đầu. Xã hội giàu có là do số lượng “sản phẩm ròng” nhiều hay ít.
Mặc dầu 2 học thuyết kinh tế trọng nông và trọng thương đã có được
đối tượng nghiên cứu cụ thể nhưng chúng chưa có đủ những đặc
điểm cơ bản để trở thành một học thuyết thực sự mà đúng ra, chỉ có
thể gọi là hệ tư tưởng. Học thuyết trọng thương mới chỉ chú trọng
đến vấn đề lưu thông hàng hóa. Học thuyết trọng nông có tiến bộ
hơn ở chỗ chỉ ra tư duy kinh tế đúng là hướng vào sản xuất hàng
hóa. Tuy nhiên, học thuyết trọng nông mới chỉ nhắm đến lãnh vực
sản xuất nông nghiệp thôi.
Phương pháp mà 2 học thuyết này sử dụng là kinh nghiệm chủ quan-
bằng quan sát thực tiễn rồi khái quát nên thành kinh nghiệm của
mình, chứ chúng chưa có một cơ sở khoa học nào rõ ràng và có tính
hệ thống. Một học thuyết thực sự cần có những yếu tố để trở thành
một khoa học độc lập: một là có đối tượng nghiên cứu riêng; hai là
có hệ thống lý luận cơ bản riêng; ba là có phương pháp khoa học đặc
trưng. Từ đó, học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ra đời.
Học thuyết mới này đã đưa kinh tế chính trị trở thành một khoa học
thực sự với hệ thống các lý thuyết về giá trị lao động, tiền tệ, tư bản,
tái sản xuất,…Nó nghiên cứu không chỉ lãnh vực nông nghiệp mà còn
cả công nghiệp và thương mại. Phương pháp khoa học mà học
thuyết này sử dụng là trừu tượng hóa. Học thuyết này được coi là
một trong những tiền đề lý luận hình thành chủ nghĩa Mác- Lênin nói
chung và kinh tế chính trị Mác-Lênin nói riêng. Tuy nhiên, học thuyết
kinh tế chính trị tư sản cổ điển cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất
định. Đó chính là phương pháp siêu hình; quan điểm duy lịch sử;
đồng nhất giá trị thặng dư với giá trị sử dụng; nhầm lẫn giữa sở hữu
tư liệu sản xuất và tư bản. Quan điểm siêu hình là quan sát nhận
định hiện tượng trong sự đứng im, không vận động, cô lập với các
vấn đề khác. Cuối thế kỷ 18 sang đầu thể kỷ 19, nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển mạnh đã bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn, hạn
chế. Nhiều vấn đề kinh tế nảy sinh mà các tư tưởng cổ điển không
thể lý giải được. Một loạt các học thuyết kinh tế ra đời mong muốn
thay thế cho những tư tưởng cổ điển như: các học thuyết kinh tế
chính trị tư sản hậu cổ điển, kinh tế chính trị tiểu tư sản, kinh tế
chính trị của những người xã hội chủ nghĩa không tưởng, kinh tế
chính trị Mác-Lênin,…Trong đó chỉ có kinh tế chính trị Mác-Lênin là
vượt qua được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển, đánh dấu
một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử học thuyết kinh tế chính
trị. Nó vừa mang tính khoa học, vừa mang tính cách mạng. Nó mang
tính khoa học ở chỗ phản ánh đúng hiện thực khách quan. Nó mang
tính cách mạng ở chỗ chỉ ra cho người ta cách thức làm sao biến nền
kinh tế xã hội theo hướng tiến bộ hơn, tích cực hơn, hiệu quả hơn.
Học thuyết này để chỉ ra được 2 mặt của sản xuất hàng hóa. Phương
pháp được sử dụng chủ yếu là biện chứng duy vật và biện chứng duy vật lịch sử. NGUỒN
https://www.studocu.com/vn/document/ international-university-
vnu-hcm/ english-linguistics-and-literature/cau-1phan-tich-su-hinh-
thanh-va-phat-triencua-kinh-te-chinh-tri-mac-lenin/ 19771675