Phân tích sự hình thành và phát triển của ktct Mác-Lenin
2.1 Sự phát triển của kinh tế chính trị Mac-Lenin
Kinh tế chính trị trong thời kì cổ đại, trung đại (từ thế kỷ XV về trc), trình độ pt của các nền sx
còn lạc hậu, chưa có đầy đủ những tiền đề cần thiết cho sự hình thành các lý luận chuyên về kt.
Các tư tưởng kinh tế thường được thấy trong các tác tp triết học, luận lý.
Sang thế kỷ XV, phương thức sản xuất tb chủ nghĩa hình thành trong lòng các quốc gia Tây Âu
và dần thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trình độ mới của sản xuất xã hội đã trở thành
tiền đề cho sự phát triển lý luận kinh tế chính trị.
2.1.1 Sự phát của ktct thông qua trương phái trọng thương và trọng nông
*Trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương phát triển trong giai đoạn từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII ở
Tây Âu với các nhà kinh tế tiêu biểu ở các nước như Willian Stafford (Anh), Gasparo Scaruffi (ý)
Antonso Serra; Thomas Mun (Anh) A.Montchrétien (Pháp). Trong thời kỳ này, tư bản thương
nghiệp có vai trò thống trị nền kinh tế. Do vậy, chủ nghĩa trọng thương dành trọng tâm vào
nghiên cứu lĩnh vực lưu thông. Chủ nghĩa trọng thương đã khái quát đúng mục đích của các nhà
tư bản là tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng thương lý giải thiếu tỉnh khoa học khi
cho rằng nguồn gốc của lợi nhuận là từ thương nghiệp, thông qua việc mua rẻ, bán đắt. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ từ nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII
đã làm cho các quan điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên không còn phù hợp. Lĩnh vực lý
luận kinh tế chính trị trong thời kỳ này được bổ sung bởi sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa
trọng nông ở nước Pháp với các đại biểu tiêu biểu như Pierr Boisguillebert, Francoiç
Quesney, Jacques Turgot
Chủ nghĩ trọng thương đc ghi nhận là hệ thống lý luận kinh tế chính trị bước đầu nghiên cứu
về nền sản xuất của tư bản chủ nghĩa. *Trọng nông
Chủ nghĩa trọng nông xuất hiện chủ yếu ở Pháp vào giữa thế kỷ XVIII do hoàn cảnh kinh tế
đặc biệt của Pháp lúc bấy giờ là sự đình đồn của nền nông nghiệp. Do sự bóc lột hà khắc của địa
chủ phong kiến, nông dân phải nộp địa tô cao và nhiều thứ thuế khác, thêm vào đó là chính sách
trọng thương của Cônbe đã cướp bóc nông nghiệp để phát triển công nghiệp (hạ giá ngũ cốc,
thực hiện "ăn đói để xuất khẩu") làm cho nông nghiệp nước Pháp sa sút nghiêm trọng, nông dân
túng quẫn. Nhà triết học Vôn te đã nhân xét: "Nông dân bàn tán về lúa mỳ nhiều hơn về thượng
đề "
Trong bối cảnh đó chủ nghĩa trọng nông đã ra đời nhằm giải phóng kinh tế nông nghiệp nước
Pháp khỏi quan hệ sản xuất phong kiến, phát triển nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Những đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa trọng nông là Phơ răng xoa Kê nê và Tuyếc gô. So với
chủ nghĩa trọng thương thì chủ nghĩa trọng nông đã đạt được những bước tiến bộ đáng kể trong
phát triển khoa học kinh tế
Chủ nghĩa trọng nông đã chuyển đổi tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất, tìm nguồn của của cải và sự giàu có của xã hội từ lĩnh vực sản xuất, sản phẩm thăng dư là
phần chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất, giá trị hàng hoá có trước khi đem trao
đổi, còn lưu thông và trao đổi không tạo ra giả trị, lần đầu tiên việc nghiên cứu tái sản xuất xã
hội được thể hiện trong "Biểu kinh tế" của Ph. Kênê... là những tư tưởng thiên tài của thời kỳ bấy
giờ.
Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế: Coi nông nghiệp là ngành sản xuất duy
nhất, là nguồn gốc của sự giàu có, chưa thấy vai trò quan trọng của công nghiệp; chưa thấy mối
quan hệ thống nhất giữa sản xuất và lưu thông. Họ đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản thông qua các
phạm trù: sản phẩm thuần tuý, tư bản, lao động sản xuất, kết cấu giai cấp...nhưng lại chưa phân
tích được những khái niệm cơ sở như: hàng hoá, giá trị, tiền tệ, lợi nhuận.
2.2.1 Kinh tế chính trị trong lý thuyết tư liệu cổ điển anh
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu
thế kỷ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của William Petty, tiếp đến là A. Smith và kết thúc
ở hệ thống lý luận có nhiều giá trị khoa học của David Ricardo.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất,
trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị như phân công lao động, hàng hóa, giá
trị, tiền tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản... để rút ra các
quy luật kinh tế. Lý luận kinh tế chính trị cổ điển Anh đã rút ra kết luận giá trị là do hao phí lao
động tạo ra, giá trị khác với của cải... Đó là những đóng góp khoa học rất lớn của các đại biểu
kinh tế chính trị cổ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị của nhân loại, thể hiện sự phát
triển vượt bậc so với hệ thống lý luận của chủ nghĩa trọng nông.
2.3.1 Kinh tế chính trị Mac-Lenin
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được xác lập hoàn toàn ở
nhiều nước Tây Âu, những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt, phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống chế độ áp bức bóc lột của giai cấp tư sản ngày càng lên
cao và chuyển từ tự phát sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, đòi hỏi phải có
lý luận cách mạng làm vũ khí tư tưởng cho giai cấp vô sản chủ nghĩa Mác đã ra đời
Các Mác và Ăngghen là người sáng lập chủ nghĩa Mác với ba bộ phận cầu thành là triết học,
kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên cơ sở kế thừa có tính phê phán và chọn
lọc những lý luận khoa học của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp.
Mác và Ăngghen đã làm cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong kinh tế chính trị trên tất cả các
phương diện về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, nội dung, tính chất giai cấp... của KTCT.
KTCT MLN là sự thống nhất giữa tính khoa học và tỉnh cách mạng, dựa vào phép biện chứng
duy vật và đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét các hiện tượng và
quátrìnhkinh tế của xã hội tư bản. Mác đã xây dựng học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng của
học thuyết kinh tế mác xít. Mác đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản với
những tiến bộ, hạn chế, mâu thuẫn của nó và luận chứng khoa học về chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ
bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao hơn và tiến bộ hơn, đó là phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới, Lênin đã tiếp tục bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới. Lênin đã sang tạo ra lý luân khoa học về chủ nghĩa đế
quốc; khỏi thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa, tỉnh tất yếu khách quan, đặc điểm và
nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời Lênin còn vạch ra những
quá trình có tỉnh quy luật trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính sách kinh tế mới có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự phát triển của nhân loại.
2.3.1.1 Giai đoạn 1843- 1848
Đây là giai đoạn hình thành cơ sở triết học và phương pháp luân của Mác và Ăngghen để đi
vào nghiên cứu kinh tế chính trị. Lúc đầu các ông là những người dân chủ cách mạng, tích cực
tham gia phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ, bảo vệ lợi ích của nông dân, đòi tự do báo chí và
bắt đầu tìm hiểu những vấn đề về kinh tê. Các ông đã xây dựng thể giới quan phương pháp luận
khoa học - Phương pháp duy vật biện chứng. Đồng thời các ông chuyển từ lập trường dân chủ
sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.
Các ông đã khẳng định cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định chính trị, tư tưởng của thời đại,
sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đặc biệt khi
xã hội có giai cấp, thì lịch sử xã hội là lịch sử đầu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực
phát triển của xã hội loài người
(các ông đã vượt khỏi tư tưởng duy tâm và siêu hình).
Các ông đã xác định được đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là nghiên cứu mặt xã
hội của quá trình sản xuất và trao đổi những của cải vật chất nhất định của một xã hội, đồng thời
các ông đi vào nghiên cứu các khái niệm, phạm trù, quy luật của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa: hàng hóa, tiền tê, tư bản, giátrị, sở hữu và đi đến kết luận những người công sản có
nhiệm vụ xóa bỏ chế độ tư hữu.
Các ông khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là phương thức tồn
tại vĩnh viễn, nó tất yếu sẽ bị tiêu vong và được thay thế bằng một phương thức phát triển cao
hơn - đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử này là do giai cấp công
nhân đảm nhận
2.3.1.2 Giai đoạn 1848- 1895
Đây là giai đoạn xây dựng và hoàn thành học thuyết kinh tế của Mác và Ăngghen, hạt nhân
là bộ Tư bản.
Từ 1848 - 1856, các ông chuyển việc nghiên cứu từ lĩnh vực triết học sang lĩnh vực kinh tế
chính trị, trước hết là đi vào tim hiểu tình hình chính trị, xã hội của thế giới và đã viết một số tác
phẩm: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Ngày mười tám Sương mù của Loui Bonaparte", "Cách
mạng và phản cách mạng ở Đức".
Từ 1857 - 1858, Mác viết bản thảo kinh tế đầu tiên (không được xuất bản). Ở đây, ông trình
bày những quan điểm của mình về đối tương, phương pháp nghiên cứu ca kinh tế chính trị; về
hàng hóa, tiền tệ, tư bản, lợi nhuận, lợi tức và về tuần hoàn, chu chuyển của tư bản.
Đến năm 1859, Mác viết tác phẩm "Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị". Trong tác phẩm
này ông tiếp tục trình bày những tư tưởng của mình về duy vật lịch sử, về hàng hóa, giá trị, tiền
tệ.
Từ 1861-1863, Mác viết bản thảo kinh tế thứ hai gồm 23 quyển với 1472 trang và lấy tên là
"Tư bản". Trong bản thảo này, ông trình bày quá trình chuyển hóa của tiền thành tư bản, giá trị
thặng dư tuyệt đối và tương đối, lợi nhuận bình quân, và sơ đồ tái sản xuất tư bản xã hội.
Từ 1864-1865, Mác viết bản thảo thứ ba và chuẩn bị tư liệu cho bản thảo thứ tư. Trong bản
thảo thứ ba, ông trình bày về các loại hình tư bản
Năm 1867, Quyển 1 bộ Tư bản được xuất bản bằng tiếng Đức, sau đó được tái bản bằng
nhiều thứ tiếng khác nhau. Do điều kiện phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và sức
khoẻ, ông thể tiếp tục xuất bản những quyền tiếp theo.
Sau khi Mác mất, Ảngghen kế tục sự nghiệp của ông. Ăngghen chỉnh lý và cho xuất bản 2
quyển tiếp theo vào những năm: 1885 và 1894.
Ăngghen cùng Mác viết tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, khi Mác mất ông đã viết tác
phẩm Chống Đuyrinh để bảo vệ và phát triển học thuyết kinh tế của Mác. Thông qua tác phẩm
này Ăngghen đã khái quát bộ Tư bản thành ba bỏ phân: Triết học Mácxít, Kinh tế chính trị
mácxít, Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tóm lại, Mác, Ăngghen và Lênin đã thực hiện cuộc cách mạng vĩ đại trong kinh tế chính trị
học. Kinh tế chính trị Mác - Lênin là lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa
cộng sản.

Preview text:

Phân tích sự hình thành và phát triển của ktct Mác-Lenin
2.1 Sự phát triển của kinh tế chính trị Mac-Lenin
Kinh tế chính trị trong thời kì cổ đại, trung đại (từ thế kỷ XV về trc), trình độ pt của các nền sx
còn lạc hậu, chưa có đầy đủ những tiền đề cần thiết cho sự hình thành các lý luận chuyên về kt.
Các tư tưởng kinh tế thường được thấy trong các tác tp triết học, luận lý.
Sang thế kỷ XV, phương thức sản xuất tb chủ nghĩa hình thành trong lòng các quốc gia Tây Âu
và dần thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trình độ mới của sản xuất xã hội đã trở thành
tiền đề cho sự phát triển lý luận kinh tế chính trị.
2.1.1 Sự phát của ktct thông qua trương phái trọng thương và trọng nông
*Trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương phát triển trong giai đoạn từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII ở
Tây Âu với các nhà kinh tế tiêu biểu ở các nước như Willian Stafford (Anh), Gasparo Scaruffi (ý)
Antonso Serra; Thomas Mun (Anh) A.Montchrétien (Pháp). Trong thời kỳ này, tư bản thương
nghiệp có vai trò thống trị nền kinh tế. Do vậy, chủ nghĩa trọng thương dành trọng tâm vào
nghiên cứu lĩnh vực lưu thông. Chủ nghĩa trọng thương đã khái quát đúng mục đích của các nhà
tư bản là tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng thương lý giải thiếu tỉnh khoa học khi
cho rằng nguồn gốc của lợi nhuận là từ thương nghiệp, thông qua việc mua rẻ, bán đắt. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ từ nửa cuối thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII
đã làm cho các quan điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên không còn phù hợp. Lĩnh vực lý
luận kinh tế chính trị trong thời kỳ này được bổ sung bởi sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa
trọng nông ở nước Pháp với các đại biểu tiêu biểu như Pierr Boisguillebert, Francoiç Quesney, Jacques Turgot
Chủ nghĩ trọng thương đc ghi nhận là hệ thống lý luận kinh tế chính trị bước đầu nghiên cứu
về nền sản xuất của tư bản chủ nghĩa. *Trọng nông
Chủ nghĩa trọng nông xuất hiện chủ yếu ở Pháp vào giữa thế kỷ XVIII do hoàn cảnh kinh tế
đặc biệt của Pháp lúc bấy giờ là sự đình đồn của nền nông nghiệp. Do sự bóc lột hà khắc của địa
chủ phong kiến, nông dân phải nộp địa tô cao và nhiều thứ thuế khác, thêm vào đó là chính sách
trọng thương của Cônbe đã cướp bóc nông nghiệp để phát triển công nghiệp (hạ giá ngũ cốc,
thực hiện "ăn đói để xuất khẩu") làm cho nông nghiệp nước Pháp sa sút nghiêm trọng, nông dân
túng quẫn. Nhà triết học Vôn te đã nhân xét: "Nông dân bàn tán về lúa mỳ nhiều hơn về thượng đề "
Trong bối cảnh đó chủ nghĩa trọng nông đã ra đời nhằm giải phóng kinh tế nông nghiệp nước
Pháp khỏi quan hệ sản xuất phong kiến, phát triển nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Những đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa trọng nông là Phơ răng xoa Kê nê và Tuyếc gô. So với
chủ nghĩa trọng thương thì chủ nghĩa trọng nông đã đạt được những bước tiến bộ đáng kể trong
phát triển khoa học kinh tế
Chủ nghĩa trọng nông đã chuyển đổi tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất, tìm nguồn của của cải và sự giàu có của xã hội từ lĩnh vực sản xuất, sản phẩm thăng dư là
phần chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất, giá trị hàng hoá có trước khi đem trao
đổi, còn lưu thông và trao đổi không tạo ra giả trị, lần đầu tiên việc nghiên cứu tái sản xuất xã
hội được thể hiện trong "Biểu kinh tế" của Ph. Kênê... là những tư tưởng thiên tài của thời kỳ bấy giờ.
Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế: Coi nông nghiệp là ngành sản xuất duy
nhất, là nguồn gốc của sự giàu có, chưa thấy vai trò quan trọng của công nghiệp; chưa thấy mối
quan hệ thống nhất giữa sản xuất và lưu thông. Họ đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản thông qua các
phạm trù: sản phẩm thuần tuý, tư bản, lao động sản xuất, kết cấu giai cấp...nhưng lại chưa phân
tích được những khái niệm cơ sở như: hàng hoá, giá trị, tiền tệ, lợi nhuận.
2.2.1 Kinh tế chính trị trong lý thuyết tư liệu cổ điển anh
Kinh tế chính trị cổ điển Anh được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu
thế kỷ XIX, mở đầu là các quan điểm lý luận của William Petty, tiếp đến là A. Smith và kết thúc
ở hệ thống lý luận có nhiều giá trị khoa học của David Ricardo.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất,
trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế chính trị như phân công lao động, hàng hóa, giá
trị, tiền tệ, giá cả, giá cả thị trường, tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản... để rút ra các
quy luật kinh tế. Lý luận kinh tế chính trị cổ điển Anh đã rút ra kết luận giá trị là do hao phí lao
động tạo ra, giá trị khác với của cải... Đó là những đóng góp khoa học rất lớn của các đại biểu
kinh tế chính trị cổ điển Anh vào lĩnh vực lý luận kinh tế chính trị của nhân loại, thể hiện sự phát
triển vượt bậc so với hệ thống lý luận của chủ nghĩa trọng nông.
2.3.1 Kinh tế chính trị Mac-Lenin
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được xác lập hoàn toàn ở
nhiều nước Tây Âu, những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt, phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống chế độ áp bức bóc lột của giai cấp tư sản ngày càng lên
cao và chuyển từ tự phát sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, đòi hỏi phải có
lý luận cách mạng làm vũ khí tư tưởng cho giai cấp vô sản chủ nghĩa Mác đã ra đời
Các Mác và Ăngghen là người sáng lập chủ nghĩa Mác với ba bộ phận cầu thành là triết học,
kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên cơ sở kế thừa có tính phê phán và chọn
lọc những lý luận khoa học của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Mác và Ăngghen đã làm cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong kinh tế chính trị trên tất cả các
phương diện về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, nội dung, tính chất giai cấp... của KTCT.
KTCT MLN là sự thống nhất giữa tính khoa học và tỉnh cách mạng, dựa vào phép biện chứng
duy vật và đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét các hiện tượng và
quátrìnhkinh tế của xã hội tư bản. Mác đã xây dựng học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng của
học thuyết kinh tế mác xít. Mác đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản với
những tiến bộ, hạn chế, mâu thuẫn của nó và luận chứng khoa học về chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ
bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao hơn và tiến bộ hơn, đó là phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới, Lênin đã tiếp tục bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới. Lênin đã sang tạo ra lý luân khoa học về chủ nghĩa đế
quốc; khỏi thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa, tỉnh tất yếu khách quan, đặc điểm và
nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời Lênin còn vạch ra những
quá trình có tỉnh quy luật trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính sách kinh tế mới có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự phát triển của nhân loại.
2.3.1.1 Giai đoạn 1843- 1848
Đây là giai đoạn hình thành cơ sở triết học và phương pháp luân của Mác và Ăngghen để đi
vào nghiên cứu kinh tế chính trị. Lúc đầu các ông là những người dân chủ cách mạng, tích cực
tham gia phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ, bảo vệ lợi ích của nông dân, đòi tự do báo chí và
bắt đầu tìm hiểu những vấn đề về kinh tê. Các ông đã xây dựng thể giới quan phương pháp luận
khoa học - Phương pháp duy vật biện chứng. Đồng thời các ông chuyển từ lập trường dân chủ
sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.
Các ông đã khẳng định cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định chính trị, tư tưởng của thời đại,
sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đặc biệt khi
xã hội có giai cấp, thì lịch sử xã hội là lịch sử đầu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực
phát triển của xã hội loài người
(các ông đã vượt khỏi tư tưởng duy tâm và siêu hình).
Các ông đã xác định được đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là nghiên cứu mặt xã
hội của quá trình sản xuất và trao đổi những của cải vật chất nhất định của một xã hội, đồng thời
các ông đi vào nghiên cứu các khái niệm, phạm trù, quy luật của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa: hàng hóa, tiền tê, tư bản, giátrị, sở hữu và đi đến kết luận những người công sản có
nhiệm vụ xóa bỏ chế độ tư hữu.
Các ông khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là phương thức tồn
tại vĩnh viễn, nó tất yếu sẽ bị tiêu vong và được thay thế bằng một phương thức phát triển cao
hơn - đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử này là do giai cấp công nhân đảm nhận
2.3.1.2 Giai đoạn 1848- 1895
Đây là giai đoạn xây dựng và hoàn thành học thuyết kinh tế của Mác và Ăngghen, hạt nhân là bộ Tư bản.
Từ 1848 - 1856, các ông chuyển việc nghiên cứu từ lĩnh vực triết học sang lĩnh vực kinh tế
chính trị, trước hết là đi vào tim hiểu tình hình chính trị, xã hội của thế giới và đã viết một số tác
phẩm: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Ngày mười tám Sương mù của Loui Bonaparte", "Cách
mạng và phản cách mạng ở Đức".
Từ 1857 - 1858, Mác viết bản thảo kinh tế đầu tiên (không được xuất bản). Ở đây, ông trình
bày những quan điểm của mình về đối tương, phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị; về
hàng hóa, tiền tệ, tư bản, lợi nhuận, lợi tức và về tuần hoàn, chu chuyển của tư bản.
Đến năm 1859, Mác viết tác phẩm "Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị". Trong tác phẩm
này ông tiếp tục trình bày những tư tưởng của mình về duy vật lịch sử, về hàng hóa, giá trị, tiền tệ.
Từ 1861-1863, Mác viết bản thảo kinh tế thứ hai gồm 23 quyển với 1472 trang và lấy tên là
"Tư bản". Trong bản thảo này, ông trình bày quá trình chuyển hóa của tiền thành tư bản, giá trị
thặng dư tuyệt đối và tương đối, lợi nhuận bình quân, và sơ đồ tái sản xuất tư bản xã hội.
Từ 1864-1865, Mác viết bản thảo thứ ba và chuẩn bị tư liệu cho bản thảo thứ tư. Trong bản
thảo thứ ba, ông trình bày về các loại hình tư bản
Năm 1867, Quyển 1 bộ Tư bản được xuất bản bằng tiếng Đức, sau đó được tái bản bằng
nhiều thứ tiếng khác nhau. Do điều kiện phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và sức
khoẻ, ông thể tiếp tục xuất bản những quyền tiếp theo.
Sau khi Mác mất, Ảngghen kế tục sự nghiệp của ông. Ăngghen chỉnh lý và cho xuất bản 2
quyển tiếp theo vào những năm: 1885 và 1894.
Ăngghen cùng Mác viết tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, khi Mác mất ông đã viết tác
phẩm Chống Đuyrinh để bảo vệ và phát triển học thuyết kinh tế của Mác. Thông qua tác phẩm
này Ăngghen đã khái quát bộ Tư bản thành ba bỏ phân: Triết học Mácxít, Kinh tế chính trị
mácxít, Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tóm lại, Mác, Ăngghen và Lênin đã thực hiện cuộc cách mạng vĩ đại trong kinh tế chính trị
học. Kinh tế chính trị Mác - Lênin là lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.