lOMoARcPSD| 59054137
Hiểu biết tâm lý cổ đại
[sửa | sửa mã nguồn]
Các nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ Ba đều nghiên
cứu tầm triết học về tâm học. Ở Ai Cập cổ đại, sách Ebers Papyrus đã nhắc đến
chứng trầm cảm rối loạn duy.
[16]
Các nhà sử học cho rằng các triết gia La Mã, bao
gồm Thales, Plato, và Aristotle ặc biệt trong luận thuyết Bàn về Linh Hồn De Anima
của ông),
[17]
đều đcập đến cách thức hoạt động của trí óc.
[18]
Từ thế kỷ IV TCN, thầy
thuốc người Hy Lạp cổ đại Hippocrates đã cho rằng rằng bệnh tâm thần nguyên do
sinh lý chứ không phải tâm linh.
[19]
Ở Trung Quốc, hiểu biết về tâm lý học được phát triển trong các công trình triết học của
Lão Tử Khổng Tử, sau này từ các học thuyết của Phật giáo. Các kiến thức này
phát triển từ quan sát nội quan, cũng như các kỹ thuật tư duy sâu. Tư tưởng chung
cho rằng trụ bao gồm, kết quả của sự ơng tác giữa, thế giới vật chất thế
giới tinh thần, trong đó nhấn mạnh vào việc thanh lọc tâm hồn để tăng cường đức hạnh
và năng lực. Tác phẩm cổ đại Hoàng Đế Nội Kinh xác định não bộ là mối liên hệ giữa trí
tuệ và cảm giác, bao gồm những giả thuyết rằng nhân cách được dựa trên sự cân bằng
âm - dương, tđó phân tích bệnh tâm thần dựa trên sự mất cân bằng sinh
hội. Giới học thuật Trung Quốc tập trung vào não bộ bước phát triển tiếp theo vào thời
nhà Thanh với các công trình của học giả được đào tạo từ phương Tây như Phương Dĩ
T(1611–1671),
[20]
Lưu Chí (1660–1730), Vương Thanh Nhân (1768–1831). Vương
Thanh Nhân nhấn mạnh tầm quan trọng của não bộ như là trung tâm của hệ thống thần
kinh, đề ra mối liên kết giữa bệnh tâm thần với các bệnh về não, nghiên cứu các nguyên
nhân gây nên giấc chứng mất ngủ, phát triển một lý thuyết về sự chuyên biệt
hóa của chức năng não trên bán cầu đại não.
[21]
Phân biệt về các loại nhận thức khác nhau cũng đã xuất hiện trong các tư tưởng cổ đại
Ấn Độ, dưới nh ởng của đạo Hindu. ởng chủ đạo của Áo Nghĩa Thư sự
phân biệt giữa bản ngã trần tục tạm thời của một người linh hồn bất biến vĩnh cửu
của họ. Các học thuyết đạo Hindu khác, đạo Phật, những bất đồng về cấu trúc bản
ngã này, nhưng đều nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc đạt đến cảnh giới nhận
thức cao hơn. Yoga là một tập hợp các kỹ thuật được dùng đtheo đuổi mục đích này.
Phần lớn các tập văn tiếng Phạn đã bị trấn áp i ảnh hưởng thời công ty Đông Ấn Anh
và sau đó thời Raj thuộc Anh vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, các học thuyết Ấn Độ vẫn nh
ởng tư tưởng phương Tây thông qua hội Thông Thiên, một tổ chức thời đại mới phổ
biến trong giới tri thức Âu - Mỹ.
[22]
Tâm lý học là một chủ đề phbiến trong thời kỳ Khai sáng ở châu Âu. Tại
Đức, Gottfried Wilhelm Leibniz (1646–1716) đã áp dụng các nguyên lý giải tích của ông
cho trí não, chủ yếu cho rằng các hoạt động tâm thần diễn ra trên một trục liên tục không
thể bị chia nhỏ, và rằng trong số vô số nhận thức và ham muốn của con người, sự khác
biệt giữa nhận biết ý thức nhận biết vô thức là rất nhỏ. Christian Wolff xác định tâm
học một môn khoa học riêng, viết tác phẩm Psychologia empirica năm 1732
Psychologia rationalis năm 1734. tưởng này tiếp tục được phát triển bởi Immanuel
lOMoARcPSD| 59054137
Kant, người đã đề ra ý tưởng về ngành nhân chủng học, với tâm học một nhánh
quan trọng trong đó. Tuy nhiên, Kant dứt khoát phản đối ý tưởng về tâm lý học dựa trên
thí nghiệm, viết rằng"học thuyết kinh nghiệm về tâm hồn không bao giờ thể đạt tới
[những bộ môn như] hóa học kể cả chỉ như là một nghệ thuật phân tích có hệ thống hay
là một học thuyết dựa trên thí nghiệm [khoa học]; vì trong nó tính đa chiều của nội quan
thể bị phân tách chỉ bởi sự phân ch ý niệm [mất tập trung], không thbị gi
trạng thái độc lập tái hợp lại theo ý muốn [của người thí nghiệm] được (nhưng
vậy cũng không có nhiều chthể tư duy chịu để bị thí nghiệm cho phù hợp với mục đích
của chúng ta) kể csự quan sát [tâm lý] chính cũng làm thay đổi và phá hỏng trạng
thái vốn của khách thể được quan sát."Năm 1783, Ferdinand Ueberwasser (1752-
1812) tự xác định ông giáo môn Logic học Tâm học kinh nghiệm bắt đầu
giảng dạy Tâm học một cách khoa học. Những bước phát triển này sớm bngừng lại
do chiến tranh Napoleon, sau đó Đại học Münster (cũ) bị đình chbởi chính quyền Phổ.
[23]
Tuy nhiên, với sự vấn của triết gia Hegel Herbart, vào năm 1825, ớc Phổ đã thiết
lập tâm học như một ngành học bắt buộc trong hthống giáo dục đang phát triển
nhanh rất ảnh hưởng của mình. Tuy nhiên, ngành học này chưa bao gồm thí
nghiệm thực chứng.
[24]
Tại Anh, tâm học thời kỳ đầu bao gồm não tướng học các
nghiên cứu về các vấn đề xã hội như nghiện rượu, bạo lực c trại điên đông đúc ca
ớc này.
[25]
Giai đoạn khởi đầu thí nghiệm tâm
[sửa | sửa mã nguồn]
Wilhelm Wundt (đang ngồi) với các cộng sự trong phòng
thí nghiệm tâm lý của ông, cũng là phòng thí nghiệm đầu tiên.
Gustav Fechner bt đầu những nghiên cứu tâm vật lý học tại Leipzig vào những năm
1830, phổ biến nguyên bản Weber–Fechner rằng nhận thức của con người về
một kích thích nào đó biến thiên theo hàm logarit của mật độ kích thích.
[26]
Tác phẩm
Elements of Psychophysics của Fechner năm 1860 đã phản bác lại scứng nhắc của
Kant chống lại các nghiên cứu định tính về trí não.
[24][27]
Heidelberg, Hermann von Helmholtz đã tiến hành các nghiên cứu song song về nhn
thức giác quan, và đào tạo nhà sinh lý học Wilhelm Wundt. Đến lượt Wundt, ông đến đại
học Leipzig, thành lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên và đưa thế giới đến với tâm
lý học dựa trên thí nghiệm thực chứng. Wundt tập trung vào việc phân tích các tiến trình
tâm thần thành các cấu phần bản nhất, lấy cảm hứng từ các tiến bộ thời bấy giờ trong
hóa học trong việc khám phá ra các nguyên tố cấu trúc vật liệu.
[28]
Paul Flechsig
lOMoARcPSD| 59054137
Emil Kraepelin sau đó cũng thành lập một phòng thí nghiệm tâm ảnh ởng tại
Leipzig, tập trung nhiều hơn vào các thí nghiệm tâm thần y khoa.
[24]
Các nhà tâm học Đức, Đan Mạch, Áo, Anh Quốc Hoa Kỳ nhanh chóng theo Wundt
thiết lập các phòng thí nghiệm.
[29]
G. Stanley Hall theo học với Wundt, thành lập một phòng
thí nghiệm tâm tầm nh hưởng quốc tế ở đại học Johns Hopkins Maryland. Đến
ợt Hall, ông đào tạo Yujiro Motora, người đã mang tâm học thực nghiệm, với trọng
tâm về m vật học, về đại học Tokyo.
[30]
Trcủa Wundt Hugo Münsterberg dy
tâm học tại Harvard cho những sinh viên như Narendra Nath Sen Guptangười
vào năm 1905, đã thành lập khoa tâm học phòng thí nghiệm đại học Calcutta.
[22]
Học trò của Wundt như Walter Dill Scott, Lightner Witmer, James McKeen Cattell
những người đã phát triển các bài trắc nghiệm để xác định năng lực tâm lý. Catell, người
cũng đã theo học với nhà ưu sinh học Francis Galton, người thành lập công ty
Psychological Corporation (nay trực thuộc tập đoàn xuất bản phẩm Pearson). Wittmer
tập trung vào các kiểm nghiệm tâm thần trem; còn Scott tập trung vào tâm trong
tuyển dụng nhân viên.
[26]
Một học trò khác của Wundt, Edward Titchener, thành lập chương trình tâm lý học ở đại
học Cornell phát triển học thuyết tâm lý"cấu trúc luận". Tâm học cấu trúc tìm cách
phân tích và xếp loại các thành phần của tâm hồn, chủ yếu thông qua phương pháp nội
quan.
[31]
William James, John Dewey Harvey Carr phát triển một học thuyết rộng hơn
gọi là tâm lý học chức năng, tập trung nhiều hơn vào các hành vi của con người và môi
trường. Năm 1890, James viết một cuốn sách nh hưởng lớn, The Principles of
Psychology (Các nguyên của Tâm học), trong đó mở rộng giới hạn của m hc
cấu trúc, đáng chú ý nhất tả con người như"một chuỗi ý thức"("stream of
consciousness"), thu hút nhiều sinh viên Hoa Kỳ vào ngành học mới mẻ này.
[31][32] [33]
Dewey tích hợp tâm học với các vấn đề xã hội, đáng kể nhất đấu tranh cho việc phát
triển giáo dục tiến bộ dễ hòa nhập dành cho người nhập cư và khắc sâu giá trị đạo đức
trẻ em.
Một hướng phát triển khác của tâm lý thực nghiệm có liên hệ với sinh lý học cũng được
phát triển tại Nam Mỹ ới sự lãnh đạo của Horacio G. Piñero tại trường đại học Buenos
Aires
[34]
. Nga, nghiên cứu về nền tảng sinh học của tâm lý được chú trọng, bắt đầu với
bài viết khoa học"Ngành tâm học được phát triển bởi ai như thế nào?"của Ivan
Sechenov. Sechenov phát triển ý ởng về phản xạ não bủng hộ mạnh mẽ thuyết
quyết định về hành vi con người.
[35]
Wolfgang Kohler, Max WertheimerKurt Koffka đồng sáng lập một trường phái tâm lý
mang tên Gestalt (tâm hình thức) (không liên quan đến liệu pháp Gestalt của Fritz
Perls). Trường phái này dựa trên ý tưởng rằng mỗi cá nhân trải nghiệm nhận thức vật
thhay thế giới xung quanh mình một cách tổng thể chứ không phải riêng biệt. Thay
tìm cách phân tách tư tưởng và hành vi thành từng yếu tố nhỏ để nghiên cứu như tâm
học cấu trúc, các nhà tâm Gestalt cho rằng trải nghiệm tổng thể mới quan trọng, và
khác biệt với tổng thành phần của các trải nghiệm riêng lẻ. Những nhà khoa học khác
cũng đóng góp vào trường phái này trong thế kỷ 19 như nhà tâm học Hermann
lOMoARcPSD| 59054137
Ebbinghaus, người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu trí nhớ đã phát triển các mô hình
về cơ chế học tập và lãng quên tại Đại học Berlin
[36]
, và nhà sinh lý học Xô Viết nổi tiếng
Ivan Pavlov, người phát hiện trên chó chế học tập hành vi sau này được gọi
phản xạ có điều kiện và áp dụng trên người.
[37]
Giai đoạn thể chế hoáquỹ nghiên cứu

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59054137
Hiểu biết tâm lý cổ đại
[sửa | sửa mã nguồn]
Các nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ và Ba Tư đều có nghiên
cứu ở tầm triết học về tâm lý học. Ở Ai Cập cổ đại, sách Ebers Papyrus đã nhắc đến
chứng trầm cảm và rối loạn tư duy.[16] Các nhà sử học cho rằng các triết gia La Mã, bao
gồm Thales, Plato, và Aristotle (đặc biệt là trong luận thuyết Bàn về Linh Hồn De Anima
của ông),[17] đều đề cập đến cách thức hoạt động của trí óc.[18] Từ thế kỷ IV TCN, thầy
thuốc người Hy Lạp cổ đại Hippocrates đã cho rằng rằng bệnh tâm thần có nguyên do
sinh lý chứ không phải tâm linh.[19]
Ở Trung Quốc, hiểu biết về tâm lý học được phát triển trong các công trình triết học của
Lão Tử và Khổng Tử, và sau này từ các học thuyết của Phật giáo. Các kiến thức này
phát triển từ quan sát và nội quan, cũng như các kỹ thuật tư duy sâu. Tư tưởng chung là
cho rằng vũ trụ bao gồm, và là kết quả của sự tương tác giữa, thế giới vật chất và thế
giới tinh thần, trong đó nhấn mạnh vào việc thanh lọc tâm hồn để tăng cường đức hạnh
và năng lực. Tác phẩm cổ đại Hoàng Đế Nội Kinh xác định não bộ là mối liên hệ giữa trí
tuệ và cảm giác, bao gồm những giả thuyết rằng nhân cách được dựa trên sự cân bằng
âm - dương, và từ đó phân tích bệnh tâm thần dựa trên sự mất cân bằng sinh lý và xã
hội. Giới học thuật Trung Quốc tập trung vào não bộ có bước phát triển tiếp theo vào thời
nhà Thanh với các công trình của học giả được đào tạo từ phương Tây như Phương Dĩ
Trí (1611–1671),[20] Lưu Chí (1660–1730), và Vương Thanh Nhân (1768–1831). Vương
Thanh Nhân nhấn mạnh tầm quan trọng của não bộ như là trung tâm của hệ thống thần
kinh, đề ra mối liên kết giữa bệnh tâm thần với các bệnh về não, nghiên cứu các nguyên
nhân gây nên giấc mơ và chứng mất ngủ, và phát triển một lý thuyết về sự chuyên biệt
hóa của chức năng não trên bán cầu đại não.[21]
Phân biệt về các loại nhận thức khác nhau cũng đã xuất hiện trong các tư tưởng cổ đại
ở Ấn Độ, dưới ảnh hưởng của đạo Hindu. Tư tưởng chủ đạo của Áo Nghĩa Thư là sự
phân biệt giữa bản ngã trần tục tạm thời của một người và linh hồn bất biến vĩnh cửu
của họ. Các học thuyết đạo Hindu khác, và đạo Phật, có những bất đồng về cấu trúc bản
ngã này, nhưng đều nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc đạt đến cảnh giới nhận
thức cao hơn. Yoga là một tập hợp các kỹ thuật được dùng để theo đuổi mục đích này.
Phần lớn các tập văn tiếng Phạn đã bị trấn áp dưới ảnh hưởng thời công ty Đông Ấn Anh
và sau đó là thời Raj thuộc Anh vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, các học thuyết Ấn Độ vẫn ảnh
hưởng tư tưởng phương Tây thông qua hội Thông Thiên, một tổ chức thời đại mới phổ
biến trong giới tri thức Âu - Mỹ.[22]
Tâm lý học là một chủ đề phổ biến trong thời kỳ Khai sáng ở châu Âu. Tại
Đức, Gottfried Wilhelm Leibniz (1646–1716) đã áp dụng các nguyên lý giải tích của ông
cho trí não, chủ yếu cho rằng các hoạt động tâm thần diễn ra trên một trục liên tục không
thể bị chia nhỏ, và rằng trong số vô số nhận thức và ham muốn của con người, sự khác
biệt giữa nhận biết có ý thức và nhận biết vô thức là rất nhỏ. Christian Wolff xác định tâm
lý học là một môn khoa học riêng, viết tác phẩm Psychologia empirica năm 1732 và
Psychologia rationalis năm 1734. Tư tưởng này tiếp tục được phát triển bởi Immanuel lOMoAR cPSD| 59054137
Kant, người đã đề ra ý tưởng về ngành nhân chủng học, với tâm lý học là một nhánh
quan trọng trong đó. Tuy nhiên, Kant dứt khoát phản đối ý tưởng về tâm lý học dựa trên
thí nghiệm, viết rằng"học thuyết kinh nghiệm về tâm hồn không bao giờ có thể đạt tới
[những bộ môn như] hóa học kể cả chỉ như là một nghệ thuật phân tích có hệ thống hay
là một học thuyết dựa trên thí nghiệm [khoa học]; vì trong nó tính đa chiều của nội quan
có thể bị phân tách chỉ bởi sự phân tách ý niệm [mất tập trung], và không thể bị giữ ở
trạng thái độc lập và tái hợp lại theo ý muốn [của người thí nghiệm] được (nhưng dù là
vậy cũng không có nhiều chủ thể tư duy chịu để bị thí nghiệm cho phù hợp với mục đích
của chúng ta) và kể cả sự quan sát [tâm lý] chính nó cũng làm thay đổi và phá hỏng trạng
thái vốn có của khách thể được quan sát."Năm 1783, Ferdinand Ueberwasser (1752-
1812) tự xác định ông là giáo sư môn Logic học và Tâm lý học kinh nghiệm và bắt đầu
giảng dạy Tâm lý học một cách khoa học. Những bước phát triển này sớm bị ngừng lại
do chiến tranh Napoleon, sau đó Đại học Münster (cũ) bị đình chỉ bởi chính quyền Phổ.[23]
Tuy nhiên, với sự tư vấn của triết gia Hegel và Herbart, vào năm 1825, nước Phổ đã thiết
lập tâm lý học như một ngành học bắt buộc trong hệ thống giáo dục đang phát triển
nhanh và rất có ảnh hưởng của mình. Tuy nhiên, ngành học này chưa bao gồm thí
nghiệm thực chứng.[24] Tại Anh, tâm lý học thời kỳ đầu bao gồm não tướng học và các
nghiên cứu về các vấn đề xã hội như nghiện rượu, bạo lực và các trại điên đông đúc của nước này.[25]
Giai đoạn khởi đầu thí nghiệm tâm lý
[sửa | sửa mã nguồn]
Wilhelm Wundt (đang ngồi) với các cộng sự trong phòng
thí nghiệm tâm lý của ông, cũng là phòng thí nghiệm đầu tiên.
Gustav Fechner bắt đầu những nghiên cứu tâm vật lý học tại Leipzig vào những năm
1830, phổ biến nguyên lý cơ bản Weber–Fechner rằng nhận thức của con người về
một kích thích nào đó biến thiên theo hàm logarit của mật độ kích thích.[26] Tác phẩm
Elements of Psychophysics của Fechner năm 1860 đã phản bác lại sự cứng nhắc của
Kant chống lại các nghiên cứu định tính về trí não.[24][27] Ở
Heidelberg, Hermann von Helmholtz đã tiến hành các nghiên cứu song song về nhận
thức giác quan, và đào tạo nhà sinh lý học Wilhelm Wundt. Đến lượt Wundt, ông đến đại
học Leipzig, thành lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên và đưa thế giới đến với tâm
lý học dựa trên thí nghiệm thực chứng. Wundt tập trung vào việc phân tích các tiến trình
tâm thần thành các cấu phần cơ bản nhất, lấy cảm hứng từ các tiến bộ thời bấy giờ trong
hóa học trong việc khám phá ra các nguyên tố và cấu trúc vật liệu.[28] Paul Flechsig và lOMoAR cPSD| 59054137
Emil Kraepelin sau đó cũng thành lập một phòng thí nghiệm tâm lý có ảnh hưởng tại
Leipzig, tập trung nhiều hơn vào các thí nghiệm tâm thần y khoa.[24]
Các nhà tâm lý học ở Đức, Đan Mạch, Áo, Anh Quốc và Hoa Kỳ nhanh chóng theo Wundt
thiết lập các phòng thí nghiệm.[29] G. Stanley Hall theo học với Wundt, thành lập một phòng
thí nghiệm tâm lý có tầm ảnh hưởng quốc tế ở đại học Johns Hopkins ở Maryland. Đến
lượt Hall, ông đào tạo Yujiro Motora, người đã mang tâm lý học thực nghiệm, với trọng
tâm về tâm vật lý học, về đại học Tokyo.[30] Trợ lý của Wundt là Hugo Münsterberg dạy
tâm lý học tại Harvard cho những sinh viên như Narendra Nath Sen Gupta—người mà
vào năm 1905, đã thành lập khoa tâm lý học và phòng thí nghiệm ở đại học Calcutta.[22]
Học trò của Wundt như Walter Dill Scott, Lightner Witmer, và James McKeen Cattell là
những người đã phát triển các bài trắc nghiệm để xác định năng lực tâm lý. Catell, người
cũng đã theo học với nhà ưu sinh học Francis Galton, là người thành lập công ty
Psychological Corporation (nay trực thuộc tập đoàn xuất bản phẩm Pearson). Wittmer
tập trung vào các kiểm nghiệm tâm thần ở trẻ em; còn Scott tập trung vào tâm lý trong
tuyển dụng nhân viên.[26]
Một học trò khác của Wundt, Edward Titchener, thành lập chương trình tâm lý học ở đại
học Cornell và phát triển học thuyết tâm lý"cấu trúc luận". Tâm lý học cấu trúc tìm cách
phân tích và xếp loại các thành phần của tâm hồn, chủ yếu thông qua phương pháp nội
quan.[31] William James, John Dewey và Harvey Carr phát triển một học thuyết rộng hơn
gọi là tâm lý học chức năng, tập trung nhiều hơn vào các hành vi của con người và môi
trường. Năm 1890, James viết một cuốn sách có ảnh hưởng lớn, The Principles of
Psychology (Các nguyên lý của Tâm lý học)
, trong đó mở rộng giới hạn của tâm lý học
cấu trúc, đáng chú ý nhất là mô tả con người như"một chuỗi ý thức"("stream of
consciousness"), và thu hút nhiều sinh viên Hoa Kỳ vào ngành học mới mẻ này.[31][32] [33]
Dewey tích hợp tâm lý học với các vấn đề xã hội, đáng kể nhất là đấu tranh cho việc phát
triển giáo dục tiến bộ dễ hòa nhập dành cho người nhập cư và khắc sâu giá trị đạo đức ở trẻ em.
Một hướng phát triển khác của tâm lý thực nghiệm có liên hệ với sinh lý học cũng được
phát triển tại Nam Mỹ dưới sự lãnh đạo của Horacio G. Piñero tại trường đại học Buenos
Aires[34]. Ở Nga, nghiên cứu về nền tảng sinh học của tâm lý được chú trọng, bắt đầu với
bài viết khoa học"Ngành tâm lý học được phát triển bởi ai và như thế nào?"của Ivan
Sechenov. Sechenov phát triển ý tưởng về phản xạ não bộ và ủng hộ mạnh mẽ thuyết
quyết định về hành vi con người.[35]
Wolfgang Kohler, Max Wertheimer và Kurt Koffka đồng sáng lập một trường phái tâm lý
mang tên Gestalt (tâm lý hình thức) (không liên quan đến liệu pháp Gestalt của Fritz
Perls). Trường phái này dựa trên ý tưởng rằng mỗi cá nhân trải nghiệm và nhận thức vật
thể hay thế giới xung quanh mình một cách tổng thể chứ không phải riêng biệt. Thay vì
tìm cách phân tách tư tưởng và hành vi thành từng yếu tố nhỏ để nghiên cứu như tâm lý
học cấu trúc, các nhà tâm lý Gestalt cho rằng trải nghiệm tổng thể mới quan trọng, và
khác biệt với tổng thành phần của các trải nghiệm riêng lẻ. Những nhà khoa học khác
cũng đóng góp vào trường phái này trong thế kỷ 19 như nhà tâm lý học Hermann lOMoAR cPSD| 59054137
Ebbinghaus, người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu trí nhớ và đã phát triển các mô hình
về cơ chế học tập và lãng quên tại Đại học Berlin[36], và nhà sinh lý học Xô Viết nổi tiếng
Ivan Pavlov, người phát hiện trên chó cơ chế học tập hành vi mà sau này được gọi là
phản xạ có điều kiện và áp dụng trên người.[37]
Giai đoạn thể chế hoá và quỹ nghiên cứu