-
Thông tin
-
Quiz
Khoá luận các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai
CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Quản lí công 172 tài liệu
Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
Khoá luận các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai
CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Quản lí công 172 tài liệu
Trường: Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Hành chính Quốc gia
Preview text:
lOMoARcPSD|49605928 LỜI NÓI ĐẦU
Đất đai là tài sản quốc gia và quyền sử dụng đất là đối tượng của các giao
dịch đất đai trong nền kinh tế thị trường thông qua việc chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp. Song do đặc thù về sở hữu đất đai ở Việt
Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, nên Nhà
nước thực hiện quyền quản lý nhằm làm cho đất đai được sử dụng tiết kiệm, đúng
mục đích và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên trong suốt quá trình quản lý đất
đai, vấn đề giải quyết hài hoà giữa sự quản lý tập trung, thống nhất của chính
quyền Trung ương với việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương có
ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
Để đảm bảo lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích của các tổ chức, cá nhân
sử dụng đất, pháp luật đã có những quy định rất cụ thể về quản lý và sử dụng đất.
Việc phân cấp quản lý đất đai trong thời gian vừa qua đã thu được những thành
tựu đáng kể. Mô hình quản lý tập trung, dân chủ tạo điều kiện thuận lợi để phát
huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý
Nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, do dấu ấn nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp tồn tại trong thời gian dài đã ảnh hưởng đến việc quản lý đất đai của Nhà
nước ta. Điều này thể hiện qua việc Chính phủ ôm đồm quá nhiều lĩnh vực quản
lý đất đai từ việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến việc xét duyệt giao đất,
cho thuê đất. Do đó, dẫn đến tình trạng nhiều lúc Chính phủ mất quá nhiều thời
gian giải quyết các công việc mang tính sự vụ mà chưa quan tâm thích đáng đến
xây dựng, hoạch định các chiến lược, chính sách về đất đai. Trong khi đó, chính
quyền địa phương lại chưa được giao thẩm quyền quản lý tương thích để có thể
chủ động quản lý và sử dụng đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của địa
phương. Vì vậy, việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản
lý Nhà nước về đất đai là rất cần thiết nhằm giúp các địa phương chủ động giao
đất, cho thuê đất, nhanh chóng thực hiện các dự án đầu tư góp phần vào sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. lOMoARcPSD|49605928
Nhận thức sâu sắc thực tiễn cũng như tính cấp thiết của vấn đề, với mong
muốn đóng góp một vài kiến nghị nhỏ cho việc phân quyền mạnh cho các cấp
chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai, em đã mạnh dạn lựa
chọn đề tài: “Các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa
phương trong quản lý Nhà nước về đất đai” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật.
Khoá luận được thực hiện với những mục đích nghiên cứu cơ bản sau: -
Nghiên cứu những vấn đề lý luận của việc phân quyền mạnh cho
chínhquyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai nhằm góp phần làm
sáng tỏ và hoàn thiện lý luận về quản lý Nhà nước về đất đai trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. -
Phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp
luậthiện hành về việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản
lý Nhà nước về đất đai. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, những kiến nghị
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai nói chung và các quy định về phân
quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý đất đai nói riêng.
Trong khuôn khổ có hạn của một đề tài khoá luận tốt nghiệp đại học, khoá
luận chỉ nghiên cứu vấn đề phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong
quản lý Nhà nước về đất đai từ năm 1993 (năm Nhà nước ban hành luật đất đai) đến nay.
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, khoá
luận tốt nghiệp đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: -
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin -
Quan điểm, lý luận của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp
luậttrong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, khoá luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh, dẫn chiếu để luận giải, chứng
minh cho các nhận xét, đánh giá. lOMoARcPSD|49605928
Ngoài phần lời nói đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
được kết cấu như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về việc phân quyền mạnh cho chính
quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai.
Chương II: Vấn đề phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong
quản lý nhà nước về đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân quyền
mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai. CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI.
1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về đất đai.
1.1.1. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về đất đai.
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù xác lập hình thức sở hữu tư nhân hay
sở hữu toàn dân về đất đai thì Nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý đất đai.
Sự quản lý của Nhà nước đối với đất đai mang tính tất yếu, khách quan, bởi vì:
Thứ nhất, xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của đất đai. Đất đai không
chỉ tác động trực tiếp đến lợi ích của mỗi con người mà còn có liên quan mật thiết
đến lợi ích của cả quốc gia và toàn xã hội. Đất đai là tài sản vô cùng quý giá, là tư
liệu sản xuất chính của một số ngành sản xuất như gạch, ngói, đồ gốm. Đất đai là
bộ phận cấu thành nên lãnh thổ quốc gia. Đất đai là nơi con người sinh sống tập
trung lâu dài, xây dựng nhà cửa, các công trình văn hoá, phân bố các ngành kinh
tế quốc dân. Mặt khác, đất đai còn là cơ sở để phát triển các hệ sinh thái, là một
yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Mặc dù có vai trò vô cùng quan
trọng như vậy nhưng đất đai chỉ có thể phát huy được lợi thế vốn có của mình nếu
nhận được sự tác động tích cực của con người một cách thường xuyên. Ngược lại,
nếu con người tác động vào đất đai một cách tuỳ tiện, tự phát sẽ làm giảm những
giá trị to lớn của đất đai. Vì vậy, việc quản lý, sử dụng đất một cách hợp lý, tiết lOMoARcPSD|49605928
kiệm và có hiệu quả thuộc về trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước có đủ điều
kiện và khả năng để thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi cả nước.
Thứ hai, xuất phát từ chức năng chủ yếu và thường xuyên của Nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức chính trị quyền lực do xã hội thiết lập nên, thay mặt xã
hội quản lý các hoạt động của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển theo một trật
tự nhất định. Trong đó đất đai là tài sản chung của xã hội nên cần phải được Nhà
nước quản lý. Nhà nước là một tổ chức chính trị - quyền lực, có quyền xây dựng,
ban hành và bảo đảm cho pháp luật đất đai được thực hiện một cách nghiêm minh
nên trong các phương thức quản lý xã hội của con người thì phương thức quản lý
do Nhà nước thực hiện là phương thức quản lý có hiệu quả nhất. Cho nên, tất yếu
quản lý nhà nước phải được áp dụng trong lĩnh vực quản lý đất đai Tài sản quan
trọng và quý giá nhất của xã hội.
Thứ ba, xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Nhà nước được hình thành và xác lập dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội mà đất đai là tư liệu sản xuất
chính có giá trị nhất nên Nhà nước phải thực hiện quản lý đất đai. Theo đó, Nhà
nước sẽ đại diện toàn dân tiến hành các hoạt động lập, xét duyệt, quản lý quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phù hợp với các mục tiêu phát triển nền kinh tế
xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ tư, quản lý Nhà nước về đất đai được xác lập dựa trên những yếu tố
lịch sử. Sự phát triển của các triều đại phong kiến ở nước ta luôn khẳng định và
đề cao quyền sở hữu tối cao ruộng đất của Nhà nước (mà đại diện là nhà vua), hạn
chế hình thức sở hữu tư nhân về đất đai. Đất đai là đối tượng xâm lấn của các thế
lực bên ngoài nên các cuộc chiến tranh cũng chỉ vì đất, vì mở rộng lãnh thổ. Bởi
lẽ, đất đai ở nước ta luôn hàm chứa trong đó các yếu tố chính trị, kinh tế và xã
hội. Nó phản ánh nguyện vọng và lợi ích của các giai tầng khác nhau trong xã hội.
Tuy nhiên, trước tiên và trên hết, đất đai ở nước ta luôn được xác định là lãnh thổ,
chủ quyền quốc gia, là tài sản chung của xã hội và của cả cộng đồng. Trải qua
quá trình đấu tranh gian khổ chống ngoại xâm giành độc lập, các thế hệ người Việt lOMoARcPSD|49605928
Nam đã giữ gìn và bảo vệ vốn đất như ngày nay. Do vậy, đất đai là thành quả của
cách mạng, là chủ quyền, là lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc được khai phá và
bảo vệ bằng chính mồ hôi xương máu của người Việt Nam nên phải thuộc sở hữu
chung của toàn xã hội mà Nhà nước là người đại diện thực hiện việc thống nhất
quản lý. Hơn nữa, mặc dù nước ta đã thực hiện đổi mới, đưa nền kinh tế phát triển
theo cơ chế thị trường nhưng vẫn là một nước nông nghiệp có tốc độ phát triển
dân số cao, đại bộ phận dân số là nông dân nhưng tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp
bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới. Vì vậy, để quản lý và bảo vệ chặt
chẽ quỹ đất nông nghiệp vì lợi ích của các thế hệ người Việt Nam hiện tại và tương
lai thì Nhà nước phải thực hiện việc quản lý đất đai.
Tóm lại, những điều phân tích trên đây là cơ sở để Nhà nước thực hiện
thống nhất quyền quản lý của mình đối với đất đai. Và qua đó cũng khẳng định
được sự cần thiết và tầm quan trọng của quản lý Nhà nước về đất đai. Nhà nước
quản lý đất đai thống nhất tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và củng
cố quốc phòng. Nhà nước phải có những biện pháp hợp lý để việc quản lý đất đai
đi vào pháp chế, khai thác hết tiềm năng của đất, không ngừng nâng cao giá trị
sử dụng của đất trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.
1.1.2. Khái niệm chế độ quản lý Nhà nước về đất đai.
Kể từ khi Nhà nước thực hiện quản lý đất đai, các nhà nghiên cứu nói chung
và giới luật học nói riêng cũng bắt đầu tìm hiểu khái niệm quản lý Nhà nước về
đất đai. Theo giáo trình luật đất đai -Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm
2001 thì khái niệm quản lý Nhà nước về đất đai được hiểu: “Quản lý Nhà nước
về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực
hiện và bảo vệ quyền sở hữu Nhà nước về đất đai, đó là các hoạt động trong việc
nắm chắc tình hình đất đai; trong việc phân phối và phân phối lại vốn đất theo quy
hoạch; trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất”.
Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thực hiện làm phát sinh quan hệ giữa các cơ quan này với người sử
dụng đất. Nhà nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đó vận động lOMoARcPSD|49605928
phù hợp với lợi ích và yêu cầu của Nhà nước. Vì vậy, chế độ quản lý Nhà nước
đối với đất đai là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Các đặc trưng cơ bản của quản lý Nhà nước đối với đất đai: -
Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai ở nước ta được thực
hiệntrên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
thực hiện quyền quản lý tối cao đối với toàn bộ lãnh thổ. Cơ sở đất đai thuộc sở
hữu toàn dân là điều kiện quan trọng để Nhà nước thực hiện quyền quản lý thống
nhất đối với đất đai. Nhà nước thực hiện trực tiếp quyền quản lý của mình bằng
việc xác lập các chế độ pháp lý về quản lý và sử dụng đất của các cơ quan quyền
lực Nhà nước là Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Các quyền này còn được
thực hiện thông qua một hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước là Chính phủ,
Uỷ ban nhân dân các cấp, thông qua các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất
theo những điều kiện và sự giám sát của Nhà nước. Hơn nữa, để thực hiện quyền
quản lý của đại diện chủ sở hữu, Nhà nước còn thông qua việc xây dựng và ban
hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định quyền hạn, nghĩa vụ,
trách nhiệm của các cơ quan, các tổ chức và cá nhân. Cùng với việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật, Nhà nước còn tổ chức vận động, tuyên truyền pháp
luật đất đai đến từng người dân để nâng cao nhận thức giúp họ xác định được
quyền lợi và nghĩa vụ của mình. -
Hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai mang tính vĩ mô bao
trùm,trong khi việc quản lý đất đai của người sử dụng đất chỉ mang tính chất kĩ
thuật nghiệp vụ gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực và diện
tích được giao. Nhà nước sẽ quản lý đất đai bằng chính sách, bằng pháp luật,
không bị giới hạn bởi bất kỳ lý do gì.
1.2.3 Nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Theo luật đất đai 2003, nội dung quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm: 1.
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đaivà tổ chức thực hiện các văn bản đó. lOMoARcPSD|49605928 2.
Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính,lập bản đồ hành chính. 3.
Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính, bản
đồhiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất. 4.
Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. 5.
Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sửdụng đất. 6.
Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp
giấychứng nhận quyền sử dụng đất. 7.
Thống kê, kiểm kê đất đai. 8.
Quản lý tài chính về đất đai. 9.
Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bấtđộng sản.
10. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụngđất.
11. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về
đấtđai và xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai.
12. Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các
viphạm trong quản lý và sử dụng đất đai.
13. Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Nghiên cứu nội dung các quy định về quản lý Nhà nước đối với đất đai
trong luật 2003, chúng ta thấy rằng:
Thứ nhất, so với các quy định về nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai
của luật đất đai 1993 thì các quy định của luật đất đai 2003 không chỉ đề cập đến
việc Nhà nước quản lý đất đai bằng các biện pháp hành chính mà còn quy định
việc Nhà nước quản lý đất đai thông qua các biện pháp kinh tế như Nhà nước thực
hiện quản lý tài chính về đất đai, quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng
đất. Đây là những biện pháp quản lý đất đai rất quan trọng trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy rằng, việc quản lý đất đai sẽ không có hiệu
quả nếu Nhà nước không sử dụng các biện pháp quản lý này. lOMoARcPSD|49605928
Thứ hai, một trong những nhược điểm trong công tác quản lý đất đai thời
gian qua là việc buông lỏng công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính, nhiều địa
phương chưa xác định rõ ranh giới đất đai, địa giới hành chính, hồ sơ, sổ sách địa
chính không đầy đủ hoặc bị thất lạc nên không cập nhật kịp thời những biến động
của việc sử dụng đất đai. Điều này đã gây khó khăn không nhỏ trong công tác
quản lý đất đai. Nhà nước không nắm chắc được hiện trạng sử dụng đất, số liệu
đất đai không thống nhất giữa các tài liệu. Khi có tranh chấp, khiếu kiện đất đai
xảy ra, các cơ quan Nhà nước rơi vào thế bị động, lúng túng trong việc giải quyết
Khắc phục nhược điểm này, luật đất đai 2003 xác định rõ một trong những nội
dung của quản lý Nhà nước đối với đất đai là xác định địa giới hành chính, lập và
quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính
Thứ ba, nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai được quy định trong luật
đất đai 2003 không chỉ thể hiện vai trò của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ
sở hữu mà còn thể hiện được vai trò của Nhà nước với tư cách là người thực hiện
thống nhất quản lý đất đai.
Vai trò của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai thực hiện
quyền định đoạt đất đai thông qua các hình thức sau:
+ Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
+ Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
+ Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
+ Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Vai trò của Nhà nước với tư cách là người đại diện thống nhất quản lý đất
đai được luật đất đai 2003 xác định thông qua các nội dung như:
+ Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện các văn bản đó.
+ Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính.
+ Thống kê, kiểm kê đất đai. lOMoARcPSD|49605928
+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện và chấp hành các quy định của pháp
luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
+ Giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm
trong quản lý và sử dụng đất đai.
Thứ tư, lần đầu tiên luật đất đai 2003 đưa việc quản lý các hoạt động dịch
vụ công vào trong nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Việc đưa nội dung này
vào hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai là rất cần thiết. Bởi lẽ: -
Về mặt lý luận, Nhà nước vừa là một tổ chức chính trị - quyền lực,
vừalà một tổ chức được xã hội thiết lập nên đến thực hiện việc quản lý các hoạt
động của xã hội, đồng thời giải quyết các nhu cầu của người dân. Trong một xã
hội văn minh, người dân ngày càng có nhu cầu yêu cầu các cơ quan công quyền
thực hiện cho mình các công việc mang tính chất hành chính như: thay đổi chỗ ở,
xác nhận chỗ ở, xác nhận về họ tên, xác nhận về tài sản. Đây là công việc mà chỉ
các cơ quan quản lý Nhà nước mới có thể giải quyết được. Do vậy, để giải quyết
nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân và xã hội thì phải xác lập
sự ra đời của dịch vụ công. -
Sử dụng đất đai để làm nhà ở, nơi sản xuất kinh doanh hoặc như là
mộttư liệu sản xuất đặc biệt để sản xuất là một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến lợi
ích thiết thực không chỉ đối với người dân mà còn đối với các tổ chức thuộc mọi
thành phần kinh tế. Trong quá trình sử dụng đất này, các tổ chức và cá nhân đều
cần được Nhà nước công nhận và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp xung
quanh việc chiếm hữu sử dụng đất (đây là các quyền về tài sản của người sử dụng
đất) thông qua các thủ tục hành chính như giao đất, cho thuê đât, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để giải quyết các
thủ tục này thì chỉ có các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (cơ quan quản lý Nhà
nước đối với đất đai) mới có đủ tư cách thực hiện. Do vậy, đã xuất hiện vấn đề
dịch vụ công trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Thời gian vừa qua, xuất phát từ nhiều nguyên nhân (chủ quan và khách
quan) như cơ chế quản lý thay đổi làm cho đất đai ngày càng có giá, quan hệ đất
đai chuyển từ trạng thái “tĩnh” sang trạng thái “động”. Nên nhu cầu của người dân lOMoARcPSD|49605928
đối với việc giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai tăng lên, trong khi năng
lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai còn nhiều hạn chế,
thủ tục hành chính về đất đai còn rắc rối, phiền hà. Điều này đã làm cho bộ máy
của các cơ quan quản lý đất đai không đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của người
dân. Để giải quyết tồn tại này, một số địa phương có sáng kiến thành lập các trung
tâm dịch vụ công nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân trong lĩnh vực đất đai.
Bên cạnh những thành công nhất định, hoạt động dịch vụ công về đất đai còn bộc
lộ một số hạn chế cơ bản như: chưa có cơ chế, chính sách nhằm định hướng cho
các hoạt động này thực hiện thống nhất, quy chế hoạt động của các tổ chức này
không rõ ràng. Trong hoạt động dịch vụ công về đất đai đã phát sinh một số biểu
hiện tiêu cực như: thương mại hoá, chú trọng vấn đề lợi nhuận và coi nhẹ vấn đề
phục vụ người dân, chưa quan tâm đúng mức đến quyền lợi của khách hàng. Đó
là chưa kể một số cán bộ lợi dụng việc thực hiện dịch vụ công tham nhũng, sách
nhiễu người dân. Để khắc phục những tồn tại này, thì Nhà nước cần phải thực hiện
việc quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
1.1.4. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Theo quy định của luật đất đai 2003, hệ thống các cơ quan quản lý Nhà
nước đối với đất đai bao gồm:
Nhóm1: Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước. -
Quốc hội: Ban hành pháp luật đất đai, thực hiện quyền quyết định,
giámsát tối cao đối với quản lý và sử dụng đất đai trong cả nước. Quốc hội quyết
định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong cả nước. -
Hội đồng nhân dân các cấp; Thực hiện quyền quyết định giám sát
việcquản lý và sử dụng đất trong địa phương mình.
Nhóm 2: Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai có thẩm quyền chung. -
Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai trong phạm vi cảnước. lOMoARcPSD|49605928 -
Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước về đất
đaitrong phạm vi địa phương.
Nhóm 3: Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai có thẩm quyền
chuyên môn. Hệ thống các cơ quan này được thành lập thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. -
Cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai ở Trung ương là Bộ Tài nguyênMôi Trường. -
Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành
phốtrực thuộc Trung ương; ở huyện, quận, thị xã , thành phố thuộc tỉnh.
Cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền chuyên môn cấp nào trực thuộc cơ
quan hành chính Nhà nước cấp đó. Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương có văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất là cơ quan dịch vụ công thực hiện chức năng
quản lý hồ sơ địa chính gốc, chỉnh lý thống nhất hồ sơ, phục vụ người sử dụng đất
thực hiện các quyền và nghĩa vụ. -
Xã, phường, thị trấn có cán bộ địa chính. Cán bộ địa chính xã,
phường,thị trấn có trách nhiệm giúp uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong
việc quản lý đất đai tại địa phương. Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn do Uỷ
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Như vậy, theo quy định của luật đất đai 2003, hệ thống cơ quan quản lý Nhà
nước đối với đất đai được củng cố và kiện toàn nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý đất
đai trong điều kiện đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Điều này được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chức năng và phạm vi quản lý của hệ thống cơ quan này được
mở rộng không chỉ quản lý đất đai mà còn thực hiện việc quản lý Nhà nước về tài
nguyên, môi trường nói chung. Quan điểm gắn quản lý đất đai với tài nguyên môi
trường chính là đã tiếp cận quan điểm “phát triển bền vững” được thế giới thừa nhận.
Thứ hai, sự phân quyền và tăng cường trách nhiệm cho các cơ quan quản
lý đất đai ở địa phương được thể hiện rõ nét ở quy định: Cơ quan quản lý đất đai
ở địa phương có văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là cơ quan dịch vụ công lOMoARcPSD|49605928
thực hiện chức năng quản lý hồ sơ địa chính gốc, chỉnh lý thống nhất hồ sơ địa
chính, phục vụ người sử dụng đất thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Như vậy, lần
đầu tiên ở nước ta có văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được thành lập giúp
cơ quan quản lý đất đai thực hiện các dịch vụ công về đất đai. Sự ra đời của văn
phòng này sẽ giảm bớt sự quá tải, san sẻ “gánh nặng” cho các cơ quan quản lý đất
đai trong việc giải quyết các yêu cầu của người dân liên quan đến việc sử dụng
đất. Đồng thời, hạn chế đáng kể các thủ tục hành chính về đất đai, tạo thuận lợi
cho người dân thực hiện các quyền của người sử dụng đất mà pháp luật quy định.
Thứ ba, vai trò của cán bộ địa chính xã được tăng cường để có đủ năng lực
và chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện việc quản lý đất đai tại địa
phương. Cán bộ địa chính cấp xã là một trong bốn chức danh cán bộ chuyên trách
của Uỷ ban nhân dân cấp xã và được xác định là công chức Nhà nước. Việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm cán bộ địa chính cấp xã do Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết
định. Với việc tăng cường vị trí và vai trò như vậy sẽ giúp cho cán bộ địa chính
cấp xã yên tâm, gắn bó với công việc được giao.
1.2. Một số vấn đề lý luận về việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong
quản lý Nhà nước về đất đai .
1.2.1. Khái quát về phân cấp - phân quyền trong quản lý hành chính Nhà nước.
Trong bộ máy cơ quan hành chính ở nước ta, sự phân định chức năng nhiệm
vụ giữa các cơ quan này có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là công việc vừa mang
tình thường xuyên, vừa mang tính lâu dài của Nhà nước ta. Trong điều kiện hiện
nay, sự phân định ấy nhằm phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và tự chịu
trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức khi thực hiện thẩm quyền theo Luật định
lại càng thiết thực hơn bao giờ hết.
Đại hội Đảng IX của Đảng cộng sản Việt Nam khi đề cập đến vấn đề kiện
toàn tổ chức bộ máy Nhà nước đã chỉ rõ: “Thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp
tronh hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập trung, thống nhất trong
việc ban hành thể chế. Qui định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp, từng tổ lOMoARcPSD|49605928
chức, từng cá nhân. Khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây
khó khăn, chậm trễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Phân công,
phân cấp nâng cao tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, kết hợp
chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ, tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã,
phường, thị trấn” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; NXB Chính trị quốc gia 2001, trang 133).
Phân cấp không đơn giản là việc giao nhiệm vụ cho các cơ quan cấp dưới
mà còn là giao quyền hạn với tư cách là những điều kiện tiên quyết để cấp dưới
có thể thực thi, hoàn thành được chức năng nhiệm vụ pháp luật qui định. Hơn nữa,
phân cấp cũng không chỉ là giao phó nhiệm vụ quyền hạn mà còn là giao mục
tiêu, qui định trách nhiệm cụ thể cho từng cấp và việc phân cấp này được thực
hiện trên cơ sở các qui định của pháp luật. Thông qua đó, mỗi cấp chính quyền
đều được trao một số quyền và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện những
quyền năng đó một cách độc lập, tự chủ. Tuy nhiên, ở mỗi cấp chính quyền khác
nhau thì việc phân quyền cũng khác nhau và mức độ độc lập tự chủ trong việc
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao cũng mang những nét khác biệt.
Phân cấp , phân quyền là một biện pháp rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu
lực quản lý của các cơ quan công quyền đi đôi với phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Mặc dù vậy, khi thực hiện việc phân quyền cần chú ý đến những đặc điểm,
hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương để xác lập trách nhiệm và quyền hạn cho
phù hợp. Mỗi địa phương đều có điều kiện thuận lợi và khó khăn không giống
nhau nên cần nhận thức sâu sắc khi phân cấp thẩm quyền, không được thực hiện
theo kiểu bình quân và không được coi việc phân cấp, phân quyền như một thứ
đặc quyền đặc lợi để rồi chia đều cho các địa phương. Phải nhanh chóng khắc
phục cơ chế “ xin cho”, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật đất đai nhằm ngăn ngừa tình trạng chuyên quyền, độc đoán,
sách nhiễu. Hơn nữa, chúng ta cũng cần phải thấy được ưu điểm, nhược điểm của
việc phân cấp để kịp thời sửa đổi, hạn chế, khắc phục tối đa những nhược điểm
đáp ứng đòi hỏi của thực tế. lOMoARcPSD|49605928
1.2.2. Cơ sở lý luận của việc xác lập mối quan hệ quyền lực Nhà nước giữa
chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương.
Theo qui định của Hiến pháp 1992, bộ máy Nhà nước ta được xây dựng
dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng có sự
phân công, phân cấp rõ ràng giữa các cơ quan. Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức
thành các đơn vị hành chính cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Mỗi
cấp đơn vị hành chính được pháp luật qui định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan hành chính khác nhằm thực hiện tốt
chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản và
quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nó qui định chức
năng, nhiện vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa chính quyền Trung ương với chính
quyền địa phương, giữa cơ quan hành chính cấp trên và cơ quan hành chính cấp
dưới. Điều 6 - Hiến pháp 1992 qui định: “ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các
cơ quan khác của Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Yêu cầu cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước là đảm bảo sự điều hành, chỉ đạo tập trung thống nhất
của cơ quan nhà nước Trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương song
vẫn đảm bảo quyền chủ động sáng tạo và tính độc lập cho cơ quan hành chính cấp
địa phương trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Yêu cầu này được thể chế hoá trong các qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng cấp trong mối quan hệ giữa chính quyền Trung ương và chính quyền
địa phương. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rằng mối quan hệ giữa sự lãnh đạo
tập trung, thống nhất với việc bảo đảm tính chủ động, sáng tạo của chính quyền
địa phương phụ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế xã hội và những yêu cầu
của công cuộc phát triển đất nước ở mỗi giai đoạn lịch sử. Như vậy, giải quyết hài
hoà mối quan hệ giữa tập trung thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công,
phân cấp rõ ràng giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương là yêu lOMoARcPSD|49605928
cầu và điều kiện cần thiết đảm bảo cho các cơ quan nhà nước phát huy được tính
độc lập, tự chủ trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Về mặt lý luận, mối quan hệ biện chứng giữa nguyên tắc tập trung dân chủ
với việc phân quyền được biểu hiện ở hai khía cạnh: Phân quyền không có nghĩa
là tách rời sự tập trung lãnh đạo của chính quyền Trung ương mà là nằm dưới sự
lãnh đạo tập trung của nhà nước; Tập trung, dân chủ không có nghĩa là độc đoán
triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo, độc lập của chính quyền địa phương. Tập trung
dân chủ là điều kiện, tiền đề để phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính
quyền địa phương và ngược lại.
Quán triệt sâu sắc mối quan hệ biện chứng này, việc phân quyền quản lý ở
nước ta chỉ đạt được hiệu quả mong muốn khi đảm bảo được các yêu câù sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo tập trung và sự quản lý thống nhất của
chính quyền Trung ương. Việc phân cấp quản lý phải đảm bảo cho Trung ương có
quyền lực đủ mạnh để chỉ đạo điều hành và quyết định những vấn đề then chốt
của đất nước liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia, bảo
đảm sự quản lý tầp trung và thống nhất trong phạm vi cả nước.
Thứ hai, mạnh dạn giao quyền cho các địa phương nhằm phát huy tính chủ
động sáng tạo của các cơ quan này trong quản lý, phát huy tối đa các nguồn nội
lực của địa phương nhằm hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã
hội, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Trung ương. Mạnh dạn phân cấp
cho chính quyền địa phương là biện pháp giúp cho chính quyền Trung ương không
phải chịu sự “ quá tải ” mất nhiều thời gian vào việc giải quyết các công việc sự
vụ, tập trung vào việc chỉ đạo, điều hành mang tính chất vĩ mô, đồng thời đây
cũng là một biện pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, sự phân cấp phải mang tính cụ thể, rõ ràng và hợp lý dựa trên các
qui định của pháp luật. Phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền trong bộ máy
nhà nước là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Nó đòi hỏi phải xem xét,
cân nhắc ở nhiều góc độ khác nhau như cơ sở kinh tế - xã hội, trình độ phát triển lOMoARcPSD|49605928
giữa các vùng, mức độ dân trí, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, mức độ hoàn
thiện của kết cấu hạ tầng để từ đó xác lập một cơ chế phân quyền thích hợp.
Như vậy, mối quan hệ giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa
phương được xác lập dựa trên nguyên tắc tập trung và dân chủ. Uỷ ban nhân dân
các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện chức năng quản
lý, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật và các văn bản pháp qui của cơ
quan nhà nước cấp trên, đồng thời trực tiếp chỉ đạo, điều hành các công việc hàng
ngày của nhà nước ở địa phương.
1.2.3. Phân quyền trong quản lý nhà nước về đất đai.
Luật đất đai năm 1987 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc qui định cụ thể
về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý đất đai. Đây là một bước
tiến quan trọng nhằm thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng, từng bước đưa
công tác quản lý và sử dụng đất đai đi vào nề nếp, khuyến khích mọi tổ chức và
cá nhân sử dụng đất ngày càng có hiệu quả hơn. Trải qua nhiều lần Luật đất đai
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế vào các năm 1993, 1998,
2001 và 2003 thì ngày càng hoàn thiện hơn các qui định về thẩm quyền của các
cơ quan quản lý đất đai. Trong tiến trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước
ta nhận thức rõ vai trò quan trọng của các cấp chính quyền địa phương trong quản
lý nhà nước về đất đai và việc phân cấp quản lý nhằm thực hiện cải cách thủ tục
hành chính về đất đai. Vì vậy, qua mỗi lần sửa đổi, bổ sung Luật đất đai, Nhà nước
ta đều chú trọng đến việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong
việc giao đất, cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, giải quyết tranh chấp đất đai.
a. Cơ sở lý luận về việc phân quyền trong quản lý nhà nước về đất đai.
Trong sự phát triển của xã hội, đất đai đóng vai trò rất quan trọng. Đất đai
là lãnh thổ quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống. Chính vì vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới dù xác lập lOMoARcPSD|49605928
các hình thức sở hữu khác nhau đối với đất đai đều thực hiện quyền quản lý đất
đai vì lợi ích chung của xã hội.
Quản lý đất đai là một nội dung trong quản lý hành chính nhà nước do các
cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương thực hiện. Các cơ quan này
bao gồm Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Muốn quản lý đất đai thống
nhất, chặt chẽ và có hiệu quả thì nhà nước cần qui định rõ ràng chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn cho các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền. Sự
phân cấp thẩm quyền trong quản lý đất đai được xác lập dựa trên những cơ sở lý luận cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ta. Bộ máy nhà nước ta được tổ chức và hoạt động dựa trên
nguyên tắc tập trung dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng có sự phân
công, phân cấp rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước. Nguyên tắc này cũng được quán triệt trong tổ chức vả hoạt động của các cơ quan quản lý đất đai.
Thứ hai xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai đựơc pháp luật qui định. Các cơ quan quản lý đất đai
cấp Trung ương chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai mang tính vĩ mô
thể hiện ở việc xây dựng, xét duyệt qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho từng
vùng lãnh thổ và cả nước phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
ở địa phương thực hiện việc quản lý đất đai mang tính vi mô thể hiện ở chỗ triển
khai việc thực hiện pháp luật đất đai ở địa phương. Do vậy, việc phân định rõ thẩm
quyền giữa các cơ quan quản lý đất đai các cấp sẽ tránh được sự chồng cheó thẩm
quyền, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan và tạo điều kiện thuận lợi trong
việc giám sát, thanh tra kiểm tra hoạt động của các cơ quan này.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách thủ tục hành chính
trong lĩnh vực đất đai ở nước ta. Đối tượng và mục tiêu của hoạt động quản lý đất
đai là người sử dụng đất. Trong nền kinh tế thị trường, người sử dụng đất đòi hỏi
việc quản lý đất đai phải xác lập được cơ chế nhanh chóng, an toàn và thuận lợi lOMoARcPSD|49605928
không gây trở ngại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Tuy nhiên, hiện
nay còn tồn tại nhiều thủ tục hành chính phiền hà gây khó khăn cho người dân.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là chính quyền Trung ương ôm
đồm giải quyết quá nhiều công việc mang tính chất sự vụ mà chưa mạnh dạn giao
các công việc này cho chính quyền địa phương thực hiện. Do vậy muốn cải cách
mạnh mẽ trong quản lý đất đai thì phải phân cấp quản lý đất đai cho chính quyền địa phương.
b. Cơ sở thực tiễn để phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản
lý nhà nước về đất đai.
Như chúng ta đã biết, Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước
ở địa phương. Phạm vi quản lý của Uỷ ban nhân dân các cấp là mọi mặt của đời
sống xã hội. Để Uỷ ban nhân dân các cấp hoàn thành được chức năng của mình
thì pháp luật phải trao cho nó những quyền hạn tương ứng để đủ sức gánh vác công việc được giao.
Có thể lý giải một số nguyên nhân dẫn đến phân quyền mạnh cho chính
quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai như sau:
Thứ nhất, do sự chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường. Chính quyền Trung ương không thể tự mình giải quyết tất
cả các công việc cụ thể của đời sống xã hội mà chỉ thực hiện quản lý ở tầm vĩ mô.
Còn các công việc quản lý cụ thể sẽ giao cho các cấp chính quyền địa phương
thực hiện phù hợp vơí chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật qui định.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm đẩy mạnh công cuộc cải cách
hành chính phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Tiếp tục thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của bộ máy nhà nước đi đôi với tăng
cường mở rộng tính chủ động cho chính quyền địa phương trong quản lý hành
chính nhà nước. Quản lý đất đai là một lĩnh vực quản lý của các cấp chính quyền,
đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường khi đất đai ngày càng có giá và trở
thành nguồn lực để phát triển đất nước thì công tác quản lý đất đai là một nhiệm
vụ vô cùng nặng nề của nhà nước. Để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà lOMoARcPSD|49605928
nước về đất đai thì không thể không tiến hành sự phân cấp quản lý đất đai cho các
cấp chính quyền địa phương.
Thứ ba, do đất đai là một tài sản đặc biệt và có hạn trong khi đó nhu cầu sử
dụng đất đai của xã hội ngaỳ càng tăng. Vì vậy, nếu không có sự quản lý chặt chẽ
của nhà nước sẽ làm giảm giá trị sử dụng của đất, đất đai bị sử dụng sai mục đích,
lãng phí. Đất đai được phân bố rộng khắp trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia nên cơ
quan quản lý ở Trung ương sẽ không nắm được tình hình biến động đất đai một
cách cụ thể, thường xuyên. Công việc quản lý cụ thể này cần được giao cho các
cấp chính quyền địa phương. Bởi vì các cơ quan này có trách nhiệm quản lý trong
địa phương mình nên có điều kiện đi sâu, đi sát, nắm chắc được hiện trạng sử
dụng cũng như những biến động đất đai của địa phương mình. Mặt khác, mỗi địa
phương lại có những đặc điểm. phong tục tập quán riêng trong sử dụng đất, vì vậy
phải áp dụng một phương pháp quản lý đất đai phù hợp với đặc điểm đó. Mà chỉ
có các cấp chính quyền địa phương mới có điều kiện để đảm bảo trách nhiệm này.
Thứ tư, do biến động đất đai trong thời gian vừa qua. đặc biệt từ khi Nhà
nước thừa nhận việc chuyển quyền sử dụng đất của người sử dụng. ở các đô thị
lớn, các cơn “sốt đất” diễn ra một cách thường xuyên hơn, giá đất tăng vọt, gia
tăng tình trạng đầu cơ đất đai. Trong khi đó, Nhà nước chưa giải quyết được nhu
cầu về nhà ở cho người dân, đặc biệt là người dân sống tại khu vực đô thị. Vấn đề
này đòi hỏi sự tập trung mọi cố gắng của toàn xã hội mà quan trọng là sự tham
gia của các cấp chính quyền địa phương. Theo đó, mỗi địa phương tuỳ thuộc điều
kiện của mình sẽ qui định cụ thể về việc xác định giá đất, xác định mức độ đền bù
thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất. Chính vì vậy, tăng cường phân cấp cho Uỷ ban
nhân dân địa phương trong việc giao đất, cho thuê đất để chủ động triển khai các
dự án đầu tư, nhằm cải cách thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất đai.
Thứ năm, phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương nhằm đề cao vị
trí, vai trò và trách nhiệm của các cơ quan này trong quản lý đất đai. Bởi lẽ, đi đôi
với việc mở rộng quyền hạn về quản lý đất đai cho chính quyền địa phương, pháp
luật cũng qui định các nghĩa vụ và chế tài để xử lý đối với các hành vi vi phạm lOMoARcPSD|49605928
của các cơ quan này như thực hiện không đúng nhiệm vụ quyền hạn được giao
hoặc vượt quá quyền hạn được giao.
c. Những ưu điểm của việc phân quyền mạnh cho chính quyến địa phương trong
quản lý nhà nước về đất đai.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội cụ thể của nước ta trong giai
đoạn hiện nay mà pháp luật đất đai đã được sửa đổi bổ sung cho phù hợp hơn.
Quản lý đất đai vừa mang tính thường xuyên, vừa mang tính kế hoạch hoá cao.
Nhà nước không ngừng kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý đất đai của các cấp
chính quyền địa phương. Hơn nữa, nhà nước còn mạnh dạn phân cấp một số quyền
hạn về quản lý đất đai cho các cơ quan này. Việc phân quyền mạnh cho chính
quyền địa phương đã và đang mang lại những hiệu quả thiết thực, công tác quản
lý đất đai đi dần vào nề nếp. Điều này được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Trước hết, việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản
lý nhà nước về đất đai phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan này.
Thực tế cho thấy mỗi địa phương đều có những đặc thù về điều kiện kinh tế xã
hội, về tập quán canh tác sử dụng đất. Chính vì vậy, để đảm bảo cho đất đai được
quản lý và sử dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của từng địa phương
mà vẫn không làm mất đi sự quản lý tập trung thống nhất của nhà nước thì nhà
nước phải duy trì quyền thống nhất quản lý đất đai nhưng phân cấp rõ chức năng
quản lý đất đai mang tính vi mô cho các địa phương. Điều này tạo cho chính quyền
địa phương tính chủ động sáng tạo, ứng phó với những biến động về đất đai và
kịp thời đưa ra các giải pháp nhằm xử lý các tình huống nảy sinh trong quá trình
quản lý. Ví dụ: ở thành phố Hà Nội nơi có mật độ dân cư đông, tập trung nhiều
khu công nghiệp thì diện tích đất nông nghiệp bị chuyển sang sử dụng vào mục
đích khác ngày càng gia tăng. Vì vậy,Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội phải
nắm việc giao đất nông nghiệp, hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác.
Một ví dụ khác cho thấy được lợi ích của việc phân cấp mạnh thẩm quyền
giao đất cho Uỷ ban nhân dân các địa phương. Dự án đường Hồ Chí Minh đi qua