Họ và tên: Hoàng Thị Phương Chi
Msv: 20051008
KIỂM TRA SƠ BỘ LẦN 1
MÔN: Kinh Tế Môi Trường
CHƯƠNG 1
KINH TẾ MÔI TRƯỜNG LÀ GÌ?
KHÁI NIỆM
Kinh tế môi trường nghiên cứu các vấn đề về môi trường với cách nhìn và phương
pháp phân tích của kinh tế học. Nghiên cứu kinh tế môi trường quan tâm đến vấn
đề cơ bản là phân phối các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng
tối ưu xã hội tất cả các nguồn tài nguyên, trong đó có tài nguyên môi trường. Các
khái niệm về sự khan hiếm, chi phí cơ hội, sự đánh đổi, lợi ích biên và chi phí biên
là chìa khóa để hiểu các vấn đề môi trường và cách thức giải quyết các vấn đề đó.
PHƯƠNG PHÁP KINH TẾ
1. Phương pháp dựa vào sự thức tỉnh đạo đức
Vấn đề lớn nhất trong phương pháp kiểm soát ô nhiễm dựa vào đạo đức chính là giả
thiết cơ bản của cho rằng con người gây ô nhiễm là vì họ kém đạo đức. Không
phải sự kém ý thức đạo đức sẽ dẫn đến phá hoại môi trường mà chính là cách thức
chúng ta tạo nên hệ thống kinh tế để trong đó mọi người cần phải tìm công việc
làm để sinh sống.
2. Phương pháp quan sát cách thức xây dựng nền kinh tế và thể chế, và bằng cách
nàochúng hướng mọi người đưa ra các quyết định gây hậu quả phá hoại môi
trường.
Nhưng phương pháp này khó áp dụng vì bản thân động cơ lợi nhuận không phải là
nguyên nhân chính phá hủy môi trường.
Phải nhìn kỹ vào bên trong hệ thống kinh tế để hiểu được hệ thống các khuyến
khích hoạt động như thế nào và phải thay đổi chúng ra sao để có được nền kinh tế
phát triển hợp lý mà không có tác động phụ gây tàn phá môi trường. Thiếu quyền sở
hữu đối với các nguồn tài nguyên môi trường có nghĩa là có rất ít khuyến khích để
con người tính đến hậu quả môi trường do hành động của họ gây ra.
CÁC NGOẠI TÁC VÀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
Tập trung vào khía cạnh kinh tế vi của kinh tế môi trường – để thấy được tại sao
ngoại tác tồn tại và còn mãi, và làm thế nào để thiết lập và phân tích các công cụ
chính sách kinh tế để có thể cải thiện chất lượng môi trường.
PHÂN TÍCH CHI PHÍ - LỢI ÍCH
Nghiên cứu chi phí - lợi ích bao gồm việc chúng ta cần xem xét cả chi phí và lợi ích
của các chương trình và chính sách môi trường. Điều này thường làm cho vấn đ
nghiên cứu chi phí - lợi ích nằm trong các cuộc tranh luận mang tính chính trị về
các vấn đề môi trường. Trong các cuộc đấu tranh chính trị về các vấn đề môi
trường, một nhóm gồm những người quan tâm đến lợi ích, trong khi các nhóm đối
lập lại quan tâm chủ yếu đến chi phí. Cuối cùng chấp nhận các chương trình bảo vệ
môi trường tùy thuộc vào con người khi họ nhận ra rằng việc bảo vệ môi trường là
xứng đáng. Phương pháp bảo vệ môi trường dựa vào phân tích chi phí - lợi ích, sự
đánh đổi là cách tốt nhất để đạt được điều này.
SỰ BỀN VỮNG CỦA MÔI TRƯỜNG VÀ CỦA NỀN KINH TẾ
Các vấn đề cơ bản
- Nền kinh tế bền vững phải là nền kinh tế có khả năng cho phép phúc lợi
của con người tăng lên hoặc ít nhất là được giữ nguyên (có nghĩa là không giảm
sút). - Vốn xã hội bao gồm tất cả mọi thứ mà nền kinh tế có thể đầu tư vào - vốn
vật chất để sản xuất hàng hóa và dịch v, giáo dục, cơ sở hạ tầng, các nguồn tài
nguyên tái tạo và không tái tạo, và dĩ nhiên chính bản thân môi trường cũng là một
nguồn dự trữ vốn.
- Bền vững tùy thuộc vào khả năng thay thế giữa vốn tự nhiên (các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường), vốn sản xuất và lao động. Công
nghệ và sự thay đổi công nghệ là một yếu tố sống còn khác trong nghiên cứu các lộ
trình bền vững. Công nghệ sẽ ảnh hưởng lên mức độ thay thế giữa các yếu tố đầu
vào và số lượng đầu vào cần thiết cho sản xuất một đơn vị hàng hóa. Một số công
nghệ có thể khuyến khích sự bền vững một số khác thì không.
Một nền kinh tế bền vững là nền kinh tế trong đó đầu tư vốn xã hội cho phép
nền kinh tế tăng trưởng để thế hệ tương lai ít nhất cũng có được mức phúc lợi như
thế hệ hiện tại, trong khi vẫn duy trì sự lành mạnh của hệ sinh thái.
Đánh đổi và sự bền vững
Đường giới hn khả năng sn xuất (production possibility frontier – PPF) dùng
để minh họa sự đánh đổi giữa hàng hóa, dịch vụ với chất lượng môi trường . PPF là
đồ thị biểu diễn những chọn lựa giữa hai kết quả mong muốn – hàng hóa, dịch v
và chất lượng môi trường – của một nhóm người.
Mối liên hệ cơ bản này được trình bày trong hình 1-1.
Trục tung là chỉ số sản lượng kinh tế gộp, nghĩa là tổng giá trị thị trường của hàng
hóa kinh tế thông thường bán ra trong nền kinh tế trong một năm. Trục hoành ch
chất lượng môi trường, có được từ các dữ liệu khác nhau về môi trường xung
quanh. Đường cong này biểu diễn các mức kết hợp khác nhau giữa hai kết quả – sản
lượng thị trường và chất lượng môi trường – mà một nhóm người có thể tạo ra được
với một số vốn nhất định. Đường PPF được biểu diễn bằng đường đứt quãng khi
chất lượng môi trường dưới mức ē. Dưới mức ē , nền kinh tế không thể sản xuất
thêm bất kỳ mt hànga và dịch vụ nào bởi vì có quá ít tài nguyên môi trường để
duy trì sản xuất. E
max
cho thấy chất lượng môi trường tối đa mà ở đó không có một
hàng hóa nào được sản xuất (có thể cho là không có con người).
PPF được xác định bởi năng lực kỹ thuật trong nền kinh tế và các nhân tố sinh thái
– khí tượng học, thủy học v.v. của hệ thống tự nhiên tại quốc gia đang nghiên cứu.
Ví dụ, sản lượng hiện tại của nền kinh tế là c
1
, chúng ta có thể tăng trưởng lên mức
c
2
chỉ với mức chi phí mà chất lượng môi trường giảm từ e
1
xuống e
2
.
Đường bàng quan cộng đồng (Community indifference Curve – CIC) minh họa
sự lựa chọn của xã hội.
CIC của nước A được biểu diễn trong hình 1-1.
Mỗi điểm trên CIC cho thấy sự kết hợp giữa một mức chất lượng môi trường với
một số hàng hóa cho cùng một mức thỏa mãn đối với xã hội. Những đường CIC
càng nằm xa gốc tọa độ thì càng cho mức thỏa mãn nhiều hơn so với các đường
nằm gần. Xã hội sẽ tìm kiếm mức thỏa mãn cao nhất mà họ có thể đạt được. Đây sẽ
là điểm mà đường CIC tiếp xúc với PPF.
Ví dụ với nước A, đây chính là điểm A, CIC có chất lượng môi trường e
2
và lượng
hàng hóa là c
2
. Một nước khác có thể sẽ có những sở thích xã hội khác nhau đưa
đến sự chọn lựa chất lượng môi trường và hàng hóa khác nhau, ví dụ họ sẽ chọn ở
điểm B, với toạ độ là e
1
và c
1
. Sự chọn lựa của xã hội sẽ ảnh hưởng đến sự bền
vững của nền kinh tế và môi trường.
Đường PPF minh họa việc đánh đổi giữa hàng hóa thị trường với chất lượng môi
trường. Khi tiêu thụ nhiều hàng hóa, xã hội phải chịu giảm chất lượng môi trường.
Dưới điểm ē, không thể sản xuất được hàng hóa nào cả vì chất lượng môi trường
quá kém không thể hỗ trợ sản xuất. Các đường bàng quan (CICs) ch ra những lựa
chọn của một quốc gia về các mức kết hợp hàng hóa với chất lượng môi trường.
Nước A chọn hàng hóa nhiều hơn và môi trường có chất lượng kém hơn là nước B.
Môi trường và Tăng Trưởng: Sự bền vững theo thời gian
Sự bền vững không chỉ là sự chọn lựa trong một năm mà còn là cả quá trình theo
thời gian. Đường PPF sẽ không giữ mãi ở một mức cố định khi mà các điều kiện
như kỹ thuật sản xuất và suy thoái môi trường thay đổi theo thời gian. Môi trường
có thể được xem là hàng hóa co giãn theo thu nhập (income elastic good). Mọi
người sử dụng những hàng a gắn với sự cải thiện chất lượng môi trường nhiều
hơn khi thu nhập của họ tăng lên. Họ có thể đủ sức làm điều đó bởi vì họ đã đảm
bảo thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, như thực phẩm, nước sạch, phương tiện vệ sinh
và nhà ở. Họ có thể gây áp lực để chính phủ ban hành những quy định môi trường
nhằm bảo vệ môi trường tốt hơn. Điều này sẽ dẫn đến những lựa chn xã hội đem
lại mức chất lượng môi trường cao hơn. Đường PPF lúc đó sẽ bắt đầu dịch chuyển
lên trên như những nước phát triển. Khi thu nhập tăng, chất lượng môi trường cũng
sẽ tăng.
Đường Kuznets môi trường
Đường Kuznets môi trường (EKC) thể hiện mối liên hệ giữa mức thu nhập và các
thước đo chất lượng môi trường khác nhau, được đặt theo tên của một nhà kinh tế
đã tìm thấy mi quan hệ giữa thu nhập và bình đẳng xã hội.
Có ba loại liên hệ trong đường EKC:
1. EKC giảm đều khi thu nhập tăng.
2. EKC lúc đầu tăng sau đó giảm theo thu nhập.
3. EKC tăng theo thu nhập.
Các ổ chứa ô nhiễm và vùng tránh ô nhiễm
Một quốc gia hay một vùng trong một quốc gia có thể muốn trở thành ổ chứa ô
nhiễm (pollution haven) bằng cách đưa ra những chính sách môi trường rất lỏng
lẻo. Họ khuyến khích các công ty xây dựng nhà máy sản xuất thật nhiều hàng hóa
và tạo nhiều việc làm cho người dân. Các nước đang phát triển thường được xem là
các ổ chứa ô nhiễm, và bất kỳ quốc gia hay khu vực nào có các mục tiêu môi
trường thấp đều là các ổ chứa ô nhiễm tiềm năng. Các nước khuyến khích công
nghệ sản xuất sạch và mời gọi những người đánh giá cao chất lượng môi trường thì
thường sử dụng các chính sách môi trường khắt khe. Các nước đó là các vùng tránh
ô nhiễm (pollution halos).
KINH TẾ HỌC VÀ CHÍNH TRỊ
Các quyết định chính sách môi trường được đưa ra theo các quy trình chính trị, nơi
mà ít nhất là trongc hệ thống dân chủ, người dân và các nhóm ngồi lại với nhau
và đấu tranh để giành sự ảnh hưởng và quyền kiểm soát.
Các nhà khoa học và kinh tế học có thể giúp cho quá trình chính trị bằng cách
nghiên cứu càng rõ ràng và khách quan càng tốt, dù rằng chúng ta biết thế giới thực
tế là đầy thỏa hiệp và quyền lực. Các nhà kinh tế có thể giúp xác định các chiến
lược hiệu quả xã hội và nghiên cứu các vấn đề phân phối: các vấn đề môi trường và
các chính sách môi trường ảnh hưởng như thế nào lên các nhóm khác nhau trong xã
hội. Một vai trò quan trọng khác của các nhà kinh tế và khoa học là cung cấp thông
tin các phương án hành động khác nhau cho người làm chính trị.
CHƯƠNG 2
LIÊN KẾT GIỮA KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG: SỰ PHÂN LOẠI
KINH TẾ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Tài nguyên thiên nhiên:
+ Tài nguyên có thể tái tạo (renewable)
Các tài nguyên sống như cá và gỗ là tài nguyên có thể tái tạo; chúng lớn lên theo
thời gian qua các quy trình sinh hc. Việc thu hoạch các tài nguyên này có thể bền
vững theo thời gian. Một số nguồn tài nguyên không sống cũng là tài nguyên có thể
tái tạo, một thí dụ điển hình đó là năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và vòng
tuần hoàn nước.
+ Tài nguyên không thể tái tạo (non-renewable).
Tài nguyên không thể tái tạo là các dạng tài nguyên không có quá trình bổ sung sau
khi sử dụng, chúng sẽ biến mất vĩnh viễn. Sự khai thác, thế là không bền vững.
Những ví dụ điển hình là các túi dầu mỏ tự nhiên và các trầm tích khoáng không
chứa năng lượng. Một số tài nguyên, chẳng hạn các tầng nước ngầm, có mức độ bổ
sung quá chậm chạp nên chúng được xếp vào dạng tài nguyên không thể tái tạo.
=> Các tài nguyên sống cũng có thể trở thành tài nguyên không thể tái tạo nếu việc
khai thác liên tục vượt quá sự tăng trưởng của nguồn tài nguyên.
+ Tài nguyên đa dạng sinh hc (biological diversity).
Có khoảng 30 triệu loài sinh vật khác nhau đang sinh sống.
Số lượng loài này thể hiện một nguồn thông tin di truyền to lớn và quan trọng, rất
hữu ích cho sự phát triển các loại dược liệu, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc tự
nhiên và các ging cây trồng vật nuôi có tính chống chịu v.v.
Các hoạt động của con người đã làm gia tăng đáng kể mức độ tuyệt chng của các
loài.
=> Vì vậy, sự bảo tồn nơi cư trú và bảo vệ các giống loài đã trở thành những vấn đề
về tài nguyên quan trọng hiện nay.
Đặc điểm đặc trưng:
+ Tính phụ thuộc vào thời gian.
Điều này có nghĩa là việc sử dụng chúng thường kéo dài theo thời gian, do đó mức
độ sử dụng trong một thời điểm sẽ ảnh hưởng đến số lượng sử dng trong tương
lai. Trong trường hợp các tài nguyên không thể tái tạo thì dễ nhận thấy điều này.
=> Liên thế hệ
(Chúng bao hàm việc phải đánh đổi giữa hiện tại với tương lai.)
=> Suy giảm khả năng đồng hóa của trái đất - đó là khả năng của hệ thống tự
nhiên chấp nhận một số chất ô nhiễm nào đó và chuyển chúng sang dạng trung tính
hoặc vô hại.
CÂN BẰNG CƠ BẢN
Nền kinh tế được phân chia thành hai bộ phận chính: nhà sản xuất và người tiêu thụ:
- Nhà sản xuất: bao gồm tất cả các công ty, tổ chức công và các tổ chức phi lợi
nhuận lấy đầu vào và chuyển hóa chúng thành hàng hóa và dch vụ.
- Người tiêu th: bao gồm tất cả các hộ gia đình riêng biệt sử dụng các sản
phẩmvà dịch v cuối cùng phục vụ cho sự tồn tại và thụ hưởng của họ. Người tiêu
thụ cũng có thể sử dụng các nguyên liệu đầu vào lấy trực tiếp từ thiên nhiên mà
không qua trung gian nhà sản xuất.
M = Rp d + Rc d
Rp d + Rc d = M = G + Rp - R’p - R’c
Có ba cách cơ bản để giảm M, và do đó, giảm các chất thải được thải vào môi
trường tự nhiên: Giảm G – Số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, Giảm RP
Chất thải từ sản xuất, Tăng (Rp r + Rc r ) – sự tái chế.
THUẬT NGỮ
- Chất lượng môi trường xung quanh (Ambient quality): Môi trường xung
quanh nói đến môi trường ở xung quanh chúng ta.
- Chất lượng môi trường (Environmental quality): Một thuật ngữ được dùng để
nói một cách rộng rãi đến trạng thái ca môi trường tự nhiên. Khái niệm này
bao hàm cả khái niệm về chất lượng môi trường xung quanh, và cũng bao
hàm các khái niệm như chất lượng cảnh quan và chất lượng thẩm mỹ ca môi
trường.
- Chất thải (Residuals): Vật chất còn lại sau khi sản xuất xong.
- Phát thải (Emissions): phần của chất thải sản xuất hay tiêu dùng được đưa
vào trong môi trường, đôi khi trực tiếp, đôi khi sau xử lý.
- i chế (Recycling): Quy trình quay lại của một vài hoặc toàn bộ chất thải
sản xuất hay tiêu dùng được dùng lại trong sản xuất và tiêu dùng.
- Chất gây ô nhiễm (Pollutant): Một chất, một dạng năng lượng hay một hành
động mà khi đưa vào môi trường tự nhiên, sẽ làm giảm mức độ chất lượng
môi trường xung quanh.
- Xả thải (Effluent): Đôi khi thuật ngữ xả thải được dùng để mô tả những chất
ô nhiễm nước, và phát thải để nói đến các chất ô nhiễm không khí.
- Ô nhiễm (Pollution): ô nhiễm xảy ra khi một lượng chất gây ô nhiễm, dù nh
như thế nào, được đưa vào môi trường, ô nhiễm chỉ diễn ra khi chất lượng
môi trường xung quanh bị suy giảm tới mức nào đó hoặc khả năng hấp thụ
của môi trường bị vượt quá, đủ để gây ra một số thiệt hại.
- Thiệt hại (Damages): Những ảnh hưởng tiêu cực tạo ra bởi ô nhiễm môi
trường tác động lên con người dưới hình thức ảnh hưởng tới sức khỏe, suy
giảm cảnh quan, v.v., và ảnh hưởng đến các yếu tố của hệ sinh thái thông qua
những việc như phá vỡ các mối liên hệ sinh thái hoặc là sự tuyệt chủng loài.
- Thành phần môi trường (Environmental medium): Các bộ phận chính của thế
giới tự nhiên cấu thành môi trường, thường phân thành đất, nước và không
khí.
- Nguồn phát thải (Source): Địa điểm hoặc vị trí mà tại đó sự phát thải diễn ra,
như là một nhà máy, một xe ôtô.
SỰ PHÁT THẢI, CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH, VÀ
THIỆT HẠI:
CÁC DẠNG CHẤT Ô NHIỄM:
- Ô nhiễm tích t và không tích tụ
- Chất ô nhiễm cc bộ, vùng và toàn cầu
- Nguồn ô nhiễm điểm và nguồn ô nhiễm phân tán
- Sự phát thải gián đoạn và liên tục
- Các thiệt hại môi trường không liên quan đến chất phát thải CHƯƠNG 3
LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ, CUNG VÀ CẦU
GIÁ SẴN LÒNG TRẢ (WTP)
Giá trị của một món hàng đối với một người nào đó chính là giá họ sẵn lòng trả cho
món hàng ấy.
Giá sẵn lòng trả (WTP) cũng phản ánh khả năng chi trả.
- Khi số đơn vị mua tăng, giá sẵn lòng trả cho từng đơn vị hàng hóa tăng thêm
thường giảm xuống.
- Giá sẵn lòng trả biên diễn tả giá sẵn lòng trả của một người cho một đơn v
dịch vụ hay hàng hóa tăng thêm.
Cầu
Đường cầu cá nhân cho thấy số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà cá nhân này có nhu
cầu (nghĩa là: mua và tiêu thụ) ở một mức giá cho sẵn.
CẦU GIẢM KHI GIÁ TĂNG
Khi đó hàm số đường cầu có dạng chung là:
Q D = a - bP
QD là lượng cầu a là hệ số
cắt b là độ dốc của phương
trình.
Tổng cầu/Giá sẵn lòng tr: Đường tổng cầu đối với một hàng hóa thị trường
tổng theo trục hoành các đường cầu cá nhân thường được nhóm theo khu vực địa lý
(ví dụ như thành phố, tỉnh hoặc mt quốc gia).
LỢI ÍCH:
Dựa vào việc họ sẵn lòng từ bỏ, hay sẵn lòng trả tiền cho món ấy. Cùng với cách
suy luận này, thì lợi ích mà một người có được từ một điều gì đó sẽ bằng với số tiền
mà họ sẵn lòng trả. Cầu (đồng thời cũng là lợi ích) rất khó đo lường khi gắn với vấn
đề môi trường. Các đường cầu cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi khả năng chi trả và sự
ưa thích.
CHI PHÍ
Chi phí cơ hội: Chi phí cơ hội để sản xuất một sản phẩm nào đó là giá trị tối đa của
các sản phẩm khác lẽ ra đã được sản xuất nếu ta không sử dụng tài nguyên để làm
ra sản phẩm hiện hành.
- Chi phí cơ hội bao gồm chi phí tiền mặt, một số nhập liệu thực tế được sử
dụngtrong sản xuất nhưng lại không được xem là chi phí bằng tiền.
- Chi phí cơ hội rất cần thiết khi cần phải ra những quyết định liên quan đến
việcchọn lựa cách sử dụng một tài nguyên cho mục đích này hay mục đích
khác.
- Đo lường chi phí cơ hội bằng các giá trị của những nhập liệu sử dụng trong
sảnxuất. Để làm việc này, ta phải đảm bảo là các giá trị của nhập lượng là
chuẩn xác. Nếu thị trường bị biến dạng ta thể dùng giá mờ (shadow price)
để đo lường chi phí cơ hội
Đường chi phí:
- Chi phí biên đo lường lượng chi phí gia tăng khi tăng thêm một đơn vị sản
phẩm.
- Tổng chi phí là chi phí sản xuất ra tổng số lượng sản phẩm.
CUNG VÀ ĐƯỜNG CHI PHÍ BIÊN, TỔNG CUNG:
Chi phí sản xuất biên là yếu tố chính trong việc xác định hành vi cung của các công
ty trong trường hợp cạnh tranh. Đường chi phí biên của một cong ty là đường cung,
chỉ ra số lượng hàng hóa mà xí nghiệp muốn cung cấp ở các mức giá khác nhau.
- Đường tổng cung của các xí nghiệp sản xuất ra cùng một loại sản phẩm là
tổngcác đường cung của các xí nghiệp ấy theo trục hoành
- Tổng cung được ký hiệu là Q
S
CÔNG NGHỆ:
Yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hình dạng của đường chi phí biên là công
nghệ sản xuất. Công nghệ nghĩa là năng lực sản xuất vốn có với phương pháp và
máy móc sử dụng. Thay đổi công nghệ thường không xảy ra khi không có nỗ lực;
thường nó cần quá trình nghiên cứu và pháp triển (Rearch and Development –
R&D).
NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG BIÊN:
Nguyên tắc cân bằng biên đòi hỏi là tổng sản lượng được phân phối giữa các nguồn
sản xuất sao cho chi phí sản xuất biên của các nguồn là bằng nhau.
- Khi chi phí biên của hai nhà máy là khác nhau, sản xuất nên được phân bố lại
theo cách giảm sản lượng ở nhà máy có chi phí cao để chuyển dần về nhà
máy có chi phí thấp hơn nhằm giảm tổng chi phí.
- Mục đích của nguyên tắc cân bằng biên là giảm thiểu chi phí tổng cộng cho
sảnxuất một lượng sản phẩm nhất định. Mục tiêu này trở thành hiện thực khi
sản xuất được phân phối theo cách cân bằng chi phí biên giữa các nguồn sản
xuất.

Preview text:

Họ và tên: Hoàng Thị Phương Chi Msv: 20051008
KIỂM TRA SƠ BỘ LẦN 1
MÔN: Kinh Tế Môi Trường CHƯƠNG 1
KINH TẾ MÔI TRƯỜNG LÀ GÌ? KHÁI NIỆM
Kinh tế môi trường nghiên cứu các vấn đề về môi trường với cách nhìn và phương
pháp phân tích của kinh tế học. Nghiên cứu kinh tế môi trường quan tâm đến vấn
đề cơ bản là phân phối các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng
tối ưu xã hội tất cả các nguồn tài nguyên, trong đó có tài nguyên môi trường. Các
khái niệm về sự khan hiếm, chi phí cơ hội, sự đánh đổi, lợi ích biên và chi phí biên
là chìa khóa để hiểu các vấn đề môi trường và cách thức giải quyết các vấn đề đó.
PHƯƠNG PHÁP KINH TẾ
1. Phương pháp dựa vào sự thức tỉnh đạo đức
Vấn đề lớn nhất trong phương pháp kiểm soát ô nhiễm dựa vào đạo đức chính là giả
thiết cơ bản của nó cho rằng con người gây ô nhiễm là vì họ kém đạo đức. Không
phải sự kém ý thức đạo đức sẽ dẫn đến phá hoại môi trường mà chính là cách thức
chúng ta tạo nên hệ thống kinh tế để trong đó mọi người cần phải tìm công việc làm để sinh sống.
2. Phương pháp quan sát cách thức xây dựng nền kinh tế và thể chế, và bằng cách
nàochúng hướng mọi người đưa ra các quyết định gây hậu quả phá hoại môi trường.
Nhưng phương pháp này khó áp dụng vì bản thân động cơ lợi nhuận không phải là
nguyên nhân chính phá hủy môi trường.
Phải nhìn kỹ vào bên trong hệ thống kinh tế để hiểu được hệ thống các khuyến
khích hoạt động như thế nào và phải thay đổi chúng ra sao để có được nền kinh tế
phát triển hợp lý mà không có tác động phụ gây tàn phá môi trường. Thiếu quyền sở
hữu đối với các nguồn tài nguyên môi trường có nghĩa là có rất ít khuyến khích để
con người tính đến hậu quả môi trường do hành động của họ gây ra.
CÁC NGOẠI TÁC VÀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
Tập trung vào khía cạnh kinh tế vi mô của kinh tế môi trường – để thấy được tại sao
ngoại tác tồn tại và còn mãi, và làm thế nào để thiết lập và phân tích các công cụ
chính sách kinh tế để có thể cải thiện chất lượng môi trường.
PHÂN TÍCH CHI PHÍ - LỢI ÍCH
Nghiên cứu chi phí - lợi ích bao gồm việc chúng ta cần xem xét cả chi phí và lợi ích
của các chương trình và chính sách môi trường. Điều này thường làm cho vấn đề
nghiên cứu chi phí - lợi ích nằm trong các cuộc tranh luận mang tính chính trị về
các vấn đề môi trường. Trong các cuộc đấu tranh chính trị về các vấn đề môi
trường, một nhóm gồm những người quan tâm đến lợi ích, trong khi các nhóm đối
lập lại quan tâm chủ yếu đến chi phí. Cuối cùng chấp nhận các chương trình bảo vệ
môi trường tùy thuộc vào con người khi họ nhận ra rằng việc bảo vệ môi trường là
xứng đáng. Phương pháp bảo vệ môi trường dựa vào phân tích chi phí - lợi ích, sự
đánh đổi là cách tốt nhất để đạt được điều này.
SỰ BỀN VỮNG CỦA MÔI TRƯỜNG VÀ CỦA NỀN KINH TẾ
Các vấn đề cơ bản -
Nền kinh tế bền vững phải là nền kinh tế có khả năng cho phép phúc lợi
của con người tăng lên hoặc ít nhất là được giữ nguyên (có nghĩa là không giảm
sút). - Vốn xã hội bao gồm tất cả mọi thứ mà nền kinh tế có thể đầu tư vào - vốn
vật chất để sản xuất hàng hóa và dịch vụ, giáo dục, cơ sở hạ tầng, các nguồn tài
nguyên tái tạo và không tái tạo, và dĩ nhiên chính bản thân môi trường cũng là một nguồn dự trữ vốn. -
Bền vững tùy thuộc vào khả năng thay thế giữa vốn tự nhiên (các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường), vốn sản xuất và lao động. Công
nghệ và sự thay đổi công nghệ là một yếu tố sống còn khác trong nghiên cứu các lộ
trình bền vững. Công nghệ sẽ ảnh hưởng lên mức độ thay thế giữa các yếu tố đầu
vào và số lượng đầu vào cần thiết cho sản xuất một đơn vị hàng hóa. Một số công
nghệ có thể khuyến khích sự bền vững một số khác thì không.
Một nền kinh tế bền vững là nền kinh tế trong đó đầu tư vốn xã hội cho phép
nền kinh tế tăng trưởng để thế hệ tương lai ít nhất cũng có được mức phúc lợi như
thế hệ hiện tại, trong khi vẫn duy trì sự lành mạnh của hệ sinh thái.
Đánh đổi và sự bền vững
Đường giới hạn khả năng sản xuất (production possibility frontier – PPF) dùng
để minh họa sự đánh đổi giữa hàng hóa, dịch vụ với chất lượng môi trường . PPF là
đồ thị biểu diễn những chọn lựa giữa hai kết quả mong muốn – hàng hóa, dịch vụ
và chất lượng môi trường – của một nhóm người.
Mối liên hệ cơ bản này được trình bày trong hình 1-1.
Trục tung là chỉ số sản lượng kinh tế gộp, nghĩa là tổng giá trị thị trường của hàng
hóa kinh tế thông thường bán ra trong nền kinh tế trong một năm. Trục hoành chỉ
chất lượng môi trường, có được từ các dữ liệu khác nhau về môi trường xung
quanh. Đường cong này biểu diễn các mức kết hợp khác nhau giữa hai kết quả – sản
lượng thị trường và chất lượng môi trường – mà một nhóm người có thể tạo ra được
với một số vốn nhất định. Đường PPF được biểu diễn bằng đường đứt quãng khi
chất lượng môi trường dưới mức ē. Dưới mức ē , nền kinh tế không thể sản xuất
thêm bất kỳ một hàng hóa và dịch vụ nào bởi vì có quá ít tài nguyên môi trường để
duy trì sản xuất. Emax cho thấy chất lượng môi trường tối đa mà ở đó không có một
hàng hóa nào được sản xuất (có thể cho là không có con người).
PPF được xác định bởi năng lực kỹ thuật trong nền kinh tế và các nhân tố sinh thái
– khí tượng học, thủy học v.v. của hệ thống tự nhiên tại quốc gia đang nghiên cứu.
Ví dụ, sản lượng hiện tại của nền kinh tế là c1, chúng ta có thể tăng trưởng lên mức
c2 chỉ với mức chi phí mà chất lượng môi trường giảm từ e1 xuống e2.
Đường bàng quan cộng đồng (Community indifference Curve – CIC) minh họa
sự lựa chọn của xã hội.
CIC của nước A được biểu diễn trong hình 1-1.
Mỗi điểm trên CIC cho thấy sự kết hợp giữa một mức chất lượng môi trường với
một số hàng hóa cho cùng một mức thỏa mãn đối với xã hội. Những đường CIC
càng nằm xa gốc tọa độ thì càng cho mức thỏa mãn nhiều hơn so với các đường
nằm gần. Xã hội sẽ tìm kiếm mức thỏa mãn cao nhất mà họ có thể đạt được. Đây sẽ
là điểm mà đường CIC tiếp xúc với PPF.
Ví dụ với nước A, đây chính là điểm A, CIC có chất lượng môi trường e2 và lượng
hàng hóa là c2. Một nước khác có thể sẽ có những sở thích xã hội khác nhau đưa
đến sự chọn lựa chất lượng môi trường và hàng hóa khác nhau, ví dụ họ sẽ chọn ở
điểm B, với toạ độ là e1 và c1. Sự chọn lựa của xã hội sẽ ảnh hưởng đến sự bền
vững của nền kinh tế và môi trường.
Đường PPF minh họa việc đánh đổi giữa hàng hóa thị trường với chất lượng môi
trường. Khi tiêu thụ nhiều hàng hóa, xã hội phải chịu giảm chất lượng môi trường.
Dưới điểm ē, không thể sản xuất được hàng hóa nào cả vì chất lượng môi trường
quá kém không thể hỗ trợ sản xuất. Các đường bàng quan (CICs) chỉ ra những lựa
chọn của một quốc gia về các mức kết hợp hàng hóa với chất lượng môi trường.
Nước A chọn hàng hóa nhiều hơn và môi trường có chất lượng kém hơn là nước B.
Môi trường và Tăng Trưởng: Sự bền vững theo thời gian
Sự bền vững không chỉ là sự chọn lựa trong một năm mà còn là cả quá trình theo
thời gian. Đường PPF sẽ không giữ mãi ở một mức cố định khi mà các điều kiện
như kỹ thuật sản xuất và suy thoái môi trường thay đổi theo thời gian. Môi trường
có thể được xem là hàng hóa co giãn theo thu nhập (income elastic good). Mọi
người sử dụng những hàng hóa gắn với sự cải thiện chất lượng môi trường nhiều
hơn khi thu nhập của họ tăng lên. Họ có thể đủ sức làm điều đó bởi vì họ đã đảm
bảo thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, như thực phẩm, nước sạch, phương tiện vệ sinh
và nhà ở. Họ có thể gây áp lực để chính phủ ban hành những quy định môi trường
nhằm bảo vệ môi trường tốt hơn. Điều này sẽ dẫn đến những lựa chọn xã hội đem
lại mức chất lượng môi trường cao hơn. Đường PPF lúc đó sẽ bắt đầu dịch chuyển
lên trên như những nước phát triển. Khi thu nhập tăng, chất lượng môi trường cũng sẽ tăng.
Đường Kuznets môi trường
Đường Kuznets môi trường (EKC) thể hiện mối liên hệ giữa mức thu nhập và các
thước đo chất lượng môi trường khác nhau, được đặt theo tên của một nhà kinh tế
đã tìm thấy mối quan hệ giữa thu nhập và bình đẳng xã hội.
Có ba loại liên hệ trong đường EKC:
1. EKC giảm đều khi thu nhập tăng.
2. EKC lúc đầu tăng sau đó giảm theo thu nhập.
3. EKC tăng theo thu nhập.
Các ổ chứa ô nhiễm và vùng tránh ô nhiễm
Một quốc gia hay một vùng trong một quốc gia có thể muốn trở thành ổ chứa ô
nhiễm (pollution haven) bằng cách đưa ra những chính sách môi trường rất lỏng
lẻo. Họ khuyến khích các công ty xây dựng nhà máy sản xuất thật nhiều hàng hóa
và tạo nhiều việc làm cho người dân. Các nước đang phát triển thường được xem là
các ổ chứa ô nhiễm, và bất kỳ quốc gia hay khu vực nào có các mục tiêu môi
trường thấp đều là các ổ chứa ô nhiễm tiềm năng. Các nước khuyến khích công
nghệ sản xuất sạch và mời gọi những người đánh giá cao chất lượng môi trường thì
thường sử dụng các chính sách môi trường khắt khe. Các nước đó là các vùng tránh
ô nhiễm (pollution halos).
KINH TẾ HỌC VÀ CHÍNH TRỊ
Các quyết định chính sách môi trường được đưa ra theo các quy trình chính trị, nơi
mà ít nhất là trong các hệ thống dân chủ, người dân và các nhóm ngồi lại với nhau
và đấu tranh để giành sự ảnh hưởng và quyền kiểm soát.
Các nhà khoa học và kinh tế học có thể giúp cho quá trình chính trị bằng cách
nghiên cứu càng rõ ràng và khách quan càng tốt, dù rằng chúng ta biết thế giới thực
tế là đầy thỏa hiệp và quyền lực. Các nhà kinh tế có thể giúp xác định các chiến
lược hiệu quả xã hội và nghiên cứu các vấn đề phân phối: các vấn đề môi trường và
các chính sách môi trường ảnh hưởng như thế nào lên các nhóm khác nhau trong xã
hội. Một vai trò quan trọng khác của các nhà kinh tế và khoa học là cung cấp thông
tin các phương án hành động khác nhau cho người làm chính trị. CHƯƠNG 2
LIÊN KẾT GIỮA KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG: SỰ PHÂN LOẠI
KINH TẾ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Tài nguyên thiên nhiên: +
Tài nguyên có thể tái tạo (renewable)
Các tài nguyên sống như cá và gỗ là tài nguyên có thể tái tạo; chúng lớn lên theo
thời gian qua các quy trình sinh học. Việc thu hoạch các tài nguyên này có thể bền
vững theo thời gian. Một số nguồn tài nguyên không sống cũng là tài nguyên có thể
tái tạo, một thí dụ điển hình đó là năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và vòng tuần hoàn nước. +
Tài nguyên không thể tái tạo (non-renewable).
Tài nguyên không thể tái tạo là các dạng tài nguyên không có quá trình bổ sung sau
khi sử dụng, chúng sẽ biến mất vĩnh viễn. Sự khai thác, vì thế là không bền vững.
Những ví dụ điển hình là các túi dầu mỏ tự nhiên và các trầm tích khoáng không
chứa năng lượng. Một số tài nguyên, chẳng hạn các tầng nước ngầm, có mức độ bổ
sung quá chậm chạp nên chúng được xếp vào dạng tài nguyên không thể tái tạo.
=> Các tài nguyên sống cũng có thể trở thành tài nguyên không thể tái tạo nếu việc
khai thác liên tục vượt quá sự tăng trưởng của nguồn tài nguyên. +
Tài nguyên đa dạng sinh học (biological diversity).
Có khoảng 30 triệu loài sinh vật khác nhau đang sinh sống.
Số lượng loài này thể hiện một nguồn thông tin di truyền to lớn và quan trọng, rất
hữu ích cho sự phát triển các loại dược liệu, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc tự
nhiên và các giống cây trồng vật nuôi có tính chống chịu v.v.
Các hoạt động của con người đã làm gia tăng đáng kể mức độ tuyệt chủng của các loài.
=> Vì vậy, sự bảo tồn nơi cư trú và bảo vệ các giống loài đã trở thành những vấn đề
về tài nguyên quan trọng hiện nay. Đặc điểm đặc trưng: +
Tính phụ thuộc vào thời gian.
Điều này có nghĩa là việc sử dụng chúng thường kéo dài theo thời gian, do đó mức
độ sử dụng trong một thời điểm sẽ ảnh hưởng đến số lượng sử dụng trong tương
lai. Trong trường hợp các tài nguyên không thể tái tạo thì dễ nhận thấy điều này.
=> Liên thế hệ
(Chúng bao hàm việc phải đánh đổi giữa hiện tại với tương lai.)
=> Suy giảm khả năng đồng hóa của trái đất - đó là khả năng của hệ thống tự
nhiên chấp nhận một số chất ô nhiễm nào đó và chuyển chúng sang dạng trung tính hoặc vô hại. CÂN BẰNG CƠ BẢN
Nền kinh tế được phân chia thành hai bộ phận chính: nhà sản xuất và người tiêu thụ: -
Nhà sản xuất: bao gồm tất cả các công ty, tổ chức công và các tổ chức phi lợi
nhuận lấy đầu vào và chuyển hóa chúng thành hàng hóa và dịch vụ. -
Người tiêu thụ: bao gồm tất cả các hộ gia đình riêng biệt sử dụng các sản
phẩmvà dịch vụ cuối cùng phục vụ cho sự tồn tại và thụ hưởng của họ. Người tiêu
thụ cũng có thể sử dụng các nguyên liệu đầu vào lấy trực tiếp từ thiên nhiên mà
không qua trung gian nhà sản xuất. M = Rp d + Rc d
Rp d + Rc d = M = G + Rp - R’p - R’c
Có ba cách cơ bản để giảm M, và do đó, giảm các chất thải được thải vào môi
trường tự nhiên: Giảm G – Số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, Giảm RP –
Chất thải từ sản xuất, Tăng (Rp r + Rc r ) – sự tái chế. THUẬT NGỮ -
Chất lượng môi trường xung quanh (Ambient quality): Môi trường xung
quanh nói đến môi trường ở xung quanh chúng ta. -
Chất lượng môi trường (Environmental quality): Một thuật ngữ được dùng để
nói một cách rộng rãi đến trạng thái của môi trường tự nhiên. Khái niệm này
bao hàm cả khái niệm về chất lượng môi trường xung quanh, và cũng bao
hàm các khái niệm như chất lượng cảnh quan và chất lượng thẩm mỹ của môi trường. -
Chất thải (Residuals): Vật chất còn lại sau khi sản xuất xong. -
Phát thải (Emissions): phần của chất thải sản xuất hay tiêu dùng được đưa
vào trong môi trường, đôi khi trực tiếp, đôi khi sau xử lý. -
Tái chế (Recycling): Quy trình quay lại của một vài hoặc toàn bộ chất thải
sản xuất hay tiêu dùng được dùng lại trong sản xuất và tiêu dùng. -
Chất gây ô nhiễm (Pollutant): Một chất, một dạng năng lượng hay một hành
động mà khi đưa vào môi trường tự nhiên, sẽ làm giảm mức độ chất lượng môi trường xung quanh. -
Xả thải (Effluent): Đôi khi thuật ngữ xả thải được dùng để mô tả những chất
ô nhiễm nước, và phát thải để nói đến các chất ô nhiễm không khí. -
Ô nhiễm (Pollution): ô nhiễm xảy ra khi một lượng chất gây ô nhiễm, dù nhỏ
như thế nào, được đưa vào môi trường, ô nhiễm chỉ diễn ra khi chất lượng
môi trường xung quanh bị suy giảm tới mức nào đó hoặc khả năng hấp thụ
của môi trường bị vượt quá, đủ để gây ra một số thiệt hại. -
Thiệt hại (Damages): Những ảnh hưởng tiêu cực tạo ra bởi ô nhiễm môi
trường tác động lên con người dưới hình thức ảnh hưởng tới sức khỏe, suy
giảm cảnh quan, v.v., và ảnh hưởng đến các yếu tố của hệ sinh thái thông qua
những việc như phá vỡ các mối liên hệ sinh thái hoặc là sự tuyệt chủng loài. -
Thành phần môi trường (Environmental medium): Các bộ phận chính của thế
giới tự nhiên cấu thành môi trường, thường phân thành đất, nước và không khí. -
Nguồn phát thải (Source): Địa điểm hoặc vị trí mà tại đó sự phát thải diễn ra,
như là một nhà máy, một xe ôtô.
SỰ PHÁT THẢI, CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH, VÀ THIỆT HẠI:
CÁC DẠNG CHẤT Ô NHIỄM: -
Ô nhiễm tích tụ và không tích tụ -
Chất ô nhiễm cục bộ, vùng và toàn cầu -
Nguồn ô nhiễm điểm và nguồn ô nhiễm phân tán -
Sự phát thải gián đoạn và liên tục -
Các thiệt hại môi trường không liên quan đến chất phát thải CHƯƠNG 3
LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ, CUNG VÀ CẦU
GIÁ SẴN LÒNG TRẢ (WTP)
Giá trị của một món hàng đối với một người nào đó chính là giá họ sẵn lòng trả cho món hàng ấy.
Giá sẵn lòng trả (WTP) cũng phản ánh khả năng chi trả. -
Khi số đơn vị mua tăng, giá sẵn lòng trả cho từng đơn vị hàng hóa tăng thêm thường giảm xuống. -
Giá sẵn lòng trả biên diễn tả giá sẵn lòng trả của một người cho một đơn vị
dịch vụ hay hàng hóa tăng thêm. Cầu
Đường cầu cá nhân cho thấy số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà cá nhân này có nhu
cầu (nghĩa là: mua và tiêu thụ) ở một mức giá cho sẵn. CẦU GIẢM KHI GIÁ TĂNG
Khi đó hàm số đường cầu có dạng chung là: Q D = a - bP
QD là lượng cầu a là hệ số
cắt b là độ dốc của phương trình.
Tổng cầu/Giá sẵn lòng trả: Đường tổng cầu đối với một hàng hóa thị trường là
tổng theo trục hoành các đường cầu cá nhân thường được nhóm theo khu vực địa lý
(ví dụ như thành phố, tỉnh hoặc một quốc gia). LỢI ÍCH:
Dựa vào việc họ sẵn lòng từ bỏ, hay sẵn lòng trả tiền cho món ấy. Cùng với cách
suy luận này, thì lợi ích mà một người có được từ một điều gì đó sẽ bằng với số tiền
mà họ sẵn lòng trả. Cầu (đồng thời cũng là lợi ích) rất khó đo lường khi gắn với vấn
đề môi trường. Các đường cầu cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi khả năng chi trả và sự ưa thích. CHI PHÍ
Chi phí cơ hội: Chi phí cơ hội để sản xuất một sản phẩm nào đó là giá trị tối đa của
các sản phẩm khác lẽ ra đã được sản xuất nếu ta không sử dụng tài nguyên để làm ra sản phẩm hiện hành. -
Chi phí cơ hội bao gồm chi phí tiền mặt, một số nhập liệu thực tế được sử
dụngtrong sản xuất nhưng lại không được xem là chi phí bằng tiền. -
Chi phí cơ hội rất cần thiết khi cần phải ra những quyết định liên quan đến
việcchọn lựa cách sử dụng một tài nguyên cho mục đích này hay mục đích khác. -
Đo lường chi phí cơ hội bằng các giá trị của những nhập liệu sử dụng trong
sảnxuất. Để làm việc này, ta phải đảm bảo là các giá trị của nhập lượng là
chuẩn xác. Nếu thị trường bị biến dạng ta có thể dùng giá mờ (shadow price)
để đo lường chi phí cơ hội
Đường chi phí: -
Chi phí biên đo lường lượng chi phí gia tăng khi tăng thêm một đơn vị sản phẩm. -
Tổng chi phí là chi phí sản xuất ra tổng số lượng sản phẩm.
CUNG VÀ ĐƯỜNG CHI PHÍ BIÊN, TỔNG CUNG:
Chi phí sản xuất biên là yếu tố chính trong việc xác định hành vi cung của các công
ty trong trường hợp cạnh tranh. Đường chi phí biên của một cong ty là đường cung,
chỉ ra số lượng hàng hóa mà xí nghiệp muốn cung cấp ở các mức giá khác nhau. -
Đường tổng cung của các xí nghiệp sản xuất ra cùng một loại sản phẩm là
tổngcác đường cung của các xí nghiệp ấy theo trục hoành -
Tổng cung được ký hiệu là QS CÔNG NGHỆ:
Yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hình dạng của đường chi phí biên là công
nghệ sản xuất. Công nghệ nghĩa là năng lực sản xuất vốn có với phương pháp và
máy móc sử dụng. Thay đổi công nghệ thường không xảy ra khi không có nỗ lực;
thường nó cần quá trình nghiên cứu và pháp triển (Rearch and Development – R&D).
NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG BIÊN:
Nguyên tắc cân bằng biên đòi hỏi là tổng sản lượng được phân phối giữa các nguồn
sản xuất sao cho chi phí sản xuất biên của các nguồn là bằng nhau. -
Khi chi phí biên của hai nhà máy là khác nhau, sản xuất nên được phân bố lại
theo cách giảm sản lượng ở nhà máy có chi phí cao để chuyển dần về nhà
máy có chi phí thấp hơn nhằm giảm tổng chi phí. -
Mục đích của nguyên tắc cân bằng biên là giảm thiểu chi phí tổng cộng cho
sảnxuất một lượng sản phẩm nhất định. Mục tiêu này trở thành hiện thực khi
sản xuất được phân phối theo cách cân bằng chi phí biên giữa các nguồn sản xuất.