Kinh Tế Chính Trị - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU

Kinh Tế Chính Trị - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 44820939
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TÊN ĐỀ: Phân tích lý luẩn về sản xuất hàng hóa? Vận dụng lý
luận này để phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay?
Giáo viên bộ môn: Tô Đức Hạnh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Việt Hùng - 11234355
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề phát
triển sản xuất hàng hóa và thị trường nội địa đóng một vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là các
nước đang phát triển như Việt Nam. Sản xuất hàng hóa không chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và hội nhập với thị trường toàn cầu. Bên cạnh đó, thị
trường nội địa lành mạnh với các sản phẩm hàng hóa đa dạng, chất lượng cao
sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và mức sống của người dân.
Việt Nam, sau hơn 35 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành và phát triển. Sản xuất hàng hóa đã có
bước phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước và quá trình hội
lOMoARcPSD| 44820939
2
nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thị trường trong nước vẫn còn nhiều hạn chế
như quy mô nhỏ, thiếu tính cạnh tranh, chất lượng hàng hóa chưa cao. Do đó,
đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hóa và phát triển thị trường nội
địa vẫn là một nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay.Xuất phát từ tầm
quan trọng của vấn đề này, đề tài "Phân tích lý luận về sản xuất hàng hóa và
vận dụng để phát triển thị trường ở Việt Nam hiện nay" được chọn nghiên cứu
với hai mục đích chính:
Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về sản
xuất hàng hóa như khái niệm, đặc trưng, nguồn gốc giá trị của hàng hóa và vai
trò của sản xuất hàng hóa đối với nền kinh tế thị trường. Đây là nền tảng lý
luận quan trọng giúp hiểu đúng bản chất của sản xuất hàng hóa.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích lý luận, đề tài sẽ đánh giá thực trạng sản xuất
và lưu thông hàng hóa ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế
và đề xuất các định hướng chiến lược cũng như giải pháp cụ thể nhằm phát
triển thị trường nội địa, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng
hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Với hai mục đích trên, đề tài này có ý nghĩa thiết thực trong việc trang bị
kiến thức lý luận vững chắc về sản xuất hàng hóa cũng như định hướng chiến
lược phát triển thị trường nội địa, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh mới. Sau đây là phần
tìm hiểu về lý luận về sản xuất hàng hóa.
Trước khi chúng ta tìm cách phát triển kinh tế thì cần tìm hiểu rõ khái niệm
lý luận về sản xuất hàng hóa của chủ nghĩa Mác- Lenein. Trong lý thuyết
kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác, khái niệm hàng hóa đóng một vai trò
trung tâm. Theo C.Mác, hàng hóa là một sản phẩm của lao động, được sản
xuất ra không phải để tự sử dụng mà để trao đổi, để bán trên thị trường, nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Theo đó hàng hóa là sản phẩm của lao động: không
phải tất cả các sản phẩm của tự nhiên đều là hàng hóa, mà chỉ có những sản
phẩm do con người lao động sản xuất ra mới trở thành hàng hóa và hàng hóa
giá trị có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi
lOMoARcPSD| 44820939
3
hay buôn bán và được lưu thông trên thij trường, có sẵn trên thị trường. Ngoài
ra hàng hóa còn mang đặc điểm như sau: Hàng hóa được sản xuất ra không
phải để tự tiêu dùng điều này khác biệt với nền sản xuất tự cung tự cấp truyền
thống, nơi con người sản xuất để tự đáp ứng nhu cầu của bản thân và gia đình.
Những thứ con người tự sản xuất và tự cung tự cấp thì sẽ không được gọi là
hàng hóa vì hàng hóa là dùng để trao đổi mua bán. Cũng vì đó hàng hóa sinh
ra với mục đích bán lấy tiền hoặc đổi lấy những hàng hóa khác cần thiết. Một
vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không
phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Như vậy, một vật
muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất
ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong
kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Sản xuất hàng hóa là hình thức sản xuất đặc trưng của nền kinh tế hàng hóa,
một hình thái kinh tế đặc biệt nơi các nhà sản xuất riêng rẽ, độc lập sản xuất
sản phẩm không phải để tự tiêu dùng mà để bán đổi lấy các sản phẩm khác
cần thiết cho họ. Sản xuất hàng hóa ra đời từ sự phân công lao động xã hội và
nhu cầu trao đổi giữa các cá nhân, các gia đình, các cộng đồng sản xuất. Việc
sản xuất sản phẩm diễn ra dưới hai hình thức chính. Thứ nhấtlà sản xuất hàng
hoá đơn giản, là khâu sản xuất hàng hoá trên cơ sở sở hữu tư nhân quy mô
nhỏ về tư liệu sản xuất, trong đó người công nhân là chủ sở hữu trực tiếp của
sản phẩm. Thứ hai là sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa: Giai đoạn này được
đặc trưng bởi sự tách biệt giữa người công nhân và tư liệu sản xuất. Công
nhân chỉ có sức lao động để bán cho nhà tư bản sở hữu tư liệu sản xuất. Sản
xuất hàng hóa là một đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa và thị trường, khác
với sản xuất tự cung tự cấp truyền thống và nền kinh tế tự nhiên. Với sự ra
đời của sản xuất hàng hóa, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại
có những biến đổi lớn, tạo ra nền sản xuất, giai cấp và quan hệ xã hội mới.
Khi sản xuất hàng hóa, tất cả người sản xuất đều độc lập về kinh tế và tự do
sản xuất theo mong muốn và khả năng của mình. Tuy nhiên, giá trị sản phẩm
của họ chỉ được công nhận khi chúng được bán ra thị trường. Các nhà sản
lOMoARcPSD| 44820939
4
xuất buộc phải tuân theo các quy luật thị trường như cung cầu, giá cả và cạnh
tranh. Điều này thể hiện tính khách quan của các quy luật kinh tế trong sản
xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất xã hội thông qua việc thúc đẩy phân công lao động, chuyên môn hóa sản
xuất, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Tuy nhiên, đồng thời, sản
xuất hàng hóa lại làm sâu sắc thêm sự phân chia giai cấp và gây ra xung đột
giữa sự xã hội hóa ngày càng tăng của lực lượng sản xuất và quyền sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất.
Sau khi tìm hiểu về khái niệm về hàng hóa và sản xuất thì ta sẽ tìm hiểu sâu
sắc hơn về đặc trưng cửa hàng hóa. Thì trong đó hàng hóa sẽ có hai đặc trưng
chính. Theo lý thuyết của C.Mác hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản: giá trị sử
dụng và giá trị. Hai đặc điểm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và thống
nhất một cách biện chứng để hình thành nên bản chất của hàng hóa. Giá trị sử
dụng Giá trị sử dụng là đặc tính vật chất hữu hình của hàng hóa, khả năng
đáp ứng nhu cầu cụ thể của con người. Giá trị sử dụng được thể hiện bằng
chất lượng, màu sắc, hình dáng, kích thước, chất liệu kết cấu và các đặc tính
kỹ thuật khác của sản phẩm. Chính vì điều này mà mọi người đều mong muốn
sở hữu và sử dụng những sản phẩm này. Giá trị sử dụng đa dạng, phong phú
tùy theo sản phẩm, đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của con người. Nó
chỉ tồn tại khi sản phẩm được sử dụng hoặc tiêu thụ. Ví dụ, giá trị của một
chiếc áo sơ mi là giữ ấm cho bạn và làm cho quần áo của bạn trông đẹp. Giá
trị sử dụng của ô tô là phương tiện di chuyển an toàn. Nếu một sản phẩm
không có giá trị sử dụng thì sẽ không có ai muốn sử dụng, vì vậy giá trị sử
dụng là điều kiện cho sự tồn tại của giá trị. Nó không bao giờ trở thành hàng
hóa và không thể trao đổi được. Tuy nhiên, giá trị sử dụng vẫn chỉ là biểu
hiện vật chất của sản phẩm lao động chứ không phải là đặc tính kinh tế của
nó. Giá trị Giá trị là lao động xã hội trừu tượng gắn liền với một sản phẩm:
thời gian lao động cần thiết về mặt xã hội để sản xuất ra hàng hóa. Giá trị
quyết định giá cả và được thể hiện bằng giá của hàng hóa trên thị trường. Giá
lOMoARcPSD| 44820939
5
trị là một phạm trù kinh tế và xã hội. Giá trị được tạo ra bởi lao động trừu
tượng, lao động tạo ra giá trị tạo ra của cải vật chất. Sự khác biệt giữa giá trị
và giá trị sử dụng là giá trị sử dụng thỏa mãn nhu cầu một cách trực tiếp,
trong khi giá trị chỉ thỏa mãn nhu cầu một cách gián tiếp thông qua trao đổi.
Trong khi giá trị sử dụng phụ thuộc vào chất lượng của hàng hóa và nguồn
gốc nguyên liệu thì giá trị chỉ phụ thuộc vào lượng lao động đầu tư để sản
xuất ra hàng hóa đó. Hai đặc điểm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
thống nhất về mặt biện chứng. Không có giá trị sử dụng thì không thể trở
thành sản phẩm và không có giá trị. Đúng hơn, giá trị chỉ tồn tại trong mối
quan hệ với giá trị sử dụng cụ thể của hàng hóa. Sự thống nhất giữa giá trị sử
dụng và giá trị làm phát sinh tính chất của hàng hóa là sản phẩm của lao động,
vừa cụ thể vừa trừu tượng. Sự khác biệt này rất quan trọng để hiểu không chỉ
bản chất của hàng hóa mà còn cả quy luật vận động trong nền kinh tế hàng
hóa và sự phân phối của cải trong xã hội. Nó không chỉ thể hiện tính hai mặt
giữa tính cá biệt và tính đặc thù (giá trị sử dụng) của sản phẩm mà còn thể
hiện tính phổ biến (giá trị) của sản phẩm.
Để tạo ra hàng hóa để trao đổi thì con người cần phải trải qua lao động sản
xuất. Theo quan điểm của C.Mác, quá trình sản xuất hàng hóa là sự kết hợp
của hai khuôn mẫu lao động: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Trong
đó, Lao động cụ thể là những hoạt động lao động riêng biệt, mang tính năng
động, tính sáng tạo, để tạo ra các giá trị sử dụng cụ thể. Đây là loại hình lao
động có mục đích hướng đến việc sản xuất ra một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất
định. Lao động cụ thể luôn gắn liền với một ngành nghề, lĩnh vực sản xuất
nhất định như may vá, đóng giày, cắt tóc, xây dựng,... Cùng với đó lao động
cụ thể còn đòi hỏi các kiến thức và kỹ năng chuyên môn tương ứng, do đó tạo
ra các sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau. Làm ra các giá trị sử dụng đa
dạng, phù hợp để thỏa mãn những nhu cầu tiêu dùng cụ thể. Cùng với lao
động cụ thể đó chính là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng là lao động
sản xuất ra giá trị trao đổi của hàng hóa. Đây là lao động do người lao động
lOMoARcPSD| 44820939
6
đã bỏ ra sức lực của mình trong quá trình sản xuất, không phân biệt ngành
nghề, không quan tâm đến hình thức cụ thể. Lao động trừu tượng chỉ đơn giản
là sự tiêu hao năng lượng của cơ thể người lao động.Lao động trừu tượng
không phụ thuộc vào bất kỳ hình thức lao động nào, không liên quan đến
ngành nghề cụ thể. Với đó chỉ cần sự tiêu hao nỗ lực lao động của cơ thể
người lao động là đủ. Trong đó khi lao động ta tạo ra giá trị, giá trị trao đổi
của hàng hóa. Tính chất xã hội hóa, trừu tượng phổ quát của lao động. Trong
khi hai khái niệm lao động cụ thể và trừu tượng cso những đặc điểm riêng
nhưng chúng lại có mối quan hệ chẽ với nhau. Hai khuôn mẫu lao động cụ thể
và trừu tượng luôn hợp nhất, tồn tại đồng thời trong mọi quá trình lao động
sản xuất ra hàng hóa. Không có lao động cụ thể thì không có giá trị sử dụng,
hàng hóa sẽ không tồn tại. Ngược lại, không có lao động trừu tượng thì sản
phẩm không mang giá trị, không thể trở thành hàng hóa trao đổi được. Chính
sự kết hợp giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng tạo ra tính hai mặt của
hàng hóa, vừa mang giá trị sử dụng, vừa mang giá trị trao đổi. Điều này thể
hiện tính chất đặc thù của sản xuất hàng hóa, sự thống nhất biện chứng giữa
tính cá biệt (lao động cụ thể) và tính phổ quát (lao động trừu tượng). Sự phân
tích hai khuôn mẫu lao động của C.Mác giúp làm rõ nguồn gốc hình thành giá
trị hàng hóa, từ đó hiểu rõ bản chất và động lực của nền sản xuất hàng hóa.
Nó cũng giải thích vì sao các loại lao động khác nhau lại có thể đánh đổi, so
sánh được với nhau thông qua giá trị trao đổi.
Tìm hiểu thật kĩ về hàng hóa và sản xuất hàng hóa thì ta càng thấy rằng vai
trò quan trọng, to lớn của hàng hóa. Sản xuất hàng hóa đóng vai trò là động
lực của nền sản xuất của xã hôi. Sản xuất hàng hóa đóng vai trò là động lực
thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển một cách mạnh mẽ. Điều này thể hiện
khía cạnh sau:Thúc đẩy phân công lao động xã hội và nâng cao năng suất lao
động. Sản xuất hàng hóa dẫn đến sự phân công lao động giữa các ngành, lĩnh
vực sản xuất và giữa các vùng miền khác nhau. Mỗi người, mỗi vùng tập
trung vào lĩnh vực sản xuất mà mình có lợi thế nhất sẽ nâng cao khả năng
lOMoARcPSD| 44820939
7
chuyên môn hóa và tăng năng suất lao động. Phân công lao động kết hợp với
cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất giúp nâng cao đáng kể
năng suất xã hội. Cùng với đóthúc đẩy tích lũy tư bản và đẩy nhanh quá trình
tập trung sản xuất. Mục đích sản xuất hàng hóa là thu lợi nhuận, nên nó thúc
đẩy người sản xuất không ngừng mở rộng quy mô, đầu tư tăng cường trang bị
kỹ thuật, áp dụng công nghệ tiên tiến để hạ giá thành, cạnh tranh hiệu quả
hơn. Quá trình này dẫn đến tập trung ngày càng cao của sản xuất, tạo ra các
đơn vị sản xuất lớn, hiện đại với quy mô vốn lớn. Tạo động lực cho phát triển
lực lượng sản xuất và thúc đẩy quan hệ sản xuất phù hợp. Sản xuất hàng hóa
mang tính chất cạnh tranh và lợi nhuận cao thúc đẩy sự phát triển mạnh m
của lực lượng sản xuất với sự ra đời của các phương pháp sản xuất mới, công
nghệ tiên tiến hơn. Đồng thời, nó tạo ra những thay đổi lớn trong quan hệ sản
xuất như sự ra đời của quan hệ giai cấp tư sản và vô sản, chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất,... phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sản
xuất hàng hóa thúc đẩy giao lưu hàng hóa và phát triển kinh tế thị trường. Sản
xuất hàng hóa dẫn đến nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng hóa giữa các vùng
miền, quốc gia với nhau. Điều này thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong
nước và thương mại quốc tế. Sản xuất hàng hóa cũng là tiền đề cho sự ra đời
của các ngành dịch vụ liên quan như vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, quảng
cáo,... tạo nên một nền kinh tế thị trường phát triển.Tạo điều kiện cho cải cách
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.Sản xuất hàng hóa thúc đẩy việc hình
thành các đơn vị sản xuất kinh doanh hiện đại. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi sự
phù hợp của môi trường kinh tế vĩ mô và thể chế phù hợp. Vì vậy, sản xuất
hàng hóa tạo động lực cho cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bằng hiệu quả hơn. Mặt khác, sản xuất hàng hóa cũng
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế khi các quốc gia trao đổi hàng hóa
với nhau.
Cùng với đó sản xuất hàng hóa còn đóng vai trò là tiền đề hình thành thị
trường và phát triển hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là điều kiện tiên quyết quan
trọng cho sự xuất hiện và phát triển của thị trường và nền kinh tế hàng
lOMoARcPSD| 44820939
8
hóa.Việc sản xuất hàng hóa là điều kiện tiên quyết cơ bản để thiết kế thị
trường. Nếu một sản phẩm được sản xuất chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của chính người sản xuất thì không cần có mối quan hệ trao đổi. Tuy nhiên,
khi hàng hóa được sản xuất ra để trao đổi, mua bán thì mối quan hệ giữa
người sản xuất và người tiêu dùng sẽ được hình thành và thị trường được hình
thành.Hai điều kiện cần thiết để hình thành thị trường. Trước hết là sự phân
công lao động xã hội và sự xuất hiện quyền độc lập của cá nhân. Thứ hai, sản
phẩm lao động phải trở thành hàng hóa có thể bán để đổi lấy hàng hóa khác.
Thị trường nảy sinh như một tất yếu khách quan để sản xuất hàng hóa nhằm
đạt được mục đích trao đổi và tiêu thụ sản phẩm. Khi nền sản xuất hàng hóa
phát triển thì thị trường cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Sản xuất
cũng là điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế nguyên liệu. Nền kinh tế
hàng hóa là nền kinh tế bị chi phối bởi việc sản xuất và trao đổi sản phẩm chủ
yếu dưới dạng hàng hóa. Sản xuất nguyên liệu thô là trụ cột và đặc điểm quan
trọng nhất của nền kinh tế nguyên liệu.
Cuối cùng để thấy vai trò quan trọng của sản xuất hàng hóa thì ta cần thấy
được mối quan hệ giữa sản xuất hàng hóa và lợi nhuận. Sản xuất hàng hóa có
mối liên hệ mật thiết với việc thu được lợi nhuận - động lực then chốt thúc
đẩy quá trình sản xuất và tích lũy tư bản. Mối quan hệ này thể hiện trên các
khía cạnh sau: Lợi nhuận là động cơ chính thúc đẩy sản xuất hàng hóa. Trong
nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp, người sản xuất hàng hóa hoạt động
chủ yếu bởi mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì các nguồn
lực đầu tư sẽ được phân bổ vào những ngành, lĩnh vực sản xuất và phân phối
hàng hóa sinh lợi tốt nhất. Vì vậy, lợi nhuận đóng vai trò thúc đẩy, định hướng
và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa trong nền kinh tế thị
trường. Lợi nhuận là khoản thu thặng dư từ sản xuất hàng hóa.Theo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác, lợi nhuận bắt nguồn từ sự chiếm hữu lao động
người khác của nhà tư bản. Trong quá trình sản xuất ra hàng hóa, nhà tư bản
mua sức lao động với giá bằng giá trị lao động nhỏ hơn thời gian lao động
lOMoARcPSD| 44820939
9
người công nhân thực hiện. Phần giá trị lao động vượt ra ngoài giá trị sức lao
động đã mua được gọi là lao động khẩu phần dưới hình thức lợi nhuận. Quy
mô lợi nhuận phụ thuộc vào năng suất lao động và giá trị hàng hóa Năng suất
lao động càng cao thì khối lượng sản phẩm sản xuất ra càng nhiều, đồng nghĩa
với việc tạo ra nhiều hơn lượng sản phẩm dư thừa hay lao động khẩu phần so
với tiền công đã trả. Ngoài ra, giá trị bán ra của hàng hóa cũng ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi nhuận nhà tư bản thu được. Giá cả càng cao, lợi nhuận càng lớn.
Cạnh tranh về lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của sản xuất Các nhà tư bản
luôn có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng
cao năng suất để giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi
nhuận. Cạnh tranh về lợi nhuận là động lực then chốt thúc đẩy sự phát triển
không ngừng của lực lượng sản xuất, kéo theo các cải tiến về phương thức tổ
chức và quan hệ sản xuất. Tích lũy tư bản từ lợi nhuận.Lợi nhuận thu được từ
sản xuất hàng hóa là nguồn chủ yếu để tích lũy tư bản, tái đầu tư mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh. Quá trình tích lũy và tập trung ngày càng cao của tư
bản dẫn đến sự ra đời của các tập đoàn kinh tế lớn với sức mạnh tài chính và
quy mô sản xuất khổng lồ, chi phối thị trường. Tuy nhiên, động cơ lợi nhuận
cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế và mâu thuẫn của chế độ tư bản
chủ nghĩa. Sự đối lập giữa tính xã hội ngày càng cao của sản xuất với tính tư
nhân chiếm hữu tư liệu sản xuất là mâu thuẫn cơ bản làm nảy sinh nhiều vấn
đề phức tạp về phân phối của cải, bóc lột người lao động. Sự trục lợi của
bản cũng gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường và phát triển bền
vững.
Từ những lí luận đó ta có thể vận dụng để phát triển kinh tế thị trường của
nước Việt Nam ta hiện nay. Trước hết ta cần tìm hiểu về thực trạng sản xuất
và lưu thông hàng hóa ở Việt Nam ngày nay. Ta có thể kể đến những thành
tựu đạt được: Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển về quy mô và đa dạng
về chủng loại. Kinh tế hàng hóa đã trở thành nền tảng của nền kinh tế Việt
Nam. Giá trị sản xuất hàng hóa tăng trưởng khá nhanh qua các năm, đạt
lOMoARcPSD| 44820939
10
khoảng 9,89% GDP năm 2022.Sản xuất công nghiệp ngày càng đóng vai trò
quan trọng, nhiều ngành công nghiệp trọng điểm phát triển mạnh như chế
biến lương thực, thực phẩm, dệt may, da giày, điện tử, ô tô... Giá trị sản xuất
công nghiệp chiếm khoảng 88,2% tổng giá trị sản xuất hàng hóa năm 2022.
Nông nghiệp và nông thôn đang có nhiều chuyển biến tích cực về cơ cấu
ngành hàng, ứng dụng công nghệ, phát triển kinh tế trang trại và sản xuất theo
chuỗi giá trị. Nhiều sản phẩm nông nghiệp có sức cạnh tranh cao. Các thành
phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn trong sản xuất hàng hóa. Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa,
kinh tế tư nhân là động lực quan trọng. Hệ thống kết cấu hạ tầng lưu thông
phân phối hàng hóa từng bước được quan tâm đầu tư, đáp ứng dần nhu cầu
vận chuyển, trao đổi hàng hóa trong nước và quốc tế.Cùng với đó vẫn còn tồn
tại những khó khăn, vấn đề tồn tại. Tốc độ tăng trưởng của sản xuất hàng hóa
còn chậm và thiếu tính bền vững. Sản xuất hàng hóa nhiều lĩnh vực vẫn manh
mún, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, hiệu quả và năng lực cạnh tranh chưa
cao. Thiếu chuỗi liên kết ngành hàng, sản xuất hàng hóa chưa thật sự chuyên
môn hóa. Mối liên kết giữa công nghiệp và nông nghiệp còn nhiều bất cập. T
trọng chế biến, chế tạo sản phẩm công nghệ cao, hàm lượng khoa học công
nghệ trong hàng hóa còn hạn chế. Hàng hóa thiếu tính cạnh tranh và khó thâm
nhập các thị trường khó tính. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé, năng lực
quản trị kém, thiếu nguồn vốn và công nghệ hiện đại. Doanh nghiệp tư nhân
gặp nhiều khó khăn về thể chế, chính sách, tiếp cận đất đai, tín dụng, lao
động... Hệ thống phân phối, lưu thông hàng hóa còn nhiều khâu trung gian,
chi phí logistics cao, hiệu quả thấp. Hệ thống logistics chưa được đầu tư đồng
bộ với chuỗi cung ứng hiện đại.
Từ lý luận đã phân tích ở trên ta có thể Định hướng chiến lược phát triển thị
trường, nâng cao sản xuất hàng hóa. Trước hết là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, tạo môi
lOMoARcPSD| 44820939
11
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.Tiếp tục cải cách
doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng năng động, hiệu
quả và bền vững hơn. Xây dựng cơ chế quản lý đồng bộ, thông thoáng, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, khơi thông nguồn lực
cho tăng trưởng. Phát huy vai trò của các hiệp hội, tổ chức xã hội trong quản
lý và phát triển thị trường. Tiếp đó là tạo môi trường kinh doanh minh bạch,
lành mạnh và công bằng bằng cách kiểm soát hiệu quả tham nhũng, gian lận
thương mại, hàng giả, nhằm hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng cũng như các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính. Đơn giản hóa các
thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các dịch v
logistic, tài chính, công nghệ... Nâng cao vai trò của các tổ chức tư vấn, giám
sát việc tuân thủ pháp luật, tăng cường công khai, minh bạch thông tin.Tạo cơ
chế cạnh tranh công bằng, kiểm soát tốt hoạt động của các doanh nghiệp, tập
đoàn lớn, hạn chế các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.Cuối cùng
là phát triển các ngành sản xuất hàng hóa mũi nhọn Đẩy mạnh phát triển các
ngành sản xuất có lợi thế như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp
công nghệ cao, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trở thành những ngành
hàng xuất khẩu chủ lực. Xây dựng các chuỗi ngành hàng tập trung đa dạng
hóa sản phẩm chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm. Huy động các
nguồn lực đầu tư phát triển một số lĩnh vực ưu tiên theo hướng tự chủ, hướng
tới sản xuất quy mô lớn. Đẩy mạnh liên kết sản xuất giữa các địa phương,
vùng lãnh thổ để tạo ra các cực tăng trưởng. Để phát triển kinh tế thị trường ta
có một số giải pháp cơ bản như sau. Thứ nhất là hoàn thiện khung khổ pháp
lý, cơ chế chính sách.Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến sản xuất, kinh doanh và các hoạt động liên
quan đến thị trường hàng hóa theo hướng đồng bộ, minh bạch và thống nhất.
Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách mới phù hợp với các cam kết
quốc tế và thực tiễn trong nước, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt
động sản xuất, lưu thông hàng hóa một cách công bằng và bình đẳng. Tăng
cường hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, giải quyết kịp thời các khó khăn,
lOMoARcPSD| 44820939
12
vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai các chính sách, quy định mới.
Siết chặt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm pháp luật, gian lận thương mại, buôn lậu, đầu cơ, tích trữ đẩy giá hàng
hóa. Thứ hai là đầu tư cơ sở hạ tầng và đổi mới công nghệ. Đẩy mạnh đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, logistics hiện đại, nhằm rút ngắn khoảng
cách, thời gian vận chuyển, giảm chi phí logistics và thuận lợi cho lưu thông
hàng hóa. Đầu tư phát triển hệ thống kho bãi, trung tâm phân phối lớn, áp
dụng công nghệ quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả phân phối, giảm tổn
thất hàng hóa. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ,
máy móc thiết bị hiện đại hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng, giảm chi phí sản xuất. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, làm chủ các công
nghệ mới, công nghệ cao để sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng khoa học
công nghệ và giá trị gia tăng cao. Ưu tiên phân bổ đầu tư và áp dụng các công
nghệ mới, thân thiện môi trường cho các ngành công nghiệp nặng, tiêu tốn
năng lượng nhiều.Thứ ba là phát triển nguồn nhân lực chất lượng ca. Đẩy
mạnh đào tạo nguồn nhân lực lành nghề, có trình độ cao phục vụ cho nhu cầu
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và thu hút đầu tư nước
ngoài. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trọng tâm vào các lĩnh vực mũi
nhọn, công nghệ mới, kỹ năng quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh. Tăng
cường đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ, nhân lực chất lượng cao
phục vụ cho các lĩnh vực sản xuất hàng hóa công nghệ cao, sản phẩm có hàm
lượng tri thức lớn. Khuyến khích chuyển giao công nghệ, hấp thụ kiến thức,
kinh nghiệm quản lý từ các chuyên gia giỏi của nước ngoài. Tạo môi trường
làm việc phù hợp, cơ chế đãi ngộ hấp dẫn để giữ chân và thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao. Cuối cùng là tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Mở
rộng, đa dạng hóa các quan hệ đối tác, thị trường xuất khẩu, đa phương hóa,
đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu. Tận dụng tối đa các cơ hội từ các Hiệp
định thương mại tự do (FTA) để mở rộng thị trường, tham gia sâu hơn vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Tích cực xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu các
sản phẩm hàng hóa Việt Nam ra thị trường quốc tế. Nâng cao năng lực cạnh
lOMoARcPSD| 44820939
13
tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế thông qua nâng cao chất
lượng, đổi mới mẫu mã, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Tăng cường
thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động
tại Việt Nam về tuân thủ pháp luật, quy định. Tranh thủ thu hút đầu tư nước
ngoài vào các lĩnh vực cải tiến khâu sản xuất và phân phối hàng hóa, đa dạng
hóa cơ cấu ngành sản xuất. Những giải pháp trên cần được thực hiện một cách
đồng bộ và nhất quán, kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp,
các tổ chức trong nước và quốc tế. Điều này sẽ mang lại hiệu quả lớn cho việc
phát triển thị trường, nâng cao khả năng sản xuất và cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam.
Lý luận về sản xuất hàng hóa là một trong những lý luận cơ bản của kinh tế
chính trị Mác - Lênin, phân tích sâu sắc bản chất của sản xuất hàng hóa, tính
chất và vai trò của hàng hóa, của giá cả, của tiền tệ và tiền tệ hoá trong nền
kinh tế thị trường. Những nguyên lý cơ bản của lý luận này vẫn có giá trị to
lớn và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Để phát triển thị trường, nâng
cao khả năng sản xuất và cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, cần vận dụng lý
luận về sản xuất hàng hóa một cách sáng tạo và phù hợp với thực tiễn. Trước
hết, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo
môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh và công bằng để thúc đẩy sản
xuất kinh doanh. Đồng thời, cần xác định rõ các ngành hàng, lĩnh vực mũi
nhọn để tập trung đầu tư, phát triển trở thành những ngành sản xuất hàng hóa
chủ lực, có năng lực cạnh tranh cao. Các giải pháp then chốt bao gồm hoàn
thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách; đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật;
ứng dụng công nghệ mới, hiện đại hoá sản xuất; phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao; và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Các giải pháp này cần
được triển khai đồng bộ, nhất quán với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên
quan. Sự vận dụng lý luận khoa học kết hợp với các giải pháp thiết thực, hiệu
quả sẽ thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa Việt Nam cả về quy mô và chất
lOMoARcPSD| 44820939
14
lượng, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần vào sự phát triển bền vững của
nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế sâu
rộng.
| 1/14

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44820939
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TÊN ĐỀ: Phân tích lý luẩn về sản xuất hàng hóa? Vận dụng lý
luận này để phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay?
Giáo viên bộ môn: Tô Đức Hạnh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Việt Hùng - 11234355
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề phát
triển sản xuất hàng hóa và thị trường nội địa đóng một vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là các
nước đang phát triển như Việt Nam. Sản xuất hàng hóa không chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và hội nhập với thị trường toàn cầu. Bên cạnh đó, thị
trường nội địa lành mạnh với các sản phẩm hàng hóa đa dạng, chất lượng cao
sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và mức sống của người dân.
Ở Việt Nam, sau hơn 35 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành và phát triển. Sản xuất hàng hóa đã có
bước phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước và quá trình hội 1 lOMoAR cPSD| 44820939
nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thị trường trong nước vẫn còn nhiều hạn chế
như quy mô nhỏ, thiếu tính cạnh tranh, chất lượng hàng hóa chưa cao. Do đó,
đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hóa và phát triển thị trường nội
địa vẫn là một nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay.Xuất phát từ tầm
quan trọng của vấn đề này, đề tài "Phân tích lý luận về sản xuất hàng hóa và
vận dụng để phát triển thị trường ở Việt Nam hiện nay" được chọn nghiên cứu
với hai mục đích chính:
Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về sản
xuất hàng hóa như khái niệm, đặc trưng, nguồn gốc giá trị của hàng hóa và vai
trò của sản xuất hàng hóa đối với nền kinh tế thị trường. Đây là nền tảng lý
luận quan trọng giúp hiểu đúng bản chất của sản xuất hàng hóa.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích lý luận, đề tài sẽ đánh giá thực trạng sản xuất
và lưu thông hàng hóa ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế
và đề xuất các định hướng chiến lược cũng như giải pháp cụ thể nhằm phát
triển thị trường nội địa, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng
hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Với hai mục đích trên, đề tài này có ý nghĩa thiết thực trong việc trang bị
kiến thức lý luận vững chắc về sản xuất hàng hóa cũng như định hướng chiến
lược phát triển thị trường nội địa, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh mới. Sau đây là phần
tìm hiểu về lý luận về sản xuất hàng hóa.
Trước khi chúng ta tìm cách phát triển kinh tế thì cần tìm hiểu rõ khái niệm
lý luận về sản xuất hàng hóa của chủ nghĩa Mác- Lenein. Trong lý thuyết
kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác, khái niệm hàng hóa đóng một vai trò
trung tâm. Theo C.Mác, hàng hóa là một sản phẩm của lao động, được sản
xuất ra không phải để tự sử dụng mà để trao đổi, để bán trên thị trường, nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Theo đó hàng hóa là sản phẩm của lao động: không
phải tất cả các sản phẩm của tự nhiên đều là hàng hóa, mà chỉ có những sản
phẩm do con người lao động sản xuất ra mới trở thành hàng hóa và hàng hóa
có giá trị có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi 2 lOMoAR cPSD| 44820939
hay buôn bán và được lưu thông trên thij trường, có sẵn trên thị trường. Ngoài
ra hàng hóa còn mang đặc điểm như sau: Hàng hóa được sản xuất ra không
phải để tự tiêu dùng điều này khác biệt với nền sản xuất tự cung tự cấp truyền
thống, nơi con người sản xuất để tự đáp ứng nhu cầu của bản thân và gia đình.
Những thứ con người tự sản xuất và tự cung tự cấp thì sẽ không được gọi là
hàng hóa vì hàng hóa là dùng để trao đổi mua bán. Cũng vì đó hàng hóa sinh
ra với mục đích bán lấy tiền hoặc đổi lấy những hàng hóa khác cần thiết. Một
vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không
phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Như vậy, một vật
muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất
ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong
kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Sản xuất hàng hóa là hình thức sản xuất đặc trưng của nền kinh tế hàng hóa,
một hình thái kinh tế đặc biệt nơi các nhà sản xuất riêng rẽ, độc lập sản xuất
sản phẩm không phải để tự tiêu dùng mà để bán đổi lấy các sản phẩm khác
cần thiết cho họ. Sản xuất hàng hóa ra đời từ sự phân công lao động xã hội và
nhu cầu trao đổi giữa các cá nhân, các gia đình, các cộng đồng sản xuất. Việc
sản xuất sản phẩm diễn ra dưới hai hình thức chính. Thứ nhấtlà sản xuất hàng
hoá đơn giản, là khâu sản xuất hàng hoá trên cơ sở sở hữu tư nhân quy mô
nhỏ về tư liệu sản xuất, trong đó người công nhân là chủ sở hữu trực tiếp của
sản phẩm. Thứ hai là sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa: Giai đoạn này được
đặc trưng bởi sự tách biệt giữa người công nhân và tư liệu sản xuất. Công
nhân chỉ có sức lao động để bán cho nhà tư bản sở hữu tư liệu sản xuất. Sản
xuất hàng hóa là một đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa và thị trường, khác
với sản xuất tự cung tự cấp truyền thống và nền kinh tế tự nhiên. Với sự ra
đời của sản xuất hàng hóa, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại
có những biến đổi lớn, tạo ra nền sản xuất, giai cấp và quan hệ xã hội mới.
Khi sản xuất hàng hóa, tất cả người sản xuất đều độc lập về kinh tế và tự do
sản xuất theo mong muốn và khả năng của mình. Tuy nhiên, giá trị sản phẩm
của họ chỉ được công nhận khi chúng được bán ra thị trường. Các nhà sản 3 lOMoAR cPSD| 44820939
xuất buộc phải tuân theo các quy luật thị trường như cung cầu, giá cả và cạnh
tranh. Điều này thể hiện tính khách quan của các quy luật kinh tế trong sản
xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất xã hội thông qua việc thúc đẩy phân công lao động, chuyên môn hóa sản
xuất, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Tuy nhiên, đồng thời, sản
xuất hàng hóa lại làm sâu sắc thêm sự phân chia giai cấp và gây ra xung đột
giữa sự xã hội hóa ngày càng tăng của lực lượng sản xuất và quyền sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất.
Sau khi tìm hiểu về khái niệm về hàng hóa và sản xuất thì ta sẽ tìm hiểu sâu
sắc hơn về đặc trưng cửa hàng hóa. Thì trong đó hàng hóa sẽ có hai đặc trưng
chính. Theo lý thuyết của C.Mác hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản: giá trị sử
dụng và giá trị. Hai đặc điểm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và thống
nhất một cách biện chứng để hình thành nên bản chất của hàng hóa. Giá trị sử
dụng Giá trị sử dụng là đặc tính vật chất hữu hình của hàng hóa, khả năng
đáp ứng nhu cầu cụ thể của con người. Giá trị sử dụng được thể hiện bằng
chất lượng, màu sắc, hình dáng, kích thước, chất liệu kết cấu và các đặc tính
kỹ thuật khác của sản phẩm. Chính vì điều này mà mọi người đều mong muốn
sở hữu và sử dụng những sản phẩm này. Giá trị sử dụng đa dạng, phong phú
tùy theo sản phẩm, đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của con người. Nó
chỉ tồn tại khi sản phẩm được sử dụng hoặc tiêu thụ. Ví dụ, giá trị của một
chiếc áo sơ mi là giữ ấm cho bạn và làm cho quần áo của bạn trông đẹp. Giá
trị sử dụng của ô tô là phương tiện di chuyển an toàn. Nếu một sản phẩm
không có giá trị sử dụng thì sẽ không có ai muốn sử dụng, vì vậy giá trị sử
dụng là điều kiện cho sự tồn tại của giá trị. Nó không bao giờ trở thành hàng
hóa và không thể trao đổi được. Tuy nhiên, giá trị sử dụng vẫn chỉ là biểu
hiện vật chất của sản phẩm lao động chứ không phải là đặc tính kinh tế của
nó. Giá trị Giá trị là lao động xã hội trừu tượng gắn liền với một sản phẩm:
thời gian lao động cần thiết về mặt xã hội để sản xuất ra hàng hóa. Giá trị
quyết định giá cả và được thể hiện bằng giá của hàng hóa trên thị trường. Giá 4 lOMoAR cPSD| 44820939
trị là một phạm trù kinh tế và xã hội. Giá trị được tạo ra bởi lao động trừu
tượng, lao động tạo ra giá trị tạo ra của cải vật chất. Sự khác biệt giữa giá trị
và giá trị sử dụng là giá trị sử dụng thỏa mãn nhu cầu một cách trực tiếp,
trong khi giá trị chỉ thỏa mãn nhu cầu một cách gián tiếp thông qua trao đổi.
Trong khi giá trị sử dụng phụ thuộc vào chất lượng của hàng hóa và nguồn
gốc nguyên liệu thì giá trị chỉ phụ thuộc vào lượng lao động đầu tư để sản
xuất ra hàng hóa đó. Hai đặc điểm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
thống nhất về mặt biện chứng. Không có giá trị sử dụng thì không thể trở
thành sản phẩm và không có giá trị. Đúng hơn, giá trị chỉ tồn tại trong mối
quan hệ với giá trị sử dụng cụ thể của hàng hóa. Sự thống nhất giữa giá trị sử
dụng và giá trị làm phát sinh tính chất của hàng hóa là sản phẩm của lao động,
vừa cụ thể vừa trừu tượng. Sự khác biệt này rất quan trọng để hiểu không chỉ
bản chất của hàng hóa mà còn cả quy luật vận động trong nền kinh tế hàng
hóa và sự phân phối của cải trong xã hội. Nó không chỉ thể hiện tính hai mặt
giữa tính cá biệt và tính đặc thù (giá trị sử dụng) của sản phẩm mà còn thể
hiện tính phổ biến (giá trị) của sản phẩm.
Để tạo ra hàng hóa để trao đổi thì con người cần phải trải qua lao động sản
xuất. Theo quan điểm của C.Mác, quá trình sản xuất hàng hóa là sự kết hợp
của hai khuôn mẫu lao động: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Trong
đó, Lao động cụ thể là những hoạt động lao động riêng biệt, mang tính năng
động, tính sáng tạo, để tạo ra các giá trị sử dụng cụ thể. Đây là loại hình lao
động có mục đích hướng đến việc sản xuất ra một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất
định. Lao động cụ thể luôn gắn liền với một ngành nghề, lĩnh vực sản xuất
nhất định như may vá, đóng giày, cắt tóc, xây dựng,... Cùng với đó lao động
cụ thể còn đòi hỏi các kiến thức và kỹ năng chuyên môn tương ứng, do đó tạo
ra các sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau. Làm ra các giá trị sử dụng đa
dạng, phù hợp để thỏa mãn những nhu cầu tiêu dùng cụ thể. Cùng với lao
động cụ thể đó chính là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng là lao động
sản xuất ra giá trị trao đổi của hàng hóa. Đây là lao động do người lao động 5 lOMoAR cPSD| 44820939
đã bỏ ra sức lực của mình trong quá trình sản xuất, không phân biệt ngành
nghề, không quan tâm đến hình thức cụ thể. Lao động trừu tượng chỉ đơn giản
là sự tiêu hao năng lượng của cơ thể người lao động.Lao động trừu tượng
không phụ thuộc vào bất kỳ hình thức lao động nào, không liên quan đến
ngành nghề cụ thể. Với đó chỉ cần sự tiêu hao nỗ lực lao động của cơ thể
người lao động là đủ. Trong đó khi lao động ta tạo ra giá trị, giá trị trao đổi
của hàng hóa. Tính chất xã hội hóa, trừu tượng phổ quát của lao động. Trong
khi hai khái niệm lao động cụ thể và trừu tượng cso những đặc điểm riêng
nhưng chúng lại có mối quan hệ chẽ với nhau. Hai khuôn mẫu lao động cụ thể
và trừu tượng luôn hợp nhất, tồn tại đồng thời trong mọi quá trình lao động
sản xuất ra hàng hóa. Không có lao động cụ thể thì không có giá trị sử dụng,
hàng hóa sẽ không tồn tại. Ngược lại, không có lao động trừu tượng thì sản
phẩm không mang giá trị, không thể trở thành hàng hóa trao đổi được. Chính
sự kết hợp giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng tạo ra tính hai mặt của
hàng hóa, vừa mang giá trị sử dụng, vừa mang giá trị trao đổi. Điều này thể
hiện tính chất đặc thù của sản xuất hàng hóa, sự thống nhất biện chứng giữa
tính cá biệt (lao động cụ thể) và tính phổ quát (lao động trừu tượng). Sự phân
tích hai khuôn mẫu lao động của C.Mác giúp làm rõ nguồn gốc hình thành giá
trị hàng hóa, từ đó hiểu rõ bản chất và động lực của nền sản xuất hàng hóa.
Nó cũng giải thích vì sao các loại lao động khác nhau lại có thể đánh đổi, so
sánh được với nhau thông qua giá trị trao đổi.
Tìm hiểu thật kĩ về hàng hóa và sản xuất hàng hóa thì ta càng thấy rằng vai
trò quan trọng, to lớn của hàng hóa. Sản xuất hàng hóa đóng vai trò là động
lực của nền sản xuất của xã hôi. Sản xuất hàng hóa đóng vai trò là động lực
thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển một cách mạnh mẽ. Điều này thể hiện
khía cạnh sau:Thúc đẩy phân công lao động xã hội và nâng cao năng suất lao
động. Sản xuất hàng hóa dẫn đến sự phân công lao động giữa các ngành, lĩnh
vực sản xuất và giữa các vùng miền khác nhau. Mỗi người, mỗi vùng tập
trung vào lĩnh vực sản xuất mà mình có lợi thế nhất sẽ nâng cao khả năng 6 lOMoAR cPSD| 44820939
chuyên môn hóa và tăng năng suất lao động. Phân công lao động kết hợp với
cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất giúp nâng cao đáng kể
năng suất xã hội. Cùng với đóthúc đẩy tích lũy tư bản và đẩy nhanh quá trình
tập trung sản xuất. Mục đích sản xuất hàng hóa là thu lợi nhuận, nên nó thúc
đẩy người sản xuất không ngừng mở rộng quy mô, đầu tư tăng cường trang bị
kỹ thuật, áp dụng công nghệ tiên tiến để hạ giá thành, cạnh tranh hiệu quả
hơn. Quá trình này dẫn đến tập trung ngày càng cao của sản xuất, tạo ra các
đơn vị sản xuất lớn, hiện đại với quy mô vốn lớn. Tạo động lực cho phát triển
lực lượng sản xuất và thúc đẩy quan hệ sản xuất phù hợp. Sản xuất hàng hóa
mang tính chất cạnh tranh và lợi nhuận cao thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất với sự ra đời của các phương pháp sản xuất mới, công
nghệ tiên tiến hơn. Đồng thời, nó tạo ra những thay đổi lớn trong quan hệ sản
xuất như sự ra đời của quan hệ giai cấp tư sản và vô sản, chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất,... phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sản
xuất hàng hóa thúc đẩy giao lưu hàng hóa và phát triển kinh tế thị trường. Sản
xuất hàng hóa dẫn đến nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng hóa giữa các vùng
miền, quốc gia với nhau. Điều này thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong
nước và thương mại quốc tế. Sản xuất hàng hóa cũng là tiền đề cho sự ra đời
của các ngành dịch vụ liên quan như vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, quảng
cáo,... tạo nên một nền kinh tế thị trường phát triển.Tạo điều kiện cho cải cách
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.Sản xuất hàng hóa thúc đẩy việc hình
thành các đơn vị sản xuất kinh doanh hiện đại. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi sự
phù hợp của môi trường kinh tế vĩ mô và thể chế phù hợp. Vì vậy, sản xuất
hàng hóa tạo động lực cho cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bằng hiệu quả hơn. Mặt khác, sản xuất hàng hóa cũng
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế khi các quốc gia trao đổi hàng hóa với nhau.
Cùng với đó sản xuất hàng hóa còn đóng vai trò là tiền đề hình thành thị
trường và phát triển hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là điều kiện tiên quyết quan
trọng cho sự xuất hiện và phát triển của thị trường và nền kinh tế hàng 7 lOMoAR cPSD| 44820939
hóa.Việc sản xuất hàng hóa là điều kiện tiên quyết cơ bản để thiết kế thị
trường. Nếu một sản phẩm được sản xuất chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của chính người sản xuất thì không cần có mối quan hệ trao đổi. Tuy nhiên,
khi hàng hóa được sản xuất ra để trao đổi, mua bán thì mối quan hệ giữa
người sản xuất và người tiêu dùng sẽ được hình thành và thị trường được hình
thành.Hai điều kiện cần thiết để hình thành thị trường. Trước hết là sự phân
công lao động xã hội và sự xuất hiện quyền độc lập của cá nhân. Thứ hai, sản
phẩm lao động phải trở thành hàng hóa có thể bán để đổi lấy hàng hóa khác.
Thị trường nảy sinh như một tất yếu khách quan để sản xuất hàng hóa nhằm
đạt được mục đích trao đổi và tiêu thụ sản phẩm. Khi nền sản xuất hàng hóa
phát triển thì thị trường cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Sản xuất
cũng là điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế nguyên liệu. Nền kinh tế
hàng hóa là nền kinh tế bị chi phối bởi việc sản xuất và trao đổi sản phẩm chủ
yếu dưới dạng hàng hóa. Sản xuất nguyên liệu thô là trụ cột và đặc điểm quan
trọng nhất của nền kinh tế nguyên liệu.
Cuối cùng để thấy vai trò quan trọng của sản xuất hàng hóa thì ta cần thấy
được mối quan hệ giữa sản xuất hàng hóa và lợi nhuận. Sản xuất hàng hóa có
mối liên hệ mật thiết với việc thu được lợi nhuận - động lực then chốt thúc
đẩy quá trình sản xuất và tích lũy tư bản. Mối quan hệ này thể hiện trên các
khía cạnh sau: Lợi nhuận là động cơ chính thúc đẩy sản xuất hàng hóa. Trong
nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp, người sản xuất hàng hóa hoạt động
chủ yếu bởi mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì các nguồn
lực đầu tư sẽ được phân bổ vào những ngành, lĩnh vực sản xuất và phân phối
hàng hóa sinh lợi tốt nhất. Vì vậy, lợi nhuận đóng vai trò thúc đẩy, định hướng
và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa trong nền kinh tế thị
trường. Lợi nhuận là khoản thu thặng dư từ sản xuất hàng hóa.Theo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác, lợi nhuận bắt nguồn từ sự chiếm hữu lao động
người khác của nhà tư bản. Trong quá trình sản xuất ra hàng hóa, nhà tư bản
mua sức lao động với giá bằng giá trị lao động nhỏ hơn thời gian lao động 8 lOMoAR cPSD| 44820939
người công nhân thực hiện. Phần giá trị lao động vượt ra ngoài giá trị sức lao
động đã mua được gọi là lao động khẩu phần dưới hình thức lợi nhuận. Quy
mô lợi nhuận phụ thuộc vào năng suất lao động và giá trị hàng hóa Năng suất
lao động càng cao thì khối lượng sản phẩm sản xuất ra càng nhiều, đồng nghĩa
với việc tạo ra nhiều hơn lượng sản phẩm dư thừa hay lao động khẩu phần so
với tiền công đã trả. Ngoài ra, giá trị bán ra của hàng hóa cũng ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi nhuận nhà tư bản thu được. Giá cả càng cao, lợi nhuận càng lớn.
Cạnh tranh về lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của sản xuất Các nhà tư bản
luôn có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng
cao năng suất để giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi
nhuận. Cạnh tranh về lợi nhuận là động lực then chốt thúc đẩy sự phát triển
không ngừng của lực lượng sản xuất, kéo theo các cải tiến về phương thức tổ
chức và quan hệ sản xuất. Tích lũy tư bản từ lợi nhuận.Lợi nhuận thu được từ
sản xuất hàng hóa là nguồn chủ yếu để tích lũy tư bản, tái đầu tư mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh. Quá trình tích lũy và tập trung ngày càng cao của tư
bản dẫn đến sự ra đời của các tập đoàn kinh tế lớn với sức mạnh tài chính và
quy mô sản xuất khổng lồ, chi phối thị trường. Tuy nhiên, động cơ lợi nhuận
cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế và mâu thuẫn của chế độ tư bản
chủ nghĩa. Sự đối lập giữa tính xã hội ngày càng cao của sản xuất với tính tư
nhân chiếm hữu tư liệu sản xuất là mâu thuẫn cơ bản làm nảy sinh nhiều vấn
đề phức tạp về phân phối của cải, bóc lột người lao động. Sự trục lợi của tư
bản cũng gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường và phát triển bền vững.
Từ những lí luận đó ta có thể vận dụng để phát triển kinh tế thị trường của
nước Việt Nam ta hiện nay. Trước hết ta cần tìm hiểu về thực trạng sản xuất
và lưu thông hàng hóa ở Việt Nam ngày nay. Ta có thể kể đến những thành
tựu đạt được: Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển về quy mô và đa dạng
về chủng loại. Kinh tế hàng hóa đã trở thành nền tảng của nền kinh tế Việt
Nam. Giá trị sản xuất hàng hóa tăng trưởng khá nhanh qua các năm, đạt 9 lOMoAR cPSD| 44820939
khoảng 9,89% GDP năm 2022.Sản xuất công nghiệp ngày càng đóng vai trò
quan trọng, nhiều ngành công nghiệp trọng điểm phát triển mạnh như chế
biến lương thực, thực phẩm, dệt may, da giày, điện tử, ô tô... Giá trị sản xuất
công nghiệp chiếm khoảng 88,2% tổng giá trị sản xuất hàng hóa năm 2022.
Nông nghiệp và nông thôn đang có nhiều chuyển biến tích cực về cơ cấu
ngành hàng, ứng dụng công nghệ, phát triển kinh tế trang trại và sản xuất theo
chuỗi giá trị. Nhiều sản phẩm nông nghiệp có sức cạnh tranh cao. Các thành
phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn trong sản xuất hàng hóa. Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa,
kinh tế tư nhân là động lực quan trọng. Hệ thống kết cấu hạ tầng lưu thông
phân phối hàng hóa từng bước được quan tâm đầu tư, đáp ứng dần nhu cầu
vận chuyển, trao đổi hàng hóa trong nước và quốc tế.Cùng với đó vẫn còn tồn
tại những khó khăn, vấn đề tồn tại. Tốc độ tăng trưởng của sản xuất hàng hóa
còn chậm và thiếu tính bền vững. Sản xuất hàng hóa nhiều lĩnh vực vẫn manh
mún, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, hiệu quả và năng lực cạnh tranh chưa
cao. Thiếu chuỗi liên kết ngành hàng, sản xuất hàng hóa chưa thật sự chuyên
môn hóa. Mối liên kết giữa công nghiệp và nông nghiệp còn nhiều bất cập. Tỷ
trọng chế biến, chế tạo sản phẩm công nghệ cao, hàm lượng khoa học công
nghệ trong hàng hóa còn hạn chế. Hàng hóa thiếu tính cạnh tranh và khó thâm
nhập các thị trường khó tính. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé, năng lực
quản trị kém, thiếu nguồn vốn và công nghệ hiện đại. Doanh nghiệp tư nhân
gặp nhiều khó khăn về thể chế, chính sách, tiếp cận đất đai, tín dụng, lao
động... Hệ thống phân phối, lưu thông hàng hóa còn nhiều khâu trung gian,
chi phí logistics cao, hiệu quả thấp. Hệ thống logistics chưa được đầu tư đồng
bộ với chuỗi cung ứng hiện đại.
Từ lý luận đã phân tích ở trên ta có thể Định hướng chiến lược phát triển thị
trường, nâng cao sản xuất hàng hóa. Trước hết là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, tạo môi 10 lOMoAR cPSD| 44820939
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.Tiếp tục cải cách
doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng năng động, hiệu
quả và bền vững hơn. Xây dựng cơ chế quản lý đồng bộ, thông thoáng, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, khơi thông nguồn lực
cho tăng trưởng. Phát huy vai trò của các hiệp hội, tổ chức xã hội trong quản
lý và phát triển thị trường. Tiếp đó là tạo môi trường kinh doanh minh bạch,
lành mạnh và công bằng bằng cách kiểm soát hiệu quả tham nhũng, gian lận
thương mại, hàng giả, nhằm hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng cũng như các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính. Đơn giản hóa các
thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ
logistic, tài chính, công nghệ... Nâng cao vai trò của các tổ chức tư vấn, giám
sát việc tuân thủ pháp luật, tăng cường công khai, minh bạch thông tin.Tạo cơ
chế cạnh tranh công bằng, kiểm soát tốt hoạt động của các doanh nghiệp, tập
đoàn lớn, hạn chế các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.Cuối cùng
là phát triển các ngành sản xuất hàng hóa mũi nhọn Đẩy mạnh phát triển các
ngành sản xuất có lợi thế như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp
công nghệ cao, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trở thành những ngành
hàng xuất khẩu chủ lực. Xây dựng các chuỗi ngành hàng tập trung đa dạng
hóa sản phẩm chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm. Huy động các
nguồn lực đầu tư phát triển một số lĩnh vực ưu tiên theo hướng tự chủ, hướng
tới sản xuất quy mô lớn. Đẩy mạnh liên kết sản xuất giữa các địa phương,
vùng lãnh thổ để tạo ra các cực tăng trưởng. Để phát triển kinh tế thị trường ta
có một số giải pháp cơ bản như sau. Thứ nhất là hoàn thiện khung khổ pháp
lý, cơ chế chính sách.Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến sản xuất, kinh doanh và các hoạt động liên
quan đến thị trường hàng hóa theo hướng đồng bộ, minh bạch và thống nhất.
Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách mới phù hợp với các cam kết
quốc tế và thực tiễn trong nước, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt
động sản xuất, lưu thông hàng hóa một cách công bằng và bình đẳng. Tăng
cường hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, giải quyết kịp thời các khó khăn, 11 lOMoAR cPSD| 44820939
vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai các chính sách, quy định mới.
Siết chặt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm pháp luật, gian lận thương mại, buôn lậu, đầu cơ, tích trữ đẩy giá hàng
hóa. Thứ hai là đầu tư cơ sở hạ tầng và đổi mới công nghệ. Đẩy mạnh đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, logistics hiện đại, nhằm rút ngắn khoảng
cách, thời gian vận chuyển, giảm chi phí logistics và thuận lợi cho lưu thông
hàng hóa. Đầu tư phát triển hệ thống kho bãi, trung tâm phân phối lớn, áp
dụng công nghệ quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả phân phối, giảm tổn
thất hàng hóa. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ,
máy móc thiết bị hiện đại hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng, giảm chi phí sản xuất. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, làm chủ các công
nghệ mới, công nghệ cao để sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng khoa học
công nghệ và giá trị gia tăng cao. Ưu tiên phân bổ đầu tư và áp dụng các công
nghệ mới, thân thiện môi trường cho các ngành công nghiệp nặng, tiêu tốn
năng lượng nhiều.Thứ ba là phát triển nguồn nhân lực chất lượng ca. Đẩy
mạnh đào tạo nguồn nhân lực lành nghề, có trình độ cao phục vụ cho nhu cầu
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và thu hút đầu tư nước
ngoài. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trọng tâm vào các lĩnh vực mũi
nhọn, công nghệ mới, kỹ năng quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh. Tăng
cường đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ, nhân lực chất lượng cao
phục vụ cho các lĩnh vực sản xuất hàng hóa công nghệ cao, sản phẩm có hàm
lượng tri thức lớn. Khuyến khích chuyển giao công nghệ, hấp thụ kiến thức,
kinh nghiệm quản lý từ các chuyên gia giỏi của nước ngoài. Tạo môi trường
làm việc phù hợp, cơ chế đãi ngộ hấp dẫn để giữ chân và thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao. Cuối cùng là tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Mở
rộng, đa dạng hóa các quan hệ đối tác, thị trường xuất khẩu, đa phương hóa,
đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu. Tận dụng tối đa các cơ hội từ các Hiệp
định thương mại tự do (FTA) để mở rộng thị trường, tham gia sâu hơn vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Tích cực xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu các
sản phẩm hàng hóa Việt Nam ra thị trường quốc tế. Nâng cao năng lực cạnh 12 lOMoAR cPSD| 44820939
tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế thông qua nâng cao chất
lượng, đổi mới mẫu mã, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Tăng cường
thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động
tại Việt Nam về tuân thủ pháp luật, quy định. Tranh thủ thu hút đầu tư nước
ngoài vào các lĩnh vực cải tiến khâu sản xuất và phân phối hàng hóa, đa dạng
hóa cơ cấu ngành sản xuất. Những giải pháp trên cần được thực hiện một cách
đồng bộ và nhất quán, kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp,
các tổ chức trong nước và quốc tế. Điều này sẽ mang lại hiệu quả lớn cho việc
phát triển thị trường, nâng cao khả năng sản xuất và cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Lý luận về sản xuất hàng hóa là một trong những lý luận cơ bản của kinh tế
chính trị Mác - Lênin, phân tích sâu sắc bản chất của sản xuất hàng hóa, tính
chất và vai trò của hàng hóa, của giá cả, của tiền tệ và tiền tệ hoá trong nền
kinh tế thị trường. Những nguyên lý cơ bản của lý luận này vẫn có giá trị to
lớn và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Để phát triển thị trường, nâng
cao khả năng sản xuất và cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, cần vận dụng lý
luận về sản xuất hàng hóa một cách sáng tạo và phù hợp với thực tiễn. Trước
hết, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo
môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh và công bằng để thúc đẩy sản
xuất kinh doanh. Đồng thời, cần xác định rõ các ngành hàng, lĩnh vực mũi
nhọn để tập trung đầu tư, phát triển trở thành những ngành sản xuất hàng hóa
chủ lực, có năng lực cạnh tranh cao. Các giải pháp then chốt bao gồm hoàn
thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách; đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật;
ứng dụng công nghệ mới, hiện đại hoá sản xuất; phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao; và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Các giải pháp này cần
được triển khai đồng bộ, nhất quán với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên
quan. Sự vận dụng lý luận khoa học kết hợp với các giải pháp thiết thực, hiệu
quả sẽ thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa Việt Nam cả về quy mô và chất 13 lOMoAR cPSD| 44820939
lượng, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần vào sự phát triển bền vững của
nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế sâu rộng. 14