



















Preview text:
1. Chương 1.
2. KINH TẾ HỌC LÀ GÌ?
Bất kể là một người cánh hữu hay cấp tiến, một người ủng
hộ chủ nghĩa bảo hộ hay tự do thương mại, một người theo
chủ nghĩa toàn cầu hay chủ nghĩa dân tộc, một người mộ
đạo hay một kẻ ngoại đạo, hiểu biết về nguyên nhân và kết
quả của các hiện tượng kinh tế vẫn là điều hữu ích. George J. Stigle.
Các sự kiện kinh tế thưởng trở thành tin sốt dẻo hoặc giật gân trên
các tờ báo hoặc truyền hình. Nhưng điều gì gây ra những sự kiện đó lại
không phải lúc nào cũng rõ ràng, ít hơn nhiều so với những kết quả có
thể trông đợi ở tương lai.
Bản thân các yếu tố cơ bản trong hầu hết các sự kiện kinh tế thường
không quá phức tạp, nhưng những lời khoa trương chính trị và biệt ngữ
kinh tế trong các cuộc tranh luận lại có thể khiến các sự kiện đó trông có
vẻ u ám. Nhưng các yếu tố kinh tế căn bản mà sẽ tuyên bố chuyện gì
đang diễn ra có thể bị giữ ở trạng thái chưa biết đối với hầu hết công
chúng và hiểu rất ít bởi nhiều phương tiện truyền thông.
Những nguyên lý cơ bản này áp dụng cho toàn thế giới và đã được
áp dụng qua hàng ngàn năm lịch sử. Chúng ứng dụng vào nhiều nền
kinh tế - tư bản, chủ nghĩa xã hội, phong kiến, hay bất cứ nền kinh tế nào
- và rộng rãi khắp dân chúng, khắp các nền văn hóa, và các chính phủ.
Các chính sách làm tăng mức giá dưới thời Alexander Đại Đế đã dẫn tới
việc tăng các mức giá tại Hoa Kỳ, hàng ngàn năm sau. Luật kiểm soát
giá thuê nhà đã dẫn tới một kết quả rất tương tự tại Cairo, Hong Kong,
Stockholm, Melbourne, và New York. Các chính sách nông nghiệp cũng
đưa đến kết quả tương tự như vậy tại Ấn Độ và các quốc gia Liên Minh Châu Âu.
Chúng ta có thể bắt đầu quá trình hiểu biết kinh tế học trước hết là
bằng cách tường tận kinh tế học là gì. Để hiểu kinh tế học là gì, đầu tiên
chúng ta phải hiểu nền kinh tế là gì. Có lẽ hầu hết trong chúng ta đều
nghĩ rằng nền kinh tế là một hệ thống cho việc sản xuất và phân phối
hàng hóa cũng như các dịch vụ chúng ta sử dụng trong đời sống hàng
ngày. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ.
Khu Vườn Eden là một hệ thống cho việc sản xuất và phân phối hàng
hóa và dịch vụ, nhưng nó không phải là một nền kinh tế, bởi vì mọi thứ
đều sẵn có với số lượng vô hạn. Không có sự khan hiếm thì chẳng cần
phải tiết kiệm - và từ đó cũng chẳng có kinh tế học. Một nhà kinh tế học
người Anh lỗi lạc mang tên Lionel Robbins đã đưa ra một định nghĩa tế học kinh điển:
Kinh tế học là sự nghiên cứu về việc sử dụng các nguồn lực
khan hiếm mà có những cách dùng thay thế. 1. SỰ KHAN HIẾM.
“Khan hiếm” nghĩa là gì? Nó là thứ mà mọi mà mọi người muốn có
nhiều hơn là nó có. Trông có vẻ là một điều đơn giản, nhưng những hàm
ý của nó thì lại thường bị hiểu lầm một cách thô thiển, kể cả những
người học cao. Lấy ví dụ, một bài báo đặc biệt trên tờ New York Times
phô bày những thống khổ và nỗi lo của những người Mỹ thuộc tầng lớp
trung lưu - một trong những nhóm người ảnh hưởng lớn nhất sống trên
hành tinh này. Mặc dù là câu chuyện này bao gồm cả một bức ảnh một
gia đình người Mỹ tầng lớp trung lưu đang trong bể bơi của gia đình họ,
tiêu đề chính viết là: “Người Mỹ trung lưu, Chỉ vừa đủ sống.” Các tiêu đề
khác của bài báo bao gồm:
Wishes Deferred and Plans Unmet (Ước mơ bị trì hoãn và
kế hoạch không đạt được).
Goals That Remain Just Out of Sight (Các mục tiêu vuột khỏi tầm tay).
Dogged Saving and Some Luxuries (Kiên trì tiết kiệm và vài thứ xa xỉ).
Nói tóm lại, các ước muốn của những người thuộc tầng lớp trung lưu
Mỹ vượt quá khả năng mà họ có thể chi trả một cách thoải mái, mặc dù
họ đã được nhiều người trên các quốc gia khác trên toàn thế giới - hay
thậm chí là các thế hệ người Mỹ trẻ tuổi hơn xem là giàu có khó tin.
Nhưng cả họ và tay nhà báo đều tự xem họ là “chỉ vừa đủ sống” và một
nhà xã hội học tại Harvard đã trích dẫn khi phát biểu “những con người
đó thật sự bị ngân sách kiềm hãm như thế nào.” Nhưng thứ kiềm hãm họ
không phải là một thứ nhân tạo như ngân sách: Thực tế mới là thứ kiềm
hãm họ. Chưa từng có một thứ nào đủ để thỏa mãn tất cả mọi người một
cách hoàn toàn. Đó là sự kiềm hãm thật sự. Đó là ý nghĩa của sự khan hiếm.
Tờ New York Times đưa tin rằng một trong những gia đình tầng lớp
trung lưu đó “đã chi vượt quá thẻ tín dụng” nhưng sau đó “đã ổn định lại tài chính.”
“Nhưng nếu chúng ta sai một bước,” Geraldine Frazier nói,
“áp lực mà chúng ta nhận được từ các tờ hóa đơn sẽ quay
lại, và chuyện đó thật đau đớn.”
Với tất cả những người này - từ giới học viện và nghề báo, cũng như
bản thân những người thuộc tầng lớp trung lưu - rõ ràng điều đó có vẻ lạ
khi mà nó đáng lẽ ra là một thứ khan hiếm và điều này ngụ ý một nhu
cầu cho cả nỗ lực sản xuất về phần họ và trách nhiệm cá nhân trong việc
tiêu xài thu nhập. Nhưng không có thứ gì phổ biến hơn sự khan hiếm và
tất cả nhu cầu cho việc tiết kiệm đi cùng với sự khan hiếm trong lịch sử.
Bất chấp các chính sách, các hành động thực tiễn, hay thể chế - dù
họ thông minh hay là không, có phải quý tộc hay không - đó chỉ đơn giản
là không đủ để đi khắp nơi để thỏa mãn tất cả mong muốn của chúng ta
đến mức đầy đủ nhất. “Nhu cầu không được thỏa mãn” là cố hữu trong
những trường hợp đó, dẫu chúng ta có là một nhà tư bản, người theo
chủ nghĩa xã hội, phong kiến, hay nền kinh tế khác. Những mô hình nền
kinh tế đó chỉ khác nhau về các cách thỏa hiệp mang tính cơ quan mà
điều đó là không thể tránh được trong bất kì mô hình kinh tế nào. 2. NĂNG SUẤT.
Kinh tế học không chỉ là về giải quyết sản phẩm đầu ra và các dịch vụ
đã hiện hữu như một khách hàng. Mà nó còn, một cách chức năng hơn,
là về việc sản xuất cái đầu ra đó từ các nguồn lực khan hiếm ngay từ
lúc đầu - biến đầu vào thành đầu ra.
Nói cách khác, kinh tế học nghiên cứu hậu quả của các quyết định
đưa ra từ việc sử dụng đất, lao động, vốn và các nguồn lực khác để đi
đến việc sản xuất khối lượng đầu ra, quyết định mức sống của một quốc
gia. Những quyết định và kết quả đó có thể quan trọng hơn cả bản thân
các nguồn lực, đối với các quốc gia nghèo với những nguồn lực tự nhiên
màu mỡ và các quốc gia như Nhật Bản và Thụy Sĩ với nguồn lực tự
nhiên tương đối ít ỏi nhưng có mức sống cao. Giá trị bình quân của các
nguồn lực tự nhiên ở Uruguay và Venezuela là gấp nhiều lần so với Nhật
Bản và Thụy Sĩ, nhưng thu nhập bình quân thực tại Nhật Bản và Thụy Sĩ
lại hơn gấp đôi so với của Uruguay và gấp nhiều lần Venezuela. Không
chỉ khan hiếm mà cả “cách sử dụng thay thế” cũng là cốt lõi của kinh tế
học. Nếu mỗi nguồn lực chỉ có một cách sử dụng, kinh tế học sẽ đơn
giản hơn nhiều. Nhưng nước có thể được dùng để sản xuất đá lạnh hay
tự thân nó bốc hơi hoặc vô số hỗn hợp và các hợp chất trong sự kết hợp
với các chất khác. Tương tự, từ dầu thô ta không chỉ có xăng và dầu
hỏa, mà còn có chất dẻo, nhựa đường và Vaseline. Quặng sắt có thể
dùng để sản xuất ra các sản phẩm bằng thép đa dạng từ kẹp giấy cho tới
xe hay khung của các tòa nhà chọc trời.
Mỗi nguồn lực nên được phân bổ bao nhiêu cho các cách dùng của
nó? Mọi nền kinh tế đều phải trả lời câu hỏi đó, và chúng đều làm vậy,
theo cách này hay cách khác, một cách hiệu quả hoặc không. Làm việc
đó một cách hiệu quả là những gì mà kinh tế học hướng tới. Các (mô
hình) nền kinh tế khác nhau về cơ bản ra những quyết định khác nhau
trong việc phân bổ nguồn lực khan hiếm - và những quyết định đó có
những ảnh hưởng dội lại lên cuộc sống của toàn bộ xã hội.
Ví dụ, trong suốt thời kỳ Liên Xô, các ngành của quốc
gia này sử dụng nhiều điện hơn so với các ngành của
Mỹ, mặc dù là ngành công nghiệp của Xô viết sản xuất
được ít hơn so với Mỹ. Sự kém năng suất trong việc
chuyển đổi đầu vào thành đầu ra như vậy dẫn tới một
mức sống thấp hơn, trong một quốc gia với nguồn tài
nguyên tự nhiên giàu có - có lẽ là giàu có hơn bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới. Lấy ví dụ nước Nga, một
trong những nước công nghiệp sản xuất nhiều dầu hơn
là sử dụng. Nhưng một đống tài nguyên không tự dưng
sản xuất ra được một đống hàng hóa.
Hiệu năng trong sản xuất - tỉ lệ đầu vào biến thành đầu ra - không chỉ
là một vài thứ kĩ thuật mà các nhà kinh tế học nói. Nó ảnh hưởng đến
mức sống của toàn bộ xã hội. Khi hình dung nên tiến trình này, nó giúp ta
nghĩ về những thứ có thật - quặng sắt, dầu thô, gỗ và các nguyên liệu
đầu vào đi vào tiến trình sản xuất khác và đến cuối cùng, thiết bị nội thất,
thức ăn và xe cộ ở đầu ra - hơn là nghĩ về những quyết định kinh tế
giống như những quyết định đơn giản về tiền. Mặc dù với một số người,
cụm từ “kinh tế học” gợi đến tiền, đối với một xã hội, tiền cũng chỉ là một
công cụ nhân tạo để đạt được những thứ có thật đã hoàn thành. Nếu
không thì chính phủ đã có thể khiến tất cả chúng ta giàu lên chỉ đơn giản
bằng việc in thêm tiền. Tiền không phải thứ quyết định một quốc gia là
nghèo hay giàu, khối lượng hàng hóa và dịch vụ mới là thứ quyết định. 3.
VAI TRÒ CỦA KINH TẾ HỌC.
Thứ bảo bạn cách kiếm tiền hoặc điều hành doanh nghiệp hay dự
báo lên xuống của thị trường chứng khoán là những quan niệm sai lầm
về kinh tế học. Kinh tế học không phải tài chính cá nhân hay quản trị
doanh nghiệp, và dự đoán lên xuống của thị trường vẫn chưa được giảm
đến mức thành một công thức có thể tin cậy được.
Ví dụ, khi các nhà kinh tế học phân tích giá, lương, lợi nhuận, hay
cán cân thương mại quốc tế, đó là từ quan điểm của các quyết định
trong nhiều phần của nền kinh tế ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực
khan hiếm theo một cách mà tăng hoặc giảm nguyên liệu mức sống của
người dân như một tổng.
Kinh tế học không phải là một đề tài đơn giản về việc bày tỏ quan
điểm hay trút cảm xúc. Đó là một nghiên cứu mang tính hệ thống về
nguyên nhân và ảnh hưởng, cho thấy chuyện xảy ra khi bạn làm những
việc đặc thù theo những cách đặc thù. Trong phân tích kinh tế, các
phương pháp được sử dụng bởi nhà kinh tế học chủ nghĩa Mác xít như
Oskar Lange không khác gì về cơ bản so với các phương pháp được sử
dụng bởi nhà kinh tế học cánh hữu như Milton Friedman. Đó là những
nguyên tắc kinh tế cơ bản mà quyển sách này đưa ra.
Một trong những cách để hiểu kết quả của các quyết định kinh tế là
hãy nhìn vào cụm từ động cơ mà họ tạo ra, hơn là chỉ cụm từ mục tiêu
đơn giản mà họ theo đuổi. Tức là những kết quả đó có ý nghĩa hơn là
những ý định - và không chỉ các kết quả ngay tức khắc, mà còn có
những ảnh hưởng về sau.
Không có gì dễ hơn việc có những ý định tốt nhưng, nếu không hiểu
biết về cách hoạt động của một nền kinh tế, ý định tốt có thể dẫn tới
phản tác dụng, thậm chí là thảm họa, hậu quả lên cả quốc gia. Nhiều,
nếu không muốn nói là hầu hết, các thảm họa kinh tế đều là kết quả của
các chính sách với ý định tốt - và những thảm họa đó thường có thể
tránh được nếu những kẻ tạo ra và những kẻ ủng hộ các chính sách như
thế hiểu về kinh tế học.
Mặc dù có những cuộc tranh cãi trong kinh tế học, vì trong khoa học,
việc này không có nghĩa rằng các nguyên tắc cơ bản của kinh tế học chỉ
là vấn đề về quan điểm, bất cứ thứ gì ngoài các nguyên tắc cơ bản của
hóa học hay vật lý chỉ là vấn đề về quan điểm. Lấy ví dụ, phân tích về vật
lý của Einstein không phải chỉ là quan điểm của ông, khi thế giới phát
hiện tại Hiroshima và Nagasaki. Phản ứng kinh tế có lẽ không phải như
khả quan hay bi kịch, hay một ngày nhất định, nhưng cuộc đại khủng
hoảng toàn cầu thập niên 1930 đã biến hàng triệu người thành người
nghèo, ngay cả trong những nước giàu có nhất, sinh ra việc suy dinh
dưỡng ở các nước dư thừa thực phẩm, có lẽ còn gây ra nhiều cái chết
hơn cả tại Hiroshima và Nagasaki.
Trái lại, khi Ấn Độ và Trung Quốc - theo dòng lịch sử, hai nước nghèo
nhất quả đất - bắt đầu tạo các thay đổi cơ bản trong chính sách kinh tế
của họ vào cuối thế kỉ hai mươi, nền kinh tế của hai nước bắt đầu phát
triển đột ngột. Ước tính có khoảng 20 triệu người tại Ấn Độ đã thoát khỏi
cảnh (7) nghèo túng trong một thập kỷ. Ở Trung Quốc, số người sống
nhờ vào một đô la mỗi ngày hoặc ít hơn đã giảm từ 374 triệu người - một
phần ba dân số vào năm 1990 - xuống còn 128 triệu người vào năm
2004 giờ chỉ 10% dân số đang phát triển. Nói cách khác, gần một phần
tư tỷ người Trung Quốc giờ đã khá hơn là kết quả của một thay đổi trong chính sách kinh tế.
Những điều như vậy là thứ làm nghiên cứu kinh tế học trở nên quan
trọng - và không chỉ là một vấn đề về quan điểm hay cảm xúc. Kinh tế
học là một công cụ phân tích nguyên nhân và kết quả, là nơi thí nghiệm
kiến thức - và rút ra các nguyên tắc từ kiến thức đó.
Thậm chí tiền cũng có khi không liên quan đến ra quyết định kinh tế.
Khi một đội quân y đến được chiến trận nơi binh sĩ bị nhiều vết thương,
họ đối đầu với vấn đề kinh tế kinh điển trong việc phân bổ nguồn lực
khan hiếm có các sử dụng thay thế. Hầu như luôn không có đủ bác sĩ, y
tá, hay trợ tá y tế để đi khắp nơi, cả thuốc men cũng không đủ nốt. Một
vài người bị thương đang đứng trên bờ vực tử thần và có rất ít cơ hội
được cứu sống, trong khi số khác thì có cơ hội chiến đấu nếu họ được
chăm sóc ngay lập tức, và vẫn còn số khác chỉ bị thương nhẹ và có lẽ sẽ
phục hồi nếu họ được chú ý ngay.
Nếu đội y tế không phân bổ thời gian và thuốc men một cách hiệu
quả, một số binh sĩ bị thương sẽ chết vô ích, trong khi thời gian đang
được dùng tập trung vào số không cần chăm sóc khẩn cấp hoặc số còn
lại có vết thương chí mạng mà có lẽ vẫn sẽ chết dẫu có làm gì cho họ.
Đây là một vấn đề mang tính kinh tế, mặc dù không phải dễ như trở bàn tay (a dime changes hands).
Hầu hết chúng ta ghét ngay cả việc nghĩ tới phải chọn những lựa
chọn như vậy. Thật vậy, như chúng ta đã thấy, một vài người Mỹ tầng lớp
trung lưu buồn rầu trong việc phải ra nhiều lựa chọn êm dịu và các đánh
đổi. Nhưng cuộc sống không hỏi ta muốn gì. Nó tặng ta các lựa chọn.
Kinh tế học là một trong những cách cố gắng ra những lựa chọn đó. 3. 3. Phần I:
4. GIÁ CẢ VÀ THỊ TRƯỜNG. 1. Chương 2 2. VAI TRÒ CỦA GIÁ.
Điều kì diệu của thị trường là chúng dung hòa tất cả lựa
chọn của hàng vạn con người. William Easterly.
Vì chúng ta đã biết nhiệm vụ cốt lõi đối mặt với bất kỳ nền kinh tế nào
là sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm có những cách sử dụng thay thế,
câu hỏi tiếp theo sẽ là: Một nền kinh tế làm việc đó như thế nào?
Rõ ràng các nền kinh tế khác nhau làm việc đó theo những cách khác
nhau. Thời phong kiến, lãnh chúa chỉ đơn giản là sai những kẻ dưới
quyền làm điều mà ông ta muốn làm và nơi mà ông ta muốn phân bổ
nguồn lực: Trồng ít lúa mạch lại, trồng nhiều lúa mì lên, rải phân bón chỗ
này, chỗ kia hoặc tăng sản lượng, hoặc tháo tiêu. Có một câu chuyện
tương tự như vậy vào thế kỉ thứ hai mươi ở các xã hội cộng sản, lấy Liên
Xô làm ví dụ, nó lập ra một nền kinh tế hiện đại phức tạp hơn theo cùng
một cách thức, với việc chính phủ ban hành lệnh xây dựng một đập thủy
điện trên con sông Volga, ở Siberia có quá nhiều tấn thép được sản xuất,
trong khi Ukraine lại trồng quá nhiều lúa mì. Bởi sự tương phản, trong
một nền kinh tế thị trường điều phối bởi giá cả, không có một kẻ nào ở
trên đỉnh để ban hành mệnh lệnh điều khiển hay điều phối các hoạt động thông qua nền kinh tế.
Bằng cách nào mà một nền kinh tế cực kỳ phức tạp, kĩ thuật cao có
thể vận hành không có định hướng trung tâm không bị phân tán ra nhiều
hướng. Chủ tịch cuối cùng của Liên Xô, Mikhail Gorbachev, người ta bảo
rằng ông ta đã hỏi thủ tướng Anh quốc Margaret Thatcher rằng: “Bà đã
làm cách nào để kiểm soát thức ăn người dân kiếm được?” Câu trả lời là
bà ấy không làm điều đó, giá cả làm. Ngoài ra, người Anh được cấp thức
ăn tốt hơn người ở Liên Xô, mặc dù người Anh đã không thể sản xuất đủ
thực phẩm để nuôi sống chính họ trong hơn một thế kỷ. Giá cả đã mang
thức ăn từ quốc gia khác đến cho họ.
Nếu không có vai trò của giá cả, hãy tưởng tượng xem, sẽ cần cả
một bộ máy quan liêu đồ sộ chỉ để kiểm soát độc mỗi một thành phố
London trong việc cung cấp hàng tấn thức ăn các loại cần tiêu thụ mỗi
ngày. Nhưng một bộ máy quan liêu như thế là không cần thiết - và những
con người mà sẽ cần trong bộ máy quan liêu đó có thể làm công việc
khác có hiệu quả hơn trong nền kinh tế - vì cơ chế đơn giản của giá cả
làm việc đó nhanh hơn, rẻ hơn và tốt hơn. Điều này cũng đúng tại Trung
Quốc, nơi mà Cộng sản vẫn điều hành chính phủ nhưng, vào đầu thế kỉ
hai mươi mốt, đã cho phép thị trường tự do vận hành trong nền kinh tế.
Mặc dù Trung Quốc chiếm một phần năm dân số thế giới, lượng đất
canh tác được lại chỉ chiếm 10%, vì vậy việc cung cấp thực phẩm cho
dân chúng có thể lại trở thành nguy kịch như đã từng, quay lại những
ngày khi mà nạn đói cứ hoành hành và cướp đi hàng triệu sinh mạng mỗi
lần nó tái diễn. Ngày nay chính giá cả đã thu hút thức ăn từ các quốc gia khác đến Trung Quốc:
Nguồn cung cấp thực phẩm của Trung Quốc là đến từ
nước ngoài - từ Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Úc. Điều này có
nghĩa là sự giàu có đối với các thương nhân nông
nghiệp và vi xử lý như Archer Daniels Midland. Họ đang
chuyển vào Trung Quốc bằng mọi đường bạn có thể
tưởng tượng ra với 100 tỷ đô thị trường quốc nội dành
cho thực phẩm đã qua chế biến, mà con số ấy đang
tăng trưởng hơn 10% mỗi năm. Đó là một bất ngờ dành
cho nông dân ở Trung Tây Mỹ, họ đang tận hưởng việc
giá đậu nành đã tăng khoảng hai phần ba so với năm
ngoái. Đó là một phương thức giảm cân tốt hơn dành
cho người Trung Quốc, những người đã tăng lượng
calo nạp vào trong một phần ba của một phần tư thế kỷ vừa qua.
Nhờ vào sức hấp dẫn của giá cả, công ty gà rán KFC của Mỹ vào đầu
thế kỉ hai mươi mốt đã tăng doanh số tại Trung Quốc nhiều hơn tại Mỹ.
Sức tiêu thụ sản phẩm bơ sữa trên bình quân đầu người tăng gần gấp
đôi chỉ trong vòng năm năm. Một nghiên cứu ước tính rằng khoảng một
phần tư người trưởng thành tại Trung Quốc bị thừa cân - bản thân điều
đó không phải là chuyện tốt đẹp gì, nhưng nó là một sự phát triển mang
tính khích lệ trong một quốc gia đã từng khốn cùng vì nạn đói lặp lại (định kỳ). 1.
RA QUYẾT ĐỊNH KINH TẾ.
Sự thật rằng không một cá nhân hay nhóm người nào kiểm soát hay
điều phối hết vô số các hoạt động trong nền kinh tế không có nghĩa là
những hoạt động đó chỉ xảy ra một cách ngẫu nhiên hay hỗn loạn. Mỗi
một người tiêu dùng, nhà sản xuất, người bán lẻ, chủ đất, hay công nhân
thực hiện các giao dịch cá nhân với các cá nhân khác bất cứ điều khoản
nào mà cả hai bên đều đồng thuận. Giá cả truyền tải những điều khoản
đó, không chỉ ngay lập tức đến các cá nhân liên quan mà ra cả toàn bộ
hệ thống kinh tế - và thật vậy, toàn bộ thế giới. Nếu một người nào đó ở
một nơi nào đó có một sản phẩm tốt hơn hoặc giá thấp hơn so với cùng
sản phẩm hay dịch vụ, tin tức đó sẽ được lan truyền thông qua giá cả,
mà không cần bất kì ủy ban tuyển chọn chính thức hay nhà ủy nhiệm
hoạch định nào để ban hành lệnh đến người tiêu dùng hay nhà sản xuất
- đúng vậy, nhanh hơn bất cứ nhà hoạch định nào có thể thu thập được
thông tin để đặt cơ sở lên những mệnh lệnh của họ.
Nếu ai đó ở Fiji tìm ra được cách sản xuất giày có chất lượng tốt hơn
với chi phí thấp hơn, sẽ không lâu đâu trước bạn có thể nhìn thấy những
đôi giày đó được bày bán với mức giá hấp dẫn ngay tại Mỹ hoặc Ấn Độ,
hoặc bất kỳ nơi khác. Sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, người Mỹ đã có
thể bắt đầu mua máy ảnh đến từ Nhật Bản, bất luận có hay không có
viên chức nào ở Washington thời điểm đó nhận thức được Nhật Bản sản xuất máy ảnh.
Cho rằng bất kỳ nền kinh tế hiện đại nào cũng có hàng triệu sản
phẩm, việc những vị lãnh đạo của bất kỳ bất kỳ quốc gia nào nắm rõ tất
cả sản phẩm là điều không tưởng, càng ít biết hơn về việc nên phân bổ
bao nhiêu của từng nguồn lực đến khâu sản xuất của hàng triệu sản phẩm đó.
Giá cả đóng vai trò cốt cán trong việc quyết định mỗi nguồn lực cần
được sử dụng bao nhiêu, sử dụng vào đâu và làm thế nào để vận
chuyển sản phẩm tới tay hàng triệu người. Nhưng vai trò này hiếm khi
được công chúng tường tận và thường bị các chính trị gia hoàn toàn
không đếm xỉa tới. Thủ tướng Margaret Thatcher trong hồi ký của bà đã
nói rằng Mikhail Gorbachev “hiểu rất ít về kinh tế học, mặc dù vào thời
điểm đó ông ta là lãnh đạo của quốc gia lớn nhất thế giới. Thật không
may, ông ta không phải chuyên gia trong lĩnh vực đó. Điều tương tự có
thể được nói lên đối với lãnh đạo của nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở
các nước lớn và nhỏ, dân chủ hay phi dân chủ.
Trong những quốc gia nơi mà giá cả điều phối các hoạt động của nền
kinh tế một cách tự động, việc thiếu hụt kiến thức kinh tế học đó không
thành vấn đề cũng như các quốc gia nơi mà giới lãnh đạo chính trị cố
định hướng và điều phối các hoạt động kinh tế.
Nhiều người xem giá cả chỉ đơn giản là thứ cản họ đạt được những
điều mình muốn. Lấy ví dụ, những người muốn sống trong một ngôi nhà
trên bãi biển, có thể sẽ từ bỏ kế hoạch đó khi mà họ phát hiện ra mức giá
khủng khiếp mà một ngôi nhà bãi biển có thể có. Nhưng giá cả cao
không phải lí do khiến tất cả chúng ta không thể sống trong một căn nhà
trên bãi biển. Trái lại, thực tế gắn liền với nó là hầu như không có đủ các
ngôi nhà trên bãi biển, và giá cả truyền tải đi cái thực tế đó một cách đơn
giản. Khi có nhiều người cùng ra giá cho một vài căn nhà, những căn
nhà đó trở nên rất đắt vì cung và cầu. Nhưng giá cả không phải thứ gây
ra sự khan hiếm. Sự khan hiếm cũng sẽ y hệt dưới thời phong kiến hay
chủ nghĩa xã hội hay xã hội bộ lạc.
Nếu hôm nay chính phủ nghĩ ra một “kế hoạch” để “bình dân hóa”
những ngôi nhà bãi biển và đặt “caps-mũ” lên giá mà có thể được mua
đối với loại tài sản như thế, điều đó sẽ không thay đổi hiện thực cơ bản
của tỉ lệ người muốn sở hữu đất bãi biển cực kì cao. Với một mức dân
số nhất định và số bất động sản bãi biển nhất định, việc phân phối mà
không có giá cả sẽ phải diễn ra bởi sắc lệnh của bộ máy quan liêu, sự
thiên vị chính trị hoặc cơ hội ngẫu nhiên - nhưng việc phân phối vẫn sẽ
phải diễn ra. Ngay cả khi chính phủ quy định rằng nhà bãi biển là một
“quyền cơ bản” của toàn dân, điều đó cũng sẽ không thể thay đổi thực tế
cơ bản đó dù chỉ một chút.
Giá cả giống như những người đưa tin tức - đôi lúc là tin xấu, trong
trường hợp tài sản trên bãi biển là có nhiều người không thể sống ở bãi
biển hơn số người có thể, nhưng cũng thường có tin tốt. Ví dụ, máy tính
đang rẻ hơn và chất lượng đang tăng lên với một tỉ lệ rất nhanh, như một
kết quả của tiến bộ kỹ thuật. Nhưng phần rất lớn những người đang
hưởng lợi các tiến bộ kỹ thuật cao đó không biết một cái mô tê ất giáp gì
về các thay đổi kĩ thuật riêng biệt đó. Nhưng giá cả truyền tải đến họ
những kết quả cuối cùng - giá là tất cả vấn đề đối với việc ra quyết định
của họ và hiệu suất được tăng cường và sự ổn định chung từ việc sử dụng máy tính.
Tương tự, nếu đột nhiên một mỏ sắt rất lớn được phát hiện ở nơi nào
đó, có lẽ là không nhiều hơn 1% dân số hiểu được việc đó, nhưng mọi
người sẽ phát hiện ra chuyện đó khiến giá thép trở nên rẻ hơn. Ví dụ, có
người nghĩ tới việc mua bàn, họ sẽ phát hiện ra bàn sắt đã trở nên hời
hơn so với bàn gỗ và một số người chắc chắn sẽ đổi ý trong việc mua
bàn loại nào nhờ vào điều đó. Điều tương tự cũng sẽ đúng khi so sánh
các loại sản phẩm làm từ sắt với sản phẩm làm từ nhôm, đồng, nhựa,
gỗ, hoặc các vật liệu khác. Nói tóm lại, giá cả thay đổi sẽ khiến cả xã hội
có thể - thật ra là người tiêu dùng trên toàn cầu - điều chỉnh một cách tự
động đến một sự dư giả hơn nhờ việc biết tới mỏ sắt, ngay cả khi 99%
người tiêu dùng hoàn toàn không nhận thức được khám phá mới mẻ đó.
Giá cả không chỉ là cách thức lưu chuyển tiền tệ. Vai trò cơ bản của
chúng là cung cấp động cơ tài chính để ảnh hưởng lên hành vi trong tiêu
dùng các nguồn lực và các sản phẩm đầu ra. Giá cả không chỉ dẫn dắt
người tiêu dùng, chúng còn dẫn dắt cả các nhà sản xuất. Khi tất cả được
nói và làm xong, nhà sản xuất không thể biết được hàng triệu người tiêu
dùng khác nhau muốn gì. Ví dụ, tất cả các nhà sản xuất ô tô đó biết rằng
khi họ sản xuất ô tô với sự kết hợp một số tính năng nhất định họ có thể
bán loại xe này với một mức giá vừa trả được chi phí sản xuất vừa đem
lại cho họ lợi nhuận, nhưng khi họ sản xuất một loại xe khác với sự kết
hợp của các tính năng khác thì loại này không bán chạy bằng. Để loại bỏ
những chiếc xe không bán được, người bán phải giảm giá xuống bất kỳ
mức nào cần thiết để bán thật nhiều cho các thương buôn, ngay cả khi
việc đó đồng nghĩa với chịu lỗ. Hoặc lựa chọn này hoặc lựa chọn kia sẽ
lãnh phần lỗ lớn hơn bởi việc không bán hết được toàn bộ số xe.
Mặc dù hệ thống kinh tế thị trường tự do đôi khi được gọi là hệ thống
lợi nhuận, trên thực tế nó là một hệ thống “lợi nhuận và thua lỗ” - và
phần thua lỗ quan trọng ngang với hiệu năng của nền kinh tế, vì thua lỗ
nói cho nhà sản xuất biết nên dừng làm việc nào lại - dừng sản xuất thứ
nào, dừng rót nguồn lực vào đâu, dừng đầu tư vào cái gì. Thua lỗ buộc
nhà sản xuất dừng sản xuất thứ mà người tiêu dùng không muốn. Nếu
không thật sự biết được tại sao người tiêu dùng thích bộ tính năng này
hơn bộ tính năng khác, nhà sản xuất tự động tăng sản xuất thứ kiếm ra
lợi nhuận và giảm sản xuất thứ gây thua lỗ. Sản xuất số lượng mà người
tiêu muốn và dừng sản xuất thứ họ không muốn. Mặc dù các nhà sản
xuất chỉ quan tâm chỉ quan tâm tới chính họ và lợi nhuận sau thuế của
công ty, từ góc nhìn toàn diện về nền kinh tế, xã hội đang sử dụng các
nguồn lực khan hiếm một cách hiệu quả hơn vì các quyết định này được dẫn dắt bởi giá cả.
Giá cả đã tạo nên một mạng lưới liên lạc toàn cầu từ lâu trước cả khi
có Internet. Giá cả kết nối bạn với bất kì người nào, bất kỳ nơi nào trên
thế giới, nơi mà các thị trường được phép hoạt động tự do, vì thế những
nơi có các mức giá thấp nhất cho các hàng hóa riêng biệt có thể bán
được những mặt hàng đó ra khắp thế giới. Và kết quả rốt cuộc là bạn có
thể mặc những chiếc áo sản xuất tại Malaysia, những đôi giày sản xuất
tại Ý, và những chiếc quần đến từ Canada, trong khi lái chiếc xe lắp ráp
tại Nhật, lăn bánh trên những chiếc lốp làm tại Pháp.
Các thị trường điều phối bởi giá cho phép người ta ra tín hiệu với
người khác rằng họ muốn bao nhiêu và họ sẵn sàng trả bao nhiêu, trong
khi đối phương ra tín hiệu rằng họ đang sẵn sàng cung cấp thứ gì để đổi
lại. Giá cả phản ứng lại với cung và cầu khiến các nguồn tài nguyên di
chuyển từ nơi dư thừa, như Úc, tới nơi hầu như không có, như Nhật
Bản. Người Nhật sẵn sàng trả giá cao hơn người Úc cho các nguồn tài
nguyên đó. Những giá cao đó sẽ vừa trả được phí vận chuyển và vẫn
vừa đảm bảo được một lợi nhuận lớn hơn so với việc bán tại Úc, nơi mà
sự dư thừa khiến cho giá thấp đi. Một quặng nhôm/bauxit mới được phát
hiện sẽ khiến giá gậy bóng chày bằng nhôm tại Mỹ giảm đi. Một vụ mùa
lúa mì thất bại khốc liệt tại Argentina sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân
ở Ukraine, những người mà bây giờ sẽ tìm ra nguồn cầu lớn hơn cho thị
trường lúa mì của họ trên toàn thế giới, và do đó giá tăng cao hơn.
Khi một vài mặt hàng có cung nhiều hơn cầu, sự cạnh tranh giữa
những người bán cố gắng loại bỏ sự dư thừa sẽ buộc giá giảm xuống,
làm mờ mịt sự sản xuất trong tương lai, các nguồn lực sử dụng cho mặt
hàng đó được tự do dùng cho sản xuất mặt hàng khác có nguồn cầu lớn
hơn. Trái lại, khi nhu cầu cho một mặt hàng vượt quá lượng cung có sẵn,
giá tăng lên vì sự cạnh tranh giữa những người tiêu dùng khuyến khích
sản xuất nhiều thêm, rút đi các nguồn lực từ những mặt hàng khác thuộc
nền kinh tế để thực hiện việc đó.
Ý nghĩa của giá cả thị trường tự do trong sự phân bổ các nguồn lực
có thể được hiểu rõ ràng hơn bằng cách nhìn vào những tình huống nơi
mà giá cả không được phép thực hiện chức năng này. Ví dụ, trong suốt
thời kỳ nền kinh tế định hướng bởi chính phủ Liên Xô, giá cả không
được điều chỉnh bởi cung và cầu mà bởi những nhà hoạch định trung
tâm rót các nguồn lực vào các cách sử dụng khác nhau bằng mệnh lệnh
trực tiếp, giá cả bị những nhà hoạch định này tăng lên hay giảm xuống
theo sự vừa ý của họ. Hai nhà kinh tế học Xô viết, Nikolai Shmelev và
Vladimir Popov, đã mô tả một trường hợp mà trong đó chính phủ nâng
giá mà họ sẽ trả cho các tấm da chuột chũi, dẫn tới việc các thợ săn đi
săn và bán các tấm da nhiều hơn:
Nhà nước chi trả nhiều hơn, và bây giờ tất cả các đầu
mối phân phối đầy các tấm da. Ngành công nghiệp
không thể sử dụng hết được chúng, và chúng thường bị
thối rữa trong nhà kho trước khi có thể được gia công.
Bộ Công Nghiệp Nhẹ đã hai lần yêu cầu Goskomtsen
giảm giá mua, nhưng “câu hỏi vẫn còn chưa được
quyết định”. Và chuyện này không hề đáng ngạc nhiên.
Các thành viên của họ quá bận để mà quyết định. Họ
không có thời gian: ngoài việc đặt giá cho các tấm da
đó, họ còn phải theo dõi 24 triệu giá cả khác.
Tuy nhiên, theo dõi 24 triệu giá cả có lẽ là việc quá nặng nề đối với tổ
chức chính phủ, một quốc gia với hơn một trăm triệu người có thể theo
số giá cả đó từng giá một dễ dàng hơn rất nhiều, vì không một cá nhân
hay công ty nào phải dõi theo nhiều hơn vài loại giá cả liên quan mà có
liên quan đến việc ra quyết định của họ. Việc điều phối tổng quan vô số
các quyết định riêng biệt đó diễn ra thông qua hiệu ứng cung cầu dựa
trên giá và ảnh hưởng của giá lên hành vi của người tiêu dùng và nhà
sản xuất. Tiền nói - và mọi người nghe. Phản ứng của họ thường nhanh
hơn các nhà hoạch định có thể nhận được các báo cáo cùng nhau.
Mặc dù việc bảo người khác cái gì nên làm trông có vẻ mang tính lý
trí hơn hoặc là một cách điều phối nền kinh tế có kỷ luật, hóa ra trong
thực tế việc đó lại kém hiệu quả hơn rất nhiều. Tình huống các tấm da là
phổ biến đối với nhiều hàng hóa khác trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung của Liên Xô, nơi mà việc chất đống hàng hóa không bán
được trong các nhà kho là một vấn đề rất khó chịu vào đúng cái thời
điểm thiếu hụt khủng khiếp các mặt hàng khác, những mặt hàng mà có
thể được sản xuất bằng cùng các loại nguồn lực.
Trong một nền kinh tế thị trường, giá cả của các mặt hàng dư thừa sẽ
tự động rớt bởi cung và cầu, trong khi giá cả các mặt hàng thiếu cung sẽ
tự động tăng bởi cùng lý do - Và kết quả cuối là sự chuyển đổi tài nguyên
tự động từ cái trước (hàng hóa dư thừa) đến cái phía sau (hàng hóa
khan hiếm), một cách tự động, vì các nhà sản xuất cố kiếm lợi nhuận và tránh lỗ.
Vấn đề không phải những nhà hoạch định đặc biệt đó mắc những sai
lầm đặc biệt ở Liên Xô hay ở các nền kinh tế kế hoạch hóa khác. Bất kể
các nhà hoạch định trung tâm mắc sai lầm gì, luôn có những sai lầm mắc
phải trong tất cả các hệ thống kinh tế - tư bản, chủ nghĩa xã hội, hay bất
cứ hệ thống kinh tế nào. Vấn đề càng căn bản cùng với kế hoạch hóa
tập trung đã từng được thực hiện cho thấy rằng nhiệm vụ được thực
hiện đã liên tục chứng minh rằng quá sức đối với con người, trong bất cứ
nước nào mà nhiệm vụ đó được thực hiện. Như hai nhà kinh tế học Xô
viết Shmelev và Popov đã viết:
Bất luận chúng ta có mong ước thiết lập mọi thứ một
cách có lý trí bao nhiêu, mà không có lãng phí, bất luận
chúng ta có mong ước xây dựng nên một mô hình kinh
tế chắc chắn bao nhiêu, vữa không có lấy một vết nứt,
với sức mạnh của chúng ta vẫn là không đủ. 2. GIÁ CẢ VÀ CHI PHÍ.
Giá cả trong một nền kinh tế thị trường không chỉ đơn giản là các con
số bóc ra từ không khí hay do những người bán tùy tiện đặt. Mặc dù bạn
có thể đặt bất cứ giá nào lên hàng hóa hoặc dịch vụ mà bạn cung cấp,
những giá đó sẽ chỉ trở thành hiện thực kinh tế nếu đối phương sẵn lòng
chi trả - và điều đó không phụ thuộc vào bất cứ giá nào bạn đã chọn mà
phụ thuộc vào khách hàng muốn bao nhiêu với đề nghị của bạn và giá
mà những nhà sản xuất khác bán cho cùng loại hàng hóa và dịch vụ là bao nhiêu.
Ngay cả khi bạn sản xuất ra thứ gì đó mà sẽ đáng giá 100 đô la đến
một khách hàng và đề nghị bán với giá 80 đô la, vị khách đó vẫn sẽ
không mua nó từ bạn nếu một nhà sản xuất khác đề nghị bán với giá 70
đô la cho một sản phẩm y hệt. Rõ ràng là tất cả chuyện này trông có vẻ,
những ngụ ý của nó không hẳn là hoàn toàn rõ ràng đối với một số
người - ví dụ, những ai đổ lỗi cho giá cao là “tham lam”, đối với gợi ý đó
một người bán hàng có thể đặt giá theo ý muốn và bán ở các mức giá
tùy tiện đó. Ví dụ, một câu chuyện trên trang bìa của tờ báo The Arizona
Republic đã bắt đầu như sau:
Tham lam đẩy giá nhà và doanh số của người dân thủ
đô Phoenix đến một kỷ lục mới vào năm 2005. Nỗi sợ
đang lèo lái thị trường năm nay.
Bài báo này có ý rằng giá thấp hơn có nghĩa là ít tham lam hơn, tình
thế đã thay đổi dẫn đến việc làm người bán hàng giảm đi khả năng tính
giá tương tự như trước và vẫn có thế bán hàng. Cái tình thế đã thay đổi
trong trường hợp này bao gồm cả thực tế là nhà để bán tại thành phố
Phoenix vẫn còn trên thị trường lâu hơn trước khi có người mua so với
năm ngoái, và thực tế là nhà thầu xây dựng đang “ráng sức để bán
những căn nhà mới được giảm giá sâu”. Không có một dấu hiệu nào dù
chỉ là nhỏ nhất cho thấy người bán tỏ ra ít hứng thú hơn với việc kiếm
nhiều tiền nhất có thể đối với những ngôi nhà họ bán - tức là họ không
hề ít “tham lam” hơn chút nào.
Cạnh tranh trong thị trường là giới hạn mà bất kì ai cũng có thể chi trả
và vẫn có doanh thu, vì vậy thứ gì được lưu hành không phải do sắp đặt
của bất kì ai, bất kể có tham lam hay không, mà là các tình huống mà thị
trường có thể xảy ra là gì. Cảm xúc của một người bán hàng - dù “tham
lam” hay không - chẳng nói lên điều gì cho chúng ta biết về thứ mà
người mua sẽ sẵn lòng trả là gì.
1. Sự Phân Bổ Nguồn Lực bởi Giá Cả.
Bây giờ chúng ta cần phải nhìn cận cảnh hơn vào tiến trình giá cả
phân bổ các nguồn lực khan hiếm có nhiều cách sử dụng thay thế.
Trường hợp nơi mà người tiêu dùng muốn sản phẩm A và không muốn
sản phẩm B là ví dụ đơn giản nhất về cách mà giá cả dẫn đến sự hiệu
quả trong sử dụng các nguồn lực khan hiếm. Nhưng giá cả vẫn quan
trọng tương đương trong những tình huống phổ biến hơn và phức tạp
hơn, nơi mà người tiêu dùng muốn cả A và B, cũng như nhiều thứ khác
nữa, một số lại yêu cầu các sản phẩm làm từ cùng một loại nguyên liệu
trong khâu sản xuất. Ví dụ, người tiêu dùng không chỉ muốn phô mai, họ
còn muốn cả kem và sữa chua, cũng như những sản phẩm được làm từ
sữa khác nữa. Giá cả giúp nền kinh tế quyết định nên sử dụng bao nhiêu
sữa vào mỗi loại sản phẩm đó bằng cách nào?
Trong chi trả cho phô mai, kem, và sữa chua, người tiêu dùng cũng
trong hiệu ứng đặt giá gián tiếp cho sữa, thứ làm nên các sản phẩm đó.
Nói cách khác, tiền doanh thu đến từ các sản phẩm đó là thứ khiến nhà
sản xuất có thể tiếp tục mua sữa để làm ra thêm các sản phẩm tương
ứng. Khi nhu cầu dành cho phô mai tăng lên, người làm phô mai sử
dụng thu nhập phụ của họ để mua thêm một số sữa trước khi làm ra kem
hoặc sữa chua, nhằm tăng thêm sản phẩm đầu ra đáp ứng được nhu
cầu tăng lên. Khi người làm phô mai yêu cầu nhiều sữa hơn, nhu cầu
tăng lên đó buộc giá sữa tăng lên - với tất cả mọi người, bao gồm cả
những nhà sản xuất kem và sữa chua. Khi những nhà sản xuất của các
sản phẩm đó nâng giá kem và sữa chua để chi trả cho phí tăng cao của
sữa, người tiêu dùng có khả năng sẽ mua ít lại các sản phẩm làm từ sữa có giá cao hơn đó.